Trang

Thứ Hai, 31 tháng 1, 2022

HIẾU THẢO VỚI TIỀN NHÂN

 Hiếu thảo với tiền nhân

Lm. Đan Vinh
 


MÙNG HAI TẾT

Mt 15,1-6

HIẾU THẢO VỚI TIỀN NHÂN

1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Thiên Chúa đã dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15,4-6).

2. CÂU CHUYỆN:

1) LÁ THƯ CHA MẸ KHUYÊN DẠY CON VỀ LÒNG HIẾU THẢO:

Con thân yêu.

"Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và cảm thông với bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống có làm rơi vung vãi... Nếu như bố mẹ có gặp khó khăn trong cái ăn cái mặc... Xin con hãy bao dung! Con hãy nhớ lại những ngày giờ mà bố mẹ đã phải trải qua với con, để dạy cho con bao điều hay kẽ phải khi con còn thơ bé.

+ Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì con cũng đừng bao giờ cắt ngang lời bố mẹ... mà hãy lắng nghe! Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm đến khi con đi vào giấc ngủ... và bố mẹ luôn làm cho con.

+ Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên coi đó là điều xấu hổ. Con hãy nhớ... lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải bao lần dỗ ngọt để vỗ về mỗi khi tắm rửa cho con.

+ Khi con thấy sự giới hạn về kiến thức của bố mẹ trong cuộc sống văn minh hiện đại, con cũng đừng tỏ vẻ thất vọng nhưng hãy để bố mẹ có thêm thời gian tìm hiểu. Bố mẹ đã từng dạy con bao điều... từ cái ăn, cái mặc cho đến tự chăm sóc bản thân và đương đầu với bao thử thách trong cuộc sống.

+ Nếu như bố mẹ có đãng trí hay không nhớ hết những gì con nói... hãy để bố mẹ có thời gian nhớ lại và nếu như bố mẹ có quên, con cũng đừng vì thế mà bực mình nổi giận... vì điều quan trọng nhất đối với bố mẹ là luôn được nhìn thấy con, được ở bên và nghe con nói, thế thôi!

+ Nếu như bố mẹ chưa muốn ăn, con cũng đừng ép!... vì bố mẹ biết khi nào bị đói hay không.

+ Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững... hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập cho con trong những bước đi đầu đời.

+ Một ngày nào khi con lớn khôn, con sẽ hiểu rằng, không ai tránh được hết mọi sơ sót lầm lẫn. Con đừng xót xa về sự già nua của bố mẹ.

+ Con chỉ cần hiện diện bên bố mẹ để chia sẻ những gì bố mẹ đang sống và cảm thông cho bố mẹ, như bố mẹ đã làm cho con từ khi con mới chào đời. Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi lúc tuổi già bóng xế... Hãy giúp bố mẹ những tháng ngày vắn vỏi còn lại với tình yêu thương và lòng nhẫn nại...

Điều bố mẹ mong ước duy nhất là có thể nở nụ cười mãn nguyện trước khi nhắm mắt lìa đời giữa đoàn con cháu đầy lòng kính tin Chúa và chân thành yêu thương nhau.

Thương con thật nhiều... Bố mẹ..."

2) SÓNG TRƯỚC VỖ ĐÂU, SÓNG SAU VỖ ĐÓ:

Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già tay bị run, thường hay làm bể cái chén kiểu đắt tiền khi ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt mang về một chiếc gáo dừa rồi gọt dũa làm thành một cái chén gáo dừa cho bố anh ta dùng. Đứa con trai thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh ta trả lời con rằng: Để ông nội con dùng khỏi bị bể nếu ăn cơm có bị run tay làm rơi xuống đất.

Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này bố già dùng nếu bố có bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.

3. SUY NIỆM:

1) Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình:

Hôm nay, ngày Mồng Hai Tết là dịp để các tín hữu chúng ta thực hành bổn phận hiếu thảo với ông bà tổ tiên, cụ thể là cha mẹ sinh thành ra chúng ta. Sự hiếu thảo được thể hiện qua những lời nói, thái độ cử chỉ và hành động của con cái với cha mẹ, cụ thể là món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ nói lên lòng thảo hiếu đối với các ngài.

Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được chờ đón những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm bên cạnh cha mẹ ông bà cùng với anh chị em con cháu.

2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:

Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải được thể hiện trong suốt những ngày tháng dài sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.

Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta lá chắn che chở suốt đời mình.

Nếu cha mẹ già yếu, con cháu phải tránh coi thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, bú mớm dọn dẹp vệ sinh cho ta khi ta còn thơ bé.

Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết trong năm.

3) Làm gì trong những ngày này?:

- Tết là dịp để con cháu làm việc ở xa trở về nhà để xum họp với ông bà cha mẹ. Thế nhưng có mấy ai đã thực sự đã sống tròn chữ hiếu?

Người xưa có câu: "Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ", diễn tả những nỗi vất vả, công khó cực nhọc của các bậc làm cha mẹ khi phải chăm sóc cho con cái từng miếng ăn giấc ngủ, giúp con được học hành vui chơi....

- Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì: “Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

- “Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Dịp Xuân Mới, bạn sẽ biếu món quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo biết ơn cha mẹ ông bà đang còn sống và các bậc tổ tiên đã qua đời?

4. LỜI CẦU:

Lạy Thiên Chúa Cha là Chúa tể của Mùa Xuân đất trời. Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay. Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha. Xin cho mọi thành viên trong gia đình biết trân trọng giờ phút sum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.- Amen.
 

4 Henri De Lubac: Tư Tưởng Của Cha Teilhard De Chardin 4

 Henri De Lubac: Tư Tưởng Của Cha Teilhard De Chardin 4

Vũ Văn An
 

Từ Khoa học đến Triết học

Trong số các đặc điểm của các bằng chứng do Cha Teilhard trình bầy về sự hiện hữu của Thiên Chúa chúng ta sẽ đặc biệt chú ý đến hai đặc điểm.



Trước hết, chúng ta hãy lưu ý rằng những bằng chứng này tự xưng là có tính khoa học. Để thiết lập bản chất của biến hóa, tính ưu việt của con người, sự tiến bộ của thế giới tới tinh thần, sự hội tụ cuối cùng, v.v., Cha Teilhard de Chardin liên tục đề cập và muốn đề cập duy nhất đến một “quy luật tái diễn theo kinh nghiệm [experiential recurrence), có thể kiểm chứng được trong lĩnh vực hiện tượng, và có khả năng một cách thích đáng được ngoại suy thành tổng thể của không gian và thời gian”. Ngài nói, đối với ngài, quy luật tái diễn này đủ để nó “chủ trì sự hình thành của các hữu thể”; chính theo luật này mà "vũ trụ được xây dựng" (88). Ngài loại trừ bất cứ sự “tổng hợp” tiên thiên, hình học nào dựa trên bất cứ định nghĩa nào về “hữu thể”, để giữ “nghiêm ngặt” việc kiểm tra và sắp xếp các biểu kiến (appearances), nghĩa là, các “hiện tượng”. Bất chấp đó đây có việc nói quá đôi chút, trong cách trình bày phương pháp của ngài - như khi ngài tuyên bố rằng ngài đang tự giam mình một cách minh nhiên “vào bình diện sự kiện, nghĩa là, đối với lĩnh vực có thể rờ mó và có thể chụp hình được” - tuy nhiên ngài vẫn thấy rõ rằng khoa học của ngài, hay, như chính ngài nói, hiện tượng luận của ngài, một hiện tượng luận vốn kết hợp tổng hợp với phân tích và đề ra cái “bên trong” của sự vật, vượt ra ngoài khái niệm phổ biến ngày nay về “khoa học thực chứng”. Bản thân ngài giải thích rằng nó liên quan đến “vật lý học” của người Hy Lạp cổ đại và người trung cổ. Nếu không đi vào con đường “siêu hình học trừu tượng”, ngài có ý định rõ ràng muốn tìm kiếm một loại “giải thích phổ quát”, bằng cách nhờ một “vật lý của Thần Khí”, xây dựng một “siêu vật lý của vũ trụ ” (89). Và ngài hoàn toàn thấy rõ rằng bằng cách này, nó kết thúc ở “Thế giới Khoa học thực sự đúng là bị đảo ngược” (90). Về vấn đề này, một số câu hỏi nhất định có thể được đặt ra, được nối kết qua lại với nhau:

1. Đến mức nào được coi là chính đáng khi đưa tổng hợp vào một ngành khoa học được coi là chặt chẽ?

2. Có thể có một bằng chứng khoa học về Thiên Chúa không? Nếu người ta cho rằng có thể có, há đó chẳng phải là sự quay trở lại với lối “tư duy hỗn độn”, mà theo một số người, vốn là đặc điểm của các cố gắng duy lý của các nhà thần học vĩ đại thời Trung Cổ, bắt đầu từ Thánh Tôma hay sao?

3. Tuy nhiên, há không phải chính Cha Teilhard, qua quan niệm của ngài về một vũ trụ Biến hóa và hội tụ, đã khám phá ra một con đường mới, một con đường hợp lý, cho việc chuyển dịch từ khoa học sang triết học đó sao? Nói cách khác, há ngài đã không thành công, không những bằng một tầm nhìn huyền bí mà còn bằng một con đường thuầ n lý đúng nghĩa, trong việc vén “bức màn gây nhức nhối của các hiện tượng”, xé “lớp màng không thể chọc thủng mà Hiện tượng trải dài giữa chúng ta và tất cả những gì ở trên tinh thần của con người hay sao"? (91)

Chúng ta sẽ để những câu hỏi này lơ lửng ở đây. Sẽ không thể trả lời sâu sắc về chúng nếu không nêu ra tất cả các loại vấn đề về phương pháp luận, điều mà ở đây chúng ta không thể đi vào được. Đối với câu hỏi thứ ba, nó còn đòi hỏi một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng toàn bộ tư tưởng của Cha Teilhard. Chúng ta sẽ chỉ trích dẫn ba ý kiến, tương ứng chặt chẽ với ba câu hỏi đã đặt ra (92).

Cha Norbert M. Luyten, O.P., nói, Teilhard, “đã làm nổ tung các khuôn khổ phương pháp luận trong đó các ngành khoa học cũng như triết học dường như được bao hàm” (93); từ rất sớm, vốn mong đợi “rất ít từ một nghiên cứu ngày càng tỉ mỉ, chi tiết hơn”, ngài hiểu rằng “muốn làm cho khoa học tiến lên và ngăn chặn nó chết yểu..., cần phải mở rộng đối tượng và thay đổi các phương pháp, đi đến một nghiên cứu sâu sắc và có tính tổng hợp hơn”; nếu đôi khi ngài sử dụng “các diễn trình phương pháp luận thiếu sót”, thì ngài vẫn có công “cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn đáng quan tâm nhất đối với tương lai của khoa học, nếu chỉ bằng cách đề ra, một cách thẳng thừng, vấn đề tổng hợp kiến thức của chúng ta” (94). Và một vị dòng Đa Minh khác, Cha Maurice Corvez, người mà ý niệm “bằng chứng khoa học” về Thiên Chúa không hề làm ngài sợ hãi: “Với một sự thông thạo cao vời, Cha Teilhard đã dọn đường tiếp cận với Kitô giáo, đặc biệt được thích nghi cho một nhóm học giả, nhà địa chất, nhà cổ sinh vật học, nhà sinh vật học, nhưng cũng rất có thể áp dụng đối với những người vốn quan tâm tới Lịch sử thiên nhiên và sự sống, cũng đã nói rất nhiều với tất cả những bộ óc được phú bẩm một nền giáo dục phổ thông chân chính" (95). Cuối cùng, Bà Barthélemy Madaule: “Chúng ta phải đồng ý rằng các phạm trù cũ của chúng ta quá cứng ngắc không thể diễn đạt được diễn trình trưởng thành từ từ ấy, thời điểm ấy khi, trong một lĩnh vực vẫn còn tính hiện tượng, một ý nghĩa vốn có tính triết học vẫn còn đang trong diễn trình xuất hiện” (96).

Thực thế, rất có thể, qua phương pháp hiện tượng học của mình, áp dụng chặt chẽ vào việc mô tả vũ trụ của chúng ta, Teilhard đã thành công trong việc phá vỡ “vòng tròn ma thuật của phe hiện tượng luận, vòng duy nhất, chúng ta được cho biết chắc, sẽ giới hạn tầm nhìn của chúng ta vào một đường chân trời có bán kính hữu hạn”:

“Mãi gần đây, những gì không thể nói về sự bất lực của chúng ta trong việc vượt ra ngoài... một tầm nhìn sơ đẳng vốn luôn là tầm nhìn của ý thức đầu tiên của con người, nghĩa là, về sự bất khả trong đó chúng ta thấy mình tiến thêm một bước hướng tới việc tri nhận trực tiếp hoặc gián tiếp những gì ẩn phía sau bức màn của kinh nghiệm khả giác? Đúng! Chính điều gọi là lớp vỏ không nứt nẻ của “hiện tượng” thuần túy này đã bị xuyên thủng, ít nhất ở một điểm bởi quỹ đạo biến hóa đang xuất hiện của con người, vì tự bản chất, nó vốn bất phản hồi. Tất nhiên, những gì ở bên ngoài và ở đằng sau, trong điều từ đó đến nay vốn được nhận diện là siêu hiện tượng [transphenomenal], chúng ta không nhìn thấy, nhiều hơn là việc chúng ta có thể thấy trước cảnh quan vẫn còn ẩn dưới đường chân trời, một khi hình dạng của Trái đất được nhìn nhận. Nhưng ít nhất chúng ta biết rằng một điều gì đó hiện hữu ở bên ngoài vòng giới hạn tầm nhìn của chúng ta: một điều từ đó chúng ta sẽ xuất hiện. Và điều này đủ để chúng ta không cảm thấy bị gò bó nữa” (97).

Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng chính Cha Teilhard đã hầu như không giải thích được phương pháp cho thấy tính hợp lý của kết quả này, trong các nguyên tắc của nó, nếu không phải là trong các ứng dụng của nó.

Chủ nghĩa lạc quan của Cha Teilhard

Chúng ta sẽ dừng lâu hơn một chút ở đặc điểm thứ hai này.

Như chúng ta thấy, từ khởi điểm, khi giả định một đức tin vào giá trị của hữu thể, Cha Teilhard cũng đã giả định ba ý niệm về hữu thể, chân lý và giá trị, hợp nhất với nhau một cách không thể tách biệt. Điều này gần như tương đương với ba thể siêu việt của học thuyết Kinh viện: ens, verum, bonum [hữu thể, chân, thiện] (ý niệm giá trị có thể hợp nhất trong chính nó điều thiện và điều mỹ, điều sau thường bị lãng quên). Vậy, đây là một khía cạnh đầu tiên của chủ nghĩa lạc quan căn bản mà mọi người đều đồng ý nhận ra trong tư tưởng của Cha Teilhard, dù là để khen ngợi hay trách cứ ngài, và về chủ nghĩa này chúng ta chỉ xem xét ở đây hai mặt mà dưới chúng nó được trình bày trong chủ đề của chúng ta (98).

Chúng ta hãy nhận xét theo khía cạnh chúng ta vừa đề cập, chủ nghĩa lạc quan của Teilhard đơn giản bị nhầm lẫn với việc bác bỏ điều phi lý. Chính ngài đã cảnh cáo chúng ta về điều đó. Nếu, ở đây, ngài sử dụng hạn từ “đức tin”, thì nó hoàn toàn theo nghĩa loại suy như ngài giải thích một lần nữa (99) và vì trên thực tế, như kinh nghiệm đã cho ngài thấy, con người luôn có thể phủ nhận sự tin tưởng của họ vào lý trí và phán đoán rằng thực tại về căn bản là "vô lý" và "buồn nôn", mặc dù họ hoàn toàn mâu thuẫn với chính mình một cách mặc nhiên bởi chính sự kiện này; bản thân lý trí, trong cách sử dụng tự phát của nó, cảm thấy ít phản kháng trong việc chấp nhận sự phi lý hoàn toàn hơn sự phi lý từng phần bị giới hạn một cách hẹp hòi như vậy. Nhưng, dù sao, Cha Teilhard vẫn chủ trương rằng “dưới hình thức bao bọc nhất của nó”, “đức tin ban đầu” này “về phương diện tri thức, không khác gì sự thuận ý đối với chân lý khoa học” (100), mặc dù, vào một lúc nào đó, cơn cám dỗ có thể rất mạnh mẽ muốn từ bỏ nó bằng cách đầu hàng sự mê hoặc (101). Ngài cũng nhận xét rằng nếu không có một niềm tin như vậy "khi trở thành một thế giới tư duy, thế giới, theo đúng luận lý, sẽ trở thành cát bụi, một điều dường như tạo nên một cách diễn đạt tốt hơn cho cùng một ý tưởng" (102).

Khi Cha Teilhard de Chardin từ Trung Quốc trở về Paris, năm 1945, lúc Thế chiến hai kết thúc, cha đã phản ứng rất mạnh mẽ chống lại làn sóng hiện sinh, vô thần và bi quan, lúc bấy giờ đang bùng phát khắp châu Âu. Trong một số cuộc tranh luận, ngài đã “tôi sắt mình”, như Pascal nói. Phần lớn vì đó mà, trước khi công trình của ngài thực sự được biết đến, một huyền thoại ngây thơ đã phát sinh về ngài. Kể từ đó, ý niệm được loan truyền về một “Chủ nghĩa Teilhard”, có đặc điểm ở tính lạc quan dễ dãi. Thực ra, đây thậm chí không còn là một biếm họa: mà là một sự cố tình giả mạo. Đối với Cha Teilhard de Chardin, chủ nghĩa lạc quan dễ dãi không những ngây thơ, thiếu kinh nghiệm hay ngu ngốc: mà nó còn là tội lỗi nữa (103). Ngài chiến đấu chống lại các huyền thoại chuyên dự phóng một “thời kỳ vàng son” trong tương lai. Chống lại “những người bi quan” hay “những người rã rời”, chống lại những “người ham sống thoải mái” [bon vivant] hoặc “những người theo chủ nghĩa duy cảm”, ngài kêu gọi, không phải “những người lạc quan”, mà là “những người hăng hái” (104).

Thực thế, đúng hơn, ngài chờ đợi nhân loại sẽ có “một số xung đột nội bộ còn bạo lực hơn những xung đột mà chúng ta biết hiện nay”. Ngài nghĩ rằng một vũ trụ, như ngài quan niệm, “đang trên đường hướng tới sự tập trung có ý thức..., chính là vũ trụ phải chịu đau khổ một cách tự nhiên nhất và nhất thiết nhất ” (105). Ngài tuyên bố rằng đau khổ sẽ “gia tăng về số lượng và độ nhạy bén cùng một tốc độ như ý thức tăng lên, qua các thời đại”. Ngài cũng tuyên bố rằng "cố gắng đạo đức nhất thiết phải đi kèm với sự hy sinh", rằng "sự sống cao nhất đạt được bằng một cái chết", rằng "sự toàn thiện gắn liền với đau khổ", rằng "không có sự tiến bộ nào trong hữu thể nếu không có việc cống nạp nước mắt, máu và tội lỗi mầu nhiệm nào đó”, và vì đức tin của mình, ngõ hầu sống nó mạnh mẽ hơn, ngài hoan nghênh giáo huấn dạy rằng tất cả “những người có năng lực tinh thần phi thường” trong Kitô giáo đều được “sinh ra trên Thập giá” (106). Nếu không có sự gắn bó của linh hồn với “bộ mặt đã được thừa nhận của một nhân cách phổ quát”, ngài cho rằng ta không thể “duy trì được các năng lực đã được tích lũy trong trái tim cá nhân, xã hội và cả thế giới khỏi thoái hóa tồi tệ nhất” (107). Xung quanh "những người thờ lạy tiến bộ", ngài dường như "chết ngạt dưới bầu trời quá thấp", và ngài nói rằng ngài đã trải qua "cảm giác ngạt thở" (108). Nỗi kinh hoàng của một “thế giới khép kín”, sự cô độc khủng khiếp của một nhân loại hợp nhất mà không có Thiên Chúa, “nỗi sợ hãi chủ yếu đối với yếu tố phản tỉnh trước một Cái Toàn Thể [the All] mà bề ngoài dường như mù lòa”, nỗi tuyệt vọng của việc cảm thấy bị bao bọc trong “quả bóng vũ trụ ”- ngài không ngừng nhắc đến chúng, kể từ thời viết La Grande monade [Nhà Du mục Vĩ đại] (1918) đến tận thời viết La Fin de l’espèce [Kết cục Chủng loại] (1952) và La Barrière de la mort [Rào cản Sự chết] (1955). Bản thân ngài cảm nhận một cách sâu xa nỗi thống khổ của con người, nỗi thống khổ của mọi thời đại và đặc biệt của thời đại chúng ta: nó hiện diện ở khắp nơi trong nền tảng công trình của ngài, và nó thường xuất hiện trên bề mặt của nó (109). Tuy nhiên, thay vì bị nó nuốt chửng, thay vì thích thú trong nó, hoặc thay vì hài lòng với việc than vãn về nó, ngài đã tìm cách vượt qua nó, một cách thuần lý và theo Kitô giáo. Vì nhận định rằng con người hiện đại, bất chấp tất cả khoa học và tất cả sức mạnh của họ, vẫn "buồn", ngài muốn giải cứu họ khỏi nỗi buồn này. Ngài đã tiến hành việc "cứu Trái đất biết suy nghĩ khỏi taedium vitae [cái buồn tẻ của cuộc sống]" (110) và làm nơi chúng ta một cuộc "đảo ngược sợ hãi" (111).

Còn đối với tính lạc quan căn bản của ngài, kết quả của “sự lựa chọn nền tảng” hữu thể của ngài, tính lạc quan nói Có với sáng thế này, do đó phê chuẩn “sự lựa chọn nguyên thủy hàm ngụ trong Thế giới mà chúng ta là những yếu tố được phản ảnh” (112) nó có thể được so sánh một cách chính đáng với tính lạc quan của Thánh Tôma Aquinô. Trong cả hai trường hợp, nó đều liên quan đến một “thưởng ngoạn [taste] hữu thể” nào đó, điều mà trước khi ảnh hưởng đến học thuyết của họ, lên đặc điểm cho nhân cách sâu sắc nhất của họ (113). Nhờ nét này, cũng như nhiều nét khác, tư tưởng của Cha Teilhard de Chardin xứng đáng được xếp vào trường phái tư tưởng Tôma hơn người ta vẫn thường nghĩ (114). Và thú thưởng ngoạn hữu thể này, một thưởng ngoạn cũng có tính tự nhiên, được biến đổi và nở rộ, trong lời cầu nguyện của ngài, thành một “thưởng ngoạn Hữu Thể”, một “thưởng ngoạn sâu sắc”, một “cảm nhận rằng Hữu Thể vô cùng phong phú và đổi mới hơn luận lý của chúng ta”, điều mà ngay tại thời gian thử thách này, vẫn duy trì được nó trong niềm vui (115).

Tuy nhiên, mặt khác, há việc một tính lạc quan rất lớn lao và cũng rất đáng tranh luận để tin tưởng, như Cha Teilhard đã tin tưởng, rằng chiến thắng của linh hồn đối với việc thoái giảm nội lực [entropy] đã được đảm bảo hay sao? Đó là khía cạnh thứ hai cần được xem xét.

Câu trả lời cho sự nghi ngờ này sẽ quay lại với việc quyết định xem liệu viễn kiến của Cha Teilhard về vũ trụ, liệu “thuyết Biến hóa duy linh” của ngài, có được chứng minh hay ít nhất là cái nhiên hay không. Chúng ta tin rằng, trong yếu tính, nó không chỉ làm cân bằng các lý thuyết duy vật và tính hợp lý của nó không phụ thuộc vào các mở rộng cuối cùng của hệ thống. Ở đây, chúng ta hãy chỉ nhận xét một cách đơn giản rằng loại lạc quan thứ hai này nối kết, không hơn thế, chính với thứ “lạc quan” của toàn bộ truyền thống triết học duy linh, một truyền thống, bằng nhiều con đường khác nhau, đều đã khẳng định tính bất tử của linh hồn con người. Thánh Augustinô, Thánh Tôma hay Descartes tuyên bố rằng linh hồn là bất tử thế nào, thì Teilhard cũng tuyên bố rằng sự tiến bộ của vũ trụ, khi phát sinh các hữu thể được phú bẩm một linh hồn thiêng liêng và bản vị, là một sự tiến bộ không thể đảo ngược như thế. Bối cảnh của ngài không còn có tính cá nhân và tĩnh tụ; nó mang tính tập thể và năng động, nhưng ở cả hai phía, sự khẳng định cuối cùng là như nhau (116). Nhờ “hiện tượng học” của mình, ngài muốn mang lại cùng một giải đáp “cho vấn đề bất tử cũ (bề ngoài hết sức cận khoa học)” (117) và cách “đầy năng lực” được ngài tiếp nhận thường xuyên nhất trong cách lập luận của ngài có liên hệ chặt chẽ với cách lập luận desiderium naturale [thèm muốn tự nhiên] của trường phái Tôma, lối lập luận mà một nhà bình luận gần đây đã viết rằng nó tạo nên "một chứng minh hiển nhiên" (118). Tuy nhiên, trong một quan điểm cụ thể hơn nhắc lại trực tiếp hơn quan điểm của mạc khải Kitô giáo, ngài tìm cách chứng minh, trong một “sự kiện độc nhất và tối cao,... thể lịch sử phải nối kết với thể siêu việt ” ra sao. “Một khai mở hiện hữu”, một “lối thoát”; tư duy sẽ không bóp nghẹt, "chết trong trứng nước, trong một vũ trụ tự phá thai và vô lý"; trong tương lai, sẽ có cho chúng ta “không những chỉ là sự sống còn mà còn là sự sống siêu việt”; đối với Teilhard, đó là niềm xác tín tạo cơ sở cho “sự lạc quan tuyệt đối” (119). Và chính nhờ điều này mà ngài muốn “mang lại hy vọng cho cuộc tìm kiếm của con người” (120). “Để biết rằng chúng ta không bị cầm tù. Để biết rằng có một lối thoát, không khí, ánh sáng, và tình yêu, ở đâu đó bên ngoài cái chết. Để biết điều đó, không phải ảo tưởng hay hư cấu!” (121). Trong một thế giới “mở ra ở tuyệt đỉnh của nó trong Christo Jesu [Chúa Giêsu Kitô], chúng ta không thể gặp nguy cơ chết ngạt! Và, mặt khác, từ những độ cao này đi xuống, không những chỉ có không khí, mà còn có tình yêu tỏa sáng từ trên cao” (122).

Kỳ tới: Chọn lựa và "phân rẽ"
 
Vietcatholic News

Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 30 tháng Giêng

 Huấn dụ của Đức Thánh Cha trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 30 tháng Giêng

Đặng Tự Do
 
Chúa Nhật 30 tháng Giêng, Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Chúa Nhật thứ 4 Mùa Quanh Năm.

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Trong Phụng vụ hôm nay, Tin Mừng thuật lại cuộc rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu tại quê hương Nazareth của Người. Kết quả thật cay đắng: thay vì nhận được sự cổ vũ, Chúa Giêsu nhận thấy họ không hiểu Ngài và thậm chí là thù địch với Ngài (x. Lc 4, 21-30). Những người dân làng, muốn có nhiều những lời nói của sự thật, họ muốn có những phép lạ, những dấu hiệu phi thường. Chúa không làm phép lạ và họ từ chối Ngài, bởi vì họ nói rằng họ đã biết Ngài từ khi còn nhỏ, Ngài là con trai của ông Giuse (xem câu 22) và vân vân. Vì vậy, Chúa Giêsu đã thốt lên một cụm từ đã trở thành tục ngữ: “Không một vị tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình” (câu 24).

Những lời này tiết lộ rằng sự thất bại đối với Chúa Giêsu không hoàn toàn bất ngờ. Ngài biết chính mình, Ngài biết trái tim của chính mình, Ngài biết rủi ro mà Ngài đang đối diện, Ngài đã tính đến việc bị từ chối. Như thế, chúng ta có thể tự hỏi mình: nhưng nếu thế, nếu Ngài thấy trước thất bại, tại sao Ngài vẫn về quê của mình? Tại sao lại làm điều tốt cho những người không sẵn lòng chào đón bạn? Đây là một câu hỏi mà chúng ta thường tự hỏi mình. Nhưng đó là một câu hỏi giúp chúng ta hiểu Chúa hơn. Chúa Giêsu, trước sự khép lại của chúng ta, Ngài không kìm lại: Ngài không ngăn cản tình yêu của mình.. Trước sự khép lại của chúng ta, Ngài vẫn tiến tới. Chúng ta thấy điều này phản ánh ở những bậc cha mẹ nhận thức được sự từ chối của con cái họ, nhưng không ngừng yêu thương chúng và làm điều tốt cho chúng. Thiên Chúa là như thế, nhưng ở một mức độ cao hơn nhiều. Và hôm nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy tin vào điều tốt, đừng bỏ qua một tảng đá nào chưa lật lên khi làm việc lành phúc đức.

Tuy nhiên, trong những gì xảy ra ở Nazareth, chúng ta cũng tìm thấy một điều gì đó khác. Sự thù địch đối với Chúa Giêsu từ phía dân của Ngài kích động chúng ta: họ không chào đón - nhưng còn chúng ta thì sao? Để xác minh điều này, chúng ta hãy xem các mô hình chấp nhận mà Chúa Giêsu đề xuất ngày nay, cho chúng ta và cho những người đồng hương của Ngài. Họ là hai người nước ngoài: một góa phụ từ Sarepta của Sidon, và ông Naaman, người xứ Syria. Cả hai người đều chào đón các vị tiên tri: thứ nhất là tiên tri Êlia, thứ hai là tiên tri Êlisa. Nhưng đó không phải là một sự tiếp đón dễ dàng, nó đã trải qua nhiều thử thách. Bà góa đã chào đón Êlia, bất chấp nạn đói và bất chấp nhà tiên tri từng bị bách hại (xem 1 Các Vua 17: 7-16), ông bị bách hại vì các lý do chính trị và tôn giáo. Trong trường hợp thứ hai, Naaman, mặc dù là người có địa vị cao nhất, đã chấp nhận yêu cầu của tiên tri Elisa, người đã khiến ông phải hạ mình xuống, tắm bảy lần trong một dòng sông (xem 2 Các Vua 5: 1-14), như thể anh ta là một đứa trẻ không biết gì. Tóm lại, bà góa và ông Naaman đón nhận nhờ sự sẵn sàng và khiêm tốn. Cách thức tiếp nhận Thiên Chúa là luôn sẵn sàng, và khiêm nhường. Đức tin đi qua con đường này: sự sẵn sàng và khiêm tốn. Bà goá và ông Naaman không từ chối đường lối của Thiên Chúa và các vị tiên tri của Ngài; họ ngoan ngoãn, không cứng nhắc và khép kín.

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu cũng đi theo con đường của các tiên tri: Ngài tự giới thiệu mình trong cách thế chúng ta không mong đợi. Người không được nhận ra bởi những người tìm kiếm phép lạ - nếu chúng ta tìm kiếm phép lạ, chúng ta sẽ không tìm thấy Chúa Giêsu - Chúa Giêsu không được nhận ra bởi những người tìm kiếm cảm giác mới, kinh nghiệm cận kề, những điều kỳ lạ; những người tìm kiếm một đức tin được tạo thành từ quyền lực và các dấu chỉ bên ngoài. Không, họ sẽ không tìm thấy Người. Ngược lại, Người chỉ được tìm thấy bởi những người chấp nhận đường lối của Người và những thách thức của Người, không phàn nàn, không nghi ngờ, không chỉ trích với các khuôn mặt dài thoòng. Nói cách khác, Chúa Giêsu yêu cầu anh chị em chấp nhận Ngài trong thực tế hàng ngày mà anh chị em đang sống; trong Giáo hội ngày nay, như Giáo Hội vốn là; nơi những người thân thiết với anh chị em hàng ngày; trong thực tế của những người đang cần, trong các vấn đề của gia đình anh chị em, trong cha mẹ anh chị em, trong con cái của anh chị em, ông bà của anh chị em, Chúa ở đó. Ngài ở đó, mời gọi chúng ta thanh tẩy mình trong dòng sông sẵn có và trong nhiều bồn tắm lành mạnh của sự khiêm nhường. Cần khiêm tốn để gặp gỡ Thiên Chúa.

Và chúng ta, chúng ta đang chào đón hay chúng ta giống những người đồng hương của Người, những người đã tin rằng họ biết mọi thứ về Người? “Tôi đã học thần học, tôi đã tham gia khóa học dạy giáo lý đó… Tôi biết mọi thứ về Chúa Giêsu!” Vâng, như một kẻ ngốc! Đừng dại dột, anh chị em chưa biết Chúa Giêsu. Có lẽ, sau nhiều năm là tín hữu, chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết Chúa rõ ràng, với những ý tưởng và sự phán xét của chúng ta, rất thường xuyên. Rủi ro là chúng ta quen, chúng ta quá quen với Chúa Giêsu. Chúng ta trở nên quen thuộc với Ngài như thế nào? Chúng ta khép mình lại, chúng ta khép mình với sự mới mẻ của Người, vào khoảnh khắc Ngài gõ cửa nhà chúng ta và hỏi anh chị em điều gì đó mới, và muốn tham gia với anh chị em. Chúng ta phải ngừng khăng khăng giữ quan điểm của mình. Và khi một người có một tâm hồn rộng mở, một trái tim giản dị, thì người đó có khả năng ngạc nhiên, tự hỏi. Chúa luôn làm chúng ta ngạc nhiên: đây là vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Chúa yêu cầu chúng ta có một tâm hồn rộng mở và một trái tim đơn sơ. Xin Đức Mẹ, gương mẫu của sự khiêm nhường và sẵn lòng, chỉ cho chúng ta con đường để đón Chúa Giêsu.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:

Anh chị em thân mến,

Hôm nay là Ngày Thế giới bệnh phong. Tôi bày tỏ sự gần gũi của mình với những người mắc phải căn bệnh này, và tôi hy vọng rằng sẽ không thiếu sự trợ giúp về tinh thần và hỗ trợ chăm sóc sức khỏe. Cần phải làm việc cùng nhau để hướng tới sự hòa nhập hoàn toàn của những người này, vượt qua mọi hình thức phân biệt đối xử liên quan đến căn bệnh không may vẫn đang làm khổ nhiều người, đặc biệt là trong những hoàn cảnh xã hội thiệt thòi nhất.

Ngày mốt, 1 tháng 2, Tết Nguyên đán sẽ được tổ chức ở Viễn Đông, cũng như nhiều nơi khác trên thế giới. Tôi xin gửi tới anh chị em lời chào thân ái và bày tỏ mong muốn năm mới mọi người được bình an, sức khỏe và cuộc sống bình an, an khang. Thật đẹp biết bao khi gia đình tìm được cơ hội quây quần bên nhau và cùng nhau trải qua những giây phút yêu thương, vui vẻ! Rất tiếc, nhiều gia đình sẽ không thể quây quần bên nhau trong năm nay vì đại dịch. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ sớm có thể vượt qua thử thách này. Cuối cùng, tôi hy vọng rằng, nhờ ý chí tốt của các cá nhân và sự đoàn kết của các dân tộc, toàn thể gia đình nhân loại sẽ có thể đạt được mục tiêu năng động đổi mới là thịnh vượng vật chất và tinh thần.

Vào đêm trước ngày lễ Thánh Gioan Bosco, tôi xin kính chào các tu sĩ nam nữ Salêdiêng, những người đã làm rất nhiều điều tốt trong Giáo hội. Tôi đã theo dõi Thánh lễ được cử hành tại đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ Các Tín Hữu ở Turin bởi Cha Bề Trên Tổng Quyền Ángel Fernández Artime, tôi đã cầu nguyện với ngài cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy nghĩ về vị Thánh vĩ đại này, người cha và người thầy của những người trẻ tuổi. Ngài không đóng kín mình trong 4 bức tường nhà thờ, ngài không khép mình trong những thứ của riêng mình. Ngài ra đường để tìm kiếm những người trẻ, với sự sáng tạo là dấu ấn của ngài. Xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất đến tất cả những anh chị em Salêdiêng!

Tôi chào tất cả các bạn, những tín hữu của Rôma và những người hành hương từ khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, tôi chào các tín hữu từ Torrejón de Ardoz, Tây Ban Nha, và các học sinh đến từ Murça, Bồ Đào Nha.

Tôi trìu mến chào các chàng trai và cô gái Công Giáo Tiến Hành của giáo phận Rôma! Họ ở đây trong một nhóm. Các bạn trẻ thân mến, năm nay cũng vậy, cùng với cha mẹ, các nhà giáo dục và các linh mục phụ tá, các bạn đã đến - một nhóm nhỏ, do đại dịch - ở phần cuối của Đoàn Lữ Hành Vì Hòa bình. Khẩu hiệu của bạn là “Hãy hàn gắn hòa bình”. Đó là một khẩu hiệu hay! Nó quan trọng! Rất cần phải “hàn gắn”, bắt đầu từ các mối quan hệ cá nhân của chúng ta, cho đến mối quan hệ giữa các quốc gia. Cảm ơn các bạn! Tiếp tục đi! Và bây giờ các bạn sẽ thả bóng bay của mình như một dấu hiệu của hy vọng… đó! Đó là một dấu hiệu của hy vọng mà những người trẻ tuổi của Rôma đang mang đến cho chúng ta ngày nay, “đoàn lữ hành vì hòa bình”.

Chúc các bạn một ngày Chúa Nhật nhiều may mắn. Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt!

Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 
Vietcatholic News

3 Henri De Lubac: Tư Tưởng Của Cha Teilhard De Chardin 3

 Henri De Lubac: Tư Tưởng Của Cha Teilhard De Chardin 3

Vũ Văn An
 
Các thuộc tính của Omega

Các bản văn trước đó đã liệt kê một số thuộc tính của Omega thần linh này, "chỉ có một Omega đích thực". Không nghi ngờ gì nữa, một “Trung tâm” như vậy, một “Cực”, một “Tiêu điểm” như vậy, “tự bản thân nó, và theo định nghĩa, chúng ta không thể tri nhận trực tiếp được”; vì nó là vấn đề của một “Năng lực ở ngoài vũ trụ, ở tận nguồn gốc của nó (mặc dù nội tại và ở tận cùng của nó)” (56). Như thế, việc phân tích chuyển động biến hóa và nhu cầu khả tri của nó không đủ để khiến chúng ta thâm nhập vào “bản chất bên trong của Omega”; nhưng nó vẫn cho phép chúng ta “đưa ra một số điều kiện mà nó phải đáp ứng để chu toàn vai trò của nó” (57).



Điều kiện đầu tiên trong số những điều kiện này, hay thuộc tính đầu tiên của Omega, hướng ra ngoài là chính thực tại của nó, hay hiện thực của nó: “Trung tâm lý tưởng, trung tâm ảo: không điều gì trong số này có thể đầy đủ. Tương ứng với tuệ quyển hiện tại và thực chất phải có một trung tâm thực chất và hiện tại. Để trở nên cực kỳ hấp dẫn, Omega phải cực kỳ hiện hữu” (58). Trong nó, phải có “quyền lực kiểm soát thời gian và cơ may”, một mình nó có khả năng cung cấp sự bảo đảm cho thành công của tinh thần chúng ta. Như chúng ta đã thấy, đây là “người chuyển động đầu tiên và là người thu thập cuối cùng”, nói cách khác, cùng một lúc là Alpha và Omega, “nguồn gốc duy nhất, phát khởi duy nhất, kết thúc duy nhất” (59). “Hữu thể đệ nhất đẳng” này tất yếu là một “Hữu thể bản vị [hoặc ‘siêu bản vị’]”, vì đây là một “Tiêu điểm bản vị hóa” (60). Đây là “cực hội tụ thực sự”, “Trung tâm khác với tất cả các trung tâm, vì nó ‘siêu tập trung’ (overcenter) bằng cách đồng hóa chúng, Bản vị khác với mọi bản vị, vì nó kết thúc bằng cách hợp nhất chúng” (61).

Đây là một khẳng định lớn đối với Teilhard, một khẳng định trong đó ngài không bao giờ ngừng quay trở lại: “Một thế giới được tưởng tượng như đang trôi về phía phi bản vị... sẽ trở nên không thể nghĩ tưởng được và đồng thời không thể sống được” (62), và“ các yếu tố bản vị của vũ trụ sẽ trở lại tình trạng rối loạn (có nghĩa là hư vô) nếu chúng không gặp được siêu bản vị đã hiện thực hoá, để cai trị chúng. Như thế, trong thế giới xung quanh chúng ta, phải tìm được không những việc dự ứng mà còn là bộ mặt nhận dạng được của một nhân cách phổ quát” (63). Nói cách khác, chúng ta phải đề ra một Thiên Chúa như “bản vị tối thượng, mà từ đó chúng ta càng được phân biệt khi càng để mình mất hút trong Người” (64). Do đó, “Trung tâm tối thượng”, Omega, phải được coi là “nhân cách tối cao”. Đó là “đỉnh của siêu việt”, “siêu việt nguyên thủy”, “thực tại siêu việt” (65). Tóm lại, “tính tự chủ, tính hiện thực, tính bất khả phản hồi, và cuối cùng tính siêu việt: bốn thuộc tính của Omega” (66).

Thuộc tính thứ tư này, một thuộc tính không khuyến khích chúng ta bao gồm trước “bản chất bên trong của Omega” vào một định nghĩa thuần lý, tuy nhiên, không để chúng ta rơi vào trạng thái hoàn toàn không biết gì về nó. Hữu thể này, hữu thể “không chỉ đứng đầu tất cả các chuỗi, mà... một cách nào đó, còn là chuỗi ngoại hạng [hors série] ”, Hữu thể này, hữu thể một mình “tìm thấy trong mình sự nhất quán riêng của mình” (67), là một Hữu thể mầu nhiệm: Người “không tỏ mình Người trước các hữu thể hữu hạn chúng ta như một điều đã làm sẵn chỉ cần được đón nhận”, nhưng Người “là sự khám phá vĩnh cửu và là sự phát triển vĩnh cửu đối với chúng ta. Chúng ta càng tin rằng chúng ta đang hiểu Người, thì Người càng bộc lộ mình là người khác. Chúng ta càng nghĩ cách nắm lấy Người, thì Người càng rút lui, bằng cách kéo chúng ta vào thẳm sâu trong chính Người...” (68).

Chúng ta nên lưu ý rằng, đây đó, Cha Teilhard de Chardin khẳng định, về điểm Omega, rằng nó “siêu việt một phần, nghĩa là, một phần độc lập đối với sự biến hóa lên đến đỉnh điểm trong Nó”. Đó là bởi vì ngài nối kết với nhau, hay đúng hơn ngài vẫn giữ cho chúng hợp nhất, theo luận lý khám phá, hai ý nghĩa mà ngài đã lần lượt thừa nhận cho hạn từ Omega này. Nói cách khác, như thế, ngài nói, không những về một mình Thiên Chúa cũng như về một mình thế giới, mà là về “điểm gặp gỡ của họ”, và ngài không thể quên, như một phương pháp, rằng trước nhất chính thế giới hợp nhất, thế giới đã đến cùng đích của nó được ngài tự nhiên gọi bằng cái tên đầy biểu tượng ấy. Phần còn lại của bản văn mà từ đó chúng ta vay mượn các chữ trên đây cho chúng ta thấy điều này khá rõ ràng. Thực vậy, ngài nói với chúng ta, “nếu Omega không thoát khỏi, cách nào đó, các điều kiện về thời gian và không gian, thì nó có thể không hiện diện với chúng ta cũng như không có khả năng... tạo ra các niềm hy vọng về tính bất phản hồi, mà nếu không có nó, bắt đầu từ con người, thì quá trình hình thành trung tâm [centrogenesis] sẽ ngừng hoạt động. Nó phải như thế để, qua một khuôn mặt của chính nó [= khuôn mặt thần linh của nó, Thiên Chúa], khác với khuôn mặt mà dưới nó, chúng ta thấy nó được hình thành [= khuôn mặt vũ trụ và nhân bản của nó, Omega, khuôn mặt ‘nội tại'], nó có thể xuất hiện vĩnh viễn bên trên thế giới mà từ đó, nó vẫn đang trong diễn trình xuất hiện, nếu nhìn dưới một góc độ khác,...” (69).

Nói cách khác, một lần nữa, Omega phức tạp này, ở phần cuối của diễn trình lập luận vốn lấy điểm xuất phát từ việc quan sát vũ trụ đang trên đường hợp nhất, xuất hiện như “một hệ thống tập trung vào các trung tâm, nhưng” tự tập trung vào “Trung tâm của các trung tâm”. “Trung tâm của trật tự cao hơn”, trung tâm vừa kể “đang chờ đợi chúng ta — xem ra — không những ở bên cạnh mà còn ở bên kia và ở trên chính chúng ta” (70).

... Và, nếu chúng ta mô tả các khía cạnh khác trong bằng chứng của Teilhard, có lẽ chúng ta sẽ thấy rõ hơn tính hiện thực của Omega là tính hiện thực của tình yêu như thế nào; tính bản vị [personality] của nó là tính bản vị của tình yêu ra sao, sức mạnh thu hút của nó, sự kích hoạt và kết hợp của nó là sức mạnh của tình yêu như thế nào; cuối cùng, làm thế nào Omega chính là tình yêu, cùng một lúc là “đáng yêu và đầy yêu thương” (71).

Lý trí và mạc khải

Chúng ta đã thấy vài lần, và qua một số đoạn văn vừa được trích dẫn, chúng ta sẽ thấy lại rằng sự cần thiết phải đề ra sự hiện hữu của Thiên Chúa dựa vào cơ sở quan sát Thế giới trong diễn trình biến hóa hội tụ, trước nhất, phụ thuộc vào đôi mắt của Cha Teilhard — trước nhất, mặc dù không duy nhất — về sự nhất thiết của việc đề ra [pose] một Hữu thể hợp nhất hóa. Chủ yếu chính trong chức năng hợp nhất hóa của Người mà ta vươn tới Thiên Chúa (72).

Mặt khác, sách Khải Huyền của Kigtô giáo dạy chúng ta rằng Thiên Chúa đã tạo ra Thế giới trong ý nghĩ yêu thương, để kết hợp nó với chính Người; việc hoàn thành kế hoạch thần linh này đã được thực hiện qua việc Nhập thể; và chính nhờ sự kết hợp của chúng ta được hoàn thành trong Chúa Kitô (Nhiệm Thể) mà mỗi người chúng ta thấy mình được kết hợp với Thiên Chúa.

Cha Teilhard de Chardin luôn luôn tuyên xưng một ý niệm nghiêm ngặt về mạc khải, được nhìn nhận trong hai đặc tính của nó, tri thức (không loại trừ cảm giới) và siêu nhiên. Ngài biết rằng đó là “khẳng định từ trên cao” và nó lên đến tuyệt đỉnh trong “sự kiện Nhập thể” (73). Vì vậy, khi ngài nói, trong Le Christique (1965): “Phân tích đến cùng, sự hình thành vũ trụ, sau khi được khám phá, theo trục chính của nó, từ sự hình thành sự sống, rồi đến sự hình thành trí tuệ, lên đến tuyệt đỉnh là việc hình thành Kitô (christogenesis) mà bất cứ Kitô hữu nào cũng tôn kính”, ngài không hề ngụ ý nói rằng chính nhờ phép biện chứng tự nhiên mà có việc chuyển dịch trong tinh thần chúng ta từ việc hình thành trí tuệ đến việc hình thành Kitô. Một số lời giải thích rút ngắn nào đó mà vì đó, ngài đã đặt mình ngay lập tức vào quan điểm đức tin, đã đánh lừa một số nhà bình luận. Tuy nhiên, như Bà M. Barthélemy-Madaule từng nhận xét, “thường là chính chúng ta”, trong khi tóm tắt các suy tư của ngài, “đã pha trộn các bình diện, đã tạo ra quá sớm, không phải một tổng hợp, mà là một hỗn hợp, để rồi sau đó phải ngạc nhiên trước sự mơ hồ hỗn độn” (74). Chính Cha Teilhard đã chỉ trích những người, theo ngài, lẫn lộn "một cách ngây thơ" giữa "các bình diện của Thực tại" và những người, chẳng hạn, biến Chúa Kitô thành "một tác nhân vật lý thuộc cùng trật tự với sự sống hữu cơ hoặc thinh không [ether]": một người đối với ngài dường như "đáng trách và đáng cười" (75). Ngài thường phân biệt rõ ràng hai lĩnh vực của điều ngài gọi là “sự thật trên trời” và “sự thật dưới đất”, hoặc “điều được giảng dạy” và “điều được tìm thấy”, hoặc một lần nữa “lãnh vực thần linh” và “lãnh vực vũ trụ”. Để xác minh điều này, người ta chỉ cần quan sát việc soạn thảo một số tác phẩm của ngài; chẳng hạn, ngài giới thiệu “Hiện tượng Kitô giáo” tiếp sau bài phân tích dài về “Hiện tượng con người” ra sao, hoặc trong chính cuốn Le Phénomene humain [Hiện tượng Con người] hoặc trong cuốn Les Singularités de l’espèce humaine [Các tính độc đáo của loài người]; hay đúng hơn, ngài kêu gọi “nhà huyền bí Kitô giáo” ra sao ở phần cuối cuốn “Các suy tư về hạnh phúc” của ngài; hoặc một lần nữa, trong phần thứ hai của cuốn Comment je crois (tôi tin ra sao), ngài rời con đường kinh nghiệm cá nhân và chứng minh thuần lý ra sao để nghi vấn lịch sử.

Để mô tả sự mạc khải thần linh này, ngài nói tới “Omega được phản tỉnh, được mạc khải, về phương diện cảm giới và khả niệm, trên bề mặt phản tỉnh của tuệ quyển” (76). Với độ chính xác rõ ràng, ngài viết: “Toàn bộ giá trị của Kitô giáo, toàn bộ năng lực nâng cao linh hồn của nó, phụ thuộc vào sự kiện này là nó được trình bày như một Áp đặt từ bên trên, như từ Một Đấng Khác..., đã được hiện thực, đã được cấu thành, bên ngoài chúng ta [extra nos]: đó chính là yếu tính của ý niệm Khải Huyền” (77). Nhưng ngài cũng nói: “Kitô hữu chỉ cần suy gẫm kinh Tin Kính của mình để tìm thấy, ngài thừa nhận trong Mạc khải, sự nên trọn giấc mơ đạt tới ngưỡng cửa của điều triết học dẫn họ tới một cách hợp luận lý, một giấc mơ họ không bao giờ hy vọng đạt tới” (78). Thực vậy, họ biết rằng thực tại của Chúa Kitô không cách nào được diễn dịch từ Thế giới, nhưng ngài cũng biết rằng Mạc khải củng cố, mở rộng và đạt được công trình được lý trí phác thảo. Ngài vui mừng phát hiện ra một “sự tương đồng đáng kể” giữa các quan điểm tín điều và các kết luận hoặc các giả thuyết cuối cùng mà việc nghiên cứu hiện tượng con người dẫn con người đến, một điểm tương đồng mà ngài có lý gán cho “ảnh hưởng” và “sự tỏa sáng” của mạc khải Kitô giáo. Giữa lý trí và đức tin, cũng như giữa tự nhiên và ân sủng, nếu có sự gián đoạn, phân biệt và phẩm trật, thì cũng có bấy nhiêu sự hòa hợp. Teilhard đôi khi nhấn mạnh, và chắc chắn đôi khi quá mức về khía cạnh thứ hai của hai khía cạnh này, nhưng không thiếu việc thực sự thừa nhận khía cạnh đầu tiên.

Omega được Kitô hóa

"Trong bất cứ giả thuyết nào, thế giới đòi hỏi được tập trung để có thể suy nghĩ được". Tuy nhiên, nó có thể như thế theo nhiều cách ít nhiều không hoàn hảo rất khó cho chúng ta ngày nay hình dung được. “Đặc tính 'ân sủng' của thế giới chính là ở sự kiện này là vị trí trung tâm vũ trụ không được dành cho bất cứ trung gian nào giữa Thiên Chúa và vũ trụ" – một vũ trụ, do đó, không đạt được một "tính trung tâm" hoàn hảo - "nhưng nó được chính Thần tính tiếp thu, dẫn nhập chúng ta... vào tâm điểm tính nội tại của Người” (79) Nói cách khác, “thay cho một tiêu điểm hội tụ mơ hồ được yêu cầu như một kết cục cho [sự] Biến hóa, thực tại bản vị và xác định của Ngôi Lời nhập thể, nơi Người muôn vật có được sự nhất quán, xuất hiện và trở nên cố định” (80). “Đương nhiên”, lúc đó, sẽ “chỉ có sự mong đợi một sự thống nhất hóa: không có Chúa Kitô, vũ trụ sẽ không có bất cứ Omega tự nhiên nào; nó sẽ vẫn mở mãi”; nhưng trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, “Sự nhập thể đã đúc khuôn lại Vũ trụ trong siêu nhiên tốt đến nỗi, nói một cách cụ thể, chúng ta không còn tìm kiếm, hoặc tưởng tượng, các yếu tố của thế giới này, sau khi bị hút về một trung tâm nào đó, mà không cần được nâng lên ân sủng” (81).

Do đó, công thức Teilhard: “Chúa Kitô được mạc khải không là gì khác ngoài là Omega” (82) hoặc các công thức tương tự. "Hố phân cách" từ trật tự tự nhiên qua trật tự siêu nhiên đã được bắc cầu. “Dưới tác động soi sáng của ân sủng, tinh thần chúng ta nhận ra trong các đặc tính hợp nhất của hiện tượng Kitô một sự biểu lộ (phản chiếu) của Omega lên ý thức con người, và nó đồng nhất Omega của lý trí với Chúa Kitô phổ quát của mạc khải” (83). Sau khi trích dẫn các bản văn của thánh Phaolô vốn rất thân thiết đối với ngài: “In eo omnia constant [Trong Người, mọi sự vẫn tiếp tục hiện hữu]” (Cl 1:17); “Ipse est qui replet omnia [Tất cả đều trọn vẹn trong Người]” (Cl 2:10; x. Ep 4: 9); “Omnia in omnibus Christus [Chúa Kitô là tất cả trong tất cả]” (Cl 3:11), Cha Teilhard có thể thốt lên: “Đó chính là định nghĩa của Omega”. Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã chết và đã phục sinh, đã trở thành “Chúa Kitô vũ trụ”. Chính Người ban cho mọi sự tính nhất quán của chúng, hợp nhất mọi hữu thể và ảnh hưởng đến chúng tất cả, “về mặt thể lý” (với những chính xác mà chúng ta sẽ thấy ở phần sau). Vũ trụ đã "được Kitô hóa".

“Qua việc Nhập thể, Thiên Chúa xuống với thiên nhiên để siêu sinh động và mang nó trở lại với Người.... Tự nó, tín điều này có thể phù hợp với nhiều cách trình bầy khác nhau về thế giới kinh nghiệm”. Người Kitô hữu chưa bao giờ gặp khó khăn suy nghĩ trong khuôn khổ một vũ trụ tĩnh, và Cha Teilhard de Chardin không ngây thơ đến mức tưởng tượng rằng một Thánh Phaolô hay một Thánh Gioan hẳn đã hình dung trước diễn trình biến hóa phổ quát; ngài không đủ liều lĩnh để tin rằng khi chính mình nhận thức về nó, ngài đã có được một cái nhìn sâu sắc về mầu nhiệm hơn cái nhìn của họ. Mặt khác, ngài có bằng chứng này là, trong một vũ trụ như thuyết biến hóa duy vật quan niệm, “Kitô giáo sẽ bị bóp nghẹt”. Nay, về mặt con người mà nói, cách đây không lâu, rủi ro là điều nghiêm trọng; nó như sắp xảy ra. “Theo quan điểm của con người, một vũ trụ đang trong diễn trình hình thành nhất định sẽ thay thế cho vũ trụ tĩnh của các nhà thần học. Và, ngược lại, từ trực giác mới này, một nền huyền nhiệm đặc biệt chắc chắn cũng sẽ phát tỏa: ít nhiều tôn thờ niềm tin vào tương lai biến hóa của trái đất và vũ trụ.... Vũ trụ khi đã khởi động, một loại Thần tính, hoàn toàn nội tại đối với thế giới, có xu hướng dần dần được thay thế, trong ý thức con người, cho Thiên Chúa siêu việt của Kitô giáo... ”. Do đó, nhiệm vụ của Cha Teilhard, một nhiệm vụ mà vì nó xem ra ngài có thể đặt câu hỏi một cách hợp pháp: Há tín điều Nhập thể, mặc dù tự nó không phụ thuộc vào bất cứ sự trình bày nào của chúng ta hoặc vào các giả thuyết khoa học nào của chúng ta, “đã không tìm thấy bầu khí của nó được thích nghi tốt hơn trong... các quan điểm... của một vũ trụ được Chúa Thánh Thần kéo theo đó sao”? (84). Bây giờ chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa và sự quan tâm của bản văn đã được trích dẫn:

“Dưới tác động soi sáng của ân sủng, tinh thần của chúng ta nhận ra trong các thuộc tính hợp nhất của hiện tượng Kitô, một sự biểu lộ (phản chiếu) của Omega trên ý thức con người, và nó đồng nhất hóa Omega của lý trí với Chúa Kitô phổ quát của mạc khải” (85).

Như thế, Cha Teilhard cho rằng tính biến đổi [transformism], nếu được nghiên cứu và hiểu biết một cách nghiêm túc hơn, sẽ chứng tỏ là thích hợp để “cung cấp một cơ sở tuyệt vời cho tư tưởng và thực hành Kitô giáo” (86):

“Theo kinh nghiệm, không những Kitô học truyền thống chứng tỏ có khả năng dung nạp một cấu trúc biến hóa của Thế giới; mà, trái với mọi kỳ vọng, nó còn ở giữa cảnh vực hữu cơ và đơn nhất mới này, chính nhờ việc uốn cong [curvature] đặc biệt này của Không gian liên kết với Thời gian, mà nó phát triển một cách tự do nhất và trọn vẹn nhất. chính ở đó mà nó mặc được bộ mặt thật của nó.... Kitô giáo và Biến hóa: không phải là hai viễn kiến không thể hòa giải, mà là hai viễn kiến được tạo ra để phù hợp và hoàn chỉnh lẫn nhau” (87).

Ở đây, lúc này, trong sự hài lòng vì đã hoàn toàn xoay chuyển được một tình huống nguy cấp, nhà hộ giáo đã để bản thân được đưa đến một số quá mức, trái ngược với những lời khẳng định chừng mực hơn mà ngài từng nói ra lúc đầu. Tuy nhiên, ít nhất một điều có vẻ rất chắc chắn. Không những công thức, cuối cùng, cho rằng Chúa Kitô của Mạc khải không là ai khác mà chính là Omega của Biến hóa, hiểu theo lối giải thích của Cha Teilhard, không đưa ra điều gì làm người ta lo lắng hoặc thậm chí, nói cho ngay, nghịch lý, nhưng, vì không hề thừa nhận một hệ thống “sự thật kép” nào đó vốn không thể chấp nhận được, nó còn là một điều bắt buộc. Omega của Sách Khải huyền và Omega của Biến hóa không thể là hai đỉnh cao khác biệt và là đối thủ của nhau. Đây thực sự là Omega, được phát hiện trong tính siêu việt của nó ở cuối cuộc điều tra thuần lý, và không ai khác, khiến người Kitô hữu, được soi sáng bởi đức tin của mình, có thể nói rằng nó có, hoặc nó là, một “tiêu điểm ba ngôi” [trinitarian focus]. Chỉ có một, một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa của đức tin thực sự không thể khác hơn là Thiên Chúa của lý trí. Thiên Chúa của Ápraham, Isaác và Giacóp có lẽ không phải là “Thiên Chúa của các triết gia và học giả”: dù sao, Người cũng là một như Thiên Chúa của khoa học và triết học.

Kỳ tới: Từ Khoa học đến Triết học
 Vietcatholic News

Thứ Bảy, 29 tháng 1, 2022

 Khi khoa học tái khám phá Thiên Chúa




Ảnh, Tạo dựng ông Adong, The Creation of Adam, Michelangelo, Wikipedia

fr.aleteia.org, Jean Staune, 2021-07-14

Những khám phá khoa học mang tính cách mạng của thế kỷ 20 đã thay đổi cái nhìn của chúng ta về thế giới: chúng tạo “sự tái phấn khởi của thế giới,” cho phép khoa học và tôn giáo tái hợp sau hai thế kỷ xa cách.

Năm 2000 khi thay đổi thế kỷ, 200 nhà khoa học được hỏi, họ sẽ nhớ gì về thế kỷ 20, họ trả lời: thứ nhất, con người đặt chân lên mặt trăng; thứ hai, hạt nhân, thứ ba, con người chứng minh về sự tồn tại của sự không phân tách lượng tử (nghịch lý EPR, tên tắt của Einstein-Podolsky-Rosen); thứ tư, Thế chiến thứ hai, Stalin, Hitler và 50 triệu người chết. Làm thế nào người ta có thể nghĩ một một thí nghiệm vật lý trong bóng tối, ít người biết đến lại có thể đánh dấu nhân loại nhiều hơn cái chết của 50 triệu người? Tuy nhiên, đây là những gì đã xảy ra trong quá khứ: năm 1348, trận dịch hạch đen đã giết chết hơn một phần ba dân số châu Âu trong vài năm (1348-1352), và thế giới đã quên nó, nhưng thế giới lại biết tên của Copernicus và Galileo. Vụ Galileo có vẻ chỉ liên quan đến các chuyên gia, nhưng nó có tác động lớn gấp trăm lần so với sự biến mất của một phần ba dân số. Bài học mà chúng ta cần rút ra từ điều này là, về lâu dài, những cuộc cách mạng thực sự duy nhất là những thay đổi về quan điểm của thế giới.

Một “sỉ nhục gấp ba của con người”

Theo Freud: “Với Copernicus con người không còn ở trọng tâm thế giới, mà ở trên một hành tinh xoay chung quanh một ‘ngôi sao ngoại ô’, nằm ở 2/3 bán kính của một thiên hà bị mất trong số hàng tỷ thiên hà. Với Darwin, con người không còn là trọng tâm của thiên nhiên, đó là con khỉ đã được cải thiện phần nào. Với tôi, Freud, con người không còn là trọng tâm của chính mình nữa, vì vô thức quan trọng hơn ý thức”. Sự sỉ nhục gấp ba lần này của con người đến từ khoa học, kiến thức, những thứ cũng đã cung cấp cho chúng ta vắc xin, điện, mức sống hiện tại của chúng ta, v.v. Bạn không thể bác bỏ tiến bộ hay khoa học, nhưng đây là nguyên nhân của chủ nghĩa duy vật ở phương Tây, và tôi thách thức bạn tìm ra những nguyên nhân nào đóng một vai trò lớn hơn vai trò này.

Cái nhìn của nhà khoa học

Chúng ta không nên tìm kiếm nơi khác những nền tảng của chủ nghĩa duy vật, sự bỏ quên Chúa và sự đánh mất ý nghĩa của xã hội phương Tây, vì những khám phá khoa học có tác động to lớn đến những ý tưởng thống trị thế giới. Tác động này thường bị trì hoãn cho đến khi xã hội nhận ra ý nghĩa triết học của những khám phá này, nhưng đó là một tác động cực kỳ sâu sắc, không giống bất kỳ tác động nào khác, và đó là lý do tại sao ngày nay điều quan trọng là phải nhận ra những tiến bộ khoa học của thế kỷ 20 trong mọi lĩnh vực của kiến thức, đã cải tổ lại các lá bài và thay đổi hoàn toàn các dữ liệu của vấn đề về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo.

Sự vỡ mộng của thế giới đến từ chính kiến thức.

Theo quan điểm cổ điển của “nhà khoa học”, vũ trụ có thể hoàn toàn xác định được và giải thích được. Nó không có bắt đầu, cũng không có kết thúc, nó hoàn toàn có thể xác định được và có thể giải thích được. Đó là vũ trụ của nhà toán học thế kỷ 18, Pierre-Simon Laplace, một bộ máy vĩ đại có khả năng tự cung tự cấp. Hoàng đế Napoléon hỏi: “Còn Chúa trong tất cả những điều này?” Laplace trả lời: “Thưa Ngài, tôi không cần tiền đề này.” Trong lãnh vực sự sống, các đột biến và chọn lọc tự nhiên có thể giải thích một cách hoàn hảo sự xuất hiện và phát triển sự sống. Ý thức, trí tưởng tượng có thể được giải thích là các quá trình hóa học và thuật toán. Sự vỡ mộng của thế giới đến từ chính kiến thức.

Charles Percy Snow, nhà văn lớn người Anh đã nói: “Có một hố sâu giữa hai nền văn hóa,” văn hóa mang ý nghĩa, văn hóa truyền thống và tôn giáo, và văn hóa khoa học kỹ thuật, mà chúng ta không thể bỏ qua. Theo nhà sinh học phân tử  François Crick, “giả thuyết đáng kinh ngạc là bạn, niềm vui và nỗi buồn của bạn, các kỷ niệm và tham vọng của bạn, ý thức rằng bạn có bản sắc và có ý chí tự do, không gì khác hơn là hành vi của một tập hợp lớn các tế bào thần kinh và các phân tử kết nối. Như nhân vật Alice trong tiểu thuyết của Lewis Caroll nói: “Bạn không gì khác ngoài một bó tế bào thần kinh” (Giả thuyết kinh ngạc, L’hypothèse stupéfiante, nxb. Plon, 1995)

Quên Chúa

Chúng ta cũng không nên tìm nơi khác những nền tảng của chủ nghĩa duy vật, sự bỏ quên Chúa. Vì sao con người không còn tin Chúa nữa?

Chúng ta luôn có đau khổ, chúng ta luôn gặp bất công: không có nguyên nhân nào quan trọng hơn cho việc mất đức tin ở phương Tây cho bằng cái nhìn về con người và về thế giới được hiện đại và khoa học đưa ra, thể hiện một cách hoàn hảo bằng những từ như: “Tương lai chờ con người là tương lai của cậu bé đua robot của tương lai” (Marvin Minsky); “Cuộc sống là một vật liệu tự quản lý” (Henri Caillavet); “Con người không thể tự lừa bởi hy vọng mình sẽ tham dự vào bất cứ điều gì vượt quá mình. Cuối cùng, con người biết con người chỉ một mình trong cái dửng dưng bao la vô tận của vũ trụ mà nó xuất hiện một cách tình cờ ” (Jacques Monod trong Tình cờ và Cần thiết, Le Hasard et la Nécessité, nxb. Le Seuil, 1970); “Chúng ta càng hiểu nhiều về thế giới thì với chúng ta, dường như nó càng trở nên vô nghĩa” (Ba phút đầu tiên của vũ trụ, Les trois premières minutes de l’Univers, Steven Weinberg, nxb. Le Seuil, 1978).

Những người ủng hộ toàn bộ trường phái tư tưởng về sự vỡ mộng của thế giới, về sự phá hoại con người đều cuối cùng nói với chúng ta, con người không là gì và vũ trụ không là gì cả, họ tự nhận ra vào cuối con đường, chỉ có tuyệt vọng tuyệt đối, nhưng họ nói, chúng ta phải có sáng suốt để chấp nhận nó. “Tôi có khuynh hướng tin rằng chúng ta chẳng là gì ngoài những mảnh gỗ vụn trôi trên mặt biển” (Jim Peebles, được Steven Weinberg trích dẫn, Giấc mơ của một lý thuyết tối thượng, Le Rêve d’une théorie ultime, Odile Jacob, 1997). Khi chúng ta đã đạt đủ tiến bộ để giải thích cho chúng ta hiểu bằng các thuật ngữ máy móc này, kết quả mà chúng ta phải đối diện có thể không dễ dàng chấp nhận. Do đó, có vẻ thích hợp để kết thúc quyển sách này cũng như khi nó bắt đầu, với lời tiên đoán u tối của nhà văn Albert Camus:

“Một thế giới có thể được giải thích, được hợp nhất vì những lý do sai lầm, là một thế giới quen thuộc. Nhưng ngược lại, trong một thế giới không có ảo tưởng và ánh sáng, con người cảm thấy mình là người xa lạ. Sự lưu đày của con người là không thể cứu vãn, vì con người bị tước đi ký ức về ngôi nhà đã mất hay về hy vọng của một đất hứa. Thật không may, điều này là chính xác, nhưng chúng ta vẫn còn khoảng một trăm năm.” (Môn Sinh học Xã hội, La sociobiologie, Edward Wilson, nxb. Éditions du Rocher, 1987).

“Chủ nghĩa nhân văn duy vật chỉ có thể thất bại”, Saint-Exupéry nói một cách trực giác, nhưng chúng ta không bám rễ vào xác tín này mà không dựa trên nhãn quan hợp lý và khoa học giúp cho việc chứng minh sự phù hợp giữa khoa học và tôn giáo. Đây là vấn đề cơ bản. Nếu mọi người tin rằng cuộc sống chỉ là một vật chất để quản lý, rằng chúng ta giống như những mảnh gỗ trôi dạt trên biển, thì tất cả những gì chúng ta có thể biện hộ sẽ trôi qua tâm trí như nước đổ là môn. Nó sẽ không thể bắt rễ.

 Một giới hạn tuyệt đối cho kiến thức

Trong lĩnh vực vật chất, vật lý lượng tử đã quét đi tuyên bố của nhà toán học Laplace và những người theo chủ nghĩa thực chứng khi tưởng tượng mình có thể giải thích mọi thứ bằng một mô hình xác định luận và duy vật: ngày nay chúng ta biết theo nguyên lý bất định của vật lý gia Werner Heisenberg, có một giới hạn tuyệt đối với kiến thức mà chúng ta có thể có về thế giới xung quanh (chúng ta không thể xác định chính xác vừa tốc độ và vị trí của một hạt), và qua kinh nghiệm, chúng ta biết giao tiếp tức thời của hai hạt ở xa nhau (không thể tách rời, hoặc Nghịch lý EPR) thì có một thực tại ngoài không-thời gian: vũ trụ không thể tự giải thích được, nó không đủ bản thể học.

Bằng cách thể hiện đặc tính phi bản thể học của mức độ thực tại của chúng ta, các kinh nghiệm như kinh nghiệm không thể tách rời đã mở lại những con đường triết học mà chúng ta nghĩ đã đóng cửa.

Vật chất là gì? Cơ sở của nó là gì? Năm 1926, vật lý gia Werner Heisenberg đã chứng minh, nếu chúng ta biết chính xác vị trí của một hạt thì chúng ta không thể biết được tốc độ của nó, và ngược lại. Có một sự không chắc chắn cơ bản liên quan đến từng hạt của vũ trụ: nó hoàn toàn ngược lại với những gì nhà toán học Laplace nghĩ, đã ước tính theo quan điểm xác định của ông, rằng nếu chúng ta có thể biết tất cả các vị trí của tất cả các hạt và tất cả các quy luật khiến chúng tương tác, chúng ta có thể suy ra toàn bộ tương lai của vũ trụ. Từ lâu, nhà bác học Einstein đã nghi ngờ cuộc cách mạng của khái niệm này: “Chúa không chơi trò xúc xắc” nhưng các kinh nghiệm đã xác nhận cuộc cách mạng này.

Sự tồn tại của một thực tại vượt thời gian và không gian

Thử nghiệm Aspect ở Orsay (A. Aspect và P. Grangier, G. Roger, các nhà vật lý Âu châu, thư  49, 91 – 1982), và tất cả những thử nghiệm được thực hiện sau đó, có thể xác minh rằng nếu chúng ta khởi động một hệ thống gồm hai hạt tương quan theo hai hướng ngược nhau, phép đo của hạt này ngay lập tức làm nhiễu động hạt kia, như thể các hạt đang giao tiếp ngay lập tức. Nhưng thuyết tương đối của Einstein cấm đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng… Đâu là mối liên hệ kết nối chúng? Trên thực tế, chủ nghĩa hình thức của vật lý lượng tử dạy chúng ta, hai hạt tạo thành một thực thể duy nhất bất kể khoảng cách chia cách chúng! Do đó, hai hạt này tạo thành một hệ thống vượt thời gian và không gian. Đây là hiện tượng đầu tiên được chứng minh bằng thực nghiệm vượt thời gian, không gian, năng lượng và vật chất nhưng vẫn có hậu quả trong thế giới của chúng ta. Như giáo sư Nicolas Gisin, giám đốc khoa vật lý tại Đại học Geneva nói: “Các mối tương quan phi cục bộ đến từ bên ngoài không gian-thời gian bởi vì không có mô tả nào nằm bên trong không gian-thời gian có thể được thực hiện” (Có các hiệu ứng lượng tử đến từ Bên ngoài Không gian-thời gian? Tính phi định cư, ý chí tự do và “không có nhiều thế giới” trong Suarez A. và Adams P. (eds) Khoa học có tương thích với Ý chí tự do không? Springer, 2012).” (Nicolas Gisin, Are There Quantum Effects Coming from Outside Space-time? Nonlocality, free will and ‘no many-worlds’, dans Suarez A. and Adams P. (eds) Is Science compatible with Free Will? Springer, 2012).

Khoa học tự nó chứng minh giới hạn của chính nó

Những tầm nhìn truyền thống khẳng định sự tồn tại các cấp độ khác của thực tại (thiên thần, linh hồn, tổ tiên). Sự hiện đại đã làm cho những niềm tin như vậy trở nên lỗi thời, đối với nó mọi thứ tồn tại đều có thể dò tìm và đo lường được. Nhưng bằng cách chứng minh đặc tính phi bản thể học của mức độ thực tại, nơi vũ trụ của chúng ta định vị, các kinh nghiệm như kinh nghiệm không thể phân tách được mô tả ở trên đã mở lại những con đường triết học bị cho là đã khép lại. Và điều rất quan trọng là chính bản thân khoa học chứng minh giới hạn của chính nó chứ không phải triết học hay siêu hình học (như B. d’Espagnat đã chứng minh trong “Lý thuyết lượng tử và thực tế, Théorie quantique et réalité”, Pour la Science, 1980 và trong Tìm kiếm Thực tế của Gauthier Villars, 1979, Dunod tái bản năm 2015). Điều này tạo nên một thay đổi trong thế giới quan có thể so sánh với sự xuất hiện của khoa học hiện đại bốn thế kỷ trước với Copernicus, Kepler và Galileo.

Ý tưởng về một nguyên tắc sáng tạo

Trong lãnh vực Vật lý thiên văn, ý tưởng về một Vũ trụ vĩnh cửu đã bị xóa bỏ bởi sự phát hiện ra Vụ nổ lớn, điều này cũng đặt ra câu hỏi về Chúa, vì có một thời điểm không có thời gian và không gian (Vũ trụ đến từ đâu?) và bởi vì chúng ta đã có thể tính toán, nếu sự sống là có thể xảy ra, thì chỉ vì do mười lăm hằng số và các quy luật vật lý chi phối Vũ trụ được điều chỉnh một cách cực kỳ tốt (ai đã điều chỉnh?). Vào thế kỷ 20, chúng ta khám phá vũ trụ có một lịch sử và nó được thiết lập để sự sống có thể xuất hiện. Thời gian và không gian không còn là tuyệt đối nữa: chúng là tương đối. Vì vậy, chúng có thể không phải lúc nào cũng vậy. Lý thuyết Vụ nổ lớn cho chúng ta biết, khi chúng ta quay trở lại nguồn gốc, toàn bộ vũ trụ mà chúng ta quan sát được ngày nay tập trung trong một khoảng không gian 10-33 cm có nhiệt độ 1032 độ, 10-43 giây sau thời gian bắt đầu. Và nói về một “trước đây” là không có ý nghĩa, vì thời gian không tồn tại. Sau đó, có một kim tự tháp phức tạp được phát triển, từ vụ nổ lớn đến bộ não con người, vật thể phức tạp nhất của vũ trụ được biết đến.

Bây giờ câu hỏi về Chúa trở nên câu hỏi của khoa học.

Làm thế nào để giải thích điều này? Vũ trụ được điều chỉnh bởi mười lăm hằng số cơ bản và các định luật vật lý được điều chỉnh một cách cực kỳ tinh tế và nếu điều này không xảy ra với tất cả sự sống, thì mọi sự phức tạp sẽ là không thể. Nhà Vật lý thiên văn phật tử Trịnh Xuân Thuận từ đó nảy ra ý tưởng về một “nguyên tắc sáng tạo”, một nguyên tắc không thuộc văn hóa của ông, vì sự điều chỉnh này và khả năng có một sự sống rất thấp (xem sách của ông: Giai điệu bí ẩn, La Mélodie secrète, Fayard, 1988, và Hỗn độn và hài hòa, Le Chaos et l’Harmonie, Fayard, 1998): 1 cơ hội trong 10 đến lũy thừa 60, có nghĩa bao nhiêu cơ hội bắn trúng mục tiêu có kích thước một cm vuông ở đầu kia của vũ trụ bằng cách bắn một mũi tên một cách ngẫu nhiên, nếu chỉ có một vũ trụ. Để làm được điều này mà không có nguyên tắc sáng tạo, chúng ta phải giả định có vô số vũ trụ song song với chúng ta, mỗi vũ trụ có những bối cảnh khác nhau, nghĩa là chính các nhà duy vật bây giờ phải công nhận những thực thể không thể quan sát được! Sự đảo ngược khoa học luận đáng kinh ngạc.

Khoa học dám đặt câu hỏi về Chúa

Trong hai thế kỷ, người ta nói với những người tin Chúa, rằng Chúa là một giả định không cần thiết và người ta có thể giải thích một cách hoàn hảo thế giới không có Chúa. Jacques Monod, nhà sinh hóa học nói, vấn đề cùng đích bị cấm vĩnh viễn trong khoa học, nhưng 10 năm sau khi ông qua đời, khoa học đã đặt lại vấn đề này. Bây giờ câu hỏi về Chúa trở nên câu hỏi của khoa học. Người ta không nói khoa học chứng minh Chúa, nhưng câu hỏi về một đấng sáng tạo lại trở thành một câu hỏi khoa học, câu trả lời vẫn thuộc về từng cá nhân (người ta có thể chọn sự tồn tại của vô số vũ trụ song song). Đó là một cái gì hoàn toàn kinh ngạc và gần như mang tính cách mạng so với khoa học cổ điển. Nhưng, hơn nữa, nguyên tắc “Rasoir d’Ockham”  (đặt ưu tiên cho những giải thích đơn giản nhất, không thêm những giả thuyết không cần thiết), gần như ngày nay đứng về phía những người tin vì những người vô thần buộc phải xác định ý tưởng về vô số vũ trụ song song để tránh đặt vấn đề về một nguyên tắc sáng tạo.

Tôi có giảm thiểu nghiêm ngặt các quá trình diễn ra trong não của tôi hay không? Bởi vì nếu chúng ta bị đồng hóa vào các quy trình tái sản xuất bằng máy móc, chúng ta sẽ bị thay thế bằng máy móc.

Ý thức và tế bào thần kinh

Trong lãnh vực thần kinh học, quan điểm của một người chỉ bị điều kiện hóa bởi các tế bào thần kinh và chất hóa học của bộ não, từ đó ý thức xuất hiện và được đặt thành vấn đề. Theo các quan niệm phổ biến nhất, và đặc biệt là của ông Jean-Pierre Changeux, người vô thần, chúng ta tin vào bản sắc của tế bào thần kinh và tâm thần: nếu tôi biết hoàn toàn trạng thái não của bạn, tôi sẽ biết bạn đang nghĩ gì vào lúc này, và thậm chí những gì bạn sẽ nghĩ trong một phút sắp tới. Kiến thức đầy đủ về trạng thái của các tế bào thần kinh trong não sẽ cho phép chúng ta biết được kinh nghiệm của đối tượng. Điều này dựa trên giả định, ý thức của chúng ta có thể hoàn toàn rút gọn được các quá trình thần kinh. Một số thí nghiệm đã cho thấy chức năng não tinh tế hơn, và các trường hợp cận tử cũng vậy. Bản chất con người là vấn đề then chốt của thế kỷ 21. Đây là cuộc tranh luận hoàn toàn có trọng tâm về văn hóa: tôi có phải là người hoàn toàn chỉ tuyền các quá trình diễn ra trong não của tôi hay không? Bởi vì nếu chúng ta bị đồng hóa vào các quy trình tái sản xuất bằng máy móc, chúng ta sẽ bị thay thế bằng máy móc. Đó là cá độ của những người như ông Ray Kurzweil, nhà nghiên cứu Mỹ, ông cho rằng trí thông minh của máy móc sẽ không chỉ bắt kịp mà còn vượt quá con người. Tuy nhiên, có những lập luận cho rằng con người có nhiều thứ hơn là khoa học thần kinh có thể tìm thấy ở đó.

Tự do không thể đo lường được

Các kinh nghiệm cho thấy bộ não đã hoạt động vài phần trăm giây trước khi đưa ra quyết định: liệu vô thức của chúng ta có quan trọng hơn ý thức của chúng ta không? Nhưng có một quyết định theo kiểu phủ quyết là dừng hoặc bỏ qua các quy trình đã được khởi xướng một cách vô thức. Khoa học gia Benjamin Libet nói với chúng ta: “Chúng ta tự do, ít nhất là khi phủ quyết” (Tinh thần vượt ngoài các tế bào thần kinh, một cuộc khám phá về ý thức và tự do, L’Esprit au-delà des neurones, une exploration de la conscience et de la liberté, Dervy, 2012). Ở điểm này, chúng ta có thể mặc định “tâm trí” sẽ lấy quyền kiểm soát của bộ não. Nó giống như trọng tài trong trận bóng đá, người không làm gì, không bao giờ chạm vào quả bóng, nhưng là người đưa ra quyết định vào lúc cần quyết định, có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến kết quả của trận đấu. Tại tòa, nếu thân chủ của tôi giết cha của anh ta, tôi không thể lập luận anh ta quyết định chuyện này: vì một vài giây trước khi giết cha mình, ông đã có thể không làm như vậy. Các kinh nghiệm khác như kinh nghiệm của ông Jean-François Lambert với các nhà sư Tây Tạng khi họ thiền cho thấy, người ta có thể biết trạng thái thần kinh mà không biết đến trạng thái tinh thần của chủ thể.

Cho đến ngày nay, chúng ta không có một khái niệm nào rõ ràng về việc xuất hiện của ý thức. Ngày nay có rất nhiều lý thuyết để giải thích làm thế nào ý thức có thể xuất hiện từ các tế bào thần kinh, cũng như có rất nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này… điều đó chứng minh, bất chấp những tiến bộ to lớn được thực hiện trong lĩnh vực này, chúng ta vẫn chưa có câu trả lời cho câu hỏi cơ bản này, câu hỏi về bản chất của chính chúng ta! Tất cả các lý thuyết này đều dựa trên giả định, não bộ tạo ra ý thức. Và nếu chúng ta đi tìm sai hướng? Nếu nó hoạt động như một đài phát thanh, không tạo ra âm nhạc nhưng cần thiết để phát âm? Một số kinh nghiệm “thoát khỏi cơ thể” khi “chết lâm sàng” dường như gợi ý điều này (Bằng chứng của Thiên đàng, La Preuve du Paradis, Eben Alexander, nhà xuất bản Guy Trédaniel, 2013).

Trong lãnh vực tiến hóa, tình cờ được định hướng

Theo nhà cổ sinh vật học Simon Conway Morris, trong lĩnh vực Khoa học Đời sống, việc phát hiện ra các trường hợp có khả năng tái tạo của quá trình tiến hóa, như việc tạo các yếu tố con mắt “máy ảnh” như con mắt chúng ta, ở các loài động vật mà tổ tiên chung của chúng không hề có mắt, áp đặt một ý tưởng về một kênh tiến hóa đối với các dạng chức năng đã được “tiền quyết định trước vụ nổ lớn”. Nếu bạn ném những hòn bi từ đỉnh đồi xuống, bạn sẽ biết trước những con đường mà mà các hòn bi này có thể đi. Nó cũng giống như điều chúng ta thấy trong lãnh vực tiến hóa: ý tưởng ngẫu nhiên đã được đóng khung. Học thuyết Darwin nói ngược lại, “không gian của các khả năng” là khổng lồ, là kết quả của hàng tỷ tỷ tỷ đột biến liên tiếp, với mỗi lần được sắp xếp theo chọn lọc tự nhiên, và trong trường hợp này, theo thống kê, xác suất có hai sinh vật giống hệt nhau trong vũ trụ gần như không thể. Khi bộ phim Avatar ra mắt, một người theo thuyết Darwin viết đùa, trong Thế Giới mà nhà đạo diễn James Cameron đã làm “một tội ác chống lại chủ nghĩa Darwin” vì cư dân của Pandora quá giống con người, và tôi đã trả lời theo cùng giọng điệu của ông, nhưng ngược lại, vì quan niệm của ông là quan niệm của một khoa sinh học mới, cái gọi là nhà cấu trúc luận, trong đó những gì liên quan đến các cấu trúc lớn của sinh vật bắt nguồn từ các quy luật của vũ trụ chứ không phải từ chọn lọc tự nhiên.

Những tiến bộ khác cho chúng ta thấy, thực tế phức tạp hơn nhiều so với những gì chúng ta tưởng: trong bộ gen của con người, người ta khám phá có ít gen hơn trong gen hạt gạo.

Một thực tế phức tạp hơn các bề ngoài

Những tiến bộ khác cho chúng ta thấy, thực tế phức tạp hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây: trong bộ gen con người, người ta đã phát hiện có ít gen hơn trong gen hạt gạo; DNA không hoạt động như kế hoạch lắp ráp của một chiếc Boeing 747; khoa biểu sinh cho thấy, các gen tự biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh của chúng: di truyền không phải là tất cả; ngẫu nhiên bị giới hạn phạm vi: nó làm tốt công việc giải thích cách thức hoạt động của hệ thống miễn dịch chẳng hạn, nhưng trong nhiều trường hợp khác, phải dùng các khái niệm khác,

Sự xuất hiện của chúng ta không phải là một hiện tượng biểu sinh, nó được ghi trong quy luật vũ trụ. Sự thích nghi là chiếc mặt nạ, mà đằng sau là cấu trúc chung của nhiều sinh vật. Kích thước cổ của hươu cao cổ là quá trình hoàn toàn theo thuyết Darwin, nhưng cấu trúc của động vật có bốn chân thì không. Tất cả các tinh thể tuyết đều khác nhau, nhưng chúng có cấu trúc sáu nhánh. Có một mặt nạ thích ứng mà đằng sau mặt nạ này là các nguyên mẫu. Sự tiến hóa tuân theo các quy luật tự nhiên và không chỉ xảy ra một cách ngẫu nhiên ngờ các đột biến được lựa lọc bởi chọn lọc tự nhiên. Với tầm nhìn này, chúng ta đã vượt xa Darwin. Sự sống tương ứng với những nguyên mẫu cơ bản được lưu giữ trong các quy luật tự nhiên, đây không phải là thuyết sáng tạo hay thuyết Darwin, nhưng là một tiến hóa hướng tới những cấu trúc ngày càng phức tạp được xác định trước. Trong quan điểm như vậy về tiến hóa, những sinh vật như chúng ta phải xuất hiện ngày này hay ngày khác, trên hành tinh này hay hành tinh khác. Do đó, nhà sinh hóa học Christian de Duve giải thích, “Chúa chơi xúc xắc vì Ngài chắc chắn mình thắng”. Nói cách khác, “sự sống là mệnh lệnh của vũ trụ” hay thậm chí “các quy luật sinh hóa tạo ra những ràng buộc nghiêm ngặt đến mức ngẫu nhiên được chuyển hóa và sự xuất hiện của sự sống và thậm chí của suy nghĩ có ý thức trở thành một nghĩa vụ trong vũ trụ và điều này thấy trong nhiều trường hợp” (Bụi của sự sống, Poussière de vie, nxb. Fayard, 1996).

Ý tưởng về sự hội tụ, một cuộc cách mạng thay đổi tất cả

Ý tưởng về sự hội tụ là rất quan trọng. Qua hội tụ, chúng tôi muốn nói đến trường hợp một sinh vật mang một cơ quan và một sinh vật khác mang cùng một cơ quan, nhưng tổ tiên chung của chúng không có: ví dụ, mắt của con người; mắt của côn trùng rất khác nhau nhưng có một loài ốc biển có mắt giống chúng ta, một loài nhện cũng vậy và thậm chí cả một loài sứa, điều này chẳng giúp nó gì: thậm chí nó không có não… Một trong những nhà cổ sinh vật học vĩ đại nhất hiện nay, Simon Conway Morris, trong quyển sách về sự tiến hóa của sự sống, cho chúng ta thấy ít nhất 70 ví dụ về loại này (Giải pháp của cuộc sống, Life’s solution, Simon Conway-Morris, Cambridge University Press, 2003). Chính xác ông nêu lên:

“Đối với những người theo thuyết Darwin cổ điển, rất khó có khả năng những người cư ngụ ở một hành tinh này có thể giống với những người cư ngụ ở hành tinh khác. Hiện tượng hội tụ tiến hóa chỉ ra rằng, ngược lại, số lượng các lựa chọn thay thế bị giới hạn nghiêm ngặt. Một chương trình nghiên cứu như vậy có thể đưa ra một mức độ sinh học sâu hơn, trong đó sự tiến hóa theo Darwin vẫn là một khái niệm trọng tâm, nhưng ở đó các hình thức chức năng có thể được tiên định từ vụ nổ lớn” (Life’s Solution).

Tiến sĩ sinh hóa Michael Denton và các tác giả khác hỗ trợ ý tưởng, sự tồn tại của các hội tụ dẫn đến các kết quả giống hệt nhau theo các con đường khác nhau, rằng các dạng cấu trúc phức tạp được tạo ra bởi các quy luật tự nhiên chứ không phải bởi chọn lọc tự nhiên (Michael Denton, Craig Marshall, Michael Legge, “Protein gấp lại dưới dạng platonic: hỗ trợ mới cho quan niệm tiền-Darwin về sự tiến hóa theo quy luật tự nhiên” (The protein folds as platonic forms : new support for the pre Darwinian conception of evolution by natural laws, Journal of Theoritical Biology, 2002)

Các dạng chức năng tiên định

Từ hai thế kỷ nay, những người chống Darwin đã nói, con mắt là một hiện tượng quá phức tạp để có thể cho rằng đó là do ngẫu nhiên. Nhưng cũng có thể chứng minh tất cả các giai đoạn tồn tại giữa đôi mắt cực kỳ sơ khai không có thủy tinh thể cho đến con mắt hoàn hảo như con mắt của chúng ta. Nếu học thuyết Darwin không hoạt động tốt, đó là vì con mắt tồn tại quá nhiều! Ý tưởng về sự hội tụ tiến hóa đưa ra, số lượng các lựa chọn thay thế bị giới hạn nghiêm ngặt, có nghĩa là con đường được dồn về một hướng. Học thuyết Darwin giải thích nhiều điều, nhưng các cấu trúc lớn, như cấu trúc của các loài linh trưởng được tuân theo các quy luật tự nhiên. Đó là lý do vì sao nhà cổ sinh vật học Simon Conway Morris, có thể viết một câu khiêu khích như câu sau: “Các dạng chức năng đã được tiên định trước kể từ Vụ nổ lớn”, điều này có nghĩa là sự tiến hóa không chỉ xảy ra một cách tình cờ: nó được dồn về hướng các dạng đã được tiên định, và điều đó thay đổi rất nhiều thứ.

Sự thật và khả năng chứng minh

Cuối cùng, trong lĩnh vực toán học, định lý Gödel áp đặt một cái nhìn mới về thế giới, chứng minh mọi hệ thống lôgic chặt chẽ nào của con người chắc chắn là không hoàn chỉnh và khái niệm sự thật thì rộng hơn khái niệm về khả năng chứng minh, vì thế hướng về sự tồn tại của một “thế giới của các đối tượng toán học” qua đó tinh thần con người có thể tiếp xúc.

Con người vượt trội hơn máy tính vì con người có thể vào được thế giới của các khái niệm toán học. “Theo Platon, các khái niệm và chân lý toán học tồn tại trong một thế giới thực không có bất kỳ một khái niệm nào về định vị hóa không gian-nhất thời. Tuy nhiên, tinh thần chúng ta trực tiếp vào đó được nhờ kiến thức tức thời của các hình thức toán học và nhờ khả năng suy luận về các hình thức này. Chính tiềm năng kiến thức ngay lập tức về các khái niệm toán học và khả năng tiếp cận trực tiếp với thế giới Platon này đã mang lại cho tâm trí một sức mạnh lớn hơn bất kỳ thiết bị nào mà hoạt động của nó chỉ dựa trên tính toán” (Các bóng của Tinh thầnLes Ombres de l’esprit, Roger Penrose, Interéditions, 1995).

Toán học tồn tại trước con người

Nhà toán học Alain Connes, người theo thuyết bất khả tri, ủng hộ luận điểm toán học là một lục địa tồn tại từ trước và con người khám phá ra, giống như Châu Phi. Khái niệm này trái ngược với ý tưởng phát minh ra toán học và một số nhà vô thần như Jean-Pierre Changeux đã chống lại ông. Đối với họ, việc ủng hộ một luận điểm như vậy tạo nên một sự phản bội thực sự đối với lý trí, với thế tục và với tinh thần của thời Khai sáng. Nhưng bất chấp áp lực của Changeux đặt lên mình, nhà toán học Connes vẫn phản đối: đúng, toán học đã có từ trước khi con người khám phá ra nó. Đây là cách ông trả lời Changeux: “Khi nó diễn ra, sự khai sáng bao gồm một phần tình cảm đáng kể, đến mức con người không thể thụ động hoặc thờ ơ. Lần hiếm hoi điều này thực sự xảy ra với tôi, tôi không kìm được nước mắt. Tôi thường quan sát thấy những điều sau đây: một khi giai đoạn chuẩn bị đầu tiên được bước qua, chúng ta đụng phải một bức tường. Sai lầm không được mắc phải, đó là trực diện giải quyết khó khăn này (…). Kinh nghiệm cho thấy nếu chúng ta trực tiếp giải quyết một vấn đề, chúng ta rất nhanh chóng cạn kiệt mọi nguồn lực của ‘tư duy trực tiếp’, lý trí (…). Điều đáng chú ý là tầm quan trọng, khi tôi nói về tiến trình gián tiếp, của khoảng cách rõ ràng giữa vấn đề ban đầu và lĩnh vực điều tra hiện tại (…). Hiển nhiên nhà toán học phải có đủ thanh thản.

Do đó, chúng ta có thể đạt được một trạng thái chiêm niệm không liên quan gì đến sự tập trung của một sinh viên suy nghĩ khi thi toán” (Chất liệu để suy nghĩ, Matière à pensée, Jean-Pierre Changeux và Alain Connes, nxb. Odile Jacob, 1989). Không phải là nhà thần nghiệm trong tu viện nói như thế, đó là nhà toán học bất khả tri vĩ đại đã mô tả cách ông thực hiện công việc của mình như một nhà toán học, có nghĩa là cách ông khám phá ra sự thật… trong toán học. Vị trí này được nhà toán học Anh Andrew Wiles chia sẻ, người đã chứng minh định lý Fermat mà tôi đã gặp ở đại học Princeton. Các nhà toán học tiếp xúc với một thế giới khác. Các nhà thần nghiệm cũng cho rằng họ tiếp xúc với một thế giới khác. Tất nhiên, nó không cùng một thế giới. Nhưng nếu chúng ta tin vào các nhà toán học, thì vì sao chúng ta không cho các nhà thần nghiệm một chút uy tín nào trong các khẳng định của họ?

Định lý Gödel về sự không hoàn chỉnh tính không đầy đủ

Người ta luôn nghĩ lô-gích là phải dựa trên chính nó, vì toàn học dựa trên các bài toán và các bài toán dựa trên lô-gích; nếu lô-gích dựa vào chính nó, thì do đó hệ thống sẽ tự đóng lại trên chính nó: nó hoàn chỉnh và mạch lạc. Đó là một phần của dự án lớn mà nhà toán học David Hilbert gọi là “giải pháp cuối cùng” (dĩ nhiên là trước chủ nghĩa quốc xã!) cho vấn đề lô-gích. Nếu dự án này thành công, chúng ta đã có thể nói “nó đúng hoặc sai” trước bất kỳ mệnh đề lô-gích nào. Nhưng định lý Gödel cho thấy, bất kỳ hệ thống lô-gích nào (kể cả toán học) nếu nó là mạch lạc thì đều không đầy đủ. Đó là một định lý có những hệ quả triết học vô cùng lớn.

Laplace nói rằng ông không cần Chúa, Hilbert tìm kiếm “giải pháp cuối cùng”, xây dựng trên lô-gích một cách không phản bác được, Changeux khẳng định căn tính của nơ-ron và tâm trí: tất cả những quan niệm này đều sụp đổ.

Khái niệm về sự không hoàn chỉnh này đã được trải nghiệm như một cái gì đó tiêu cực, nhưng ngược lại nó là động lực, vì ở đây có một thách thức trong hệ thống mà sự làm chủ không hoàn chỉnh và một câu chuyện là có thể xảy ra. Chúng ta muốn có một thế giới hoàn chỉnh, nhưng ý tưởng cơ bản và sáng tạo về sự không hoàn chỉnh này là chìa khóa để hiểu được tầm nhìn mới về thế giới, như Cha Thierry Magnin đã viết (Kinh nghiệm của không hoàn chỉnh, l’Expérience de l’incomplétude, nxb. Lethielleux-DDB, 2011). Một hệ quả khác của định lý Gödel là có những chân lý mà chúng ta có thể nhận thức được khi chúng không thể chứng minh được trong một hệ thống đã có. Trong bất kỳ hệ thống lô-gích nào, nhất định phải có một cái gì đó đúng nhưng không thể chứng minh được trong hệ thống liên quan. Vậy làm thế nào để chúng ta biết điều này là đúng? Chắc chắn nhờ nhận thức kiểu Platon, như khả năng tiếp cận chân lý trong toán học.

Một cuộc cách mạng khái niệm nhờ khoa học

Việc xã hội chúng ta dần dần đồng hóa những khám phá cơ bản, dù đó là những nguyên tắc không chắc chắn, không thể hiểu được, không lường trước được này sẽ thay đổi hoàn toàn cách nhìn của chúng ta về thế giới: một cuộc cách mạng khái niệm do chính khoa học áp đặt đang được tiến hành và qua cách mở ra “lãnh vực của những khả năng”, nó có khả năng dẫn đến một sự tái phấn khởi của thế giới, có thể có một tác động vô cùng lớn trên vận mệnh xã hội chúng ta. Con người của khoa học phải quyết tâm từ bỏ tầm nhìn cổ điển của mình, vì con người muốn đặt mình vào vị trí của Thượng đế. Nhà toán học Laplace nói ông không cần Thượng đế, Hilbert tìm kiếm “giải pháp cuối cùng” tạo một lô-gích một cách không thể chối cãi được, Changeux khẳng định căn tính của thần kinh và tinh thần: tất cả các khái niệm này bị sụp đổ. Một cuộc cách mạng khái niệm thực sự đã quét sạch tất cả các lĩnh vực này. Có một tầm nhìn cổ điển nổi bật, do con người muốn đặt mình vào vị trí của Chúa: đó là viễn cảnh của Laplace, Hilbert, thậm chí của Changeux. Điều này cho thấy đây là ảo tưởng, duy nhất chỉ vì lý do khoa học, chính khoa học mang phương pháp khắc phục cho vấn đề nó tạo ra, đó là sự vỡ mộng của thế giới. Sau đó, có những cách giải thích triết học được triển khai, nhưng chính từ bản thân khoa học mới tạo ra sự thay đổi.

Một cuộc cách mạng triệt để đang được tiến hành

Thế kỷ 20 chứng kiến một cuộc cách mạng phi thường trong hầu hết các lĩnh vực kiến thức: chúng ta đi từ thời gian và không gian tuyệt đối của Newton đến thuyết tương đối của không gian và thời gian của Einstein, điều này dẫn đến lý thuyết Vụ nổ lớn; chúng ta đã đi từ thuyết xác định của Laplace, vốn không cần đến Chúa, sang nguyên lý bất định của Heisenberg, nguyên lý tạo ra tính không phân tách lượng tử bí ẩn, vượt ra ngoài không gian và thời gian; chúng ta đi từ “giải pháp cuối cùng” được Hilbert hy vọng liên quan đến tính hoàn chỉnh của lô-gích sang định lý về sự không thể hoàn chỉnh của Gödel, định lý phủ nhận nó một cách dứt khoát; chúng ta đi từ chọn lọc tự nhiên của Darwin sang những ý tưởng về khả năng tái tạo của quá trình tiến hóa dưới ảnh hưởng của các dạng cơ bản đã được tiên định ngay cả trước Vụ nổ lớn; chúng ta đã đi từ phân tích sự cân bằng của hóa học cổ điển thời Berthelot đến việc phân tích sự không cân bằng và lý thuyết về sự hỗn loạn; Chúng ta đi từ con người thần kinh của Changeux đến khẳng định về con người mang ý chí tự do nơi Benjamin Libet (Sự tồn tại của chúng ta có một ý nghĩa không? Notre existence a-t-elle un sens?, J. Staune, Presses de la Renaissance, 2007,

Các hệ quả triết học

Các hệ quả triết học của cuộc cách mạng này là như sau: vượt ra ngoài chủ nghĩa giản lược, con người thì hơn là một tập hợp các cơ quan, thiên nhiên thì hơn là các nguyên liệu thô được khai thác, tổng thể thì nhiều hơn là tổng số các bộ phận; các giới hạn của thuyết tất định trong thế giới của chúng ta; kết thúc của sự khép lại khái niệm về Thế giới, theo đó, mọi thứ xảy ra trong cấp độ thực tại của chúng ta đều phải có nguyên nhân của nó trong cùng cấp độ này. Thế giới chúng ta không thể tự nó giải thích được!

Sự không chắc chắn, sự không hoàn chỉnh, sự không tiên liệu được: những “không” này cho dấu hiệu: nó mang tính xây dựng chứ không phá hoại, và mang lại sự khiêm tốn. Bác bỏ chủ nghĩa giáo điều (tôi có sự thật và tôi sẽ dạy sự thật này cho các bạn) và chủ nghĩa tương đối (tất cả các ý kiến đều có giá trị), nó phù hợp với khẳng định, theo đó có một sự thật mà không một người hay một nhóm nào có thể chiếm hữu sự thật này, chỉ có thể tiếp cận nó ít nhiều tùy theo các trường hợp, điều này đưa chúng ta trở lại huyền thoại về hang động…

Các hệ quả thần học

Tóm lại, có ba quan điểm thần học về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo. Thứ nhất, quan điểm của thuyết tách biệt. Được Galileo thành lập để giải quyết các vấn đề với Tòa Thánh: “Khoa học nói làm thế nào đi đến trời, tôn giáo nói làm thế nào đi lên trời.” Trên thực tế nghe có vẻ hợp lý, nhưng về lâu dài nó sẽ tạo kết quả tai hại cho các tôn giáo. Đó là cái bẫy chết người, vì như thế có nghĩa tôn giáo không có gì để nói về cái thực, không có gì để nói về bản chất của ý thức con người, không có gì để nói về bản chất của vũ trụ, vì vậy cuối cùng, các tôn giáo bị mất uy tín vì những người theo chủ nghĩa duy vật, họ có điều gì đó để nói về tất cả những điểm này. Nếu các tôn giáo ẩn mình trong các đạo đức và giá trị, thì chúng không còn có chỗ đứng trên thế giới. Ý tưởng về Huấn quyền không lấn nhau (NOMA, Non Overlapping Magisterium) là rất nguy hiểm vì nó bao hàm ý nghĩa: tôn giáo lo đạo đức, còn tôi, khoa học, tôi là người duy nhất có thể cho bạn biết con người là ai, đâu là thực, v.v..

Kế đó, vị trí của thiết kế thông minh, theo đó sự phức tạp của vũ trụ và của những sinh vật sống chứng minh sự tồn tại của một Nhà thiết kế. Nó đi quá xa về mặt khoa học và nó còn gây tranh cãi về mặt thần học, vì là tín hữu kitô, tôi tin Chúa để tôi tự do không tin ở Ngài. Nếu tôi có bằng chứng khoa học về sự tồn tại của Chúa bằng cách phân tích các hệ thống sống, tôi sẽ rất buồn chán, bởi vì nó sẽ đặt câu hỏi về quan niệm của tôi có về Chúa! Cuối cùng, lập trường của sự không hoàn chỉnh, có vẻ là quan điểm đúng vì khoa học ngày nay tự nó (không phải triết học hay thần học) cho thấy sự tồn tại của một cái vượt ra ngoài khoa học, mà nó không thể nói lên điều gì ngoại trừ việc nó tồn tại, vốn bác bỏ thuyết giản lược và đặc tính tự đủ về mặt bản thể học của thế giới chúng ta.

Một uy tín mới cho diễn từ tôn giáo

Mô hình khoa học mới khôi phục uy tín lớn cho khái niệm tôn giáo. Từ nhiều thế kỷ nay, tất cả các tôn giáo đều nói, có một cấp độ thực tại khác ngoài không gian, thời gian và vật chất, và rằng tinh thần con người được kết nối với cấp độ khác này. Tính Hiện đại đã làm cho một khái niệm như vậy thành phi lý: đối với nó, không có gì khác ngoài thế giới vật chất. Nhưng mô hình khoa học mới bất ngờ khôi phục lại uy tín cho khái niệm tôn giáo này.

Khoa học ngày nay trả lời “có” cho bốn câu hỏi thiết yếu: Có một cấp độ thực tại nào khác ngoài không gian và thời gian không? Liệu tinh thần con người có thể tiếp xúc với một mức độ khác của thực tế không? Liệu ý chí tự do có tồn tại không? Một nguyên tắc người sáng tạo có đáng tin cậy ở cấp độ hợp lý không? Ngày nay, chúng ta có thể trả lời có cho tất cả những câu hỏi này và điều này đã làm thay đổi mọi chuyện. Như nhà bác học Pasteur đã nói, “một chút khoa học làm xa Chúa, nhưng rất nhiều khoa học mang Chúa đến”. Do đó, một sự tổng hợp mới giữa khoa học và tâm linh có thể xảy ra và nó dẫn đến một hấp dẫn cho thế giới. Chúng ta có hy vọng này cho thế kỷ 21: lấp khoảng trống giữa hai nền văn hóa, khoa học và tôn giáo, đồng thời khôi phục tầm nhìn về thế giới được hưởng lợi từ hơi thở mà tính siêu việt mang lại và sự vững chắc mà lý trí mang lại.

Marta An Nguyễn dịch


http://phanxico.vn/2021/07/21/khi-khoa-hoc-tai-kham-pha-thien-chua/