Trang

Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

Tiếp tục lời Kinh Mân Côi trong cuộc sống hằng ngày

 

Tiếp tục lời Kinh Mân Côi trong cuộc sống hằng ngày

 
  •  
  •  


TIẾP TỤC LỜI KINH MÂN CÔI TRONG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY

Phêrô Phạm Văn Trung,
cuối tháng Mân Côi 2021.

WHĐ (31.10.2021) - Trong tháng Mười vừa qua, tháng dành riêng tôn kính Mẹ Maria Mân Côi, chúng ta đã lần hạt, và có thể đã lần rất nhiều chuỗi hạt, đó là việc làm tốt lành để tôn kính Mẹ và sinh ích cho phần rỗi chúng ta. Thế nhưng, chúng ta cũng cần phải luôn xem lại cung cách chúng ta thực hiện việc lần chuỗi này, như một cách xét mình nhằm thực thi ngày càng đúng hơn điều mà tại Fatima Mẹ đã yêu cầu con cái của Mẹ cần làm, qua việc Mẹ cho ba trẻ Lucia, Jacinta và Phanxicô thị kiến Mẹ trên đồi Cova da Iria. Ngày 13 tháng 10 năm 1917, Đức Mẹ dạy: Mẹ đến kêu nài các tín hữu hãy lần hạt Mân Côi. Mẹ mong ước nơi đây có một nguyện đường tôn kính Mẹ. Nếu người ta cải thiện đời sống thì chiến tranh sớm kết thúc”.

Tôi lần hạt, nhưng tôi có suy niệm Lời Chúa theo gương Mẹ không? Tôi lần hạt, nhưng tôi có cầu nguyện thực sự với Thiên Chúa, gặp được Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria, “Per Mariam ad Jesum” không ? Vì “Mẹ Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng” (Luca 2: 16-21). Nếu tôi chỉ đọc kinh mà tâm trí mình không suy niệm Lời Thiên Chúa, theo lời kinh, không biến đổi cuộc đời, thì liệu có ích gì cho sự sống tâm linh của tôi! Cuộc sống tôi vẫn cứ cũ kỹ như trước kia, vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tham lam, ganh ghét, hận thù, đố kỵ, nói xấu, làm ác...và nhiều, rất nhiều thói hư tật xấu khác nữa! Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galát đã nói:

Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn. Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Galát 5: 17-21).

Tôi không theo bè phái Albigeois nhưng tôi có đang sống theo lối suy nghĩ của họ? Tôi không phải là vô thần nhưng trong cuộc sống mỗi ngày, tôi có hành xử theo cách nghĩ của những người không tin vào Thiên Chúa? Tôi có phải là người vô thần trong thực tế không?

Dù miệng tôi có đọc bao nhiêu kinh đi nữa, mà lòng dạ tôi không thay đổi, không hoán cải theo Lời Chúa, theo gương Mẹ Maria, thì cuộc đời tôi không được biến đổi, theo tiếng “Xin Vâng” của Mẹ Maria, như trong ngắm thứ nhất mùa Vui. Tôi vẫn sống theo bản năng, theo những dục vọng, thói đời u mê, lòng dạ chứa đầy ham muốn trần tục tăm tối, “đời sao tôi vậy”, mà không đạt đến ánh sáng và sự kỳ diệu mà Thiên Chúa thực hiện trong sâu thẳm cõi lòng những ai kính sợ Ngài:

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
Thần trí tôi hớn hở vui mừng
Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. 

Phận nữ tỳ hèn mọn,
Ngài đoái thương nhìn tới;
Từ nay hết mọi đời
Sẽ khen tôi diễm phúc. 

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
Biết bao điều cao cả.
Danh Ngài thật chí thánh chí tôn ! 

Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài. 

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. 

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. 

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. 

Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Ngài,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta. 

Vì Ngài nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Ábraham
Và cho con cháu đến muôn đời.” (Lc 1,47-55) 

Chúng ta thường quen dùng từ “đọc kinh lần hạt”. Người Anh, người Pháp không dùng từ “đọc kinh”, vì khi đọc như thế thì người ta chỉ đọc những gì được người khác viết sẵn, và như thế nó không phải là của mình, không phải là tâm tư tình cảm của mình. Ngay cả khi đọc những gì chính mình viết ra, thì giọng đọc cũng chỉ là đọc “diễn văn”, mất đi rất nhiều tính tự nhiên chân thực của mình. Người Anh, dùng chữ “Say the Rosary prayers hoặc Pray the Rosary, Say three Mary Hails” nghĩa là “nói lời cầu nguyện Mân Côi, cầu nguyện kinh Mân Côi, nói ba kinh Kính mừng”. Người Pháp cũng vậy, họ "dire le rosaire, prier le rosaire" nghĩa là “nói hoặc cầu kinh Mân Côi”. Như thế, ngôn ngữ của họ nhấn mạnh đến việc cầu nguyện, đến việc nói chuyện, thân thưa với Thiên Chúa, bằng Lời kinh Mân Côi. Họ nhấn mạnh đến hành vi nội tâm giao tiếp với Thiên Chúa, nhờ Mẹ Maria, tạo nên mối tương giao riêng tư với Thiên Chúa qua sự dẫn dắt của Mẹ Mân Côi, là người đã ghi nhớ Lời Thiên Chúa, ghi nhớ mọi việc Thiên Chúa làm, và suy đi nghĩ lại trong lòng. Nhờ đó Mẹ đã trở nên người vâng theo ý muốn thiện hảo của Thiên Chúa, trở nên Nữ Tỳ của Thiên Chúa, nên Đấng Đầy Ơn Phúc: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Ngài đoái thương nhìn tới; Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”  (Luca 1: 38).

Đây mới chính là ý định của Mẹ Maria khi hiện ra và ủy thác cho Thánh Đa Minh rao truyền phương thế cầu nguyện bằng phép Lần Hạt Mân Côi này. Trong cuộc tĩnh Tĩnh Tâm với chủ đề về Thánh Đaminh, năm 2013, Linh mục Dòng Đaminh chủ sự đã cho biết:

“Cha Thánh Đaminh đã nhắc lại kinh nghiệm mục vụ trên đây bởi vì chính ngài đã dùng kinh Mân Côi như khí cụ để chống lại lạc giáo Albigeois. Lạc giáo Albigeois là lạc giáo mạnh mẽ thời Trung cổ, thời đại của thánh Đaminh sống, đó là phái Kathar (tiếng Hylạp Kathar có nghĩa là “tinh khiết”). Lạc thuyết này được thương nhân và dân hành hương Đất Thánh mang từ Đông phương về Âu châu. Lạc thuyết đã thu hút nhiều người và quy tụ thành một Giáo phái. Giáo phái này xuất hiện trước hết ở Koeln (nước Đức) năm 1143 rồi lan nhanh sang vùng bắc Ý, nam Pháp, Tây Ban Nha và Anh. Vì tín đồ của Giáo phái này có căn cứ ở thành phố Albi, miền nam Pháp, nên họ cũng được gọi là phái Albi. Nguồn gốc xa xưa nhất của thuyết Kathar là chủ trương của Manes, người Ba Tư, một lạc thuyết cổ mà Thánh Augustinô cũng đã theo một thời.

Khi xuất hiện lần đầu ở Âu châu, người ta rất đỗi ngạc nhiên về lối sống khó nghèo và quá khắc khổ của những người theo bè phái Albigeois. Đi chân không. Mặc áo nhặm. Sống đơn sơ. Ăn chay hãm mình nghiêm ngặt. Chỉ ăn rau cỏ. Họ còn tiết dục, không lập gia đình. Nên họ được tín nhiệm. Đông đảo dân chúng miền nam nước Pháp tuốn đến theo họ.

Các người theo bè phái Albigeois có cuộc sống nghèo nàn, khắc khổ, và họ chỉ trích nếp sống giầu sang của hàng giáo sĩ thời đó. Những ai vốn bực mình hay lên án sự giàu sang của Giáo hội đều có cảm tình với nhóm “tín đồ tốt lành” này.[1] Tuy nhiên, đi sâu vào bản chất và nhất là vấn đề đạo lý, lạc giáo này rất tai hại và phá hủy nền tảng đức tin cũng như luân lý của con người.

Nhóm lạc giáo này theo thuyết Nhị Nguyên, rao giảng hai nguyên lý tạo dựng: Thiện – Ác, cùng quyền năng như nhau. Họ khinh rẻ vật chất vì cho rằng vật chất phát xuất từ nguyên lý sự dữ; Thân xác con người vốn là vật chất, cho nên cũng do ác thần tạo ra. Chúa Giêsu có một thân xác, cho nên không thể là Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa thì thiện hảo, còn thân xác là vật chất do ác thần tạo ra. Lý luận như vậy, phái Albigeois coi Chúa Giêsu chỉ là một thụ tạo, một con người bình thường, có cha mẹ là ông Giuse và bà Maria sống ở làng quê Nazareth, chứ không phải  là Thiên Chúa. Họ không coi Chúa Kitô là Thiên Chúa nhập thể, và như vậy chối bỏ luôn toàn bộ giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, không còn vâng theo Hội Thánh của Chúa Giêsu. Nhóm này khước từ cả hôn nhân, coi thường các bí tích vì họ cho rằng qua các bí tích Thiên Chúa “đụng chạm” đến chúng ta qua vật chất. Cuối cùng, họ khước từ cả sự sống lại của thân xác nữa, vì thân xác vật chất là điều xấu xa, dơ bẩn.

Một tài liệu đương thời viết về phái Kathar rằng: “Bọn lạc giáo phân cách vợ với chồng, cha với con trai, con dâu với mẹ chồng trong gia đình. Ngay cả các linh mục cũng chạy theo lối sống đó. Bỏ nhà thờ thành hoang phế, từ chối rửa tội, coi thường Thánh Thể, chế nhạo việc đền tội, người ta chẳng muốn tin gì nữa vào việc tạo dựng con người và sự sống lại phần xác…”[2]

Trong thông điệp “Consueverunt - Đã thành truyền thống ” (1569), Thánh Giáo Hoàng Piô V đã tóm tắt bối cảnh lịch sử Giáo Hội bấy giờ như sau: “Thế kỷ XII bè rối Albigeois (tỉnh Albi, Pháp) đã nổi lên như vũ bão và lũng đoạn đức tin công giáo cả vùng Nam nước Pháp và vùng Bắc nước Ý. Họ xách động người dân căm thù ghen ghét để rồi mưu sát hàng giáo sĩ và tu sĩ”.[3]

Vì lòng nhiệt thành rao truyền Tin Mừng của Chúa, cha Thánh Đa Minh thấy tình thế quá nguy ngập, đã cầu nguyện và đặt hết lòng tin tưởng vào Đức Mẹ. Đáp lại lòng sùng mộ ấy, Đức Mẹ đã soi sáng cho ngài một phương pháp cầu nguyện vừa hiệu lực, vừa thích hợp dễ dàng với mọi lớp người, mọi hoàn cảnh. Phương pháp đó là kinh Mân Côi.

Nhờ ơn soi sáng ấy, cha Thánh Đa Minh linh cảm thấy rằng: chắc chắn kinh Mân Côi là vũ khí mạnh mẽ từ trời cao đánh tan lạc giáo Albigeois để cứu vãn Giáo Hội và nhân loại. Suốt cuộc đời rao truyền Tin Mừng, cha Thánh Đa Minh đã miệt mài rao giảng về kinh Mân Côi như Đức Mẹ đã dạy. Mẹ muốn tất cả con cái của Mẹ, nhờ cách thế suy niệm Lời Chúa này, trở nên giống Mẹ, được đầy ơn phúc của “Chúa Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ”.

Như vậy "đọc hoặc nói" chuỗi kinh Mân Côi chỉ là cách thức bên ngoài, cốt lõi bên trong chính là suy niệm Lời và cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô, và cầu nguyện với Ngài để đi vào mối tương giao nội tâm và cá vị với Ngài, nhờ sự trợ giúp của Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Kitô, cũng là Mẹ của mỗi Kitô hữu chúng ta.

Vì vậy, dù tháng Mân Côi kết thúc, nhưng việc cầu nguyện với Chúa Kitô, nhờ sự trợ giúp của Mẹ Maria Mân Côi, không bao giờ kết thúc. Vì tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người tin vào Ngài và tin vào Con của Ngài là Chúa Kitô cũng không bao giờ kết thúc, như Mẹ Maria cất tiếng ngợi khen: “Muôn đời sẽ khen tôi diễm phúc”.

Ngày nay, nhiều người không biết nhiều về lạc giáo Albigeois, nhưng họ cũng có một cách nghĩ phiến diện về con người như Albigeois, chỉ có điều là ngược lại: nếu Albigeois khinh rẻ vật chất và thân xác, vì họ cho rằng chúng do ác thần tạo thành, nên phủ nhận Thiên Chúa hiện hữu trong con người, trong đời người, và chối bỏ luôn một Chúa Kitô – Con Thiên Chúa Làm Người! Hệ quả là Thiên Chúa không tồn tại, mà nếu có tồn tại thì Thiên Chúa không có mặt ở chốn xấu xa, độc ác và ô nhơ này được, nhưng Ngài phải ở một nơi khác, một nơi thiện hảo, không phải trong thế giới vật chất này. Thiên Chúa bấy giờ giống như một vì sao, dù lung linh lấp lánh, nhưng ở tận chốn cao xanh không “dính dấp” gì tới cuộc đời tôi! Trong khi đó, con người ngày nay lại coi vật chất và thân xác là nền tảng mọi thực tại, là “cơ sở hạ tầng” quyết định “thượng tầng kiến trúc”, “tồn tại quyết định ý thức” ngược hẳn lại “cogito, ergo sum - Tôi tư duy, nên tôi tồn tại” của Descartes.[4] Chủ trương duy vật kiểu đó thống trị mọi lãnh vực: tư duy, hành xử cá nhân, hành động xã hội, thế giới quan duy vật đẻ ra nhân sinh quan vô thần, nhân sinh quan vô thần khởi động đấu tranh sinh tồn, đấu tranh sinh tồn sản sinh ra đấu tranh giai cấp…  Con người chỉ như muông thú tranh nhau miếng mồi! Trong lòng dạ mỗi con người, ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ thời đại nào, vẫn luôn tồn tại một khuynh hướng xấu xa, một tham vọng thống trị kẻ khác. Lịch sử các bộ tộc, các sắc dân, các thành bang… đã chứng minh điều đó, ngay trong cuộc sống hàng ngày. Chủ trương như thế giảm trừ con người xuống ngang hàng với loài vật, sống theo bản năng hung dữ, oán thù và giết hại lẫn nhau, không còn luân thường đạo lý nữa. Nghĩa vụ cá nhân, gia đình, và các mối tương giao xã hội bị coi thường, bị phế bỏ, hoặc bị coi như chỉ là qui định của cơ chế xã hội, của bộ máy nhà nước, không có nền tảng nội tại đích thực, và người ta hoàn toàn có thể tuân theo hay bất tuân, tùy theo hoàn cảnh và nhu cầu cá nhân, tùy theo chúng có thể đáp ứng được nhu cầu vật chất trước mắt mà con người trên đời cần được thỏa mãn trong kiếp sống này, trước khi chết hay không. Vì chết là hết, cuộc đời không nghĩa lý gì, hãy hưởng thụ tối đa khi còn có thể: không có chuyện đời sau, chẳng có chuyện thánh thiêng!

Phải chăng đó là chuyện ngày xưa mà cũng là chuyện ngày nay, chuyện muôn thuở của kiếp người? Con người hôm nay, nhất là mỗi người, có còn tin rằng trong sâu thẳm lòng mình, trong tâm can của những người chung quanh, trong thiên nhiên trời đất vũ trụ, vẫn hiện hữu một Thực tại Tối thượng, vốn là Nguyên Khởi tác thành mọi sự, và cũng là Cùng Đích mà mọi sự quy hướng về, để nhờ đó mà thế giới vật chất này và nội giới tâm linh của mỗi con người có được một lý do tồn tại – một lẽ sốngmột ý nghĩa hiện hữu – một cung cách sống: suy tư, diễn ngôn và hành động.

Tôi có muốn vui hưởng tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa - Thực tại Tối thượng đó không, thể hiện qua cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Kitô, theo gương mẫu của Mẹ Maria Mân Côi, là người “hằng ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng” ? Nếu có, và rất nên có, tôi không được để cho lời Kinh Mân Côi kết thúc trong đời tôi, bất cứ một ngày nào, vì đó là lời kinh kết nối sự hiện hữu nhân linh thánh thiêng của tôi với nguồn mạch hiện hữu của muôn loài, là chính Thiên Chúa Hằng Sống, Toàn Năng, Toàn Ái: chan chứa yêu thương, bình an, hoan lạc: “Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế” (Galát 5: 21-22). Tất cả là tùy vào tôi, tùy vào thiện chí và cố gắng của tôi, có muốn yêu mến và thực hành Phép Lần Hạt Mân Côi, theo gương Mẹ Mân côi hay không.

Cuối buổi tiếp kiến chung ngày 13 tháng 10 năm 2021 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Bằng cách kiên trì đọc kinh Mân Côi hằng ngày, anh chị em sẽ có thể gặp được Đức Mẹ Đồng Trinh mỗi ngày, có thể học hỏi từ Mẹ để cộng tác trọn vẹn với chương trình cứu độ mà Thiên Chúa dành cho từng người trong anh chị em. Xin Mẹ Maria là người hướng dẫn chúng ta trên con đường không ngừng hoán cải và sám hối, để chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Kitô, Mặt Trời Công Chính. Nguyện xin ánh sáng của Mẹ giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ và xua tan bóng tối của thế giới này”.

Với sứ điệp Fatima, Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi muốn nói lên một sự thật tuyệt vời: con người hư đi, thế giới đang dần xa Thiên Chúa, chỉ có thể được cứu vãn bằng những phương thế mà Mẹ dạy: “Cầu nguyện, lần chuỗi Mân Côi và Sám hối ăn năn”.

Lạy Mẹ Mân Côi, xin giúp chúng con biết siêng năng cầu nguyện, lần hạt Mân Côi và ăn năn thống hối.

(Bài viết được tác giả gửi đến cộng tác với Ban biên tập tại địa chỉ bbt.whd@gmail.com)



[1] Người viết trích dẫn: “Sự canh tân quét sạch Giáo Hội, nhưng ảnh hưởng chính trị và sự sung túc ngày càng gia tăng của Giáo Hội Công Giáo, kể cả các đan viện, đưa đến sự xuất hiện của một số tổ chức mà họ tự cho rằng có đời sống căn bản hơn và trung thực hơn với phúc âm so với Giáo Hội. Người Cathar, là con cháu của người Manikê, xuất hiện từ phía nam nước Pháp và được gọi là Albigensian, vì họ thuộc miền Albi. Các tổ chức khác, tỉ như các môn đệ của Peter Waldes (phái Waldensian) và Humiliati ở Ý, khởi sự bằng cách thúc giục cải tổ và sống khó nghèo trong Giáo Hội, nhưng dần dà họ tách khỏi sự trung thành với Giáo Hội Công Giáo và bị kết án. Hầu hết các tổ chức này thấy chướng tai gai mắt vì sự giầu sang và mục nát trong Giáo Hội Công Giáo và họ muốn cải cách tận gốc, ngay tức thì, mà không phải quy phục đức giáo hoàng và các giám mục. Tuy nhiên, cũng có một vài nhóm sống khắc khổ và nghiêm nhặt được đón nhận như các đan viện trước đây - Xitô, Carthusian, v.v... Sự canh tân xảy ra khắp nơi, và các tổ chức Công Giáo này chứng minh rằng Giáo Hội thực sự muốn canh tân và đã thể hiện được điều đó”. (Alan Schreck, giáo sư thần học Đại Học Steubenville thuộc dòng Phanxicô ở Ohio,  LỊCH SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO, được chuyển dịch từ cuốn “The Compact History of the Catholic Church”, Chương 3: Giáo hội thời Trung cổ (600-1300), Thế Kỷ Mười Hai, số 3. Sự Canh Tân Giáo Hội và Lạc Giáo, trang 61).

[2] Lm. Quốc Văn, OP., Thánh Đaminh rao giảng Tin mừng bằng việc dấn thân vào vấn đề của thời đại, tại https://gxdaminh.net/tinh-tam-thanh-daminh-2013-ngay-01/

[3] Du Sinh, Đức Mẹ dạy Thánh Đaminh về Kinh Mân Côi, tại http://giaoxuvnparis.org/chi-tiet/duc-me-day-thanh-da-minh-ve-kinh-man-c0i-du-sinh.html

[4] “Je pense, donc je suis”, René Descartes, Discours de la méthodePhần IV, Leiden, Hà Lan,1637; được dịch sang tiếng Latinh và xuất bản tại Amsterdam, năm 1656.


https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/tiep-tuc-loi-kinh-man-coi-trong-cuoc-song-hang-ngay-43976

Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

Chúng ta phải tin vào phép lạ

 Đức Phanxicô nhấn mạnh: Chúng ta phải tin vào phép lạ

fr.zenit.org, Anita Bourdin, 2021-10-29

Đức Mẹ Lujan

Trong buổi Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 24 tháng 10, Đức Phanxicô hỏi giáo dân đã cầu nguyện như thế nào. Ngài xin họ bám vào Chúa như người mù Batimê, ngài lấy làm tiếc là chúng ta thường không dám tin vào phép lạ. Chúng ta xa vời và hời hợt trong khi Chúa Giêsu mong muốn đổ tràn ân sủng và niềm vui của Ngài cho chúng ta. Đức Phanxicô xin chúng ta noi gương ông Batimê, đã can đảm xin Chúa dủ lòng thương xót. Khi đức tin chúng ta sốt sắng, lời cầu nguyện của chúng ta chân thành: chúng ta không xin những thay đổi nhỏ, không xin vật chất nhưng xin Chúa dủ lòng thương xót cho cuộc đời mình.

Ngài nói: “Nhiều người trong chúng ta khi cầu nguyện không tin Chúa có thể làm phép lạ”. Ra khỏi bài giảng đã soạn, Đức Phanxicô kể một phép lạ mà ngài đã chứng kiến khi còn ở Argentina, từ Đấng có thể ban cho chúng ta mọi sự, chúng ta hãy xin tất cả mọi sự.”

Ngài kể câu chuyện ngài đã chứng kiến:

Người cha của cô bé 9 tuổi đang ở bệnh viện với con, bác sĩ nói con gái của ông sẽ không qua khỏi đêm nay. Ông vội lên xe buýt đến đền thánh Đức Mẹ cách đó 70 cây số. Đền thánh đóng cửa, ông bám vào  cổng, cả đêm ông cầu nguyện: “Lạy Chúa xin cứu con của con! Lạy Chúa, xin mang lại sự sống cho con của con!” Ông cầu nguyện với Đức Mẹ, hết lòng kêu lên Chúa suốt đêm. Sau đó, buổi sáng ông về lại bệnh viện, ông thấy vợ ông đang khóc. Ông nghĩ con ông đã chết. Vợ ông nói: “Chúng tôi không hiểu, chúng tôi không hiểu, các bác sĩ nói đó là phép lạ. Con đã được chữa lành.” Tiếng kêu xin của ông đã được Chúa nhận lời.

Đó không phải chỉ một chuyện. Tôi chứng kiến một chuyện khác ở một giáo phận khác của tôi.

Đó là một đêm mùa hè năm 2005 hoặc 2006, trước vương cung thánh đường Đức Mẹ Lujan, Argentina.

Một linh mục người Argentina – người thích ẩn mình sau phép lạ và vì thế không nên nhắc tên ở đây – cha nói trên Đài phát thanh Vatican chi tiết về những gì đã xảy ra đêm đó:

“Tôi đã chứng kiến điều kỳ diệu này. Khi tôi kể chuyện này với giáo hoàng đương nhiệm, khi đó ngài là giám mục Buenos Aires, tôi xin ngài nói theo cách của ngài, xin ngài đừng nhắc đến tôi. Ngài xúc động trước phép lạ này khi tôi kể cho ngài nghe. Một đêm mùa hè, tôi từ nhà cha mẹ tôi ở Luján về, tôi nghĩ chúng tôi sẽ có một bữa tiệc, và khi tôi đang băng qua quảng trường lúc nửa đêm, tôi thấy một người đàn ông trẻ cầm bó hoa hồng đang bám vào cổng. Tôi đến gần ông và hỏi ông đang bị gì.

Anh nói con gái anh đang đau nặng ở bệnh viện. Anh đến Luján và bó hoa hồng của các bạn anh cho, họ đi theo anh và anh dâng bó hoa cho Đức Mẹ. Tôi nói với anh: ‘Chúng ta cùng vào Đền thánh’. Cũng đã nửa đêm. ‘Anh vào một mình. Các bạn anh không thể vào, tôi chỉ chịu trách nhiệm cho một mình anh’, Chúng tôi vào cổng sau thánh đường, qua ngôi nhà, tôi nói với người bảo vệ tôi sẽ lo cho người này, và nếu có gì xảy ra tôi sẽ chịu trách nhiệm.

Anh để bó hoa trong bình mà chúng tôi (các linh mục và người lo nhà thờ) thường để đó, anh quỳ ở nhà tạm, còn tôi ngồi ở băng ghế đầu tiên và bắt đầu cầu nguyện. Người cha, trong im lặng, quỳ gối, và tôi ngồi, chúng tôi lần chuỗi cho con gái anh. Vào cuối buổi cầu nguyện – sau hai mươi phút – anh đứng dậy, tôi ban phép lành cho anh và chúng tôi từ giã nhau. Đó là một ngày chúa nhật. Thứ bảy tuần sau, tôi đang giải tội thì anh đến gần tôi – tôi nhận không ra… có rất nhiều người đến viếng vương cung thánh đường, vì đây là mùa hè, anh đi cùng với con gái tóc vàng 8 hoặc 9 tuổi.

Anh nói với tôi: “Thưa cha, cha có nhận ra con không?” Tôi trả lời: “Anh là ai?” “Con là người đã cầu nguyện với cha ở đây tuần trước lúc nửa đêm. Đây là con gái của con. Đức Mẹ đã ban phép lạ cho con! Trong khi con đang cầu nguyện ở đây với cha nửa đêm ở đây thì con gái của con ngồi dậy và xin ăn. Sau đó con về lại bệnh viện lúc bình minh. Con đến phòng chăm sóc đặc biệt và họ nói con gái của con không còn ở phòng này. Con tưởng con của con đã chết nhưng cháu ở phòng khác với mẹ.”

Đó là câu chuyện có thật và còn nhiều chuyện khác nữa tôi đã kể cho Đức Phanxicô khi ngài còn ở Buenos Aires. Ngài xin tôi viết ra và tôi đã viết nhưng rất chậm.”

Linh mục nói thêm: “Những phép lạ Đức Mẹ ban như lật trang Tin Mừng này qua trang khác; tôi không bao giờ giữ tên của những người được phép lạ, tôi chỉ cám ơn và ca ngợi Chúa. Với Đức Trinh Nữ Maria, kinh nghiệm của tôi là sống trọn vẹn theo Phúc Âm.”

Đức Phanxicô tiếp tục bài giảng: Chúng ta nhìn vào Tin Mừng: khi Chúa Giêsu-Kitô chữa lành cho người đầy tớ của viên sĩ quan, Ngài làm từ đàng xa. Tin Mừng tiếp tục sống, Tin Mừng lập lại và qua Đức Maria. Đó là điều tôi muốn nói.

“Từ Đấng có thể ban cho chúng ta mọi sự, chúng ta hãy cầu xin mọi sự”, chúng ta xa vời và hời hợt trong khi Chúa Giêsu mong muốn đổ tràn ân sủng và niềm vui của Ngài cho chúng ta, nhưng chính chúng ta mới là mới là người giữ khoảng cách, vì nhút nhát, vì lười biếng vì không tin tưởng.”

Vì thế ngài xin chúng ta cầu nguyện như ông Batimê: “Hỡi con vua Đa-vít, xin Chúa Giêsu dủ lòng thương xót con!”

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

http://phanxico.vn/2021/10/30/duc-phanxico-nhan-manh-chung-ta-phai-tin-vao-phep-la/

LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN (02/11)

 Mẫu nhiệm Các Thánh thông công

Lm. Đan Vinh
 


1. NGUỒN GỐC LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN

– Theo lịch sử Hội thánh: Thánh ODILO (962- 1048) là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany, là một tu sĩ rất có lòng đạo đức. Ngài luôn tưởng nhớ cầu nguyện kèm ăn chay hãm mình và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Một hôm, một đan sĩ Dòng của ngài đi hành hương Đất thánh. Trên đường trở về, tàu chở vị đan sĩ đã bị bão đánh giạt vào một hòn đảo, và tại đây đan sĩ đã gặp gỡ và trao đổi với một vị ẩn sĩ. Trong buổi trò chuyện, ẩn sĩ cho biết: “Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều linh hồn người chết thường bị hành hạ, đánh đập đau đớn. Có lần tôi nghe được mấy tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng Cluny mỗi ngày đều giải thoát được một số linh hồn ra khỏi hang lửa nói trên. Vì thế, xin thầy hãy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng tiếp tục cứu giúp các linh hồn đang chịu đau khổ. Việc này làm cho các thánh trên trời vui mừng và cũng làm cho ma quỷ trong hỏa ngục phải buồn sầu tức giận”. Sau khi nghe tu sĩ kể lại sự việc, cha Odilo đã chọn ngày 2 tháng 11 hằng năm để cử hành lễ cầu hồn trong đan viện Cluny của ngài. Về sau lễ cầu hồn này đã truyền sang nước Pháp, và Đức Giáo Hoàng Gio-an 14 đã thiết lập lễ Cầu cho các linh hồn trong Hội Thánh Công Giáo Rô-ma từ giữa thế kỷ 11.

– Giáo lý Hội Thánh Công Giáo do Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 ban hành năm 1992 có 3 số nói về luyện ngục như sau:

Số 1030: Cần có Luyện ngục: “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng”.

Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580). Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau” (Mt 12,31). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39).

Số 1032: Người sống cứu người chết: Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” (x. 2 Mcb 12,46).

– Ngày 10 tháng 8 năm 1915: Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý Đức Thánh Cha (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng). Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.

– Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).

2. GIÁO LÝ VỀ MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG:

Chúa Giê-su thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh “Lữ Hành”, hai là Hội Thánh “Vinh Thắng”, ba là Hội Thánh “Đau Khổ” như sau:

– Hội Thánh “Lữ Hành” trần gian: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giê-su. Như Dân Ítraen xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa Nước Trời là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình. Họ được Chúa ban cho 2 thứ bánh thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để tiến về miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau.

– Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Khi còn sống ở trần gian, các ngài đã thực hành Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, nên ngày nay các ngài đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa.

– Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giê-su, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều sai lỗi, chưa xứng đáng được vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ. Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.

3. TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG:

Ngoại trừ các người theo ma quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt lìa xa Chúa đời đời, còn các tín hữu tin vào Chúa Giê-su dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều được thông hiệp với ơn cứu độ của Chúa Giê-su và cầu nguyện cho nhau. Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:

Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng nhà thờ hay Đất Thánh và đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hoàng để được nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11; Nhất là có thể xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ với ý chỉ cầu nguyện đền tội thay cho các linh hồn ông bà cha mẹ đang ở trong chốn luyện hình. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được tha thứ tội lỗi như lời Chúa: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”. Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hoàn toàn thì sẽ được Chúa đưa vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. Bấy giờ các ngài sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho con cháu là chúng ta trên trần gian.

Riêng khái niệm về Lâm-bô: Lâm bô là khái niệm của thánh Albertô Cả (1200-1280), nói về một nơi dành cho các linh hồn trẻ em chết khi chưa được lãnh bí tích Rửa tội. Tuy chúng không bị phạt nhưng cũng không được lên thiên đàng vì chưa được rửa tội. Về sau khái niệm này ít được đề cập đến. Gần đây Ủy ban thần học quốc tế thuộc bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một tài liệu mang tên “Niềm hy vọng ơn cứu rỗi dành cho các trẻ em chết mà không được rửa tội”. Trong đó Ủy Ban cho rằng: “Giả thuyết về Lâm-bô” không có nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải. Theo ủy ban, có nhiều lý do rút ra từ thần học và phụng vụ cho phép chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng các em chết trước khi được rửa tội cũng được hưởng nhan thánh Chúa, vì “Thiên Chúa muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”. Tuy vậy, Ủy ban cũng khẳng định bí tích rửa tội vẫn là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu rỗi của Đức Giê-su như lời Chúa phán: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5). Tóm lại: Hội Thánh tín thác các em chết khi chưa chịu phép rửa tội cho lòng thương xót của Chúa, và hy vọng nhờ đức tin của Hội Thánh, các em cũng được hưởng ơn cứu độ (x. GLHTCG số 1261).

4. PHẢI “BIẾT CHẾT” ĐỂ “BIẾT SỐNG”:

– Không thích nói đến cái chết: Nhiều người nghĩ rằng: không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết. Nhà tỷ phú Mỹ WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông. Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc. Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết! Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một tòa lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ.

– “Sinh ký tử quy” (Sống gửi thác về): Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà. Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ: Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ. Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng nọ để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên.

– Chết là bắt đầu một cuộc sống mới: Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết! Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ ! Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người: “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!” Nhưng đức tin Ki-tô giáo dạy cho biết: chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng. Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét. Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình. Chúng ta sẽ được trở về thiên đàng, là nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta. Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 21,4).

– Đền tội khi sống lúc chết: Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần các tín hữu chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa không làm theo thánh ý Thiên Chúa. Đó là ta đã phạm tội hay mắc phải các thói hư. Khi chúng ta còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải sẽ giúp chúng ta đền tội đã phạm. Rồi sau khi qua đời chúng ta còn tiếp tục được thanh luyện trong lửa tin yêu gọi là tình trạng luyện hình.

5. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giê-su. Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa. Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian… Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa quan tâm đúng mức ! Con thật dại khờ khi nghĩ rằng mình sẽ có đủ thời gian chuẩn bị trước khi chết. Nhưng lời Chúa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng thái độ sẵn sàng. Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận ra con không, hay Chúa sẽ bảo con: “Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,23).

– Lạy Chúa Giê-su. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại Chúa ban trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen. Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời: “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng ‘Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (x. Mt 25,34).- Amen.

 

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

 Hạnh phúc mai sau phải được bắt đầu từ ngày hôm nay

Lm. Đan Vinh
 


Kh 7,2-4.9-14; 1 Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a
HẠNH PHÚC MAI SAU PHẢI ĐƯỢC BẮT ĐẦU TỪ NGÀY HÔM NAY

I. HỌC LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA:

(1) Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên (2). Người mở miệng dạy họ rằng: (3) “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. (4) “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. (5) “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ được Thiên Chúa ủi an”. (6) “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng”. (7) “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. (8) “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. (9) “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. (10) “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. (11) “Phúc cho anh em, khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. (12) Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”.

2. Ý CHÍNH: TÁM MỐI PHÚC THẬT.

Mát-thêu gom nhiều điều Chúa Giê-su nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay là “Hiến Chương Nước Trời”. Tin Mừng hôm nay là phần đầu của Bài Giảng Trên Núi, trong đó nêu ra 8 điều kiện mà ai muốn gia nhập vào Nước Trời của Chúa Giê-su đều phải có, được gọi là Tám Mối Phúc Thật. Chẳng hạn: Tinh thần nghèo khó, nhân đức hiền lành, tâm hồn sám hối, luôn khao khát sống công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, biết ăn ở hòa thuận, bị bách hại vì đức Tin. Ai sống theo 8 tinh thần này thì thật diễm phúc, vì sẽ được làm thành viên của Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đàng mai sau.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3: +Đoàn lũ đông đảo: Gồm các Tông Đồ, các môn đệ và dân chúng đến từ Ga-li-lê-a, miền Thập Tỉnh, miền Giu-đê và thủ đô Giê-ru-sa-lem. Lại có cả dân ngoại từ các thành Ty-rô và Si-đon (x. Lc 6,17; Mt 4,25). Như vậy đoàn lũ đông đảo nói lên tính cách phổ quát của sứ điệp của Chúa Giê-su. + Người đi lên núi: Núi ở đây thực ra chỉ là một ngọn đồi ở gần Ca-phác-na-um. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu dùng tiếng núi để gợi lại việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước cũ và ban Lề Luật cho Ít-ra-en. + Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên: Ngồi là tư thế của vị Thầy khi giáo huấn các môn đồ (x. Mt 13,1). + Phúc thay: Đây là kiểu nói hay được dùng trong Cựu Ước (x. Tv 1,1-2; Cn 3,3). Ở đây Đức Giê-su sử dụng lối nói này để khai mạc Nước Trời, trong đó những người nghèo đói, hèn mọn, sầu khổ... sẽ được hạnh phúc thật, miễn là họ tiếp nhận sứ điệp của Người. Mát-thêu dùng kiểu nói: Phúc thay ai..., còn Lu-ca (6,20-26) thì viết: Phúc cho anh em... + Tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ: Nghèo khó là thái độ của người khiêm tốn, hóa nên như trẻ em (x. Mt 18,1-11). Tinh thần nghèo khó cũng đồng nghĩa với sự siêu thoát, sẵn sàng từ bỏ của cải vật chất để trở thành môn đệ Chúa và được vào Nước Trời do Chúa thiết lập (x. Mt 6,19-21). Đức Giê-su không coi nghèo khó là điều tốt, vì nghèo thường đi đôi với dốt nát, thất bại và bất hạnh. Người dạy môn đệ không được tham lam tiền của bất chính và không cậy dựa vào thế lực của tiền tài, phải coi đồng tiền là đầy tớ thay vì là ông ông chủ của mình. Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su nói: “phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vìu Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Đức Giê-su không mị dân chúc lành cho sự nghèo khó. Người muốn tái lập một trật tự mới công bình: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-53).

- C 4-5: + Hiền lành: Trong Kinh Thánh, sự hiền lành luôn đi đôi với sự nghèo khó, khiêm nhường, nhỏ bé, yếu đuối, bị oan ức và bị thiếu thốn. + Đất Hứa làm gia nghiệp: Đất Hứa là một kiểu nói ám chỉ Nước Trời (x. Tv 37,11). + sầu khổ: là than khóc, buồn sầu vì đã phạm tội mất lòng Chúa và phải xa lìa Thiên Chúa. Buồn sầu thường do tội lỗi gây ra (x. 1 Cr 5,2). Đây cũng là tâm tình của người đang mong đợi ơn cứu rỗi như lời ông Si-mê-on (x. Lc 2,25). + Được Thiên Chúa ủi an: Họ sẽ được Thiên Chúa an ủi và ban ơn tha thứ trong giờ phán xét sau này.

- C 6-8: + Khát khao nên người công chính: Công chính là cách ăn ở hợp với thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 3,15). Khát khao nên người công chính là ước mong sống công bình ngay chính, tuân giữ Luật Chúa truyền dạy (1,19; 5,20). + Nước Trời là của họ: Hạnh phúc Nước Trời sẽ là phần thưởng dành cho những ai muốn sống cuộc đời hoàn thiện. + Xót thương người: nghĩa là tỏ lòng nhân hậu đối với các tội nhân noi gương Thiên Chúa như lời tuyên sấm của ngôn sứ Hô-sê: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6) và như người Sa-ma-ri nhân hậu đã giúp đỡ kẻ gặp nạn (x. Lc 10,33-37). + Sẽ được Thiên Chúa xót thương: Thương xót và tha thứ cho kẻ khác thì sẽ được Thiên Chúa xót thương tha tội nợ cho mình (x. Mt 6,14-15). Ông chủ trong dụ ngôn “Hai con nợ” đã mắng kẻ không biết thương xót: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van xin Ta. Thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). + Lòng trong sạch: Trong sạch là ngay thẳng trong lương tâm. Người có lòng trong sạch hết mình phục vụ Chúa và tha nhân, không màng tư lợi, không đạo đức giả. Sự trong sạch không những nói về đức khiết tịnh, mà còn về nhiều phương diện khác nữa. + Được nhìn thấy Thiên Chúa: Là được về trời gặp mặt Người ở đời sau (x. Dt 12,14).

- C 9-10: + Xây dựng hòa bình: Sứ mệnh của các môn đệ là phải làm cho mọi dân nước trên thế giới trở thành một gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau. Cần hòa giải những tranh chấp, để của lễ dâng lên Chúa xứng đáng được chấp nhận (x. Mt 5,23-24). + Được gọi là con Thiên Chúa: Vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Ai yêu thương thì mới được ở trong Thiên Chúa và nên con cái Thiên Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương và tâm hồn họ sẽ được bình an (x 2 Cr 13,11). + Bị bách hại: Bị bách hại là một đặc điểm của Chúa Giê-su, Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn để vào vinh quang phục sinh. Đây là một điều khó hiểu, điên rồ đối với người Do thái và khó chấp nhận ngay cả với các môn đệ (x. Mt 16,22). + Vì sống công chính: Nghĩa là sống phù hợp với giáo huấn của Chúa Giê-su (x. Mt 10,24-25). Thánh Phê-rô cũng nói: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc!” (1 Pr 3,14).

- C 11-12a: + Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Lời Chúa giải thích mối phúc thứ tám để động viên các tín hữu thời sơ khai đang bị bách hại. + Anh em hãy vui mừng hớn hở: Thánh Phê-rô cũng dạy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ. Nếu bị xỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,13-14). + Vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao: Khi chịu đau khổ bách hại và liên kết với cuộc tử nạn của Chúa, sẽ được nên giống Chúa và sau này được vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc với Người

4. CÂU HỎI:

1- Tám Mối Phúc Thật là bản tóm lược những điều kiện phải có để được vào Nước Trơi do Chúa Giê-su thiết lập. Trong đó, mối phúc nào là quan trọng nhất và là nền tảng của các mối phúc khác?

2- So sánh ý nghĩa câu: “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó” trong Tin Mừng Mát-thêu với câu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” trong Tin Mừng Lu-ca khác nhau thế nào? Phải chăng Đức Giê-su đề cao sự nghèo khó, thường là nguyên nhân gây ra tội lỗi như người đời thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”?

3- Tại sao Chúa Giê-su lại chúc phúc và đề cao người nghèo, đang khi lẽ ra Người phải giúp đỡ người nghèo vượt qua sự nghèo đói bất hạnh ấy để cuộc sống của họ được ấm no hạnh phúc hơn?

4- Ý nghĩa của các mối phúc khác như thế nào: hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì Thầy?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).

2. CÂU CHUYỆN: NÊN THÁNH BẰNG LỐI SỐNG NGHÈO KHÓ

PHAN-XI-CÔ THÀNH AT-SI (Phanxico Assise) là con một người giàu có danh giá ở thành Át-si. Một hôm đi nhà thờ dự lễ, tình cờ nghe một vị linh mục giảng một bài về Tám Mối Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Từ hôm ấy, Phan-xi-cô thường suy nghĩ phải sống thế nào để thực thi ý Chúa, và trở thành một người nghèo thực sự? Rồi một ngày nọ, anh quyết định sống siêu thoát và từ bỏ để hoàn toàn tin cậy vào Chúa quan phòng. Anh bán tất cả gia sản của cha, rồi đem phân phát cho người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của Phan-xi-cô đến tai người cha làm ông nổi giận. Ông đã đến thu hồi tất cả những gì còn lại và không nhận Phan-xi-cô làm con nữa. Hôm ấy anh đã cởi bỏ các thứ quần áo giầy dép quí giá đang mang trên người và ra đi với hai bàn tay trắng. Anh viết trong nhật ký: “Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có Cha Trên Trời hằng thương yêu tôi”. Từ hôm đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã lựa chọn, là từ bỏ mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời”. Ban ngày anh mặc quần áo vải thô, chân không giày dép đi qua các đường phố và làng mạc để khất thực. Tối đến, anh lại thức khuya để đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng dây da tự đánh vào người hãm mình phạt xác. Anh đã được Chúa Giê-su cho in năm dấu thánh trên hai bàn tay bàn chân và cạnh sườn để nên giống Người. Anh đã thực hành theo Lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Lối tu luyện khổ hạnh của anh đã được Giáo Hội công nhận và dòng “Anh em hèn mọn” do anh sáng lập đã được nhiều người đến xin gia nhập và trở thành một dòng tu lớn trong Giáo Hội. Sau khi qua đời, anh được Hội Thánh phong hiển thánh tức là thánh Phan-xi-cô Át-si, hoặc Phan-xi-cô khó khăn hay Phan-xi-cô Năm Dấu.

3. SUY NIỆM:

Hầu như mọi người sông trên trần gian đều mong và đi tìm cho mình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nhưng thế nào là hạnh phúc thật sự thì người ta lại không đồng quan điểm với nhau: Phải chăng giàu có phú quý sẽ mang lại hạnh phúc? Nhưng thực tế lại cho thấy không hẳn như vậy như trong phim ảnh cũng có bộ phim tựa đề là: “Người giàu cũng khóc”. Phải chăng quyền cao chức trọng sẽ mang lại hạnh phúc? Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại như câu ca dao Việt Nam: “Càng cao càng cả gió lay. Càng cao danh vọng càng dày gian truân”… Tin mừng ngày lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay đã dạy chúng ta bài học của Đức Giê-su về Tám Mối Phúc Thật. Các thánh là những đấng đã lắng nghe Lời Chúa và sống theo các mối phúc nên đã được Hội Thánh đặt lên bàn thờ làm gương mẫu cho chúng ta noi theo.

1) Hiến Chương Nước Trời:

Có lẽ không người Công Giáo đạo đức nào lại không thuộc kinh “Phúc Thật Tám Mối” hay Hiến Chương Nước Trời do Đức Giê-su rao giảng. Nếu đối với người tín hữu chúng ta: Tám Mối Phúc Thật là một bản liệt kê lối sống cao thượng vị tha, thì đối với một số người khác: Tám Mối Phúc Thật chỉ là các tính nết của loài vật như triết gia Nietzsche. Theo ông này, chỉ có loài vật mới nhẫn nhịn chịu đựng sự chà đạp của những kẻ quyền thế bóc lột. Đối với một số người khác như triết gia Karl Marx: Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời đường mật và hứa hẹn về một thiên đàng xa xôi không tưởng, là thuốc phiện ru ngủ giai cấp công nhân khi khuyên họ hãy im lặng chịu đựng những sự áp bức bất công do giai cấp thống trị gây ra ! Vậy đâu là ý nghĩa và giá trị đích thực của Tám Mối Phúc Thật trong Tin Mừng hôm nay?

2) Ý nghĩa tích cực của Tám Mối Phúc:

Đức Giê-su chỉ công bố một Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật, nhưng lại được hai Tin Mừng của Mát-thêu và Lu-ca thuật lại dưới hai góc độ, tuy khác nhau nhưng lại bổ túc cho nhau.

+ Về sự đói khát: Tin Mừng Lu-ca nói đến những nạn nhân của các bất công xã hội là những người đói cơm ăn thiếu áo mặc. Họ sẽ được Thiên Chúa bù đắp sự thiệt thòi như lời Chúa Giê-su: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng” (Lc 6,21),. Còn Tin mừng Mát-thêu nhấn mạnh đến sự đói khát công lý và sự khao khát muốn muốn nên hoàn thiện: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5,6).

+ Cứu thế ngay từ đời này: Sứ vụ của Đức Giê-su không những là cứu rỗi linh hồn ở đời sau, mà còn cứu giúp bênh vực những người nghèo khổ vật chất ngay đời này khi ưu tiên cho người nghèo đói được gia nhập vào Nước Thiên Chúa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó. Vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Thực tế cho thấy Hội Thánh sơ khai gồm đại đa số là những người nghèo khó vì thiếu cơm ăn áo mặc và bị bệnh tật không tiền thuốc thang chữa trị. Họ được vào Hội Thánh để được cộng đoàn chia sẻ tình thương và không còn bị nghèo khổ như trước. Còn Tin Mừng Mát-thêu nhấn mạnh đến khía cạnh luân lý là tinh thần nghèo khó hay sự nghèo khó trong tâm hồn: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3). Qua đó cho thấy: Không phải mọi người đang bị nghèo đói đều có phúc và đều được gia nhập vào trong Nước Trời, nhưng phải là những người nghèo ý thức về tội lỗi của mình để “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, để từ nay không còn tham lam ích kỷ và sống siêu thoát, thể hiện qua việc chọn lối sống đơn giản về nhà ở, vật dụng, xe cộ, ăn xài… dùng tiền bạc để chia sẻ và phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Đức Giê-su.

3) Thực hành Tám Mối Phúc ngay từ hôm nay:

+ Nguyên nhân khiến người tín hữu bị người đời bách hại là vì người đời đã không chấp nhận tin Đức Giê-su và Tin Mừng Nước Trời của Người như Người đã nói: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15,18). Ðây cũng chính là số phận của các tín hữu trong các thời đại. Nhưng dù có bị cấm cách bách hại nhưng chúng ta vẫn phải kiên trì tin yêu Chúa, qua thái độ yêu thương tha thứ cho những kẻ thù ghét làm hại mình noi gương Đức Giê-su: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34), hay như phó tế Tê-pha-nô khi bị người Do thái ném đá đã nhìn lên trời và nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”… Họ ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin: “Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông quỳ xuống, kêu lớn: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi ông an nghỉ (Cv 7,55-56.59-60).

+ Nước Trời hay Nước Thiên Chúa không chỉ là nước thiên đàng đời sau, nhưng đã bắt đầu hình thành ngay trong cuộc sống hiện tại của người tín hữu, qua lối sống công bình vị tha bác ái, thái độ cảm thông huynh đệ, biết quan tâm chia sẻ cơm áo vật chất và đáp ứng các nhu cầu của những người nghèo bất hạnh ở bên cạnh. Người tín hữu chúng ta là những người “sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về trần gian” (x. Ga 17,14-16), vì “Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (x. Pl 3,20). Tuy nhiên, niềm tin về một cuộc sống hạnh phúc mai hậu ấy không làm cho chúng ta xao lãng những bổn phận ở trần gian. Cần xác tín rằng: Chính qua những sự việc trần thế, chúng ta mới gặp được Nước Trời và mới đạt được hạnh phúc thiên đàng sau này.

4) Sống thánh giữa đời:

+ Khi phong thánh cho ai là Hội Thánh xác nhận người đó đã có một cuộc sống hoàn thiện ở trần gian noi gương Chúa Cha trên trời như lời Đức Giê-su dạy: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48); Hoặc các ngài đã sống “hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29), đã sống hiếu thảo với Thiên Chúa như Đức Giê-su đã được Cha xác nhận sau khi chịu phép rửa tại sông Gio-đan: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Hội Thánh đã tôn vinh một số tín hữu lên bậc hiển thánh nghĩa là chính thức công bố danh tánh của các ngài trong lễ tuyên phong để công nhận các ngài đang được hưởng hạnh phúc trên Thiên Đàng vì ở trần gian các ngài đã sống theo Tám Mối Phúc Thật của Đức Giê-su. Từ đây các ngài được các tín hữu chúng ta tôn kính, noi gương bắt chước và cầu xin các ngài chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta. Ngoài một số ít vị hiển thánh, còn rất nhiều tín hữu cũng đã được Thiên Chúa ban thưởng hạnh phúc trên trời, nhưng qua đông nên không được nêu danh tính, trong đó có nhiều người là thân nhân ông bà cha mẹ của chúng ta. Hội thánh mừng kính chung các ngài trong ngày lễ 1/11 và gọi là lễ Các Thánh Nam Nữ.

+ Ngày nay, nếu muốn được hưởng hạnh phúc Nước Trời trên Thiên đàng đời sau, các tín hữu chúng ta cần vững tin vào Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, và biết thể hiện đức tin bằng việc thực hành đức cậy và đức mến. Mỗi ngày các tín hữu chúng ta hãy xét mình và ăn năn sám hối tội lỗi và tình nguyện sống theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su, đồng thời tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng cho anh chị em lương dân chưa biết Chúa. Để nên thánh, chúng ta cần năng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa mỗi khi tham dự thánh lễ, năng xưng tội rước lễ. Hằng ngày còn phải năng học sống Lời Chúa chung tại nhà thờ hoặc năng đọc Lời Chúa và suy niêm Lời Chúa trong giờ Kinh Tối gia đình, chu toàn việc bổn phận và năng thực hành các việc bác ái chia sẻ phục vụ tha nhân kèm theo lời nguyện tắt.

4. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong tám mối phúc Chúa dạy hôm nay, con thấy mối phúc quan trọng nhất và bao gồm mọi mối phúc khác là “Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người luôn tin cậy phó thác cuộc đời cho Chúa và cầu nguyện không ngừng; Là người ý thức sự nghèo khó bất lực của mình, nên không xem thường tha nhân và luôn phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa; Là người luôn ăn ở hiền lành và khiêm nhường trong lòng noi gương Chúa khi xưa. LẠY CHÚA. Người Mã Lai đã có câu châm ngôn so sánh các bậc vĩ nhân với những kẻ tiểu nhân như sau: “Cây lúa nào càng nặng trĩu hạt thì càng rạp sâu xuống sát mặt đất. Ngược lại: cây lúa nào càng nghểnh lên cao thì lại càng ít hạt”. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và nghèo khó. Cho chúng con biết “Nói ít làm nhiều”, luôn từ tốn, khiêm nhu và hòa nhã với mọi người. Nhờ đó, chúng con sẽ nên giống Chúa hơn, sẽ có được Nước Trời làm gia nghiệp đời này và đời sau.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.