Trang

Thứ Năm, 28 tháng 2, 2019

Tin Mừng Mác-cô: Tin Mừng của sự ngạc nhiên






Tin Mừng Mác-cô dùng ba động từ và một danh từ để diễn tả sự sững sờ, kinh ngạc và kinh hoàng của thính giả. Các trích dẫn lấy trong Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt.

I. Động từ “thambeô” (sững sờ, kinh ngạc, kinh hoàng)

Động từ “thambeô” có nghĩa “sững sờ”, “kinh ngạc”, “kinh hoàng”, xuất hiện 3 lần trong Tin Mừng Mác-cô (1,27; 10,24.32).

1) Những người nghe kinh ngạc vì thán phục uy quyền Đức Giê-su (1,27). Sau khi Đức Giê-su trục xuất thần ô uế trong hội đường Ca-phác-na-um, người thuật chuyện cho biết: “Mọi người đều kinh ngạc (ethambêthêsan) đến nỗi bàn tán với nhau rằng: ‘Điều này là gì? Giáo huấn mới mẻ, kèm theo uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng tuân lệnh Ông ta.’” (1,27).

2) Các môn đệ kinh ngạc vì lời Đức Giê-su khó hiểu (10,24). Sau câu chuyện người giàu có không dám từ bỏ của cải để trở thành môn đệ (10,17-22), Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Thật khó biết bao cho những người có của đi vào Vương Quốc Thiên Chúa” (10,23), các môn đệ đã “sững sờ (ethambounto) về những lời của Người” (10,24).

3) Kinh hoàng vì khiếp sợ (10,32). Trước khi tiên báo Thương Khó – Phục Sinh lần thứ ba, người thuật chuyện kể ở 10,32: “Họ đang trên đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su dẫn đầu họ. Họ kinh hoàng (ethambounto), còn những kẻ theo sau thì sợ hãi. Người lại đem theo mình Nhóm Mười Hai, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho Người” (10,32).

II. Động từ “ekplêssô” (sửng sốt, kinh ngạc)

Động từ “ekplêssô” có nghĩa “sửng sốt”, “kinh ngạc”, xuất hiện 5 lần trong Tin Mừng Mác-cô (1,22; 6,2; 7,37; 10,26; 11,18).

1) Sửng sốt vì thán phục cách giảng dạy của Đức Giê-su (1,22). Khi nghe Đức Giê-su giảng dạy lần đầu tiên trong hội đường Ca-phác-na-um, “Họ sửng sốt (exeplêssonto) về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy họ như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (1,22).

2) Sửng sốt vì xem ra có mâu thuẫn nơi con người Đức Giê-su (6,2), đó là mâu thuẫn giữa uy quyền của Người và Người là con bà Ma-ri-a. Điều nghịch lý này đã làm cho người ta vấp ngã (6,3). Người thuật chuyện kể ở 6,1-3: “1 Ra khỏi đó, Người [Đức Giê-su] đến quê quán của Người và các môn đệ của Người đi theo Người. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường, nhiều người nghe sửng sốt (exeplêssonto) nói rằng: “Bởi đâu Ông ta được như thế? Sự  khôn ngoan được ban cho Ông ấyvà những phép lạ như thế nhờ tay Ông ấy nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Ma-ri-a và là anh em của Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của Ông ấy không là lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người.

3) Đức Giê-su đã làm cho những người điếc nghe được và những người câm nói được (7,37) nên người ta kinh ngạc vì thán phục. Sau khi chứng kiến phép lạ, đám đông phản ứng như sau: “Họ hết sức kinh ngạc (exeplêssonto) và nói: ‘Ông ấy làm mọi sự một cách tốt đẹp, Ông ấy làm cho những người điếc nghe được và những người câm nói được’” (7,37).

4) Các môn đệ kinh ngạc vì lời Đức Giê-su khó hiểu (10,26). Trong bối cảnh câu chuyện người giàu có không dám từ bỏ của cải để trở thành môn đệ (10,17-22), Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 10,24b-25: “24b Các con ơi, thật là khó biết bao để đi vào Vương Quốc Thiên Chúa. 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim thì dễ hơn người giàu đi vào Vương Quốc Thiên Chúa.” Người thuật chuyện cho biết phản ứng của các môn đệ: “Các ông hết sức kinh ngạc (exeplêssonto) nói với nhau: ‘Vậy thì ai có thể được cứu?’” (10,26). Hai động từ “thambeô” (10,24) và “ekplêssô” (10,26) trong câu chuyện này (10,23-27) diễn tả hai sắc thái khác nhau của sự ngạc nhiên liên quan đến sự khó hiểu của lời Đức Giê-su.

5) Đám đông sửng sốt về giáo huấn của Đức Giê-su (11,18). Sau trình thuật Đức Giê-su đuổi những kẻbuôn bán ra khỏi Đền Thờ (11,15-17), tác giả cho biết phản ứng của các thượng tế và kinh sư: “Các thượng tế và các kinh sư đã nghe và họ tìm cách làm thế nào để giết Người. Bởi vì họ sợ Người, và vì tất cả đám đông đều sửng sốt (exeplêsseto) về giáo huấn của Người” (11,18).

III. Động từ “existêmi” (sửng sốt, mất trí)

Động từ “existêmi” có nghĩa “sửng sốt” hay “mất trí”, xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Mác-cô (2,12; 3,21; 5,42; 6,51).

1) Sửng sốt, thán phục và tôn vinh Thiên Chúa (2,12). Sau khi Đức Giê-su tuyên bố lời tha tội và lời chữa lành người bại liệt có bốn người khiêng (2,1-11), người thuật chuyện kể: “Anh ta trỗi dậy và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến mọi người sửng sốt (existasthai) và tôn vinh Thiên Chúa. Họ nói rằng: ‘Chúng ta chưa bao giờ thấy như thế’” (2,12).


2) Thân nhân cho là Đức Giê-su mất trí (3,21). Động từ “existêmi” ở 3,21 có nghĩa “mất trí”. Người thuật chuyện kể ở 3,20-21: “20 Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, đến nỗi họ không thể ăn bánh. 21 Khi thân nhân của Người nghe biết, họ đến bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí (exestê).

3) Sửng sốt trước phép lạ Đức Giê-su thực hiện (5,42). Người thuật chuyện kể phép lạ Đức Giê-su cứu sống con gái ông trưởng hội đường ở 5,41-42 như sau: “41 Người cầm lấy tay đứa bé và nói với nó: ‘Ta-li-tha kum’, dịch ra là ‘Này cô bé, Thầy bảo con: Hãy trỗi dậy.’ 42 Và lập tức cô bé đứng dậy và đi lại vì nó đã mười hai tuổi. [Lập tức], người ta sửng sốt (exestêsan) kinh ngạc (ekstasei) vô cùng. Ở 5,42 xuất hiện động từ “existêmi” (sửng sốt) danh từ “ekstasis” (sự kinh ngạc) sẽ bàn đến dưới đây.

4) Các môn đệ vô cùng sửng sốt khi Đức Giê-su làm cho biển yên, gió lặng (6,51). Khi các môn đệ đang vất vả chèo chống trên Biển Hồ Ga-li-lê vì ngược gió thì vào khoảng canh tư, Đức Giê-su đi trên Biển Hồ đến với các ông và Người muốn vượt qua các ông (6,48-49). Thấy Đức Giê-su đi trên biển các môn đệ tưởng là ma, nhưng Đức Giê-su trấn an họ: “Hãy yên tâm. Chính là Thầy.Đừng sợ” (6,50). Người thuật chuyện kể tiếp ở 6,51-52: “51 Người lên thuyền với các ông và gió lặng. Các ông rất [bàng hoàng] sửng sốt (existanto), 52 vì các ông không hiểu gì về những cái bánh, lòng các ông còn chai đá.

IV. Danh từ “ekstasis” (sự sửng sốt, sự kinh ngạc)

Danh từ “ekstasis” có nghĩa “sự sửng sốt”, “sự kinh ngạc” chỉ xuất hiện 1 lần trong Tin Mừng Mác-cô ở 5,42. Tiếng Pháp “extase”, cùng gốc từ“ekstasis”, có nghĩa: “xuất thần”, “nhập định”, “mê ly”, “ngây ngất”. Đặc biệt Mc 5,24 vừa dùng trạng từ “euthus” (lập tức), vừa dùng động từ “existêmi” (sửng sốt), vừa dùng danh từ “ ekstasis” (kinh ngạc), vừa dùng tính từ “mêgas” (lớn) để nhấn mạnh sự ngạc nhiên. Sau khi Đức Giê-su cầm tay đứa bé gái 12 tuổi đã chết và Người nói: “‘Ta-li-tha kum’, nghĩa là ‘Này cô bé, Thầy bảo con: Hãy trỗi dậy!’, lập tức cô bé đứng dậy và đi lại” (5,41-42a), thì “lập tức người ta sửng sốt kinh ngạc vô cùng (exestêsan [euthus) ekstasei megalê)” (5,42b).

V. Kết luận

Đề tài “kinh ngạc”, “sửng sốt”, “ngạc nhiên” trước lời nói và việc làm của Đức Giê-su là đặc điểm riêng của Tin Mừng Mác-cô. Đức Giê-su đã làm cho thính giả (nhân vật trong câu chuyện) sửng sốt kinh ngạc và làm cho độc giả qua mọi thời đại ngạc nhiên về con người Đức Giê-su và ngạc nhiên về cách kể chuyện lạ lùng của người thuật chuyện trong Tin Mừng Mác-cô. Nhiều tác giả đề nghị gọi Tin Mừng Mác-cô là “Tin Mừng của sự ngạc nhiên”. Như thế, nếu đọc Tin Mừng Mác-cô mà độc giả chưa cảm thấy sững sờ kinh ngạc và nhận ra sự lạ lùng trong câu chuyện thì chưa thực sự đọc Tin Mừng Mác-cô. Xem mục III.5. “Lối hành văn ngạc nhiên, bí ẩn và nghịch lý” trong bài viết: “Đặc điểm và đề tài trong Tin Mừng Mác-cô”./.

Ngày 07 tháng 04 năm 2013.

Email: josleminhthong@gmail.com


Tình Cha Con Giữa Thánh Giuse Và Chúa Giêsu

Đọc Kinh Thánh, một “bài tập thiêng liêng”

Đọc Kinh Thánh, một “bài tập thiêng liêng”


 
Giuse Nguyễn Văn Lộc S.J chuyển dịch và ghi chú bài viết của cha Paul Beauchamp, S.J., “Lire la Bible, un exercice”, trong Cahiers pour croire aujourd’hui, số 147, tháng 8/1994, trang 23-27.
Đọc Kinh Thánh, một “bài tập thiêng liêng”
Để biết đọc Kinh Thánh, cần có những điều kiện nào? Phải đi đến trường để học; không phải là trường dạy giáo lý hay thần học, nhưng là trường phổ thông!

Chúng ta thường hay tách biệt học tập và đức tin, có khi còn đi đến chỗ đối lập. Điều đáng mừng là điều này đang dần dần được thay đổi theo hướng kết hợp giữa “đức tin và lý trí”(i). Vì thế, cần phải khuyến khích, củng cố, mở rộng hướng đi này, chứ không nên bằng lòng với việc “hô khẩu hiệu” và chúc tụng lẫn nhau. Thực vậy, vẫn còn rất nhiều điều phải làm để soi sáng, chăm sóc, nuôi dưỡng, làm cho vui thỏa phần quan trọng làm nên chính chúng ta, phần mà chúng ta gọi là trí khôn. Điều chúng ta vừa lưu ý, đặc biệt đúng đối với Kinh Thánh. Thực vậy, Kinh Thánh tiên vàn là một bản văn (lettre) nhưng lại diễn tả cho chúng ta chính Lời Chúa (Parole de Dieu). Vì thế, Kinh Thánh là nơi đòi hỏi đặc biệt sự kết hợp giữa hiểu biết và đức tin.

Khi đọc Kinh Thánh, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những nguy cơ hay khó khăn: nguy cơ giải thích sai lệch với Thánh Linh, Đấng đã linh ứng Kinh Thánh và là Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban cho Giáo Hội, nguy cơ hiểu sai bản văn Kinh Thánh như thường xẩy ra đối với mọi tác phẩm vừa xa và vừa xưa; ngoài ra, trong Kinh Thánh, có nhiều bản văn, câu và chữ thật khó hiểu. Những nguy cơ hay khó khăn vừa nêu là có thật; coi nhẹ chúng là lừa dối chính mình và lừa dối nhau. Vấn đề là phải nhất quyết vượt qua, không chỉ mỗi người, nhưng còn là mọi người cùng nhau.

1. “Biết đọc” Kinh Thánh

Hiểu biết là điều kiện quan trọng để đọc Kinh Thánh, nhưng hiểu biết có nhiều loại lắm! Chẳng hạn, chúng ta vẫn nói và nói rất đúng rằng: “phải học bơi, học lái xe để có thể biết bơi, biết lái xe; và thành ngữ Việt Nam có câu: “học ăn học nói, học gói học mở”. Đó chính là những hiểu biết thực hành. Và điều sau đây có thể làm chúng ta chưng hửng: cái biết thiết yếu đầu tiên khi chúng ta đối diện với Kinh Thánh, đó là phải biết đọc. Và biết đọc, chính là một loại hiểu biết thực hành!

Dĩ nhiên là chúng ta có thể đọc thầm một mình, nhưng trước hết chúng ta hãy chú ý đến những lúc một người đọc cho cả nhóm nghe hay cả nhóm cùng đọc lớn tiếng, chẳng hạn trong các cử hành phụng vụ hay trong những lúc cùng nhau học hỏi hoặc chia sẻ Lời Chúa. Trong những trường hợp này, chúng ta thường chỉ quan tâm tới những giảng giải hay những chia sẻ về bản văn Kinh Thánh. Tuy nhiên, điều chúng ta chia sẻ đầu tiên, lại là sự chú ý lắng nghe một giọng đọc, hay là nỗ lực của cả nhóm làm vang vọng cùng một lời Kinh Thánh. Thời điểm này thật đơn sơ và kín đáo, nhưng có thể được gọi là một biến cố! Chính vì vậy mà phải biết đọc. Biết đọc với giọng của mình không hề là một “chuyện nhỏ”, vì người đọc được mời gọi trao ban giọng nói, trao ban hơi thở của mình; và nhất là vì Lời Chúa khi được đọc lên sẽ trở thành “cột mây” và tương quan hiệp nhất giữa các thành viên của cộng đoàn sẽ được dệt nên chung quanh “cột mây” này.

Đọc Kinh Thánh quá dở là điều vẫn thường xảy ra, và đôi khi ngay trong những buổi cử hành phụng vụ đại trào, nhưng nhiều khi chúng ta lại không coi đó là quan trọng và vì thế chúng ta cho qua. Tuy nhiên, đọc Kinh Thánh cho nhóm hay cộng đoàn, chính là một sứ mạng. Sứ mạng này không chỉ cần được chuẩn bị bằng việc đọc trước bản văn, nhưng còn đòi cả một tương quan thiết thân với Lời Chúa.

2. Đọc với cả con người

Khi chúng ta đọc thầm Kinh Thánh một mình, “biết đọc” vẫn cứ là một cái biết thực hành! Bởi lẽ, đọc là một thực hành đòi hỏi sự chú ý, và sự chú ý đòi hỏi cả con người. Đọc Kinh Thánh hẳn là khác với suy niệm hay chiêm niệm Lời Chúa, những vẫn có những điểm chung. Vì thế, sách Linh Thao của thánh Inhã (ii) mang lại cho chúng ta những chỉ dẫn quí báu cho việc đọc Kinh Thánh

Trong tất cả các bài linh thao được đề nghị, chúng ta sẽ dùng các hoạt động của trí khôn khi chúng ta suy nghĩ và dùng các hoạt động của ý muốn để đánh động. Vậy, phải để ý là trong các hoạt động của lòng muốn, khi chúng ta tâm sự, nói thành lời hay nói trong lòng, với Thiên Chúa Chúa chúng ta hay với các thánh, chúng ta phải có thái độ cung kính lớn hơn khi chúng ta vận dụng trí khôn để hiểu. (Linh Thao, số 3)

Điều cần ghi nhận đầu tiên là nguyên tắc phân biệt các hoạt động: hoạt động của trí khôn và hoạt động của ý muốn. Các hoạt động cần phối hợp với nhau, nhưng mỗi hoạt động có quyền duy trì đặc điểm riêng của chúng. Tiếp đến, theo chú dẫn này của sách Linh Thao, trí khôn suy nghĩ không chỉ có chỗ trong cầu nguyện, nhưng nó còn có quyền lùi ra xa, thậm chí giữ khoảng cách, có những do dự hay tìm cách khai phá. Điều này có nghĩa là, trí khôn có được sự tự do khi suy nghĩ, vì nếu không tư tưởng sẽ tắt ngúm!

Nhưng để có thể suy nghĩ, trí khôn còn cần đến sự tập trung và bình an, những điều mà việc chiêm niệm theo sách Linh Thao đòi hỏi. Ngoài ra, còn phải có sự đơn sơ trong “điều tôi muốn” và trong “điều tôi nhắm tới”, khi chúng ta đọc trang Kinh Thánh được chọn cho ngày hôm nay. Điều này đòi có một sự chuẩn bị, tương tự như sự chuẩn bị cần thực hiện trước khi bước vào cầu nguyện:

Cách chỗ tôi sẽ chiêm niệm hay suy niệm một hay hai bước, tôi đứng lại lâu khoảng một kinh Lạy Cha, tâm trí hướng lên cao, để ý xem Thiên Chúa Chúa chúng ta đang nhìn tôi như thế nào, v.v…; sau đó, làm một cử chỉ cung kính hay quì gối.
(Linh Thao, s. 75)

Và sau khi đọc hay nghe đọc, cũng cần có thời gian để cho những điều vừa đọc hay vừa nghe lắng đọng, giống như nhánh tảo biển mở bung mình ra khi được dìm vào trong nước.

3. Đọc là mở mình ra

Sau khi đọc xong bản văn, tôi đánh dấu và đóng sách lại; thay vì tìm cách áp dụng bản văn cho mình ngay hay tìm cách diễn giải điểm này điểm kia, tôi trở lại để tái hiện bản văn bằng trí nhớ, tương tự như thánh Inhã nói trong sách Linh Thao:

Sau khi đã làm xong bài linh thao, trong vòng 15 phút, ngồi tại chỗ hay đi qua đi lại, tôi nhìn lại những điều đã xẩy ra cho tôi trong chiêm niệm hay suy niệm.
(Linh thao, s. 77)

Tôi tự hỏi: “bản văn nói gì?” Sau đó, tôi mở sách ra đọc lại bản văn để kiểm chứng. Có thể làm như thế nhiều lần, mục đích là để làm cho mình trở nên một với điều mình đã đọc. Bài tập này có thể thực hiện theo nhóm, và điều này cho phép so sánh những điều mà mỗi người nhớ được.

Khi làm như thế cách nghiêm túc, chúng ta sẽ nhận ra rằng có nhiều điều mình đã để cho đi qua. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ học để thoạt tiên đừng lựa chọn gì hết, nhưng đón nhận như nhau tất cả mọi chi tiết của bản văn; tương tự như Inhã nói trong sách Linh Thao: “Chúng ta cần phải làm cho mình trở nên bình tâm…” (Linh Thao, s. 23). Hãy tạm gác qua một bên “điều đánh động mình, điều sẵn sàng trào vọt ra khi sách vừa mới được đóng lại. Hãy đợi đấy! Hoa trái chính yếu của bài tập này sẽ là khám phá “điều đã không đánh động mình” hơn là “điều đánh động mình”.

Chúng ta cũng sẽ học để đừng vội vã lao mình vào điều tối tăm, không hợp lý hay gây sốc. Chỉ cần ghi nhận điểm này và tránh tìm cách giảm nhẹ nó. Tương tự như con ruồi ở trong ly sữa, cái chấm đen thui là điều duy nhất chúng ta nhìn thấy: phản xạ này sẽ gây ngăn trở cho nỗ lực tìm hiểu. Điểm tối tăm sẽ phải được soi sáng khởi đi từ điểm sáng tỏ. Nghĩa là, trước hết chúng ta hãy đi tìm lời giải đáp nơi những gì gần với “điểm đen” nhất, và trong cùng một trang sách trước khi đi tìm những giải thích ở phần chú thích, tham khảo các sách chú giải hay chạy đi hỏi ai đó.

4. Đọc với “trí nhớ, trí khôn và ý muốn”

Các bài linh thao đòi hỏi nhiều hoạt động phân biệt nhau: suy niệm “theo ba khả năng” (trí nhớ, trí khôn và ý muốn), chiêm niệm theo “nhị quan” (nghe và nhìn) và sau đó theo “ngũ quan” (nghe, nhìn, ngửi, nếm và đụng); hay đơn giản hơn theo từng bước của một bài chiêm niệm: “tôi nhớ lại lịch sử”, “xem nơi chốn”, “nhìn các nhân vật”, “lắng nghe điều các nhân vật nói”, “quan sát điều các nhân vật làm”(iii). Và việc đọc Kinh Thánh cũng đòi hỏi các hoạt động tương tự.

Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta cũng phải nhìn: nhìn không gian của bản văn, vốn thay đổi theo từng bối cảnh, nhìn những gì bất động và những gì di động, nhìn các nhân vật nhập cảnh hay xuất cảnh. Và chúng ta cũng phải nghe: nghe chính những lời nói của các nhân vật, và tiếp đến những phần được tác giả thêm vào để giải thích điều các nhân vật làm.

Có nhiều cách thức tiến hành và cần có sáng tạo, tùy theo đó là một trình thuật, một bức thư, một giáo huấn, một bài thơ ca, v.v… Tuy nhiên, đối với mọi bản văn, hãy xác định điều cần làm, chứ đừng làm mọi điều cùng một lúc. Hãy dừng lại thật lâu, thật lâu với câu hỏi: “bản văn nói gì?” trước khi bước qua câu hỏi: “bản văn muốn nói gì?”. Thay vì nghi ngờ, áp đặt hay coi thường bản văn, hãy để cho bản văn như nó là có thời gian lên tiếng.

Việc đọc Kinh Thánh khởi đi từ “điều tôi muốn” nhưng là để có thể gặp gỡ “điều bản văn muốn”. Điều bản văn muốn, nhưng đằng sau bản văn là ai? Tôi được mời gọi đi ngược lên từ những ký hiệu ngôn ngữ tới ngòi bút (ngòi bút ở đây cần được hiểu là văn phong) và tới bàn tay; rồi từ bàn tay đi tới khối óc và tới con tim. Như thế, qua bản văn chúng ta được mời gọi gặp gỡ một con người; và người này là hình ảnh của Thiên Chúa như tất cả mọi người và như chính chúng ta là những người đang đọc Kinh Thánh. Con người này, vốn thuộc về một cộng đoàn Dân Chúa, được Thiên Chúa linh hứng để viết cho những người khác.

Vậy tác giả này muốn nói gì? Câu hỏi này coi vậy mà kỳ cục và lạ lùng. Nếu, sau khi có ai đó “đã nói” và tôi tự hỏi về điều người đó “muốn nói”, thì sự kiện này có nghĩa là điều người đó muốn nói, người đó đã không nói ra! Và đúng là như thế, vì giữa điều muốn nói và từ ngữ để nói ra điều đó, luôn luôn có một khoảng cách, một khoảng trống, và chúng ta không thể nào lấp đầy được, nhất là khi đó là một sứ điệp sâu xa. Chính vì lý do này mà tác giả ngỏ lời với người đọc, người đọc lắng nghe tác giả, và cả hai đều phải trao ban lòng tin. Giống như người này tung trái banh để cho người kia chụp lấy ngay trên không. Đọc kỹ, đó là tỏ ra mình có khả năng tương quan!

5. Đọc Kinh Thánh và đọc các chú giải

Từ đầu đến giờ chúng ta chỉ nói đến thực hành việc đọc Kinh Thánh. Tuy nhiên, chúng ta, vốn còn là những người đang học Kinh Thánh, hay thắc mắc về tác giả của bản văn, về thời đại, về những tình huống và lý do biên soạn, về những qui ước ngôn ngữ đến từ tác gỉa hay từ môi trường và thậm chí về giá trị của bản văn nữa. Điều này rất chính đáng; và theo hướng này, vẫn còn có những câu hỏi chuyên môn hơn liên quan đến lịch sử hình thành bản văn: phải chăng bản văn hay tác phẩm được biên soạn bởi nhiều người, thuộc những giai đoạn khác nhau? Có xác định được đó là những ai không? Đâu là quá trình hình thành? Có tìm lại được những bản văn cổ hơn không? Nếu được, chúng có giá trị nào? Đừng nhẹ dạ nghĩ rằng các nhà thông thái biết được câu trả lời chắc chắn cho từng câu hỏi hay có được những dữ kiện để trả lời. Nhưng dầu sao chúng ta cũng có được những kết quả đến từ những công trình nghiên cứu của các nhà thông thái và ngày nay được phổ biến cách rộng rãi trong các sách dẫn nhập Kinh Thánh hay trong những tác phẩm chú giải chuyên biệt. Việc đọc Kinh Thánh của chúng ta cần được đồng hành bởi những kết quả bổ trợ này.

Tuy nhiên cần phải phân biệt hai việc “đọc” khác nhau và phải được tiến hành song song. Nếu các nhà thông thái đã tìm ra được câu trả lời ít nhiều thỏa đáng, chính là vì họ đã biết đọc Kinh Thánh. Có điều là họ đã không nói cho chúng ta biết về cách đọc của họ và cũng chẳng dạy chúng ta phải đọc như thế nào. Đối với chúng ta, điều quan trọng nhất không phải là biết niên đại của bản văn, biết văn thể hay biết lịch sử hình thành của bản văn, nhưng là biết tại sao các nhà thông thái lại gán cho một bản văn tác giả đó, niên đại đó, thể loại đó và lịch sử hình thành như thế. Nhất là vì từ cùng các dữ kiện nhiều khi người ta rút ra những kết luận khác nhau tùy theo cách suy luận. Để đọc các chú giải của các nhà thông thái một cách hiệu quả, điều tiên quyết là chúng ta đã cư ngụ trong Kinh Thánh qua việc đọc trực tiếp Kinh Thánh. Thói quen đọc Kinh Thánh, ngoài việc làm cho chúng ta nhạy cảm với những vấn đề đã làm cho các nhà chuyên môn quan tâm, sẽ đem lại cho chúng ta một sự độc lập đối với những kết luận của họ, những kết luận này thường hay khác biệt nhau tùy theo tác giả.

Chúng ta có thể nói: “tôi đã đọc các chú giải”. Nhưng đối với Kinh Thánh, chúng ta không thể nói: “tôi đã đọc Kinh Thánh”. Chúng ta chỉ có thể lưu lại trong việc đọc Kinh Thánh mà thôi.

Ghi chú:
i. «Đức tin và Lý trí» (Fides et Ratio), đây là tựa đề của thông điệp của Đức Gioan-Phaolô II, công bố năm 1998.
ii. Linh Thao, có nghĩa là “Những bài tập thiêng liêng” (spiritual exercises), là tập sách nhỏ do thánh Inhã Loyola biên soạn khởi từ chính kinh nghiệm thiêng liêng của mình. Tập sách chủ yếu gồm những chỉ dẫn để suy niệm hay chiêm niệm trình thuật Tin Mừng theo một tiến trình và một phương pháp đặc biệt.
iii. Xem Linh Thao, số 101-108; 121-125.

https://giaophanlangson.org/news/thanh-kinh/doc-kinh-thanh-mot-bai-tap-thieng-lieng-202.html

Chân Lý trong Kinh Thánh

Chân Lý trong Kinh Thánh


Hiệu quả của ơn linh hứng là làm cho lời của người phàm trở thành Lời của Thiên Chúa, tác phẩm của con người cũng là tác phẩm của Thiên Chúa. Chính vì Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa, là tác phẩm của Thiên Chúa nên Kinh Thánh không vướng mắc và cũng không thể vướng mắc một sai lầm nào.
Chân Lý trong Kinh Thánh
Nhưng nói “Kinh Thánh không sai lầm”, “Kinh Thánh vô ngộ” hàm ý minh giáo và tiêu cực. Do đó người ta thích dùng cách nói ”chân lý trong Kinh Thánh”, mang ý nghĩa tích cực hơn.
Đây cũng là một vấn đề mới mẻ, được đặt ra hồi hậu bán thế kỷ XIX, lúc bắt đầu có cái gọi là ”vấn đề Kinh Thánh” (question biblique) : làm thế nào để dung hòa những kiến thức tân thời về khoa học tự nhiên và lịch sử với những điều Kinh Thánh nói có liên quan đến những vấn đề đó.

Có thể trưng dẫn vô số các bản văn của các Giáo phụ bênh vực tính vô ngộ của Sách Thánh, nhưng các Giáo phụ chỉ nói đến tính vô ngộ để làm điểm tựa vững chắc cho một số những lý lẽ chứng minh tín lý nhân có tranh luận về một điểm nào đó.
***

PHẦN MỘT

LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

I. TỪ ĐẦU ĐẾN THẾ KỶ XIX

1. Thế kỷ thứ III và thứ IV

Ngay từ những thế kỷ đầu, vấn đề chân lý trong Kinh Thánh cũng đã được đặt ra vài lần, vd. Celsus hay Porphyrius tìm những mâu thuẫn trong Kinh Thánh để kết luận Kinh Thánh không có giá trị.

Các vị Giáo phụ đã nỗ lực chứng minh ngược lại, vd. cuốn “contra Celsum”. Nhưng dù sao vấn đề cũng chỉ là thoáng qua và chưa có hệ thống, và do những người ngoài Giáo Hội, muốn chống đối Giáo Hội, đặt ra.

2. Thế kỷ XVI và XVII

Không có gì đáng kể ngoài vụ Galilê. Nguyên tắc của thánh Augustinô được nhắc lại : Kinh Thánh không dạy một chân lý nào mà không có ích lợi cho ơn cứu độ của ta”.

3. Thế kỷ thứ XVIII và XIX

Bắt đầu có “vấn đề Kinh Thánh”. Thế kỷ XVIII và nhất là thế kỷ XIX, khoa học tiến nhanh, nhiều bộ môn mới xuất hiện như kỹ thuật, sử học, khảo cổ. Sự tiến bộ này đã đặt ra nhiều vấn đề về cách nhìn của Kinh Thánh đối với vật lý, thiên văn, sử học… Người ta thấy giữa đức tin và khoa học không có sự ăn khớp với nhau. Do đó có vấn nạn : có đúng là Kinh Thánh không sai lầm ? Đó là “vấn đề Kinh Thánh”.

Phản ứng đầu tiên của các nhà thần học là tự vệ, và vì đó đưa ra những giải đáp dễ dãi:

– E. Holden (và F. Lenormant, J. Diderot) quả quyết Kinh Thánh không sai lầm vì Kinh Thánh đã được linh hứng. Tuy thế cũng có một vài sai lầm trong Kinh Thánh, vì thế phải giới hạn ơn linh hứng : Kinh Thánh chỉ được linh hứng và không sai lầm trong những gì liên quan đến đức tin và luân lý.

– Đức Hồng y J. E. Newman cho những chỗ Kinh Thánh quả quyết thì không sai lầm, còn những chỗ nói phớt qua (obiter dicta) thì có thể sai lầm vì không thuộc phạm vi ơn linh hứng.

– A. Loisy cho rằng chân lý chỉ tương đối, tùy theo từng giai đoạn của lịch sử, cho nên không thể đặt vấn đế Kinh Thánh không sai lầm.

– Đức Hồng y Maurice d’Hulst, viện trưởng Institut Catholique de Paris, bạn thân của A. Loisy, chịu ảnh hưởng của A. Loisy, đã quả quyết : Cựu Ước có nhiều sai lầm nên không thể đặt ngang hàng với Tân Ước. Kinh Thánh chỉ vô ngộ đối với các vấn đề thuộc đức tin và luân lý (giống như quyền vô ngộ của Đức giáo hoàng). Còn về phương diện khác, nhất là lịch sử, thì có thể sai lầm.

II. THÔNG ĐIỆP PROVIDENTISSIMUS DEUS (Đức giáo hoàng Lêô XIII, 18.11.1893)

Các Giáo phụ nếu có nói về đặc tính vô ngộ của Kinh Thánh thì cũng chỉ để bênh vực một số vấn đề thuộc tín lý, hoặc nhân một cuộc tranh luận về vấn đề nào đó. Nhưng với thông điệp Providentissimus Deus, vấn đề đã đi theo một hướng hoàn toàn khác và cách chung người ta vẫn cho thông điệp này là câu trả lời cho bài viết của Mgr d’Hulst trong bài “La question biblique”, giới hạn tính vô ngộ của Kinh Thánh vào những gì thuộc về đức tin và phong hóa.

Ngoài hai nguyên tắc: 1. Toàn thể Kinh Thánh được linh hứng, và 2. Không thể có sai lầm trong Kinh Thánh, thông điệp còn đưa ra những vấn đề liên quan đến chân lý của Kinh Thánh như:

– Kinh Thánh không nhằm dạy về khoa học. Các soạn giả thánh nếu có đưa ra những quan niệm khoa học của thời các ngài thì mục đích là để trình bày mặc khải, để dạy một tư tưởng giáo lý, thần học.

– Giữa thần học và khoa học không có mâu thuẫn thật sự.

III. THÔNG ĐIỆP SPIRITUS PARACLITUS (Đức giáo hoàng Bênêđictô XV, 15.9.1920)

Thông điệp này đã giải quyết là không được chủ trương trong Kinh Thánh có “apparences historiques”.

Tuy dứt khoát với một số vấn đề, thông điệp này vẫn chưa đưa ra một nguyên tắc chỉ đạo để khai thông cho vấn đề nghiên cứu Kinh Thánh. Thông điệp vẫn còn dè dặt với vấn đề văn loại, vì vẫn dựa trên quan điểm lịch sử thế kỷ XIX (x. EB 457).

IV. THÔNG ĐIỆP DIVINO AFFLANTE SPIRITU (Đức giáo hoàng Piô XII, 30-9-1943)

Thông điệp Providentissimus Deus vẫn còn nặng tính cách minh giáo, chưa đủ để giải quyết một số khó khăn. Thông điệp  Spiritus Paraclitus vẫn còn dè dặt về vấn đề văn thể, đang khiđó người ta bắt đầu chú ý nhiều đến thể văn, thời đại và môi trường sống của soạn giả thánh. Vì đó cần phải có một quan niệm mềm dẻo hơn về vấn đề chân lý trong Kinh Thánh. Thông điệp Divino afflante Spiritu đã đáp ứng yêu cầu khi một lần nữa xác quyết tính vô ngộ của Kinh Thánh và đề cao tự do của các soạn giả thánh.

Thông điệp này đem lại một luồng sinh khí cho Giáo Hội, mở đường cho việc nghiên cứu Kinh Thánh. Thông điệp đưa ra những nguyên tắc chỉ đạo rõ rệt cho phương diện nghiên cứu, chấp nhận trong Kinh Thánh có nhiều thể văn và cần phải nghiên cứu thể văn. Thông điệp cũng đổi hướng vấn đề, thay vì biện hộ cho tính cách vô ngộ của Kinh Thánh thì tìm hiểu xem Kinh Thánh muốn dạy điều gì.

Đáng chú ý là thông điệp Divino afflante Spiritu đã đi xa hơn hai thông điệp Providentissimus Deus và Spiritus Paraclitus. Đang khi hai thông điệp sau này quả quyết rằng cách các soạn giả thánh trình bày các biến cố trong thiên nhiên không đi ngược với tính vô ngộ, thì thông điệp Divino afflante Spiritu mở rộng đến cả những cách trình bày về lịch sử nữa.

V. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II (Hiến chế tín lý về Mặc khải, DV)

– “Phải xem mọi lời các tác giả được linh hứng viết ra, tức các soạn giả thánh, là những Lời của Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng Kinh Thánh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Kinh Thánh ghi lại vì ơn cứu độ của chúng ta…” (số 11)

– “… Để tìm ra chủ ý của soạn giả thánh, giữa những phương pháp khác, cũng cần xét đến văn loại. Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác. Hơn nữa, nhà chú giải còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp nhất định, soạn giả thánh đã muốn diễn tả và thực sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hóa của họ qua các lối văn được dùng trong thời đó. Thực vậy, để hiểu đúng ý nghĩa Kinh Thánh muốn quả quyết trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức cảm nghĩ, diễn tả, tường thuật do bẩm sinh, được thịnh hành trong thời của họ, cũng như phải để ý đến các hình thức mà người thời ấy thường dùng khi giao tế với nhau” (số 12).

***
PHẦN HAI

NGUYÊN TẮC

I. TIÊU CHUẨN CHỈ ĐẠO

Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo và điều lãnh muôn loài,  Người cũng là tác giả của Kinh Thánh. Như thế thì không thể có điều gì trong thiên nhiên, trong lịch sử, khoa học thực sự ngược với Kinh Thánh, vì chân lý không thể tự mâu thuẫn. Nếu có một chỗ nào đó xem ra có mâu thuẫn thì có thể do giải thích Kinh Thánh không đúng hay một phía tranh luận đã sai lầm (x. Tđ. Provid. Deus). Thông điệp Providentissimus Deus lập lại một lời thánh Giêrônimô quả quyết rằng : nếu có một câu Kinh Thánh xem chừng mâu thuẫn với chân lý (khách quan) thì chỉ có thể có ba cách cắt nghĩa : một là do việc sai sót khi lưu truyền bản văn, hai là dịch sai, ba là người cắt nghĩa giải thích sai. Vì không có mâu thuẫn giữa đức tin với lý trí, nên:



a. khi Kinh Thánh rõ rệt chỉ có thể hiểu theo một nghĩa duy nhất nào đó thôi, thì mọi kết luận của khoa học ngược lại với nghĩa đó đều phải coi là sai.

b. ngược lại, khi phải đề cập đến những kết luận của các khoa học tự nhiên đã được lý trí hay kinh nghiệm cho là chắc chắn hoàn toàn thì phải hết sức thận trọng, đừng trưng Kinh Thánh như là đối nghịch với các kết luận trên.

c. phải dè dặt khi gặp ý kiến, dù là ý kiến giải thích Kinh Thánh ngược với khoa học hay ý kiến cho khoa học ngược với Kinh Thánh. Ý kiến thì chưa có gì là chắc, còn có thể xét lại và thay đổi.

d. Nếu có lời giải thích nào trước được coi là nghĩa thật của Kinh Thánh, sau này nhờ nghiên cứu thêm thì thấy là sai, lúc đó nên theo lời thánh Augustinô : “Điều đó không do Kinh Thánh, mà chỉ tại ta tối dạ nên nghĩ như thế đấy thôi” (PL 34, 260).

II. NGUYÊN TẮC CĂN BẢN

Nguyên tắc căn bản là tất cả những gì soạn giả thánh viết ra dưới tác động của ơn linh hứng đều không sai lầm. Nhưng cần phải hiểu đúng như soạn giả thánh đã hiểu.

Vì đó trở về với bản văn là điều quan trọng và cần thiết. Duy chỉ có bản văn được viết dưới ơn linh hứng là không sai lầm, nên cần  ý tứ xem bản văn sao chép có thiếu sót gì không, hoặc bản dịch có trung thành với nguyên bản hay không.

Rồi muốn hiểu đúng ý nghĩa mà soạn giả đã hiểu (đó chính là ý Thiên Chúa muốn), cần chú ý đến một số điều sau:

1. Từ và ý

Một từ có thể có nhiều ý nghĩa. Nên phải tìm xem soạn giả thánh thực sự có ý sử dụng theo nghĩa nào. Ví dụ, cũng là các tinh tú, nhưng nhà thiên văn thì tìm hiểu về những định luật của nó. Nhà thơ thì ca tụng vẻ đẹp. Còn nhà tư tưởng tôn giáo thì cũng ngắm nhìn trăng sao tinh tú, nhưng lại thấy đó là công trình của Đấng Sáng Tạo, lại thấy ở đó bàn tay của Đấng Sáng Tạo. Cả ba đều không sai lầm, nếu được nhìn theo đường hướng của riêng họ.

2. Câu văn

Phải xét từ trong một câu văn, nhưng một câu văn cũng có thể có nhiều nghĩa tùy theo nó ở trong những mạch văn khác nhau. Thánh vịnh 53,2 có một câu xác quyết : “Làm chi có Chúa Trời !”  Nhưng phải đọc trong văn mạch để xem soạn giả thánh cho đó là xác quyết của ai. Của “kẻ ngu si”!

Trên đây là trường hợp soạn giả thánh dẫn lời người khác cách rõ ràng, khiến không thể coi lời quả quyết là của tác giả được. Còn trường hợp dẫn lời người khác không rõ ràng (implicite), lúc đó phải có đủ lý lẽ để chứng minh soạn giả thánh dẫn lời mà không coi đó là lời của mình. Trường hợp này phải dùng tới văn mạch.

3. Thể văn

Các câu văn, các kiểu nói của soạn giả lại được lồng vào một thể cách trình bày. Đó là văn loại, văn thể. Các soạn giả thánh là những con người sống ở một thời đại nhất định, nên tác phẩm của các vị cũng phải theo các qui ước văn chương thuộc thời đại của các vị. Sứ điệp của Kinh Thánh được lồng vào trong những tư tưởng thuộc về nền văn hóa của các soạn giả thánh và các độc giả thời đó, về cái nhìn của họ đối với thế giới.

Thể văn gồm có văn xuôi và văn vần. Nhưng thực tế ít khi có bài văn nào thuần túy theo một thể văn, mà có chăng là một hình thức đặc biệt của thể văn này, thể văn kia. Các thể văn có mục đích diễn đạt đề tài cho sâu sắc, lôi cuốn và làm nổi bật những khía cạnh khác nhau của chân lý.

4. Xác quyết của soạn giả thánh

Không phải bất cứ chỗ nào, bất cứ chi tiết nào trong Kinh Thánh cũng đều có ý dạy ta một điều gì đó. Một tác phẩm của một soạn giả thánh có thể có nhiều tính chất : lôi cuốn, thuyết phục, … trong đó chân lý đứng hàng đầu. Nhưng chân lý đứng hàng đầu không có nghĩa chân lý là cái duy nhất, ở mọi nơi mọi chỗ và bất cứ cách nào.

Cũng không nên coi xác quyết của soạn giả thánh tất cả đều tuyệt đối như nhau. Ủy Ban Kinh Thánh đã tuyên bố : “Omne id quod hagiographus aserit, enuntiat, insinuat, retineri debet assertum, enuntiatum, insinuatum a Spiritu Sancto” (UBKT 18.6.1915). Có khi soạn giả thánh chỉ trình bày như một ý kiến, đôi khi tỏ ý do dự, thậm chí nghi ngờ. Chính Thiên Chúa cũng chấp nhận những tính cách đó, khi Người quyết định nói qua trung gian là soạn giả thánh.

Có trường hợp soạn giả thánh xác quyết một điều nào đó, nhưng không cho đó là điều ông tin hay muốn độc giả tin như vậy. Ví dụ, thể văn ngụ ngôn. (x. dụ ngôn người con phung phá : Lc 15,11-32 ; người quản lý bất lương : Lc 16,1-13). Vậy yếu tố giả tưởng chỉ là phương tiện chuyển đạt một chân lý nào đó.

5. Cuối cùng

Tất cả đều tùy thuộc vào phán đoán của tác giả. Khái niệm triết học về sai lầm là : “Error in judicio est”. Sai lầm ở trong phán đoán.  Do đó,

– những mâu thuẫn giữa hai trình thuật song song không chấp nhận trình bày hai câu chuyện trái ngược, vẫn giữ được phán đoán của mình về chân lý khách quan của sự vật.

– đừng quên là ngôn ngữ của ta không hoàn toàn giống ngôn ngữ của triết lý kinh viện. Ta quen cho những điểm nói không chính xác là những sai lầm, thậm chí đó không phải là một giáo huấn chính thức (enseignement formel). Vd. Sách Giuđitha rõ ràng không chủ ý dạy rằng Nabucodonosor là vua của Assyrie và đóng đô ở Ninivê. Nhưng người ngày nay lại coi phát biểu như thế là một điều sai lầm.

– như thế là phải đặt vấn đề vô ngộ của Kinh Thánh trong tương quan với những phát biểu trong Kinh Thánh, ở đó soạn giả thánh có một phán đoán minh bạch (jugement formel). Đó là khi soạn giả thánh muốn cho độc giả biết một giáo huấn về Thiên Chúa và hoạt động của Người trong lịch sử, về con người, về những quan hệ của con người đối với Thiên Chúa. Tóm lại, đó là giáo huấn về ơn cứu độ. Vậy quan niệm đúng về vô ngộ của Kinh Thánh là phân biệt  những phát biểu thuần túy (énoncés purs et simples) tức là phán đoán về trạng thái thực sự của sự vật với giáo huấn đúng nghĩa (enseignement proprement dit) bao giờ cũng mang một phán đoán minh bạch (jugement formel).

– sứ điệp Kinh Thánh (cả Cựu Ước lẫn Tân Ước) được lồng vào trong những tư tưởng thuộc về nền văn hóa của soạn giả thánh và các độc giả thời ông, thuộc về vũ trụ quan mà họ có lúc bấy giờ. Kinh Thánh không cung cấp cho ta một giáo huấn trừu tượng, nhưng cụ thể và có tính cách lịch sử. Chân lý măïc khải, có giá trị đối với mọi người mọi thời, lại gắn liền với tư tưởng của một thời đại, những tư tưởng mà ngày nay chúng ta không còn – và cũng không buộc – theo. Khó nhưng là việc phải làm. Đó là phân biệt đối tượng riêng của những phát biểu của Kinh Thánh với những tư tưởng chịu ảnh hưởng của một thời đại nhất định. Chỉ có loại thứ nhất là không bị vướng sai lầm (x. Mysterium Salutis 2, tr. 145, note 190).

– nhưng dường như không thể giải quyết hoàn toàn vấn đề vô ngộ của Kinh Thánh chỉ nhờ việc phân biệt văn thể, phân biệt những phát biểu với những giáo lý, nội dung riêng và ý tưởng trong hoàn cảnh, cho dẫu đó là việc quan trọng và cần thiết. Bởi vì có nhiều chỗ soạn giả thánh hoàn toàn có ý (có những phán đoán) nói về trạng thái của sự vật nhưng lại nhằm để cho độc giả một giáo lý tôn giáo. Vd. trường hợp của St 1 và Gs 6 – 8. Vấn đề sẽ được trả lời dưới đây khi nói về cách nhìn Kinh Thánh của N. Lohfink.

***
PHẦN BA

ÁP DỤNG

Lời Thiên Chúa đã nên xác phàm, Lời Thiên Chúa cũng đã thành chữ viết cho ta. Khi đến với nhân loại, Lời Thiên Chúa đã mang lấy mọi nỗi yếu hèn của con người, thì khi thành chữ viết cho con người, Lời Thiên Chúa cũng mang lấy thể thức, mang lấy cách diễn đạt của con người. Đó là việc Thiên Chúa “chiếu cố” (synkatabasis), hạ mình xuống đồng hàng với con người, Người thích nghi với phong tục, thể chế, cách suy nghĩ, diễn đạt, văn hoá của con người. Cụ thể nơi Đức Kitô. Người đã nên mẫu gương hạ mình : chấp nhận sống trong những điều kiện của kiếp phàm nhân. Đối với Lời Thiên Chúa thành chữ viết cho con người cũng thế. Ngay từ Cựu Ước, các từ ngữ, cách hành văn phản ánh thời đại, văn hóa, tư chất của của mỗi soạn giả thánh rất khác nhau. Tất cả đều làm chứng Thiên Chúa yêu thương, nhân từ, thích nghi với loài người. Vậy vì “Thiên Chúa dùng loài người theo thể thức của loài người để nói với loài người”, nên điều gì mà từ ngữ loài người cho là không sai lầm thì trong Lời Thiên Chúa cũng vậy.

Đàng khác, cũng cần phân biệt lý trí là ân huệ tự nhiên Thiên Chúa ban với mặïc khải là ân huệ siêu nhiên. Ta đừng chỉ tìm trong Kinh Thánh những chân lý tự nhiên về con người, vũ trụ, thậm chí về Thiên Chúa nữa. Những chân lý ấy là đối tượng tìm hiểu của lý trí với những phương pháp của khoa học và những suy tư của triết học. Các soạn giả thánh muốn nhằm các chân lý siêu nhiên là những điều vượt quá tầm của lý trí. Vì thế nếu đôi khi soạn giả thánh có nhấn mạnh đến những chân lý tự nhiên nào đó, thì cũng chỉ vì ông thấy hữu ích cho việc am hiểu và đón nhận ơn cứu độ mà thôi. Ví dụ vấn đề độc thân. Kiểu phân biệt này ta tưởng là tầm thường, nhưng chính vì không rõ rệt cho nên có nhiều tranh luận giữa các nhà minh giáo Công giáo với hệ tư tưởng duy lý cách nay hai thế kỷ. Vì đó mà có những khó khăn trong các lãnh vực luân lý, khoa học và lịch sử. Đây là một vài ví dụ:

I. TRONG LÃNH VỰC LUÂN LÝ

Kinh Thánh bị các nhà tư tưởng duy lý (Voltaire) thế kỷ XVIII cho là có những khiếm khuyết về luân lý, chẳng hạn như chuyện các Tổ phụ ”gian dối” (x. St 12,10 tt ; 27,1 tt), sự độc ác dữ tợn người Israel gây ra trong chiến tranh (Gs 6,16 tt…), thái độ mập mờ của bà Giuđitha đối với Holopherne.

Trường hợp thứ nhất: Các soạn giả thánh không phải lúc nào cũng tán đồng thái độ của những nhân vật trong truyện kể. Các ngài không cho các Tổ phụ là những đấng thánh mà là những con người cần có ơn Thiên Chúa trợ giúp để nên hoàn hảo (x. chú thích KT. NTT, tr. 28).

Trường hợp thứ hai: Những lệnh truyền nghiêm khắc như trên có thể giải thích ba cách: một là do tính yếu đuối loài người, Thiên Chúa phải che chở cho họ khỏi bị nhiễm những thói xấu, những lầm lạc của dân ngoại. Thiên Chúa nhân nhượng để rồi Người hoàn tất trong Tin Mừng (x. chú thích KT. NTT, tr 447). Hai là có thể do văn loại như thế. Cuối cùng, dẫu cho luân lý trong Kinh Thánh có cao siêu, nhưng ta cũng đừng cho đó là một bộ luật luân lý. Đúng hơn, nó làm chứng về một Thiên Chúa hạ mình, chiếu cố con người, thích nghi hoạt động theo sự yếu đuối của loài người (x. Mt 19,8). Nói cho cùng, có lẽ đó là cách để giải thích những bất toàn về luân lý ta gặp thấy nơi những khuôn mặt lớn trong Kinh Thánh. Và như vậy có thể coi Kinh Thánh là một khoa sư phạm, một khoa sư phạm tiệm tiến Thiên Chúa dùng để giáo dục con người, đưa con người từ tình trạng hiểu biết luân lý thấp kém lên đến mức độ của Tin Mừng. Người tỏ cho con người thấy mỗi lúc một ít cái lý tưởng con người được mời gọi đạt tới để nên giống như Người. Do đó không lạ khi thấy những người ở thời đầu lịch sử thánh ra như không hiểu những luật của Thiên Chúa ở mức độ Bài Giảng Trên Núi yêu cầu.

II. TRONG LÃNH VỰC KHOA HỌC

Những thành tựu của khoa học vào thế kỷ XIX làm đảo lộn cái nhìn của người Israel xưa về thế giới, vũ trụ. Trái đất nay khoa học cho thấy là xoay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh trái đất nữa. Cấu tạo của trái đất là những tầng địa chất, kéo dài nhiều thế kỷ chứ không phải bỗng dưng thành hình. Các loài dần dần xuất hiện kế tiếp nhau. Thời tiền sử không ứng hợp với cách tính thời gian trong sách Sáng thế…



Để giải quyết vấn đề, J. Diderot và Mgr d’Hulst đã giới hạn tính vô ngộ vào những điều thuộc phạm vi đức tin và phong hóa, nhưng chủ trương này đã không được Huấn quyền chấp thuận. Huấn quyền cũng không vì thế mà chấp thuận chủ trương “hòa hợp” (concordisme), đồng hóa các ngày trong sách Sáng thế với những giai đoạn thành hình trái đất và chủ trương theo 2 Pr 3,5 – “lý thuyết hiện đại về việc các vật thể được cấu tạo bằng hydrogène” và cứ như thế các nhà chú giải theo khuynh hướng hòa hợp luôn chạy theo những biến chuyển của khoa học mà giải thích Kinh Thánh khiến không tránh khỏi những cách giải thích ngộ nghĩnh, buồn cuời.

Thông điệp Providentissimus Deus đã nhắc lại lời của thánh Augustinô: “Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng phán dạy qua các soạn giả thánh, không muốn dạy con người những điều không hữu ích cho ơn cứu độ”. Hồng y Baronius : ”Kinh Thánh dạy ta làm thế nào về trời chứ không dạy trời vận hành thế nào”. Thánh Tôma : “Ông Mô sê… đã nói theo điều mắt thấy tai nghe (appenrences sensibles) (I Pars q. 70 a. 1 ad 3) và về sách Gióp (26,7) : “Đấy là nói theo cách suy nghĩ của công chúng. Kinh Thánh vẫn quen làm như thế”. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã lấy lại học thuyết cổ truyền này, các soạn giả thánh khi nói hoặc dùng những hình ảnh thì các ngài không tìm xem nó có đúng với khoa học không. “Trước hết và hiểu đúng nghĩa thì ngôn ngữ thường phô diễn cái gì đập vào giác quan. Các soạn giả thánh không làm gì khác hơn, các ngài cũng để ý đến các vật hữu hình tức là những cái mà chính Thiên Chúa khi nói với con người đã có ý dùng cách thức loài người để họ hiểu”. Không có xung đột giữa khoa học và thần học khi mỗi bên đi theo con đường riêng của mình. Do đó không sợ có mâu thuẫn, miễn là phải hiểu Kinh Thánh theo những qui luật về ngôn ngữ riêng của nó. Khoa học cũng đừng gò ép giác quan bằng những chứng minh khả nghiệm, ít căn cứ vào kinh nghiệm cho bằng dựa vào những định đề triết học ác cảm với măïc khải.

Tóm lại, nếu soạn giả Kinh Thánh có nói đến vòm trời, đến mật cá để chữa mắt, rượu để chữa bệnh bao tử, con thỏ là giống nhai lại, mạch nước phát xuất từ một vực thẳm lớn ở dưới đất thì âu cũng chỉ là cách diễn tả. Các vị muốn nói một cái gì khác hơn là quả quyết về cách cấu tạo vật lý hoặc địa chất của địa cầu. Khi tả việc sáng tạo, các ngài không xét theo lịch sử tự nhiên, nhưng muốn đưa ra một định nghĩa thần học về con người trong một vũ trụ có tổ chức lớp lang như thế.

III. TRONG LÃNH VỰC LỊCH SỬ

Xung đột giữa ý nghĩa của Kinh Thánh với những khoa học tự nhiên không còn là vấn đề của ngày hôm nay nữa. Khoa học và thần học, mỗi ngành đều có phạm vi riêng của mình. Kinh Thánh, nếu được giải thích cho đúng, không thể có những những mâu thuẫn với những kết luận của khoa học được. Nhưng với lịch sử thì vấn đề có khác. Vì dầu sao lịch sử có liên hệ gần hơn với bản chất của sứ điệp Kinh Thánh : Kinh Thánh có tính lịch sử. Thiên Chúa không ban cho soạn giả thánh đoàn sủng để phân tích vũ trụ một cách có khoa học, nhưng các soạn giả thánh lại được ơn để trình bày sự phát triển của kế hoạch Thiên Chúa nhằm cứu độ gian trần qua những trình thuật lịch sử. Nhưng cũng nên thận trọng.

a. Đã có lúc người ta chủ trương giải thích một số những dị biệt giữa phát biểu của Kinh Thánh vớiø những kết quả nghiên cứu lịch sử Cận Đông, bằng cách cho rằng các soạn giả thánh viết lịch sử theo hiện tượng xuất hiện nơi giác quan (“apparences historiques”). Lập trường này đã không được Đức giáo hoàng Bênêđictô XV chấp thuận trong Thông điệp Spiritus Paraclitus. Kinh Thánh là một chứng từ về việc Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử : Người đem ơn cứu độ và thiết lập Nước của Người. Nay nếu Kinh Thánh dựa vào những sự kiện không có thật để phác họa lịch sử thánh, há đức tin và niềm hy vọng của con người lại chẳng dựa vào cái gì hư không đó sao ?

b. Chúng ta ngày nay thích những gì chính xác. Khuynh hướng này càng được áp dụng vào lãnh vực lịch sử. Nhưng nếu xét theo những tiêu chuẩn của ta ngày nay thì các tác giả viết lịch sử trong Cựu Ước thật là quá phóng khoáng, đến độ gọi được là quá tự do nữa. Niên biểu không chính xác. Những gì không hợp với quan điểm, với mục đích thì bỏ qua. Do đó một câu chuyện sử lắm khi ta thấy có nhiều thiếu sót, thậm chí không chính xác nữa. Nhưng không thể lấy những qui luật thời nay mà phê phán các soạn giả thánh được.

– Có lẽ lịch sử theo cách trình bày của chúng ta ngày hôm nay các soạn giả thánh lại coi là không đáng kể, là chưa có ý nghĩa vì nó thiếu mất động lực chi phối lịch sử. Các người chép sử trong Cựu Ước đã nhìn biến cố theo con mắt của người có lòng tin. Ý tưởng về Thiên Chúa luôn luôn xuất hiện trong lòng trí của soạn giả. Trong bất kỳ biến cố nào cũng đều thấy có bàn tay Thiên Chúa. Chỉ khi nào nhìn như vậy, ta mới thấy được đâu là hướng đích thực của niên biểu chính xác.

Đối với các soạn giả Tân Ước, biến cố Đức Giêsu nhập thể là một ý tưởng chủ chốt nữa thu hút tất cả sự chú ý của soạn giả.

– Nên nhớ các nhà viết sử trong Kinh Thánh không phải là các sử gia hiện đại, do đó không nên lấy những tiêu chuẩn của sử học ngày nay áp dụng cho các sách sử trong Kinh Thánh. Sử gia ngày nay trình bày sự kiện lịch sử trong thực tế khách quan. Nhưng đó không phải là cách chép sử duy nhất. Cũng không phải đó là cách chép sử các soạn giả thánh đã theo.

c. Như vậy lịch sử trong Kinh Thánh là thứ lịch sử được nhìn và trình bày theo góc cạnh tôn giáo, “những sự việc các soạn giả thánh kể lại được các ngài cho là đúng hay sai là tùy theo các ngài đã muốn căn cứ vào đó để làm cho người ta hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa hành động ở trần gian này, tùy theo các sự việc ấy liên quan trực tiếp đến lịch sử cứu độ như thế nào. Nhưng lịch sử cứu độ lại không hoàn toàn bao quát tất cả lịch sử thế giới cũng như lịch sử chính trị của Israel… Vì thế trong nhiều trường hợp, soạn giả thánh có thể chỉ viết phỏng chừng, bỏ qua nhiều chi tiết của sự việc” (A. Barucq và H. Cazelles, Introduction à la Bible I, tr. 65).

Soạn giả thánh nhìn và trình bày sự kiện theo chiều hướng thiêng liêng. Đó là điều duy nhất có ý nghĩa đối với soạn giả thánh. Chúa Thánh Thần cũng hướng dẫn và đảm bảo chân lý cho khía cạnh này tức là chủ đích giáo huấn. Thế nên khi coi Kinh Thánh là một cuốn lịch sử viết có khoa học và tìm chân lý của thứ lịch sử ấy sẽ là trái với ý Thiên Chúa. Ơn đoàn sủng chỉ sáng soi những sự kiện lịch sử theo góc cạnh phù hợp với mục đích của sách thánh mà bỏ qua những gì còn lại… (x. P. Benoit, Initiation biblique, tr 37).

IV. CHÂN LÝ TRONG KINH THÁNH (N. Lohfink)

Thần học quen gọi là tính vô ngộ của Kinh Thánh, nhưng đó là khái niệm hướng nhiều về khía cạnh tiêu cực. Người ta thích kiểu nói : chân lý trong Kinh Thánh, nó tích cực hơn. Vấn đề Kinh Thánh không sai lầm là một vấn đề mới, đặt ra hồi hậu bán thế kỷ XIX khi bắt đầu có cái gọi là “vấn đề Kinh Thánh” : chủ yếu tìm cách dung hòa những tri thức hiện đại (về khoa học tự nhiên và lịch sử) với những phát biểu của Kinh Thánh có liên quan đến những vấn đề đó.

Có thể trưng dẫn vô số các bản văn của các Giáo phụ bênh vực tính vô ngộ của Sách Thánh, nhưng các Giáo phụ chỉ nói đến tính vô ngộ để làm điểm tựa vững chắc cho một số những lý lẽ chứng minh tín lý nhân có tranh luận về một điểm nào đó.

Thông điệp Providentissimus Deus (Đức Lêô XIII, 1893) đi theo một chiều hướng khác hẳn, trực tiếp trả lời cho “vấn đề Kinh Thánh”. Nhưng dầu vậy thông điệp vẫn còn mang tính cách hộ giáo: trong thực hành, thông điệp đồng hóa chân lý khách quan của Kinh Thánh với tính vô ngộ. Thông điệp lập lại một lời thánh Giêrônimô quả quyết rằng: nếu có một câu Kinh Thánh xem chừng mâu thuẫn với chân lý (khách quan) thì chỉ có thể có ba cách cắt nghĩa: một là do việc sai sót khi lưu truyền bản văn, hai là dịch sai, ba là người cắt nghĩa giải thích sai.

Nhưng không vì thế đã giải quyết gãy gọn mọi khúc mắc. Thực sự khi có nhiều cách trình bày khác nhau, có khi mâu thuẫn nhau, về cùng một sự kiện (ta hay gặp nhất trong Cựu Ước, và cả trong Tin Mừng nữa), thì áp dụng qui tắc của thánh Giêrônimô và thông điệp Providentissimus Deus không đủ, bởi vì không thể nào đồng thời bênh vực chân lý của hai hay ba cách trình bày khác nhau, nhất là lại mâu thuẫn nhau nữa. Nhưng dần dà người ta hiểu biết nhiều hơn cái “tiền sử văn chương” của các bản văn Kinh Thánh, người ta chú trọng nhiều hơn về các thể loại văn học đã được các soạn giả thánh sử dụng ở vào một thời đại, một môi trường nhất định, cụ thể nào đó như bất cứ một tác giả loài người nào khác. Vì đó cần phải có một ý niệm điều hòa hơn về tính vô ngộ. Divino afflante Spiritu đề cao sự tự do của các nhà chép sử trong Kinh Thánh.

Cũng cần chú ý đến thành tựu của triết học trong khái niệm sai lầm. “Error in judicio est”, chỉ có thể nói đến sai lầm ở phán đoán. Vì thế không thể coi những trái ngược giữa hai trình thuật song song với nhau là những sai lầm, bởi vì soạn giả thánh khi chấp nhận trình bày hai bản văn, hai câu chuyện trái ngược, vẫn giữ được phán đoán của mình về chân lý khách quan của các sự việc. Rồi cũng đừng quên là ngôn ngữ của chúng ta ngày nay không hoàn toàn giống ngôn ngữ của triết học Kinh Viện. Chúng ta quen cho những kiểu nói không chính xác là những sai lầm thậm chí đó chẳng phải là những bài học chính thức (enseignements formels). Cũng vậy, ta chỉ có thể nói về tính vô ngộ đối với những phát biểu Kinh Thánh trong đó soạn giả thánh có một phán đoán chính thức (jugement formel). Đó là trường hợp ông muốn cho độc giả một bài học, một giáo lý về Thiên Chúa và hoạt động của Người trong lịch sử, về con người và những quan hệ giữa con người với Thiên Chúa, nói tắt là khi ông muốn trình bày một giáo lý về ơn cứu độ. Một ý niệm hoàn hảo về tính vô ngộ của Kinh Thánh sẽ phải làm sao phân biệt được những phát biểu thuần túy, không hơn không kém (tức không có một phán đoán nào về thực trạng của sự vật) của Kinh Thánh với giáo huấn của Kinh Thánh hiểu thật đúng nghĩa (tức là bao giờ cũng có một phán đoán chính thức).

Nhưng ngay cả với những cách diễn tả về đạo lý ở trong Kinh Thánh, cũng cần phải để ý một điều mà chỉ các nhà chú giải thời mới mới để ý đến, cho dầu thường gặp trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, đó là : sứ điệp của Kinh Thánh hay lẫn lộn với những tư tưởng thuộc về nền văn hóa của soạn giả và những độc giả trực tiếp đọc tác phẩm lúc đó, lệ thuộc vào hình ảnh, quan niệm của họ về thế giới lúc bấy giờ. Kinh Thánh không mang đến cho ta một bài học trừu tượng, mà cụ thể và có tính lịch sử nữa. Chân lý măïc khải có giá trị và cần thiết cho mọi người, ở mọi thời đại lại xuất hiện, qua những tường thuật của Kinh Thánh, trong tư thế liên kết với những tư tưởng của một thời đại nhất định, những tư tưởng ngày nay ta không thể chia sẻ và cũng không ai buộc ta phải chia sẻ những quan niệm ấy. Trong nhiều bản văn Kinh Thánh, thực không dễ tách cái gì thuộc nội dung của măïc khải đích thực với cái được coi là tư tưởng thuộc về một thời đại. Nhưng dầu sao cũng phải phân biệt – đối với cả Cựu Ước cũng như Tân Ước – đối tượng riêng (objet propre) của những phát biểu trong Kinh Thánh với những tư tưởng lệ thuộc vào thời đại. Ta chỉ có thể nói là bản văn không vướng mắc sai lầm trong trường hợp thứ nhất.

Nhưng xem chừng không thể giải quyết đầy đủ vấn đề không sai lầm của Kinh Thánh chỉ thuần túy dựa vào cách phân biệt thể loại văn học, phân biệt phát biểu đơn thuần với giáo lý, phân biệt nội dung thực sự với những ý tưởng phụ thuộc chung quanh, dẫu cho những phân biệt đó cần thiết và quan trọng đi chăng nữa. Những tầng lớp cổ kính của Kinh Thánh khiến ta phải đối diện với những phát biểu mà soạn giả thánh thực sự có những phán đoán về thực trạng của sự vật, nhưng đồng thời lại lợi dụng để trình bầy cho độc giả một giáo huấn tôn giáo. Đây là hai ví dụ điển hình:

Có thực soạn giả sách Sáng thế ch. 1 không có ý dạy gì khác ngoài chuyện Thiên Chúa sáng tạo toàn thể vũ trụ hay không ? Vậy thì những gì còn lại chỉ là những cái phụ không đáng kể ? Liệu ông có muốn trình bày một giáo huấn về cấu trúc của vũ trụ, về cách thức Thiên Chúa sáng tạo không? Liệu các độc giả thời bấy giờ có chỉ đọc và thấy sự kiện Chúa sáng tạo mà thôi không?

Tác giả sách Giosuê ch. 6 – 8  thực sự có một phán đoán ở đó không? Ông Giôsuê phá hủy thành Giêrikhô và thành Hai hay là Thiên Chúa đích thân can thiệp để giải phóng Israel? Theo những khám phá của khoa khảo cổ mới đây, ta phải nhận quan điểm nào?

Đấy, nếu chỉ khảo sát bản văn mà thôi sẽ không thể trả lời được. Quả như thế, người ta đã phân tích thể loại văn chương của Gs 6 – 8  và thấy rằng tác giả có biết về thể loại anh hùng ca và truyền thuyết khi thuật lại câu truyện. Nhưng trong trường hợp này và nhiều trường hợp khác, rõ ràng soạn giả thánh có bỏ không đưa ra một phán đoán, hay không muốn trình bày một giáo huấn không?

N. Lohfink nghĩ rằng chúng ta hay đến với Kinh Thánh một cách quá tĩnh (trop statique) và đó là một trở ngại đối với việc giải quyết tận căn vấn đề Kinh Thánh không sai lầm. Ông đã đề nghị một góc nhìn hữu cơ (organique) hơn, một góc nhìn về quá trình tiến hóa tuy chậm nhưng liên tục của Cựu Ước trước khi kết thúc trong Tân Ước. Trong tiến trình ấy, một phát biểu không ngừng được sửa chữa do một phát biểu sau đó cho đến lúc hoàn hảo tức là Tân Ước. Đó là lúc cuốn sách hoàn tất trọn vẹn. Nguyên tắc làm nền tảng, điểm khởi hành là tính thống nhất (unité), là tính toàn bộ (totalité) của Kinh Thánh. Nếu không, không thể hiểu được ý nghĩa cuối cùng của các bản văn. Dưới đây là những nét chủ yếu trong nỗ lực của N. Lohfink mà chúng tôi cho là thích hợp để đẩy cuộc tranh luận về vấn đề Kinh Thánh vô ngộ tiến đến chỗ chung kết.

Muốn giải thích một bản văn Kinh Thánh nào, phải khởi đi từ văn mạch trong đó có bản văn và dùng văn mạch đó làm hệ thống để tham chiếu. Cũng như thế, một văn mạch chỉ có thể được giải thích đầy đủ nếu khởi đi từ tính toàn thể của Kinh Thánh. Duy biến cố Đức Giêsu Kitô là cao điểm hoàn tất công trình Cựu Ước. Duy cái nhìn của Giáo Hội, nhìn toàn bộ Kinh Thánh khởi đi từ Đức Kitô, cho phép ta đến được với ý nghĩa trọn vẹn của Kinh Thánh, đạt đến mức để ta có thể nói về tính cách không sai lầm của Kinh Thánh. Trước đó, những bản văn này bản văn kia của Cựu Ước vẫn ở trong tình trạng tiến hóa không ngừng, vẫn trên đường tiến về ý nghĩa chung cuộc. Như vậy không nhất thiết ý nghĩa đầu tiên của những bản văn Cựu Ước phải là không sai lầm. Kinh Thánh chỉ không sai lầm “khi người ta đọc nó như một toàn bộ và khi liên kết những phát biểu đó đây với toàn bộ một cách có phê bình” (N. Lohfink).

Phân biệt các thể loại văn chương là việc cần thiết, nhưng chưa đủ để giải quyết vấn đề. Bởi vì trong mỗi một thể văn, soạn giả thánh có thể có ý trình bày cho người đồng thời một bài học, nhưng không vì thế mà bài học ấy đã trở thành giáo huấn không thể sai lầm của Kinh Thánh. Cần phải để ý đến những giai đoạn tạm thời (stratifications transitoires) trong ý nghĩa của Cựu Ước. Mỗi một lớp, mỗi một tầng đều đang ở trong trạng thái chuyển động, còn có thể được bổ túc, sửa chữa và có thể trở thành tương đối do những phát biểu của các soạn giả thánh đến sau, nhất là được hướng về Tân Ước và chỉ có được ý nghĩa cuối cùng khi Tân Ước đến. Như vậy muốn tìm ý nghĩa sau cùng của Cựu Ước, tức là nghĩa được miễn trừ khỏi sai lầm thì cần đưa những quan điểm của Tân Ước vào bất cứ chỗ nào mà toàn thể Kinh Thánh tìm được sự nhất quán và đồng nhất. Cần phải khám phá ra ý hướng của “soạn giả chung kết” của Sách Thánh để xem có phải phán đoán của soạn giả này soạn giả kia trong Cựu Ước chỉ có tính cách nhất thời, giai đoạn hay đã có tính cách chung cuộc rồi. Ta chỉ có thể nói về tính vô ngộ của Kinh Thánh nếu ta coi Kinh Thánh như là một toàn bộ đã hoàn tất và, do đó, là cuốn sách của Hội Thánh. Tác giả St 1 dạy rằng Thiên Chúa đã sáng tạo vạn vật. Nhưng hơn thế nữa, có thể ông đã muốn đưa ra những nhận định khác về cấu trúc của công trình sáng tạo đó. Nhưng nếu nhìn theo toàn bộ Kinh Thánh thì rõ ràng giáo huấn cuối cùng chỉ nhắm vào phương diện Thiên Chúa sáng tạo mà thôi. “Đó là lý do tại sao những ý niệm về vũ trụ luận được đặt gần nhau và tương đối hóa lẫn nhau. Nhưng Tân Ước sẽ chỉ duy trì xác quyết nói về Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo. Duy chỉ có lời quả quyết ấy trong St 1 được coi là không sai lầm chứ không phải những đề tài nói về nguồn gốc vũ trụ”.

Còn trường hợp Gs 6 – 8. Tác giả muốn cho các độc giả thời của ông biết thành Giêrikhô và thành Hai thực tế đã bị ông Giosuê triệt hạ. Nhưng toàn thể sứ điệp Kinh Thánh không có ý giữ lại những chi tiết nói về việc dân Israel đánh chiếm xứ sở đó, mà chỉ duy trì một quả quyết liên quan đến lịch sử cứu độ : Thiên Chúa đã ban đất hứa cho Dân của Người. Bài học của Kinh Thánh chỉ nhắm đến giáo lý về ơn cứu độ và chỉ có nó mới là đối tượng của ơn vô ngộ trong Kinh Thánh mà thôi.

Khoa chú giải có tính cách lịch sử phải giúp ta nhận ra ý nghĩa mà các tác giả Cựu Ước có ý trình bày, cũng như ý nghĩa mà các độc giả đầu tiên, những người trực tiếp đón nhận các tác phẩm ấy đã hiểu. Nhưng đó mới chỉ là bước thứ nhất, một giai đoạn tạm thời trong toàn thể công tác chú giải, và chỉ kết thúc khi người ta đạt đến chân trời của độc giả cuối cùng, tức là Hội Thánh của Tân Ước. “Sau khi đã thiết lập được những phát biểu tiên khởi, còn phải bắt đầu một khoa chú giải diễn tả được tính toàn thể (totalité) từ dữ kiện Kinh Thánh. Duy chỉ khi đó ta mới đạt đến cái lãnh vực mà Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa ngỏ với chúng ta, và chỉ ở đó Kinh Thánh mới không sai lầm”. 

Lm. Giuse Nguyễn Tất Trung, OP.

Nguồn: http://catechesis.net

https://giaophanlangson.org/news/thanh-kinh/chan-ly-trong-kinh-thanh-459.html