Trang

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 30 TN A

VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 30 TN A
Tin Mừng thánh Mátthêu 22,34-40


Tin Mừng

34 Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. -35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng:36 "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất? "37 Đức Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy."



34 When the Pharisees heard that he had silenced the Sadducees, they gathered together,35 and one of them (a scholar of the law) tested him by asking,36 "Teacher, which commandment in the law is the greatest?"

37 He said to him,  "You shall love the Lord, your God, with all your heart, with all your soul, and with all your mind.

38 This is the greatest and the first commandment.

39 The second is like it: You shall love your neighbor as yourself.

40 The whole law and the prophets depend on these two commandments."

I. HÌNH TÔ MÀU




* Chủ đề của hình này là gì?
… … … … … … … … … … … … …

* Bạn viết câu TM thánh Mátthêu 22,37.39b
… … … … … … … … … … … … …
… … … … … … … … … … … … …
… … … … … … … … … … … … …
… … … … … … … … … … … … …

II. TRẮC NGHIỆM

01. Ai đã hỏi Đức Giêsu, trong sách luật Môsê, điều răn nào trọng nhất? (Mt 22,35)
a. Một người thông luật.
b. Một người thuộc nhóm Xađốc.
c. Một người thuộc phe Hêrôđê.
d. Một môn đệ.

02. Điều răn quan trọng nhất là : (Mt 22,7)
a. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa  của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.
b. Chớ kêu tên Đức Chúa vô cớ.
c. Phải yêu cha mẹ hết lòng
d. Chớ giết người

03. Điều răn thứ hai là gì? (Mt 22,39)
a. Phải giữ ngày Chúa nhật.
b. Phải từ bỏ ma quỷ.
c. Phải yêu người thân cận như chính mình.
d. Không được giết người.

04. Hai điều răn này gồm tóm tắt cả những điều gì? (Mt 22,40)
a. Những lời giáo huấn của Đức Giêsu.
b. Luật Môsê và các sách Ngôn sứ.
c. Những lời rao giảng của các tông đồ.
d. Những thư của thánh Phaolô.

05. Ai đã dạy cho chúng ta biết phải yêu người thân cận như chính mình? (Mt 22,34-40)
a. Thánh Phêrô.
b. Thánh Phaolô.
c. Thánh Gioan.
d. Đức Giêsu.

III.  Ô CHỮ



Những gợi ý

01. Với người thân cận, Đức Giêsu dạy phải làm gì như chính mình? (Mt 22,39)

02. Tất cả những luật nào đều tùy thuộc vào điều răn này? (Mt 22,40)

03. Ai đã dạy cho chúng ta biết phải yêu người thân cận như chính mình? (Mt 22,34-40)

04. Đức Giêsu dạy phải yêu ai như chính mình? (Mt 22,39)

05. Những người họp nhau lại để hỏi Đức Giêsu là ai? (Mt 22,34)

06. Đức Giêsu dạy ngươi phải yêu mến … … …, Thiên Chúa  của người, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22,37)

07. Một người thông luật đến hỏi Đức Giêsu trong sách Luật của ai, điều răn nào là điều răn trọng nhất? (Mt 22,36)

08. Đức Giêsu dạy phải yêu người thân cận như thế nào? (Mt 22,30)

09. Tất cả luật Môsê và các sách nào đều tùy thuộc vào 2 điều răn này? (Mt 22,40)

Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?

IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
 Thiên Chúa của ngươi,
 hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi
và ngươi phải yêu người thân cận
như chính mình”.
Tin Mừng thánh Mátthêu 22,37.39b



Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 30 TN A

I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề
Giới răn yêu thương

* Tin Mừng thánh Mátthêu 22,37.39b

"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi và ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.

II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM

01. Một người thông luật. (Mt 22,35)
02. a. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa  của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22,37).
03. c. Phải yêu người thân cận như chính mình (Mt 22,39).
04. b. Luật Môsê và các sách Ngôn sứ
(Mt 22,40).
05. d. Đức Giêsu (Mt 22,34-40).


III.  Lời giải đáp Ô CHỮ
01. Yêu (Mt 22,39)
02.  Môsê (Mt 22,40)
03. Đức Giêsu (Mt 22,34-40)
04. Người thân cận (Mt 22,39)
05. Pharisêu (Mt 22,34)
06. Đức Chúa (Mt 22,37)
07. Môsê (Mt 22,36)
08. Chính mình (Mt 22,30)
09. Ngôn sứ (Mt 22,40)

Hàng dọc: Yêu Thương

NGUYỄN THÁI HÙNG


Chúa Nhật Thường niên 30 A - Điều răn trọng nhất
 (Mátthêu 22,34-40 – CN XXX TN - A)

 1.- Ngữ cảnh

            Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.

Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.

2.- Bố cục

            Bản văn có thể chia thành ba phần:

            1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);

            2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);

            3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).

3.- Vài điểm chú giải

- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).

- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.

- hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.

- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.

- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).

- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)

Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.

Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.

* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)

            Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.

* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)

            Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ, là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế, yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (=  trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.

            Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế, không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).

            Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ , và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc , chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.

+ Kết luận

            Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.

2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.

3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).

4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.


                             Linh mục PX Vũ Phan Long, ofm

VUI HỌC THÁNH KINH CHÚA NHẬT 29 TN A

VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 29 TN A
Tin Mừng thánh Mátthêu 22,15-21

Tin Mừng

15 Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy.

16 Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? "

18 Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình!19 Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế! " Họ liền đưa cho Người một quan tiền.20 Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây? "21 Họ đáp: "Của Xê-da." Bấy giờ, Người bảo họ: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa."22 Nghe vậy, họ ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.
Then the Pharisees went off and plotted how they might entrap him in speech.

16 They sent their disciples to him, with the Herodians, saying, "Teacher, we know that you are a truthful man and that you teach the way of God in accordance with the truth. And you are not concerned with anyone's opinion, for you do not regard a person's status.

17 Tell us, then, what is your opinion: Is it lawful to pay the census tax to Caesar or not?"

18 Knowing their malice, Jesus said, "Why are you testing me, you hypocrites?19  Show me the coin that pays the census tax." Then they handed him the Roman coin.

20 He said to them, "Whose image is this and whose inscription?"

21 They replied, "Caesar's."  At that he said to them, "Then repay to Caesar what belongs to Caesar and to God what belongs to God."




I. HÌNH TÔ MÀU  





* Chủ đề
… … … … … … … … … … … … …

* Bạn viết câu Tin Mừng thánh Mátthêu 22,21
… … … … … … … … … … … … …
… … … … … … … … … … … … …
… … … … … … … … … … … … …
… … … … … … … … … … … … …


II. TRẮC NGHIỆM  

01. Đây là những người bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy? (Mt 22,15)
a. Những người Pharisêu.
b. Các thầy tư tế.
c. Các thượng tế.
d. Những người Xađốc.

02. Những người Pharisêu tin nhận Đức Giêsu dạy đường lối của ai? (Mt 22,16)
a. Người công chính.
b. Ông Môsê.
c. Thiên Chúa.
c. Ông Gioan tẩy giả.

03.Hình và danh hiệu trên đồng tiền là của ai? (Mt 22,21)
a. Salomon.
b. Đavít.
c. Xêda.
d. Philatô.

04. “Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, … … …” (Mt 22,21)
a. Trả về cho Người.
b. Trả về Thiên Chúa.
c. Hãy giữ lại cho Người.
d. Phải được kính thờ.

05. Những người đến để hỏi Đức Giêsu có tình ý gì? (Mt 22,18)
a. Học hỏi.
b. Tham khảo.
c. Ác ý.
c. Hân hoan.

III.  Ô CHỮ




Những gợi ý:

01. Ý định của những người Pharisêu làm cho Đức Giêsu lỡ lời mà bị gì? (Mt 22,15)

02. Những người này cùng với người Pharisêu đến với Đức Giêsu để gài bẫy Người. (Mt 22,16)

03. Những người Pharisêu tin nhận Đức Giêsu là người thế nào? (Mt 22,16)

04. Những người Pharisêu muốn gài bẫy Đức Giêsu về điều gì? (Mt 22,17)

05. Đây là những người bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy? (Mt 22,15)

06. Hình và danh hiệu trên đồng tiền là của ai? (Mt 22,21)

07. Đức Giêsu dạy đường lối của ai? (Mt 22,16)

Hàng dọc: chủ đề của ô chữ này là gì?

IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

“Của Xêda, trả về Xêda,
của Thiên Chúa , trả về Thiên Chúa”.
Tin Mừng thánh Mátthêu 22,21



Lời giải đáp VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 29 TN A


I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề
Chúa Giêsu và đồng tiền.

* Tin Mừng thánh Mátthêu 22,21

“Của Xêda, trả về Xêda;
của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”

II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM

01. a. Những người Pharisêu (Mt 22,15).
02. c. Thiên Chúa (Mt 22,16)
03. c. Xêda (Mt 22,21)
04. b. Trả về Thiên Chúa (Mt 22,21)
05. c. Ác ý (Mt 22,18).

III.  Lời giải đáp Ô CHỮ

01. Mắc bẫy (Mt 22,15)
02. Hêrôđê (Mt 22,16)
03. Chân thật (Mt 22,16)
04. Nộp thuế (Mt 22,17)
05. Pharisêu (Mt 22,15)
06. Xêda (Mt 22,21)
07. Thiên Chúa (Mt 22,16)

Hàng dọc: Bổn Phận

NGUYỄN THÁI HÙNG

Chúa Nhật Thường niên XXIX A - Sự quan trọng của Lời Nói

Anh Chị Em thân mến,

Bài Tin Mừng Ngày Chúa Nhật Thường niên XXIX năm A hôm nay nói về chuyện những người Biệt Phái bàn bạc với nhau để tìm cách làm cho Chúa Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy (x. Mt 22,15)

Vậy chúng ta hãy suy niệm về sự quan trọng của Lời Nói.
+++
Lời nói là quan trọng.

Con người khác con vật vì biết nói để diễn tả linh hồn mình ra.

Một lời nói có thể làm cho một nước hưng thịnh, một lời nói cũng có thể làm cho một nước tiêu tan (Nhứt ngôn hưng bang, nhất ngôn tán bang.).

Bệnh do miệng mà vào, họa do miệng mà ra (Bệnh tùng khẩu nhập, họa tùng khẩu xuất). Lời nói do miệng lưỡi chúng ta thốt ra, có thể đem lại nhiều tai họa cho chúng ta, cũng như cho những người khác,

Chúa Giêsu và lời nói

Chúa Giêsu rất thận trọng trong lời nói. Có những câu hỏi mà Chúa Giêsu không trả lời: “Bấy giờ ông Philatô hỏi Người: “Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?” Nhưng Đức Giêsu không trả lời ông về một điều nào, khiến ông tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên ( Mt 27, 13-14).

Chúa Giêsu nói lời đầy thần khí và đầy sự sống: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 7,63).

Chúa Giêsu nói lời đem lại sự sống đời đời: “Chúa Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Ximong Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” ((Ga 6,67-68).

Chúa Giêsu nói lời làm cho chúng ta được trở nên thanh sạch: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em” (Ga 15,3).

Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng kẻ nào xấu thì không thể nào nói ra điều tốt được: “Cây mà tốt thì quả cũng tốt; cây mà sâu thì quả cũng sâu, vì xem quả thì biết cây. Loài rắn độc kia, xấu như các người thì làm sao nói điều tốt được?” (Mt 12,33-34a).

Chúa Giêsu nhận xét rằng lòng mình đầy những gì thì miệng mình nói ra những điều đó: “Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12,34b).

Chúa Giêsu cho biết đến ngày phán xét, Chúa xét xử về lời nói của mỗi một người trong chúng ta, ngay cả những lời nói vô ích: “Tôi nói cho các người hay: đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lẽ về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh mà anh được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (Mt 12,36-37).

Các thánh Tông đồ và lời nói

Thánh Phêrô dạy hãy giữ miệng, đừng nói những lời gian ác điêu ngoa: “Ai là người thiết tha được sống và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói  lời gian ác điêu ngoa” (1 Pr 3,10).

Thánh Phaolô nói ngài không bao giờ dùng lời nói để nịnh hót ai: “Không bao giờ chúng tôi đã dùng lời xua nịnh như anh em biết” (1 Th 2,5).

Thánh Phaolô cảnh cáo lời nói nguy hiểm giống như một thứ ung nhọt: “Lời họ như một thứ ung nhọt cứ loét thêm ra” (2 Tm 2,17).

Thánh Phaolô dạy chúng ta đừng bao giờ nói những lời độc địa, nhưng nói những lời tốt đẹp: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4,29).

Thánh Giacôbê khuyên chúng ta hãy suy nghĩ trước khi nó, chứ đừng vội nói: “Anh em thân mến của tôi, anh em nên biết rằng mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói” (Gc 1,19).

Thánh Giacôbê nhận xét kẻ nào không vấp ngã về lời nói, kẻ đó là người hoàn hảo: “Ai không vấp ngã về lời nói, ây là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế bản thân” (Gc 3,2).

Thánh Giacôbê sánh cái lưỡi như cái bánh lái của con tàu: “... dù tàu bè có to lớn và có bị cuồng phong đẩy mạnh đi nữa, thì chỉ cần một bánh lái rất nhỏ để điều khiển theo ý của người lái. Cái lưỡi cũng vậy...” (Gc 3,4-5).

Thánh Giacôbê sánh cái lưỡi như tia lửa nhỏ nhưng có thể làm cháy rừng lớn: “Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao! Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa...” (Gc 3,5b-6a).

Thánh Giacôbê nhận xét rằng con người chúng ta rất khó làm chủ cái lưỡi của mình: “Mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều có thể chế ngự và đã chế ngự được. Nhưng cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên vì nó chứa đầy nọc độc giết người” (Gc 3,7-8).

Thánh Giacôbê dạy chúng ta đừng bao giờ dùng lời nói, vừa để chúc tụng ngợi khen Chúa, vừa để nguyền rủa người khác: “Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh của Thiên Chúa Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa, Thưa anh em, như vậy thì không được” (Gc 3,9-10).

Các thánh và lời nói

Thánh Gioan Climacô so sánh người nói láo giống như chiếc đồng hồ:mặt đồng hồ thì chỉ một đàng, mà chuông đồng hồ thì đánh một nẻo.

Thánh Bênâđô nhận xét rằng khi tai, mắt, mũi thì Chúa cho để tự do, còn cái lưỡi thì Chúa để cho  ẩn mình hai lớp, sau lỗ miệng và sau hàm răng, để dạy chúng ta phải cẩn thận trong khi dùng lưỡi để nói vì phải mở hàm răng ra và mở miệng ra, mới dùng lưỡi mà nói được.

Thánh Humbéctô dạy chúng ta đừng đặt quả tim trên lưỡi của mình, nhưng hãy đặt lưỡi của mình trong quả tim. Ý ngài muốn dạy khi chúng ta nói, chúng ta phải nói những lời đầy yêu thương. 

Thánh Phêrô Đamianô dạy chúng ta phải suy nghĩ trước khi nói ra vì người ta không thể nào bắt lại lời nói đã thốt ra, giống như không thể nào bắt lại được hòn đá đã ném ra hoặc mũi tên đã bắn ra. 
+++
Ý thức được sự nguy hiểm của miệng lưỡi, tác giả Thánh vịnh đã thốt lên; “Xin canh giữ miệng con, lạy Chúa, và trông chừng lưỡi con.” (Tv 141,3).
      Hằng ngày, trong kinh Thú Nhận, Giáo Hội dạy chúng ta luôn nhớ ăn năn sám hối để xin Chúa tha những tội trong lời nói của mình.
      Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng ta luôn nhớ và thi hành lời thánh Giacôbê dạy : Ai không lỗi trong lời nói, người đó là người trọn lành thánh thiện (x. Gc 3,2).
Amen!
Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang