Trang

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

DẠY GIÁO LÝ LÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN


DẠY GIÁO LÝ LÀ GIÁO DỤC ĐỨC TIN



Trong phần thứ nhất, chúng ta đã đề cập đến việc dạy giáo lý như là Tác vụ Lời Chúa, hay nói cách khác dạy giáo lý là phục vụ Lời Thiên Chúa. Việc phục vụ Lời được Giáo Hội thực hiện trong suốt dòng lịch sử mà đỉnh cao là mặc khải của Đức Kitô. Trong bài này chúng ta xét đến đối tượng chính của mặc khải đó là đức tin, lời đáp trả của con người với vấn nạn của Lời. Đứng trước sự kiện Lời Thiên Chúa, con người phải đáp trả bằng thái độ của đức tin: trong đó giáo lý được xem như vai trò trung gian mà Giáo Hội dùng để đặt con người vào trong sự hòa điệu với Lời Thiên Chúa đồng thời trợ giúp con người tăng trưởng đức tin.

1.    Đức tin là gì?

Thuật ngữ “đức tin” theo nguyên ngữ Do thái, đó là he’ emîn (từ gốc là ‘aman) chỉ việc một người đặt niềm tin của mình vào một người khác mà người đó “cảm thấy chắc chắn”, “tin vào” người có thể “mang lấy” sức nặng hoặc sự yếu đuối của mình[1]. Vì thế, tin vào Thiên Chúa có nghĩa là nhận biết Thiên Chúa và để Thiên Chúa mang lấy “emeth”, nghĩa là dựa vào lòng trung thành và sự vững chắc của Ngài, tin là thưa “amen” (tiếng amen có nghĩa: đây là điều chắc chắn, bất di bất dịch, xứng đáng để tin) với Thiên Chúa, Đấng trung thành với những lời Ngài hứa và Ngài có quyền năng thực hiện lời hứa ấy. Trong Tân ước, đức tin luôn luôn duy trì đặc tính tin tưởng, gắn bó và phó thác hoàn toàn, tuy nhiên cũng cần coi trọng nội dung đức tin, điều mà tôi tin, nghĩa là biến cốsứ điệp Tin Mừng được thực hiện trong cuộc sống, sự chết và phục sinh của Đức Kitô[2].
“Đức tin” vừa là một hành vi tin tưởng hay tín thác “ fides qua”, vừa là điều được tin hay được tuyên xưng “fides quae”. Cả hai khía cạnh cùng liên kết với nhau cách bất khả chia tách, vì tin tưởng là hành vi gắn bó với một sứ điệp có nội dung khả tri, và việc tuyên xưng đức tin không thể chỉ là động tác của môi miệng, nhưng phải xuất phát từ cõi lòng (THNN, 13).

1.1.   Đức tin là hành vi đáp lại Lời Thiên Chúa

Lời Thiên Chúa không giản lược đơn thuần vào việc giảng dạy, mà được xem như lời gợi ý giữa hai nhân vị: Thiên Chúa và con người, trước sự kiện ấy, con người không thể thụ động cũng không thể khép kín vào việc lắng nghe cách miễn cưỡng như bị buộc phải nghe, bởi vì trong cuộc sống của những người được đức tin mời gọi, thì lời Thiên Chúa ào đến như một sức mạnh phân rẽ, như một lời “khuấy động” ngăn cản sự ù lì trong sự thờ ơ. Hiểu như thế nên người ta phải nói đến ý nghĩa của hữu thể và kịch tính của việc Thiên Chúa mặc khải trong lịch sử.
[…] “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm 10,17). Ở đây, thánh Phaolô nói đến hai điểm quan trọng. Một đàng, […] đức tin khởi đi từ việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, luôn luôn “nhờ quyền năng của Thần khí Thiên Chúa” (Rm 15,19). Đàng khác, […] những phương thế cần thiết để Lời Thiên Chúa đạt đến tai con người: chủ yếu nhờ vào những người được sai đi để công bố Lời và khơi dậy niềm tin (x. Rm 10,14-15)… (THNN, 10).

Lời Thiên Chúa, trong mọi khía cạnh, luôn là một lời chất vấn đòi hỏi sự đáp trả: là lời mặc khải, có nghĩa là ánh sáng phải được đón nhận; là lời hứa đòi hỏi sự phó thác và kiên tâm; là lời mời gọi cá nhân, nghĩa là đòi hỏi dấn thân trong những bước thăng trầm của cuộc sống; là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vì thế lời trở thành lời xét xử để cứu độ hoặc kết án tùy theo lời được đón nhận hay bị từ chối. Thực ra con người bị xét xử tùy theo thái độ của mỗi người đối với lời: “ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người” (Mc 8,38).

1.2.   Đức tin là sự tin tưởng phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa

Trong Kinh Thánh đức tin được diễn tả như sự phó thác của toàn thể con người, sự phó thác này không đơn thuần là việc gắn bó trí hiểu hoặc tuân thủ đạo đức, mà là sự hài hòa với bản tính năng động của cuộc sống và tính cá vị của lời Chúa. Đức tin trong Kinh Thánh liên quan đến toàn bộ con người với tất cả mọi năng lực của nó, mời gọi con người đáp lời Thiên Chúa đã mặc khải và trao ban trong sự chuyển động toàn thể của ý chí, lý trí, tình cảm và hoạt động.
Nhờ đức tin, con người trao phó toàn vẹn bản thân cho Thiên Chúa, trong một hành vi suy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí đối với Thiên Chúa là Đấng mặc khải (THNN 11).

Người tín hữu, theo nghĩa Kinh Thánh, là người “chấp nhận quy phục và phó thác nơi Thiên Chúa bằng đức tin, đặt niềm tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa, nhận Ngài là Chân Lý, tìm sự nâng đỡ nơi Ngài chứ không phải nơi chính mình, và như vậy trở thành người vững vàng của chân lý và niềm kiên vững nơi Thiên Chúa”[3]. Sự gắn bó này không hiểu theo nghĩa trí năng nhưng là sự gắn bó với Chân lý:
“Đối với người Do thái, chân lý không phải là một đối tượng mà người ta có thể biết như là một sự vật, tùy vào người diễn tả nó; và khi người ta nói đến Chân lý, niềm tin là người ta dựa vào Đá tảng nhiệm mầu là Thiên Chúa chân thực và hằng sống, là sự cảm nghiệm không ngừng tính kiên vững của nó”[4].

1.3.   Đức tin là quà tặng và ân sủng

Lời đáp trả đức tin là ơn ban của Thiên Chúa (HDTQ 55) không chỉ vì Thiên Chúa luôn có sáng kiến trong việc Ngài đến gặp gỡ con người, nhưng trên hết, đó là vì hành vi mà con người đón nhận lời Ngài dưới tác động của Thánh Thần và vì thế là quà tặng của ân sủng:
Để có được đức tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước nângđỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần, Đấng lay chuyển và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và cho “mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” (DV 5).

Cho nên sáng kiến tối cao của Thiên Chúa trong kế hoạch cứu độ thể hiện cách trọn vẹn, bởi vì sáng kiến ấy chú trọng đến việc con người đáp trả Lời. Đức tin không thể có nếu như đang khi Thiên Chúa ban tặng, mà nơi thâm tâm con người không hề có sự biến đổi nội tâm và không sẵn sàng lắng nghe:
“Trong Cựu ước, Lời có tác động ngược trở lại, Thiên Chúa như là tác giả đầu tiên, Ngài có một “ý định”. Chính Thiên Chúa tiền định và lôi kéo. Chúa hoặc Chúa Thánh Thần đặt để ý định ấy nơi thâm tâm con người, Ngài mở đôi tai (để họ lắng nghe). Tóm lại, lời mặc khải người ta hướng đến đức tin, lời có “một tinh thần mặc khải”.[5]

Như vậy, đức tin kitô giáo như là một lời mời gọi, một ơn gọi.

Tóm lại, đức tin hoàn toàn không phải là sản phẩm có thể làm ra, cũng không phải là điều do con người tạo ra. Tin là đón nhận một điều lớn lao hơn những thứ con người có thể nghĩ ra, làm nền tảng nâng đỡ và mở ra cho khả năng tri thức và hành động của con người. Đối với Kitô hữu, tin là đón nhận Thiên Chúa, đón nhận những điều Chúa nói và đã làm cho ta, là nền tảng xác lập cuộc đời của mình. Tin vào Chúa là tựa nương vào Ngài như nền tảng cuộc sống, nhờ đó mà con người có được ý nghĩa cuộc sống và đứng vững trong cuộc sống. Đức tin đem lại cho con người ý nghĩa cuộc sống và ý nghĩa đó không những đi trước mọi tính toán và hành động của con người mà còn là điều kiện thiết yếu để con người có thể tính toán và hành động.

Theo Đức Thánh cha Bênêđictô XVI, “con người không sống nguyên bằng cơm bánh và bằng những gì con người làm ra, mà còn sống như một con người, và để làm người cách chân thực nhất, đúng nghĩa nhất mà họ cần đến Lời, cần đến Tình Yêu và Ý Nghĩa. Nếu không có Lời, không có Ý Nghĩa, không có Tình Yêu thì dù cuộc sống có thừa mứa tiện nghi đi nữa, con người vẫn rơi vào tình trạng vô vọng, không thể sống nổi … Theo Kitô giáo, tin là tín thác vào ý nghĩa có sức nâng đỡ chúng ta và cả thế giới này. Tin là đón nhận ý nghĩa đó như nền tảng vững vàng mà tôi an tâm tựa nương … Tin đối với Kitô hữu là biến cuộc đời mình thành tiếng xin vâng, là đáp lại Lời, đáp lại Logos là nền tảng đỡ nâng và gìn giữ mọi sự. Tin là đón nhận và tín thác trọn vẹn bởi hiểu rằng, ý nghĩa là quà tặng chứ không phải là sản phẩm của mình”[6].

2.    Giáo dục và giáo dục đức tin

Theo J. A. Jungmannn, “giáo dục là dẫn đến thực tại toàn vẹn” và S. De Giacinto giáo dục là "tiếp tục sinh ra". Theo nghiên cứu của Liên hiệp Giáo chức Công giáo Ý/UCIIM, giáo dục là “trao tặng một sự trợ giúp, một sự nâng đỡ và hướng dẫn nhắm đến những điều mới mẻ của xã hội, trong suốt tiến trình trợ giúp đó, người thụ giáo không ngừng ý thức để tiến đến tự lập”. Theo J. Dikov thì giáo dục là “những sửa đổi có kế hoạch của con người (đều là quyết định tự do), đặc biệt trong những năm tuổi trẻ, nhờ vào sự can thiệp bên ngoài”.

Tóm lại, có thể nói giáo dục là sự thăng tiến, sự kết cấu những khả năng cơ bản một cách chắc chắn để con người sống một cuộc sống có ý thức, có tự do, có trách nhiệm trong sự hòa hợp với những người khác, với ảnh hưởng của thời gian và tuổi tác, với sự liên kết chặt chẽ giữa người với người trong đời sống xã hội theo trật tự lịch sử, giữa nội tại cá nhân với siêu việt.

2.1.   Ý nghĩa của thuật ngữ giáo dục

Theo nguyên ngữ, người ta phân biệt hai trường hợp, trường hợp thứ nhất, từ educare (educate)có nghĩa là nuôi nấng, dạy dỗ, trau dồi, những nghĩa này liên quan đến bình diện hữu cơ, thuộc lãnh vực thể lý nhiều hơn (chăm sóc, trông nom, cứu trợ, chăm lo, nuôi dưỡng: theo cách này, giáo dục được hiểu như là sự hoàn thành việc khai sinh, như là sự chăn dắt, được nuôi dưỡng bởi sự chuyển giao và bởi việc học tập, văn hóa) trong khi đó từ educere có nghĩa là kéo ra, đưa ra ngoài, phát triển, nghĩa này liên quan nhiều hơn đến nội tâm/tinh thần, (theo cách này, giáo dục được hiểu như là việc “khơi gợi nhận thức” [pp của Socrate], nghĩa là kéo ra ngoài, khơi dậy, phát triển những tiềm năng, tiềm lực, khả năng, của chủ thể trong sự hỗ tương của môi trường cũng như mạng lưới tương quan giữa người với người trong xã hội).

Trong lịch sử, người ta sử dụng thuật ngữ này đồng nghĩa với sự phát triển, tăng trưởng, học tập, huấn luyện, xã hội hóa, hội nhập văn hóa, chỉ dẫn, giáo huấn, luyện tập, cập nhật; những từ này gợi đến những môi trường có tổ chức như gia đình, học đường, giáo hội, nhóm, hiệp hội, phong trào, đồng thời xã hội cũng cho nó một ý nghĩa phức tạp mang tính trách nhiệm trong hệ thống truyền thông đại chúng. Trong ngôn ngữ hiện đại, nhất là Anh ngữ, từ education rất gần với giáo dục học đường, trong khi người ta dùng thuật ngữ bringing up để chỉ sự tăng trưởng (đặc biệt trong gia đình), training để chỉ sự thích nghi với hành động, và từ erziehung nhấn mạnh đến sự can thiệp vào tiến trình biến đổi con người.

Được đặt trong tiến trình phát triển-huấn luyện, giáo dục được hiểu như là sự giúp đỡ cá nhân và xã hội nhằm cổ võ sự tăng trưởng và thăng tiến phẩm chất nhân bản đời sống chính mình và người khác, đời sống cá nhân và cộng đoàn, tập trung vào nhân cách đang được huấn luyện (so với những hoạt động xã hội về việc thăng tiến nhân bản); nhắm đến chiều kích đơn nhất và tổng thể của con người (về những hoạt động huấn luyện khác); mở rộng việc cổ võ vững chắc khả năng về ý thức, tự do, trách nhiệm và liên đới, cùng với các tiến trình lịch sử của sự phát triển và thăng tiến nhân bản.

2.2.  Giáo dục toàn diện[7]

Theo cái nhìn của Khoa nhân học toàn diện thống nhất, "Nhân loại, mọi con người, có một nền tảng linh thánh mà họ phải khám phá, để đi xa hơn chính mình và nó dẫn con người đi xa hơn bản ngã của nó, đó chính là Thiên Chúa."[8] Pascal nói rõ "con người vượt trên chính mình" (L'uomo supera infinitamente l'uomo). Đức tin có cái nhìn về con người rất mới, ngay cả giữa tội lỗi nữa, vì
"Đức tin không phải là một cái gì rời rạc hoặc chỉ liên kết chặt chẽ với cái gì là nhân bản, lịch sử, trần thế (tạm bợ) hoặc thế tục, song đúng hơn là sinh lực bên trong những thứ này; nó cho con người sự soi sáng và ý nghĩa mới và cũng làm cho con người thành siêu việt, trải rộng chân trời của con người vượt qua những biên giới của lịch sử."[9]

Chỗ khác,
"Chúng ta không được tổ chức công cuộc của mình trên nền tảng là sự chia tách giữa điều linh thánh và trần tục. Nhưng đang khi chấp nhận sự kiện là điều linh thánh và trần tục khác biệt nhau, chúng ta cố gắng cho thấy tại sao tất cả công việc đang làm thì đều liên kết và hiệp nhất trong Đức Kitô."[10]

Con người tốt lành, trưởng thành không phải chỉ vì con người có các nhân đức. Đúng hơn, các nhân đức của họ được thống nhất, hòa hợp với nhau quanh một trục chính. Đức tin không để các nhân đức đứng cạnh nhau như trong bản liệt kê các nhân đức trong thần học. Không ít lần, chúng ta trình bày, quan niệm và tập tành các nhân đức tiếp liền theo nhau. Đời sống như thể chất đống các nhân đức. Quả vậy,
"Đời sống thiêng liêng không hệ tại ở một bảng liệt kê những nhân đức rời rạc nhau, nhưng đúng hơn hệ tại ở cấu trúc cân xứng hài hòa và hòa điệu với nhau toàn vẹn, trong một sự liên kết hỗ tương và với một vài sự nhấn mạnh vốn tạo thành một diện mạo đặc biệt. Những nhân đức nơi một người đúng hơn là những giá trị và thái độ cốt yếu làm đặc trưng sắc thái một phong cách sống biệt loại nào đó."[11]

Vậy ra, giáo dục đích thực sẽ là giáo dục đức tin, tức là giáo dục tới đức tin và trong đức tin, mà cốt yếu đưa tới sự thống nhất đời sống. Chắc chắn, các nhà giáo dục sẽ cống hiến cho đứa trẻ cơm ăn áo mặc phần xác, huấn nghệ và cả lương thực nuôi lý trí. Nhưng trên hết, chúng ta giúp rộng mở trước chân lý và kiến tạo sự tự do của chính mình, giúp chúng thưởng nếm những giá trị chân thật sẽ dẫn chúng đến sự thánh thiện Kitô giáo.[12] Sự thống nhất đời sống này được hiểu là sự thay đổi tận bên trong mà các ngôn sứ nói tới:  Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài là chủ của tâm hồn mà thôi.

2.3.  Loan báo Tin Mừng bằng giáo dục và giáo dục bằng Loan báo Tin Mừng

Giáo dục bằng Loan báo Tin Mừng

Hẳn nhiên, giáo dục và loan báo Tin Mừng là hai hoạt động khác nhau. Giáo dục thuộc diện văn hóa, rao giảng Tin Mừng thuộc diện đức tin. Thế nhưng, coi chúng độc lập, hay tệ hơn, tách biệt riêng rẽ hai hoạt động này. Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến khuynh hướng cắt nghĩa giáo dục thuần túy dưới bình diện duy tục. Nó giản lược nhà giáo dục thuần túy là người cho kiến thức mà thôi. Nhưng chưa đủ. Giáo dục liên quan đến tiến trình nhân vị hóa, "qui chiếu đến tiến trình hấp thụ những giá trị nhân bản phức hợp đang tiến hóa, với mục đích biệt loại của chúng và tính hợp pháp nội khởi."[13] Nó không liên quan nhiều đến
"việc áp đặt những nguyên tắc cho bằng làm cho tự do ngày một trách nhiệm hơn, liên hệ với lương tâm, phẩm chất chân chính của tình yêu và những chiều kích xã hội... nó có điều gì đó chung với tình cha tình mẹ như thể chia sẻ tiến trình khai sinh nhân bản đối với những giá trị nền tảng như lương tâm, chân lý, tình yêu, công việc, công bằng, tình liên đới, phẩm giá sự sống, công ích, quyền lợi cá nhân. Vì lẽ này nó quan tâm tránh bất kỳ cái gì hạ giá và lệch lạc: ngẫu tượng, bạo lực, ích kỷ, v.v. Mục đích của nó là mang đến sự tăng trưởng của người trẻ từ bên trong, hầu họ trở thành một người lớn có trách nhiệm và cư xử như một người công dân chính trực."[14]

Như thế, ta thấy không thể cổ xúy một sự tách biệt giữa hai thực tại trên được. Đúng hơn, giáo dục phải lấy khởi hứng đầu tiên của Tin Mừng và loan báo Tin Mừng, đòi buộc ngay từ đầu được thích ứng vào những hoàn cảnh thay đổi của đứa trẻ, thiếu niên, thanh niên. Cách chúng ta loan báo Tin Mừng hướng tới đào luyện những người trưởng thành theo mọi nghĩa của hạn từ. Nền giáo dục của chúng ta nhằm rộng mở trước Thiên Chúa và định mệnh đời đời của con người."[15] Nền giáo dục như thế phải để ý một vài yếu tố sau:
"nhân vị là ưu tiên đối với những quan tâm thể chế hay ý thức hệ; chăm sóc đến khung cảnh mà phải phong phú trong những giá trị nhân bản và kitô hữu; phẩm chất và tính kiên định Tin Mừng của lời đề nghị văn hóa được trình bày trong các hoạt động và chương trình; tìm thiện ích chung, cam kết đối với những kẻ thiếu thốn nhất; vấn nạn về ý nghĩa đời sống, cảm thức siêu việt và rộng mở cho Thiên Chúa... Là nhà giáo dục Kitô hữu là người đảm trách công việc giáo dục coi nó như cộng tác với Thiên  Chúa trong sự tăng trưởng của nhân vị."[16]

Loan báo Tin Mừng bằng giáo dục

Loan báo Tin Mừng không bao giờ bị giản lược vào huấn giáo hay phụng vụ mà thôi, nhưng tìm được chỗ của mình trong tất cả những hoàn cảnh sư phạm/văn hóa của giới trẻ. Chúng ta đang nói về đức ái phúc âm được làm thành cụ thể... trong việc cổ xúy và giải phóng người trẻ bị bỏ rơi và để mặc chúng muốn làm gì thì làm.

"Loan báo Tin Mừng bằng giáo dục" có nghĩa là biết làm thế nào để cống hiến Tin tuyệt hảo (con người Đức Giêsu) bằng cách thích ứng nó và kính trọng những hoàn cảnh tiến hóa của một người. Người trẻ tìm hạnh phúc, niềm vui sống, quảng đại hy sinh để đạt được điều này, nếu chúng ta chỉ cho chúng một con đường thuyết phục và nếu chúng ta dấn thân như những người bạn đường có uy tín. Chúng ta phải là nhà giáo dục và loan báo Tin Mừng. Là người loan báo Tin Mừng chúng ta biết và tìm ra mục tiêu: đem người trẻ tới với Đức Kitô; như nhà giáo dục, chúng ta phải biết làm thế nào bắt đầu từ những hoàn cảnh cụ thể của thanh thiếu niên và thành công trong việc tìm ra phương pháp thích hợp để đồng hành với họ trong tiến trình trở nên trưởng thành. Thật là xấu hổ nếu như người mục tử không nhận ra mục tiêu giáo dục và nhà giáo dục không thể tìm ra phương pháp thích hợp để thúc đẩy người trẻ khởi sự hành trình của chúng và để đồng hành với họ cách khả tín.[17]

3.    Dạy giáo lý là giáo dục đức tin

Giáo lý được xem như là phương tiện mà Giáo Hội dùng để giáo dục đức tin theo nghĩa trợ giúp hoán cải và dẫn đến sự trưởng thành đức tin thông qua việc nội tâm hóa thái độ tin. Nhưng nếu đức tin là một ơn ban và là lời đáp trả tự do của con người với Thiên Chúa thì giáo lý có thể giáo dục đức tin được không?

3.1.   Có thể giáo dục đức tin không?

Nếu đức tin là hành vi con người đáp trả Lời Thiên Chúa, là sự tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, là quà tặng và ân sủng của Thiên Chúa, thì giáo lý chỉ được xem như là trung gian của việc giáo dục và như là công cụ, nhằm phục vụ cuộc gặp gỡ khôn tả giữa con người với Thiên Chúa.

Điều này không có ý nói có sự khác biệt giữa hoạt động của Thiên Chúa và hoạt động của con người là việc dạy giáo lý. Và hoạt động giáo dục của giáo lý viên chính là hoạt động của ân sủngđối với sự phát triển đức tin. Thật vậy chúng ta biết rằng ân sủng của Thiên Chúa thấm nhập vào những hoạt động của Giáo Hội, ân sủng cứu độ của Thiên Chúa ở nơi Giáo Hội trong những gì có thể đụng chạm được.

Trong những giới hạn của mình, bản chất xác thực của giáo dục theo nghĩa toàn vẹn của hoạt động giáo lý, bao gồm sự tăng trưởng đức tin và sự năng động trưởng thành nhân bản. Một nguyên lý tồn tại và có giá trị đối với công cuộc loan báo TM: “Loan báo Tin Mừng nhờ giáo dục và giáo dục nhờ loan báo Tin Mừng” (HDTQ 147) cũng được áp dụng cho giáo lý, như là “hành trình giáo dục có phẩm chất” (HDTQ 147). Vì thế giáo lý phải trở nên sự thúc đẩy, trợ giúp, can thiệp có chủ đích vào sự tăng trưởng cá nhân, nội tâm hóa và tự do, nhằm phục vụ một kế hoạch sống, mở ra với các giá trị và có khả năng phê bình, phân định. Sư phạm đức tin sẽ không bao giờ làm ngơ trước những đòi hỏi của Lời Chúa và sự đáp trả đức tin, vì thế gợi hứng đến “sư phạm của Thiên Chúa” (x. HDTQ 139-147), nhưng điều này không làm hại đến bản chất nhạy bén về sư phạm của giáo lý.

Chính vì thế giáo lý được hình dung như việc khai tâm và giáo dục đức tin trong toàn bộ cuộc sống và sự phong phú của các chiều kích. Nhiệm vụ giáo lý liên quan đến thái độ tin như là lời đáp trả cá nhân và trọn vẹn cho kế hoạch sống kitô hữu, đó là sự gắn bó và “đi theo” Chúa Kitô. Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý nhắc đi nhắc lại bản chất của giáo lý như là “sự huấn luyện toàn diện” (HDTQ 84) nhắm đến toàn bộ con người:
“Việc đào tạo có tổ chức này còn hơn là một sự giảng dạy: đó là một cuộc tập luyện toàn bộ đời sống Kitô giáo, “một sự khai tâm Kitô giáo trọn vẹn”[18] dẫn đến cuộc sống đích thực theo Đức Kitô, tập trung vào Ngôi Vị của Người. Thực vậy, đó là việc giáo dục để nhận biết và sống đức tin sao cho qua những kinh nghiệm sâu sắc của mình, con người toàn diện tự cảm thấy mình phong phú nhờ Lời Chúa” (HDTQ 67).

3.2.   Những bổn phận của giáo lý trong việc giáo dục đức tin

Nếu nói giáo lý là giáo dục đức tin, thì chúng ta phải hiểu nhiệm vụ giáo dục đức tin của giáo lý nằm trong những phạm vi nào. Khởi đi từ sự hoán cải đến sự trưởng thành đức tin qua việc nội tâm hóa các thái độ thì nhiệm vụ của giáo lý trong việc giáo dục đức tin có thể diễn tả như sau:

3.2.1.  Bổn phận của giáo lý là hỗ trợ và khơi dậy hoán cải

“Khi loan báo Tin Mừng mặc khải cho thế giới, việc rao giảng Phúc Âm mời gọi mọi người hoán cải và tin theo (HDTQ 53). “Đức tin là một hồng ân được phát triển trong tâm hồn người tín hữu. Thực vậy, việc gắn bó với Chúa Giêsu Kitô, mở ra một tiến trình hoán cải thường xuyên đến suốt đời” (HDTQ 56).

Hoán cải là thời điểm cơ bản và hợp nhất sự năng động đức tin, gợi lại việc loan báo Tin Mừng đầu tiên, không phải là giáo lý. Nhưng điều này không có thể cho rằng việc hoán cải quy định tình trạng văn hóa và mục vụ đã nói tới. Ở đây giáo lý phải cố gắng
“… không những nuôi dưỡng và giáo dục đức tin mà còn luôn luôn khơi dậy đức tin với sự trợ giúp của ơn Chúa, mở rộng tâm hồn, cải hóa, chuẩn bị sự gắn bó hoàn toàn với Đức Giêsu Kitô, nơi những người còn ở ngưỡng cửa đức tin (CT 19).

Hoán cải như là sự gắn bó hoàn toàn với Đức Kitô, có thể xảy ra theo những cách thức và thời điểm khác nhau, nhưng luôn tồn tại yếu tố thiết yếu đó là sự năng động của một đức tin đang tăng trưởng. Mức độ tăng trưởng này không đồng đều, có thể nhanh hoặc chậm ở mỗi người.

Vả lại, việc hoán cải không là một bước độc lập và duy nhất, mà được hiểu như là cấu trúc chuyển động, không ngừng lặp lại của toàn bộ việc xây dựng đức tin cá nhân. Có thể nói rằng, việc hoán cải xảy ra một cách đặc biệt trong những thời điểm quan trọng của cuộc sống, và nhờ sống sự hoán cải “thời mạnh” này, đức tin được hồi sinh và làm thành bước nhảy vọt của sự gắn bó có ý thức vào kế hoạch của Thiên Chúa nhập thể trong những tình huống quan trọng ấy. Điều này làm ta liên tưởng đến những giai đoạn sống: thơ ấu, thiếu niên, vào đời, chọn nghề, hôn nhân, bệnh tật, cái chết; hoặc liên tưởng đến những thời kỳ chuyển tiếp và những thời điểm quan trọng trong cuộc sống (của những chọn lựa quan trọng, tai nạn, thành công, khủng hoảng, vv.). Trong những tình huống này mỗi người cũng như mỗi nhóm được rèn luyện đức tin, làm bật lên sự hoán cải hướng đến kế hoạch của Thiên Chúa.

Ngoài ra người ta cũng nghĩ đến tình trạng của xã hội hậu hiện đại đương thời, trong tiến trình biến đổi không ngừng với sự sùng bái tạm bợ, phân hóa cũng như nghĩ đến những khủng hoảng phổ biến của xã hội hóa tôn giáo. Người ta có thể đưa ra giả thuyết cho tương lai, không những cấp tốc cổ võ những tiến trình khai tâm đức tin đúng đắn trong cái nhìn hoán cải, mà còn là dự đoán cuộc đời ở những thời điểm khai tâm, để nâng đỡ hành trình tăng trưởng đức tin.

3.2.2.Bổn phận của giáo lý cổ võ và củng cố thái độ tin

Giáo dục thái độ kitô hữu hình thành dung mạo của sự liên kết và quyết định của nhiệm vụ giáo lý, nhằm đưa người ta đến việc tuyên xưng đức tin“sống động, tỏ tường và mãnh liệt” (HDTQ 56). Đây là yếu tố quyết định của sự tăng trưởng đức tin. Duy chỉ việc nội tâm hóa thái độ trưởng thành của đức tin mới giải thoát giáo lý để khỏi giản lược vào việc dạy tôn giáo, hoặc vào việc chuẩn bị lãnh bí tích, hay là tuân giữ những lề luật (mà không hề được nội tâm hóa). Duy chỉ qua sự trưởng thành những thái độ đức tin đúng đắn và đích thực, giáo lý mới trở thành việc khai tâm đúng đắn, nghĩa là đi vào “mầu nhiệm” của sự sống kitô hữu, ngang qua những chặng đường đời, những thử thách và những cách thức biến đổi.

Nếu như câu hỏi được đặt ra ở đây: đâu là những thái độ hình thành một cách cụ thể mục đích trọng tâm của giáo lý, người ta có thể nhắc lại quan niệm kinh thánh truyền thống khi đặt những thái độ nền tảng về đức tin, đức cậy và đức mến nơi trung tâm cuộc sống kitô hữu. Đức tin được củng cố bởi đức cậy và được chỉ dẫn bởi đức mến: đây là hệ thống vững vàng của những thái độ mà giáo lý phải khơi dậy và dẫn đến mức độ trưởng thành. Thánh Augustinô đã tóm lược điều đó trong một cách diễn tả dễ nhớ: “bất cứ điều gì anh kể lại, hãy nói làm sao để người ta nhờ nghe mà tin, nhờ tin mà hy vọng, nhờ hy vọng mà yêu mến” (De catechizandis rudibus, IV, 8 (PL 40, 316). Có thể nói:

-   Việc trợ giúp sự tăng trưởng thái độ tin có nghĩa là khơi dậy một cách cụ thể ý nghĩa của sự  ngoan ngoãn, lắng nghe và phó thác cho Lời Thiên Chúa trong Đức Kitô; nhất là đưa đến việc gắn bó vào Đức Kitô một cách vô điều kiện hoàn toàn cá nhân,trong tình yêu và tin tưởng, như là điểm quy chiếu thiết yếu cho chính cuộc sống mình. Trong ý nghĩa này, ta nói đến việc “bước theo Chúa Kitô” (CT 20), việc “tuyên xưng đức tin” (HDTQ 66), và “tâm thức đức tin” như là mục đích của giáo lý:
“Việc giáo dục để có tư tưởng của Đức Kitô, để nhìn lịch sử như Ngài, để nhận định cuộc sống như Ngài, để chọn lựa và yêu thương như Ngài, để hy vọng như Ngài dạy, để sống sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Ngài. Tắt một lời, nuôi dưỡng và hướng dẫn tâm thức đức tin, là sứ mạng căn bản của những ai dạy giáo lý nhân danh Giáo Hội” (Canh tân Giáo lý, 38).

-   Việc trợ giúp sự trưởng thành đức cậy, như là chiều kích thiết yếu của thái độ niềm tin kitô giáo, nghĩa là giáo dục để có sự tin tưởng bền vững vào những lời Thiên Chúa hứa, để có sự tín thác và trông chờ ơn cứu độ, sự kiên nhẫn trước những tai ương, hoạn nạn, sự phó thác vào Thiên Chúa, Đấng thúc đẩy lòng gan dạ từ bỏ mọi hình thức tự mãn. Sống trong niềm hy vọng cũng có nghĩa là bám rễ vào một sự lạc quan nền tảng trước lịch sử và tương lai (“đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể” Lc 1,37) và dấn thân một cách sống động vào việc phục vụ một thế giới nhân bản và gần gũi hơn với kế hoạch Nước Trời, mà không hề nản lòng cũng như không khép mình lại trong sự cam chịu thụ động.

-   Việc trợ giúp sự tăng trưởng đức tin hình thành bởi đức mến nghĩa là đưa đức tin đến sự hoàn hảo của đức mến, đó là “giới răn mới” (Ga 13,34-35), sự “hoàn hảo của lề luật” (Rm 13,8-10), dấu ấn làm cho đức tin có hữu hiệu và có giá trị (Gal 5,6; Ep 6,14-15). Bởi vì luật trung tâm của đời sống người kitô hữu là tình yêu của Thiên Chúa hoàn tất trong tình yêu của con người, bao gồm sự phong phú và tầm quan trọng của thái độ mà lề luật gồm tóm trong: tình yêu nồng nàn đối với Đức Kitô nơi anh em; từ bỏ mọi hình thức ích kỷ và gian trá; sẵn lòng chia sẻ; liên đới trong việc phục vụ mọi người, đặc biệt là những người nghèo, vv…Hiểu như thế, sự tăng trưởng trong đức tin phải làm cho người kitô hữu trưởng thành trong sự chọn lựa luân lý căn bản, sự hiểu biết những giá trị và như vậy là huấn luyện một nhân cách có đạo đức vững chắc.

3.2.3.Bổn phận của giáo lý là dẫn đến sự hiểu biết trọn vẹn sứ điệp kitô giáo

Việc dạy giáo lý trong chức năng giáo dục đức tin, không được quên yếu tố cơ bản đó là nội dung(“fides quae”). Vì thế, nhiệm vụ của việc dạy giáo lý là giúp hiểu biết mỗi ngày một sâu xa và hoàn hảo hơn mầu nhiệm kitô giáo:
“Ai đã gặp Đức Kitô luôn mong được biết Người rõ hơn, cũng như mong được biết kế hoạch của Chúa Cha mà Người đã mặc khải. Việc gắn bó với đức tin (fides qua) đòi hỏi sự hiểu biết các nội dung đức tin (fides quae)”(HDTQ 85; x. CT 20).

Vì thế người ta gán cho giáo lý những nhiệm vụ “loan truyền những kiến thức về đức tin” (Sứ điệp Thượng Hội Đồng ’77, 9), dẫn nhập vào việc đọc Sách Thánh (CT 27) và việc nội tâm hóa những “tín biểu” đức tin (CT 28).

Nhiều khi việc dạy giáo lý bị tố giác là giản lược một cách không thích đáng vào việc truyền bá kiến thức tôn giáo. Rất thường hoạt động giáo lý rơi vào tính phiến diện rõ ràng này do việc làm biến dạng dung mạo sứ điệp kitô giáo và gây ra một sự nhồi sọ mê muội. Nhưng sự phản ứng không phải là đưa đến một sự nghèo nàn về văn hóa mà đánh giá thấp vai trò không thể thay thế sự hiểu biết trong mọi tiến trình trưởng thành nhân bản. Cơ bản là biết kết hợp sự phát triển hiểu biết trong sự năng động tăng trưởng đức tin để những giải thích khái niệm nảy sinh tự bên trong những thái độ tin, như lời đáp trả những chất vấn thực tế mà đời sống kitô hữu nêu lên. Trong ý nghĩa này, sự hiểu biết đức tin, nhất là việc nuôi dưỡng văn hóa hoặc là uyên thâm về tôn giáo, trở thành nhữngbiểu hiện và động lực để nâng đỡ và làm cho kế hoạch cuộc sống kitô hữu có ý nghĩa.

Nhiệm vụ của giáo lý như là việc giảng dạy giờ đây nổi lên hai vấn đề đáng chú ý: (1) tính toàn vẹncủa nội dung và (2) việc ghi nhớ như là phương pháp và mục đích của việc dạy giáo lý.

Vấn đề toàn vẹn của nội dung

Về vấn đề này, những đòi hỏi cấp bách trong các văn kiện chính thức đã được nhìn nhận để việc dạy giáo lý là việc loan truyền toàn bộ giáo huấn, sứ điệp kitô giáo hoàn hảo:
“Trong công việc hội nhâp văn hoá về đức tin này, việc dạy giáo lý phải truyền đạt sứ điệp Tin Mừng trong sự toàn vẹn và tinh ròng của nó […] Cho nên, một tiêu chuẩn cơ bản cho việc dạy giáo lý là gìn giữ tính toàn vẹn của sứ điệp, bằng cách tránh những lối trình bày phân mảnh hay méo mó” (HDTQ 111; x. CT 30).

Đòi hỏi thần học này, tự nó, thường có nguy cơ gây tổn hại không ít đến việc cần thiết chính đáng của sư phạm so với những điều kiện thực tế và khả thể của con người và tổn hại cả đến những đòi hỏi của việc truyền thông tôn giáo có ý nghĩa và hữu hiệu. Thật vậy không được quên rằng việcgiảng dạy giáo lý phải thích hợp với việc giáo dục đức tin, và như thế nhắm vào sự trưởng thành của thái độ. Sự hiểu biết đức tin không phải là cùng đích, nhưng nó gắn kết với diễn biến trưởng thành đức tin.

Cụ thể, lời giáo huấn (huấn quyền) và suy tư giáo lý cống hiến một vài tiêu chuẩn cho phép điều hòa những đòi hỏi mâu thuẫn nhau:
·      Tiêu chuẩn tiệm tiến và thích hợp với học viên giáo lý. Mối liên quan giáo dục không thể không biết đến tính tiệm tiến về những đòi hỏi và khả năng của mỗi tín hữu trên hành trình trưởng thành. Tính toàn vẹn đức tin luôn là “mục đích” phải đạt tới (x. HDTQ 1971, 38), nhưng luôn luôn cần thiết đề nghị “một cách tuần tự, theo gương sư phạm của chính Thiên Chúa, Đấng đã tự mặc khải một cách tiệm tiến theo từng mức độ. Sự toàn vẹn phải kèm theo một sự thích nghi đúng đắn” (HDTQ 112).
·      Tiêu chuẩn “hệ thống những chân lý”. Nguyên lý này có ý nghĩa đặc biệt trong lãnh vực đại kết (x UR 11), nó có thể và cũng phải được áp dụng trong lãnh vực giáo lý. Trong lãnh vực đức tin, việc chứng nhận truyền thống tín biểu và sự phân biệt cổ điển giữa đức tin tiềm ẩn và minh nhiên cũng như giữa hệ thống thần học và hệ thống hiện sinh của những chân lý đức tin không có tầm quan trọng như nhau.
·      Tiêu chuẩn của tính toàn vẹn “sâu xa”. Thượng Hội Đồng 1977 về giáo lý khẳng định rằng tính toàn vẹn của nội dung giáo lý được hiểu theo nghĩa cô đọng, chứ không bao quát hoặc giải thích một cách đầy đủ như sau:

“Phương pháp loan truyền Tin Mừng (= Thánh Kinh) theo nghĩa cô đọng có truyền thống trong Giáo Hội, người ta phân biệt một cách dạy giáo lý khác đó là truyền thụ toàn bộ sứ điệp mặc khải kitô giáo theo một tiêu chuẩn hoàn toàn bao quát, minh nhiên hoặc phân tích; đối với tiêu chuẩn hiện hành này, cần phai trình bày cho các học viên giáo lý hầu như mọi thứ, từ khai mào lịch sử Giáo Hội, đến công đồng đại kết và những giáo huấn mà ĐGH Rôma đã định rõ (theo nghĩa hẹp) về đức tin và tập tục. Một giáo thuyết phức tạp như thế chắc chắn để các thần học gia điều tra và nghiên cứu chứ các tín hữu không cần phải học, trừ khi không có gì nguy hại đến việc phủ nhận hoặc bỏ quên bất cứ chân lý nào”.

Vấn đề ghi nhớ

Việc học để nhớ những công thức hoặc bài diễn giải giáo lý có nguồn gốc từ rất xa xưa và ngày nay thỉnh thoảng cũng thấy nổi lên trong phong trào giáo lý. Vai trò của việc ghi nhớ được các văn kiện nhắc nhở (x. CT 55; HDTQ 154), mặc dù cũng nhận ra những giới hạn và nguy cơ của nó. Thật vậy, theo phong tục, việc ghi nhớ có tính chủ động của nó và ngày nay việc ghi nhớ cũng vẫn còn hình thành trong những địa phương khác nhau như một công cụ thiết yếu trong việc truyền bá văn hóa. Nhưng mặt khác người ta cũng than phiền sự vô ích và vô lý trong giáo dục về việc học nhớ mà không đi đến một sự trưởng thành của những thái độ tin đích thực.

Sự giải quyết dung hòa vấn đề này tìm thấy trong việc hòa nhập trí nhớ vào tiến trình tổng thể của giáo dục đức tin như là nội tâm hóa những thái độ. Và như thế từ bên trong tiến trình giáo dục tổng thể đang sử dụng việc ghi nhớ ấy có sự rèn luyện trí nhớ, sự rèn luyện đó có một tầm quan trọng giáo dục lớn. Giờ đây, nếu nói đến sự hòa nhập và cùng đích giáo dục trí nhớ, thì phải nói đến việc ghi nhớ thuần túy khái niệm, hoặc chỉ là mệnh lệnh đòi hỏi hoàn tất giáo huấn, hay những gì tương tự. Cụ thể là:
·           Nên nhớ rằng không phải là việc rèn luyện trí nhớmàlà học để nhớ. Đúng là sự phát triển niềm tin kitô giáo đòi hỏi đối chiếu với truyền thống kinh thánh và Giáo Hội và vì thế có rất nhiều ký ức và sự gợi nhớ về gia sản kinh nghiệm kitô giáo. Nhưng những đối chiếu như thế không cần phải biến thành những công thức học để nhớ.
·           Có thể là hữu ích, cần thiết gấp nhiều lần, việc ghi nhớ những biểu hiện di sản kitô giáo thích hợp việc nội tâm hóa đức tin và việc thực hành đời sống kitô hữu, như một số biểu hiện kinh thánh, những hình thức phụng vụ, cầu nguyện, và những cái khác tương tự.

3.2.4.Bổn phận của giáo lý là giáo dục lối sống kitô hữu

Trong sự năng động của việc giáo dục đức tin, như tiến trình trưởng thành những thái độ, không thể thiếu thành tố hành vi, mà giáo lý đóng góp vào sự rèn luyện những hình thức hạnh kiểm và đời sống kitô hữu khác nhau. Các văn kiện về giáo lý chỉ ra những nhiệm vụ khác biệt như: giáo dụccầu nguyện chiêm niệm, khai tâm bí tích và phụng vụ, huấn luyện luân lý¸ giáo dục hòa bình và công lý, chuẩn bị cho việc dấn thân xã hội và chính trị, tăng cường mục đích đại kết, vv…

Có thể sắp xếp việc này chung với những nhiệm vụ nhờ đối chiếu với bốn chức năng của Giáo Hội: phục vụ (diaconia), hiệp thông (koinonia), làm chứng (martyria) và phụng vụ (liturgia):
-          Bổn phận của giáo lý là giáo dục việc thi hành đức ái và phục vụ (diaconia). Thuộc về lãnh vực này là sự khai tâm những hình thức làm chứng kitô giáo cho thế giới, khai tâm việc thi hành tình yêu và sự phục vụ vô vị lợi, trách nhiệm đối với công lý và hòa bình, hoạt động xã hội và chính trị để thăng tiến và giải thoát, vv.
-          Giáo lý là giáo dục ý nghĩa hiệp thông và đời sống cộng đoàn (koinonia). Thuộc về lãnh vực này liên quan đến đời sống cộng đoàn kitô hữu: tinh thần huynh đệ và chia sẻ, khả năng truyền thông, đối thoại và tham gia vào Giáo Hội, sự vâng phục quân bình và trưởng thành quyền bính. Cũng bao gồm việc cổ võ mục đích đại kết.
-          Bổn phận của giáo lý là khai tâm việc lắng nghe và công bố Lời Chúa (martyria). Dạy giáo lý chính là thời điểm “làm chứng”, hoặc là tác vụ Lời Chúa, phải được giáo dục tham dự có ý thức vào việc làm ngôn sứ của Giáo Hội. Điều này bao hàm việc khai tâm đọc Kinh Thánh, giáo dục việc lắng nghe Lời Chúa trong Giáo Hội và trong thế giới, theo nghĩa tích cực, là sự chuẩn bị cho việc dấn thân tông đồ và truyền giáo.
-          Cũng là bổn phận của việc dạy giáo lý đó là việc khai tâm vào mầu nhiệm cử hành kitô giáo (liturgia). Ở đây nhắc đến khái niệm cổ điển về việc dạy giáo lý, như là việc chuẩn bị lãnh nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, và tham dự phụng vụ một cách có ý thức và sống động. Giáo dục cầu nguyện và suy niệm cũng là sự quan trọng đáng kể trong bối cảnh này, nó được kể như những thời điểm không thể thay thế của đời sống đức tin.
-          Cuối cùng, giáo lý cũng giáo dục việc chọn ơn gọi và sứ vụ. Giáo lý phải giúp người ta khám phá vai trò của mình trong xã hội và trong Giáo Hội. Như vậy giáo lý trở thành một công cụ định hướng ơn gọi, cho việc khám phá và trưởng thành những đặc sủng và tác vụ khác nhau để phục vụ cộng đoàn.

Md. Phạm Thúy


THAM KHẢO
BỘ GIÁO SĨ, Hướng dẫn tổng quát việc dạy giáo lý, 1997.
EMILIO ALBERICH, La catechesi oggi. Manuale di Catechetica fondamentale (Giáo lý ngày nay. Sách học về Việc dạy giáo lý căn bản),Elledici (TO), 2001, 125-156.
FACOLTÀ DI SCIENZE DELL’EDUCAZIONE. UNIVERSITÀ PONTIFICIA SALESIANA, a cura di J. M. PRELLEZO – G. MALIZIA – C. NANNI, Dizionario di Scienze dell’Educazione,tái bản lần II, Las – Roma, 2008.
NGUYỄN VĂN AM, Bài thuyết trình: Giáo dục bằng Phúc âm hóa và Phúc âm hóa bằng giáo dục, Đại hội giáo lý Toàn quốc, Hà Nội, 2011.
NGUYỄN VĂN HIỀN, Bài thuyết trình: Đức tin có ý nghĩa gì trong thế giới hôm nay, hay, lời tuyên xưng “tôi tin” có ý nghĩa gì hôm nay?, Khóa bồi dưỡng giáo lý viên, Kontum, 2012.
ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Thần học ngày nay, 2011.




[1]Y. CONGAR, La fede e la teologia, 85.
[2]M. LUBOMIRSKI, L’esitenza Cristiana nella fede speranza e carità (Traccia delle lezioni), Roma, Ed. Pont. Univ. Gregoriana 1995, 49-50 ; F. ARDUSSO, Imparare a credere. Le ragioni della fede Cristiana. Cinisello Balsamo (Mi), Paoline 1992, 33-38.
[3]Y. CONGAR,La fede e la teologia, Roma, Desclée e C. 1967, 84-85.
[4]X. LÉON-DUFOUR, “Credere in Dio”, in: Grandi temi biblici, Alba, Paoline 1960, 99.
[5]Y. CONGAR, La fede e la teologia, 23-24.
[6]J. RATZINGER, Đức tin Kitô giáo hôm qua và hôm nay, bản tiếng Việt của Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam, Hà Nội 2009, 73-74
[7]NGUYỄN VĂN AM, Bài thuyết trình Giáo dục bằng Phúc âm hóa và Phúc âm hóa bằng giáo dục, Đại hội giáo ly Toàn quôc, Hà Nội, 2011.
[8]P. Chavez, "Education and Citizenship..."
[9]Vigano, Salesian Spirituality for the New Evangelization, p. 12.
[10]FSDB 15.
[11]Cẩm nang giám đốc, chương 6
[12]X. Cẩm nang Giám đốc, chương 5.
[13]P. Chavez, "Educating with the heart of Don Bosco"
[14]P. Chavez, ibid.,
[15]P. Chavez, ibid.,
[16]P. Chavez, ibid.
[17]P. Chavez, ibid.
[18]CT 21.

http://giaolyductin.net/newsview/vn/1156/DAY-GIAO-LY-LA-GIAO-DUC-DUC-TIN-.html

THẦN HỌC BỐI CẢNH [ÁP DỤNG VÀO HUẤN GIÁO]: NHỮNG CÁM DỖ VÀ LỢI ÍCH

THẦN HỌC BỐI CẢNH [ÁP DỤNG VÀO HUẤN GIÁO]:
NHỮNG CÁM DỖ VÀ LỢI ÍCH

[NHẰM MỞ RA NHỮNG HƯỚNG ĐÀO TẠO GIÁO LÝ VIÊN]


Anh chị em thân mến,

Chúng ta mong muốn có một nền thần học được Việt hóa một cách nào đó để có thể trình bày giáo lý của Đức Kitô mà Giáo hội nhận lãnh như một kho tàng với một sự mới mẻ, phong phú và hiệu quả. Điều ấy hẳn là phúc lành của Thiên Chúa cho Việt nam. Nhưng phải chăng là một mong muốn chưa được thể hiện? Tôi không bi quan cũng không quá lạc quan, vì biết rằng con đường trước mắt còn dài, nếu không nói là xa vạn dặm. Nhưng ít nhất đã có chút nào đó rồi. Chúng ta không thấy điều đó trong những vở tuồng hát chèo Tin mừng ư? Chúng ta không thấy điều đó trong những vở cải lương Tin mừng ư? Chúng là gì nếu không phải là một thứ Tin mừng được Việt hóa? Chúng không phải là thứ thần học đã được ứng dụng vào huấn giáo sao? Dĩ nhiên đó mới là bước đầu. Điều ấy muốn nói rằng phần kế tiếp sẽ là của những người sinh viên thần học, những giáo lý viên đang đến đây với niềm thao thức đó. Một thần học được Việt hóa không thể thành đạt mà không có các bạn cùng nhau liên kết và làm việc. Tôi chỉ làm một việc mời gọi và cùng với các bạn đưa ra vài hướng đi mà thôi.

Chính vì thế, đề tài tôi trình bày với anh chị em hôm nay là về những "cám dỗ và lợi ích" của một thần học mang tính bối cảnh được áp dụng vào huấn giáo. Tôi sẽ không nêu ra hết mọi điểm lợi hay nguy cơ. Tôi chỉ đưa ra những hướng suy tư để từ đó chúng ta có thể lợi dụng được những đóng góp của cả cộng đoàn dân Chúa (vì chủ thể làm thần học không phải là từng tín hữu cách cá nhân và riêng rẽ, song chính là cộng đoàn đức tin, cộng đoàn Giáo hội trong một địa phương).

Tôi sẽ trình bày đề tài bằng cách cho thấy yêu cầu không thể né tránh của việc suy tư đức tin trong bối cảnh để có thể thông truyền đức tin ấy cho thế hệ kế tiếp. Từ đó, tôi nêu lên chiều sâu của một thái độ như thế trong suy tư thần học với những nguy cơ của chủ nghĩa tương đối trong đức tin vẫn có đó.

I. KHỞI ĐI TỪ KINH NGHIỆM TRONG HUẤN GIÁO

1. Các bạn đừng buồn nếu tôi đưa ra một vài nhận xét sau đây. Tại sao? Vì người đưa ra nhận xét cũng đã từng là kẻ vi phạm nó. Thật vậy, một trong những ưu tư chính đáng của giáo lý viên là nắm vững kiến thức đức tin thật chính thống. Khi nhận một lớp giáo lý, chẳng bạn nào mà không ưu tư rằng tôi có trình bày đúng không? Lỡ ra lại lạc giáo thì khốn. Ưu tư đó rất chính đáng. Chính từ ưu tư đó mà anh chị em nỗ lực học hỏi hết lớp này đến lớp khác về tín lý. Ưu tư đó bắt anh chị em liên tục quy chiếu, nếu không muốn nói là thuộc lòng, các thủ bản giáo lý. Điều ấy thật tuyệt vì không một nỗ lực nào để tăng trưởng kiến thức đức tin lại thành vô ích.

2. Tuy thế, cũng có một kinh nghiệm khác không kém thực sự. Chúng ta trình bày cùng một kiến thức đức tin đó cho mọi người chúng ta gặp hay chịu trách nhiệm: cho lớp khai tâm cũng như trong lớp thêm sức hay bao đồng hay vào đời. Người dự tòng có thể cũng nghe cùng một điều với những thuật ngữ không khác nhau bao nhiêu trong các lớp trên. Hạn từ chúng ta sử dụng quả là chính thống đến độ không khác chút nào. Lớp giáo lý của một người kinh và lớp giáo lý của một người dân tộc thiểu số đều vang lên cùng  một ngôn ngữ, cùng những thuật ngữ chuyên môn. Dường như chúng ta không cần tự hỏi họ có hiểu ngôn ngữ của chúng ta hay không. Đừng buồn anh chị em, bởi lẽ không phải chỉ có một mình anh chị em đâu. Chính tôi cũng đã từng rớt vào. Khi còn là thày, tôi dạy dự tòng, theo kiểu từng người một; nhưng tôi chẳng cần để ý họ là ai, học lực bao nhiêu, làm nghề gì. Tôi cứ thao thao giảng những gì tôi đã dọn, sợ rằng cháy giáo án, và nhất là sợ "sai" tín lý. Rồi, khi làm linh mục, tôi giảng lễ cho thiếu nhi bằng những từ ngữ to lớn của thần học và triết học cũng y như giảng lễ cho người lớn, người bình dân cũng như người bác học. Chính tôi cũng sợ dùng những ngôn ngữ đã có trong bồ khôn ngoan của dân Việt để diễn đạt đức tin vì nhỡ ra tôi lại "lạc giáo" mất. Nỗi sợ ấy trùm kín đến độ làm cho cảm thức đức tin bị nghẹt thở: khi tôi hỏi lại người nghe nắm bắt được gì, họ chỉ im lặng với đôi mắt tròn xoe. Hình như Thiên Chúa qua cách tôi giảng dạy vẫn rất xa với họ, đang khi mà mục đích của thần học là mang Thiên Chúa trở nên gần gũi với từng người.

3. Khi tôi nêu lên nhận xét này, xin đừng hiểu lầm rằng tôi đang phê bình anh chị em giáo lý viên. Tôi luôn trân trọng và quý mến các anh chị em giáo lý viên, trẻ cũng như lớn tuổi, bởi vì sự hy sinh và quảng đại của họ. Hy sinh những gì bề ngoài không thể sánh với những hy sinh về giờ giấc, nghỉ ngơi, và đời sống. Anh chị em giáo lý viên đều quảng đại, chẳng tiếc gì cho Thiên Chúa, cho Giáo hội, cho các thanh thiếu niên. Đó là điểm son mà tôi luôn trân trọng. Đó là gương sáng cho tôi. Thế nhưng tôi nêu chúng ra để có thể cùng nhau đi tìm một hướng đi dựa trên những đoạn đường đã qua. Không ai mà chưa bước đi trên đường đức tin. Và không đoạn đường đã trải qua nào mà không có giá trị.

Kinh nghiệm trên mời gọi chúng ta hãy đi xa hơn để làm cho việc rao giảng Chúa Giêsu của chúng ta nên hữu hiệu, không phải ở diện lý thuyết và suy lý, nhưng ở diện yêu mến và biến đổi.

Thật vậy, có một câu chuyện vui của người Đông phương tôi lấy từ cuốn earthing the gospel  của A. Arburkle cho chúng ta suy nghĩ. Một ngày kia, con khỉ và con cá chịu một trận lụt rất lớn. Con khỉ mau lẹ nhảy lên một cây rất cao và an toàn. Từ đó nhìn xuống, nó thấy con cá bị nhồi lên nhồi xuống. Thương cho con cá, con khỉ cúi xuống để cứu con cá. Không hạnh phúc chút nào, con cá đột nhiên cắn vào tay con khỉ một cú thật đau. Thấy cá vô ơn, con khỉ tức giận ném mạnh con cá xuống dòng sông ấy!!! Ông nhận định như sau:
"Như nước dành cho cá, vì văn hóa cũng dành cho con người - chân lý ấy khó mà nắm vững trừ phi, như con cá, chúng ta kinh nghiệm vết thương là đột nhiên bị sống (hiện hữu) ở ngoài văn hóa, không có một cảm thức thuộc về. Chúng ta những nhà loan báo tin mừng và thần học gia, nhiều khi hành xử như con khỉ trên kia: có đầy thiện ý, song lại chẳng mảy may nhạy cảm về văn hóa là gì hay văn hóa hoạt động như thế nào. Kết quả là những cố gắng nghiệp dư và miễn cưỡng ở hội nhập văn hóa có thể rất tai hại về mục vụ. Để can dự hoàn toàn vào cuộc đối thoại giữa tin mừng và văn hóa, chúng ta cần nhiều thứ hơn là chỉ thiện ý của con khỉ trên kia!"[1]

Thực ra rất xưa, Giáo hội đã chỉ dẫn phải làm cho thần học, những chân lý của Thiên Chúa đi vào trong bối cảnh địa phương. Tài liệu của Giáo hoàng chỉ dẫn như sau: Đừng phá đổ đền miếu của lương dân, song hãy thay đổi mọi sự ở trong đó dưới ánh sáng của Tin mừng.[2]

II.  ĐẾN TIẾNG KÊU MỜI TỪ GIỮA LÒNG NHÂN LOẠI

1. Chỉ dẫn trên khiến chúng ta dọi chiếu lại lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Những gì nói trên có điều gì rất giống với kinh nghiệm về việc dạy giáo lý trong lịch sử truyền giáo tại Việt nam. Cristoforo Borri thuật lại một ngày kia Francesco Buzomi, một nhà truyền giáo đầu tiên tại Việt nam, xem một vở hài kịch của dân gian Việt nam. Trong đó, tay hề mang một chiếc túi, trong đó giấu một đứa nhỏ. Ông ta lôi đứa nhỏ từ trong chiếc túi ra. Ông giơ cao đứa nhỏ, dõng dạc dùng y hệt những lời mà các nhà truyền giáo hỏi người được rửa tội theo nhái âm: này nhỏ, mày có muốn vào bụng của người Bồ đào Nha không? Dân chúng cười ngất vì trò hề đó! Nhưng Buzomi không cười. Ông biết chắc các nhà truyền giáo không muốn hỏi và trình bày như thế. Nhưng ngôn ngữ sử dụng hay cách diễn đạt các ngài nói lên có điều gì không ổn khi những người nghe lại hiểu như vậy. Bằng cách đó, ông đã tìm ra được câu hỏi đích thực khác: "con có muốn vào đạo Kitô chăng?" Quả thực, một khi không chỉ quan tâm đến sứ điệp Tin mừng được trình bày mà còn nhạy bén trước những con người nghe, nhờ ánh sáng đức tin và nhiệt tình loan báo Tin mừng, chính những người loan báo Tin mừng có thể nhận ra được những dấu chỉ của Thiên Chúa mà rất có thể đến từ những người nghe để  giáo hóa chính mình và nếm được Thiên Chúa vượt xa mọi phạm trù.

Soren Kierkegaard cũng kể một câu chuyện và được Harvey Cox sử dụng lại cho luận đề của mình, để nói tới mối nguy của một sứ điệp không được "hợp thời". Có một gánh xiếc. Họ đến và làm cho dân làng cười thỏa thuê. Chiều hôm sau, bỗng nhiên ngọn lửa ấp xuống gánh xiếc. Ông chủ gánh xiếc sai tay hề chạy vào làng để cầu cứu. Tay hề, vì quá vội, không kịp thay áo quần, để yên y phục sửa soạn diễn hài, chạy vào làng xin đến cứu giúp. Dân làng ra xem. Họ đứng yên không nhúc nhích. Tay hề càng lên tiếng nài xin, đến độ quỳ xuống, khóc lóc xin họ. Thế nhưng, dân làng càng cười, nghĩ rằng đây là một chiêu quảng cáo mới cho buổi diễn sắp tới. Cuối cùng, ngọn lửa đến thiêu rụi cả làng. Lúc đó họ mới biết lời của tay hề kia là thật!

Câu chuyện trên có thể nói lên một chân lý thực tiễn dưới diện một lời cảnh cáo đối với các tín hữu trong việc trình bày Tin mừng: Trình bày một sứ điệp, một chân lý mà không để ý đến những gì chung quanh có thể trở thành bị chế nhạo; chính vì thế, việc hội nhập văn hóa hay xây dựng một nền thần học cho địa phương quả là cần thiết và là một bổn phận, bó buộc.

Hẳn rằng đối với tôi, câu truyện trên không muốn nói rằng chỉ cần thay đổi ngôn ngữ cho phù hợp với người nghe là lập tức nhân loại sẽ trở về qui phục đức tin. Nếu thế thì quả là đơn giản. Đức tin không phải là kết quả của việc thay đổi ngôn ngữ sao cho phù hợp với người nghe. Chính Ratzinger cho ta những nhận xét mạnh mẽ như sau:
"Có chắc là chỉ cần 'cập nhật hóa', chỉ cần rửa hết phấn sáp, chỉ cần dùng thứ ngôn ngữ thời thượng, tục hóa hay núp dưới áo của một thứ đức tin Kitô phi tôn giáo, nghĩa là bỏ đi lớp vỏ tôn giáo, là mọi thứ sẽ đâu vào đấy? [...] Theo thiển ý, ngày nay, nhiều luồng thần học đang xuất hiện đây đó cũng đang rơi vào thái độ khá ngây thơ như thế, nghĩa là cố thuyết phục thiên hạ bằng cách lột bỏ lớp vỏ cũ kỹ để mặc vào mình bộ áo văn minh hiện đại. [...] Nếu biết phản tỉnh, kẻ rao giảng đức tin hẳn sẽ nhận ra rằng, khó khăn mà thần học đang gặp phải không chỉ là vấn đề hình thức bên ngoài hay do xáo trộn về trang phục."[3]

Thế nhưng, xem thường ngôn ngữ diễn tả cho những con người cụ thể quả đúng là một tội mà Vatican II nêu rõ. Chính Đức Phaolô VI cũng như Gioan XXIII trong diễn văn khai mạc công đồng đã đòi buộc Giáo hội của Vatican II đã loại đi được chiếc áo của thời Constantin đã khoác trên dung nhan Giáo hội từ lâu rồi. Đức Phanxicô mới đây còn nói rõ hơn rằng trong một Giáo hội như thế, ta rất dễ nhân danh truyền thống mà thật ra chỉ là những tập tục của một thời đại văn hóa đặc thù để làm lu mờ sứ điệp Tin mừng vốn có thể đi vào mọi nền văn hóa và đổi mới nó.[4]

Suy nghĩ sâu hơn nữa, chúng ta nhận ra rằng không phải chỉ chúng ta mới cần đến một nền giáo lý được nhập thể xứng tầm với hiện trạng của người nghe vì được nền thần học để ý đến bối cảnh hỗ trợ, mà cả những người hưởng nhận sứ điệp cũng đang mong chờ. Thật vậy, trong trình thuật hai môn đệ Emmaus, họ gặp phải những vấn đề mà trước kia họ chưa bao giờ lường được. Và Đức Giêsu đồng hành với họ không phải bằng cách mang đến cho họ một giải đáp làm sẵn. Không. Trái lại, Người thúc đẩy chính họ tìm được những giải đáp chân thật cho những thất vọng rất hiện sinh của họ bằng một "kiến thức sống" của Tin mừng, ta có thể nói như thế ở đây. Tin mừng khơi nguồn những giải đáp cho những vấn đề mà mỗi thời đại nhân loại đặt ra dường như chẳng bao giờ lường trước được.[5] Và nếu nền huấn giáo thất bại để nhìn ra và trình bày chúng, con người thời đại đó có thể mang một hình ảnh sai lạc về Thiên Chúa đến độ có thể khước từ Ngài. Chính Vatican II cảnh báo rằng những trình bày không đúng, sai lạc về Thiên Chúa có thể là duyên cớ của vô thần.[6]

III. KHÁM PHÁ SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA BA YẾU TỐ: SỨ ĐIỆP, NGƯỜI GIẢI THÍCH, BỐI CẢNH

Nếu thanh thản nhờ đức tin hướng dẫn và phân định, chúng ta có thể thấy Thiên Chúa cống hiến cho chúng ta những dấu chỉ trong văn hóa hôm nay. Thật vậy, đứng ở một góc cạnh nhân bản mà triết học thế kỷ 20 đề cao, chúng ta thấy phải nhấn mạnh đến tính toàn vẹn của con người. Con người ngập chìm trong toàn thể trước khi chú ý đến đặc thù. Theo Husserl, con người luôn tri giác hình thể, Gestald, con người luôn tri giác một đối tượng trên một chân trời. Một đối tượng chỉ là chính mình trong liên đới với những gì chung quanh như một chân trời cho nó xuất hiện. Không một vật nào được tri giác riêng, song luôn xuất hiện trước một chân trời. Thế giới là chân trời của mọi chân trời. Tri thức luôn đến từ cuộc đối thoại giữa chủ thể tính và thực tại và chân trời làm sáng tỏ ý nghĩa của từng vật đặc thù. Cùng một hướng đích, nhưng dưới một góc cạnh khác, J. Paul Sartre cũng như Merleau Ponty nhấn mạnh đến chỗ đứng của thân xác trong tất cả những loại tri thức. Mà thân xác thì luôn mang tính chất cá thể, cá nhân, thân xác của tôi hay của anh. Nó được đóng khung trong một nơi chốn, thời gian, xã hội và lịch sử. Không có một thân xác chung cho mọi người: tôi là thân xác của tôi, đúng như G. Marcel chân nhận. Như thế, thân xác tác động nhiều đến tri giác, suy nghĩ, nhận thức.

Từ đó nhân học hiện đại mạnh mẽ nhắc nhớ chúng ta rằng có một mối tương quan năng động giữa sứ điệp, người giải thích và khung cảnh. Một sứ điệp có giá trị không bao giờ đứng riêng biệt tự nó. Sứ điệp luôn được gởi đến những con người cụ thể với những yếu tố văn hóa, xã hội, chính trị và tôn giáo, chưa kể đến những yếu tố tâm lý của từng người. Nói thế, ta không rơi vào chủ nghĩa tương đối, muốn cắt nghĩa sứ điệp ra sao cũng được. Ta không nói ý đó. Ta chỉ muốn nói khi công bố sứ điệp chúng ta phải tìm cho ra được sứ điệp ấy đáp ứng thế nào với những khao khát sâu xa nhất của những con người chúng ta được sai đến.[7] Bằng không, có những nguy cơ mà có lẽ Chúa Giêsu dùng hình ảnh viên ngọc được ném cho bầy heo.

Khi suy niệm những gì Vatican II nói về con người trong thời đại tân tiến, Đức Gioan Phaolô II đã mệnh danh Giáo hội là chuyên viên về con người. Tước hiệu đó, ngài không muốn nói cho một Giáo hội chung chung, trừu tượng, vì Giáo hội như thế đó không có. Đúng hơn, ngài nói cho từng người tín hữu, từng giáo lý viên, từng thần học gia. Điều ấy khiến chúng ta phải giật mình, vì chúng ta có thật sự là như vậy không. Nếu đúng là như vậy, chúng ta không thể nào công bố sứ điệp mà trước đó không cùng nhau tìm hiểu và đánh giá hiện trạng của những người chúng ta được sai tới. Đây không phải là chuyện vô ích hay thừa thãi. Đúng hơn, đó là một bó buộc. Thế nhưng, chúng ta cũng thường lãng quên điều này hơn cả. Lượng định, đánh giá hiện trạng, để thấy rõ Thần khí đang hoạt động ở nơi đó như thế nào và sứ điệp Tin mừng sẽ có thể đến và đổi mới nó từ ngõ ngách nào, đúng là một tuyệt đối cần thiết, không thể né tránh. Xét như thế, tính đa nguyên trong giải thích không phải là điều khó hiểu. Đúng hơn, đối với tôi, một giải thích đồng phục mới đúng là không thể tưởng tượng được. Bằng cách ấy, lắng nghe và phân định là điều thiết yếu mà Công đồng nói đến bằng hạn từ "đọc dấu chỉ thời đại"[8] hay thánh Phaolô nói về việc phân định thần khí. Không phải hay sao một sứ điệp tôn giáo mà được một nhà chính trị giải thích khác biệt biết bao với một nhà xã hội học hay một thần học gia và triết gia.

Về điều này, Howland Sanks muốn nói cho chúng ta như sau:
"Tất cả Kitô hữu đều phải hiểu thế giới trong đó họ sống, đấy thật là quan trọng. Thì việc đó còn quan trọng hơn cho các thần học gia và các mục tử...Tin mừng sẽ chỉ có ý nghĩa đối với chúng ta nếu nó rõ ràng liên hệ với tình trạng đương thời của chúng ta. Và chúng ta chỉ có thể sống Tin mừng nếu chúng ta hiểu những nhu cầu của thời đại chúng ta và chỗ đứng của mình."[10]

Chúng ta cho rằng chủ thể giải thích sứ điệp Tin mừng chính là Giáo hội.[11] Và như thế chẳng phải là đồng phục sao? Thật ra, để xây dựng được một khoa huấn giáo với sự hỗ trợ của thần học chân chính về bối cảnh, chúng ta sẽ thay đổi rất nhiều về hình ảnh Giáo hội. Đã rất thường, chúng ta nghĩ, nói và quan niệm một Giáo hội phổ quát theo nghĩa rất trừu tượng, chẳng hiện hữu ở đâu cả hoặc ở một nơi rất xa, ở Roma. Chúng ta cũng có thể mang lấy một Giáo hội với những cơ cấu hàng dọc. Đúng, nhưng không đủ. Chúng ta quên mất rằng Giáo hội cũng là chính chúng ta. Chúng ta quên mất hay coi nhẹ chính mình cũng là Dân Thiên Chúa. Điều này muốn nói rằng thực tại Giáo hội phổ quát chẳng thể tìm ở một nơi bên ngoài lịch sử. Đúng hơn, chúng ta cần thiết phải hiểu rất đúng điều được Vatican II nói lên: giáo hội phổ quát được nhập thể nơi các Giáo hội địa phương và các Giáo hội địa phương thể hiện đầy đủ những gì là Giáo hội. Chính Bộ Giáo lý đức tin cũng làm sống dậy giáo lý đó để  nhắc nhớ thần học gia đừng rớt vào thứ chủ nghĩa địa phương cũng như chủ nghĩa phổ quát, chung chung về Giáo hội. Làm sống dậy chân lý này, chúng ta thấy chỗ đứng của những nền thần học địa phương, được hiểu là sự hấp thụ Tin mừng trong bối cảnh địa phương.

3. Từ quan điểm nhân học mang tính truyền giáo, chúng ta thấy tính chất toàn diện ngày một được để ý hơn rất nhiều. Tính toàn diện ấy khiến chúng ta không được phép lãng quên bất kỳ một yếu tố nào, nếu không muốn làm cho sứ điệp thành vô hiệu. Hiebert cho thấy đặc tính toàn vẹn của khoa nhân học như sau: con người tương tác qua lại với hệ thống văn hóa, tâm lý, sinh học, thể lý và xã hội. Đồng thời, các hệ thống đó cũng tương tác lẫn nhau. Biến động của chính trị luôn có tác động đến hệ thống văn hóa, v.v.[12]

Điều ấy được diễn đạt rất đúng theo hình ảnh Đức Giêsu dùng: hạt giống Lời Chúa. Chúa Giêsu, một vị thày tuyệt vời, đã có thể diễn đạt những chân lý sâu xa bằng những hình ảnh gần gũi. Chúng ta thấy điều gì? Theo Gerald A. Arbuckle, hạt giống có nơi mình một sức mạnh tuyệt vời. Thế nhưng sức mạnh đó không thể phát huy nếu nó không được gieo vào đất mùn. Hạt giống phải hấp thụ những chất dinh dưỡng từ mùn đất. Quá khô hoặc quá ướt, hạt giống sẽ chết. Đang khi đó, đất mùn không thể phát sinh hoa trái. Như vậy, qui luật tăng trưởng buộc "phải vừa cho và vừa nhận. Cả hạt giống và đất đai phải thay đổi, phải tương tác."[13] Từ nhận định trên, ta thấy rõ một đức tin chưa hội nhập văn hóa vẫn còn là cằn cỗi và văn hóa không có đức tin sẽ chẳng thể tìm gặp được chính mình. Theo ánh sáng đó, Arbuckle ghi nhận 3 yếu tố quan trọng: (1) hội nhập văn hóa luôn là tiến trình trao đổi qua lại giữa Tin mừng và những vấn đề của dân chúng trong đời sống. (2) người loan tin mừng phải chuẩn bị mảnh đất, (3) nỗ lực nhóm để vun xới tin mừng.[14]

5. Hội nhập đức tin vào văn hóa: Đức Gioan Phaolô II nói rất đúng rằng ngay khi nhận được Tin mừng thì người tín hữu trở thành người rao giảng Tin mừng. Điều ấy muốn nói rằng đức tin không phải là sưu tập hay một mớ những công thức tín điều. Ta có thể đọc thuộc lòng các tín điều, hoặc kinh Tin kính, nhưng vẫn có một đức tin kém cỏi và cằn cỗi. Đức tin trưởng thành dẫn người tín hữu vào trong mọi thực tại nhân sinh của họ, nhưng không phải chỉ riêng mình họ. Đức tin dẫn người tín hữu cùng với Đức Giêsu vào sống những thực tại nhân sinh đó để lại một lần nữa, có thể nói, Đức Giêsu nhập thể cách mới mẻ vào thế đại này và cứu độ nó. Nếu thế, một đức tin trưởng thành chắc chắn là một đức tin hội nhập vào văn hóa; và một đức tin hội nhập vào văn hóa sẽ cho thấy một Giáo hội trưởng thành và mang đến cho xã hội và thời đại đó điều họ khao khát nhất: CHÚA GIÊSU VÀ ƠN CỨU ĐỘ-HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC.

IV. NGUY CƠ CỦA CHỦ THUYẾT TƯƠNG ĐỐI TÍN LÝ

Đến đây, chúng ta không thể không nêu ra những nguy cơ có thể có. Không phải là buộc phải xảy ra những nguy này. Chúng ta chỉ muốn "cảnh giác" chính mình như thánh Phaolô đã cảnh báo: không được biến Tin mừng thành giáo thuyết của con người. Chúng ta cảnh giác trước một tin mừng không còn phải là Tin mừng mà chúng ta đã nhận được từ các tông đồ.

1. Theo nguyên tắc, tính đa nguyên văn hóa và dân tộc tự nó là chính đáng và thích hợp. Và cũng thế, tính đa nguyên thần học. Thế nhưng, tính đa nguyên thần học không được phép khởi hứng hay chính đáng hóa đa nguyên Tin mừng. Đa nguyên Tin mừng là cửa tử của Tin mừng, như thánh Phaolô đã nói. Nguy cơ này nằm sát cạnh chúng ta. Chính Ratzinger trong bài viết về chủ nghĩa tương đối nằm tận trong thần học hôm nay vạch rõ mối nguy này bằng những trường hợp cụ thể. Trước tiên, ngài cho chúng ta thấy sự chính đáng và giá trị của thần học giải phóng muốn diễn đạt ơn cứu độ bằng những phạm trù mới như giải phóng. Thế nhưng, nó đã phạm sai lầm khi dùng đến hận thù, đấu tranh ẩn mình dưới phương pháp phân tích xã hội của Karl Marx để áp dụng cho đức tin Kitô hữu. Đồng thời nó cũng liên kết sự giải phóng xã hội và vật chất như đích tới của đức tin. Rồi trong cùng một hướng đi song dưới một khía cạnh khác, thần học đa nguyên về tôn giáo cũng mắc phải sai lầm khi cho thấy ơn cứu độ nằm trong những kỹ thuật "tu thân tích đức", trong "thiền nguyện"... Bằng cách đó, đức tin tông truyền đã bị coi nhẹ, nếu không muốn nói là biến mất trong những thần học bối cảnh đó.[15]

Nếu đúng là thế, nguy cơ chính yếu của thần học không chân chính về bối cảnh sẽ tôn vinh tính địa phương quá đáng. Kinh nghiệm của những xung đột ngày nay cho thấy rằng đề cao bản sắc dân tộc có thể đi kèm với sự loại trừ, coi bản sắc đó "thống trị" trên những giá trị cao cả khác. Rõ ràng, luôn có nguy cơ chết chìm trong những cái đặc thù.

2. Cha Gomez trong bài về Kitô học cũng cho thấy một điều tương tự: Nếu không tinh nhạy đủ trước những cám dỗ của một chủ nghĩa đặc thù, ta có thể nhân danh hội nhập văn hóa để trình bày Đức Giêsu, chẳng hạn, như con heo của Thiên Chúa, vì lẽ có dân tộc hay bộ lạc dành một sự tôn kính cho con vật này.[16]

3. Arbuckle nói rõ "dân chúng của mọi văn hóa hay quốc gia có khuynh hướng nghĩ rằng lối hành xử, lối làm việc của họ là đúng; những cách hành động khác là ngu, cộc cằn, không văn minh, không hợp lý, xấu" (149) Đó là khuynh hướng qui sắc tộc (ethnocentrism).

V. NHỮNG CƠ HỘI LỚN LAO CHO MỘT NỀN HUẤN GIÁO ĐƯỢC THẦN HỌC CHÂN CHÍNH TRONG BỐI CẢNH MANG LẠI

Thế nhưng, không phải vì những nguy cơ trên mà chúng ta sợ hãi xây dựng thần học địa phương chân chính. Có rất nhiều cơ hội tuyệt vời được cống hiến cho Giáo hội địa phương với nền thần học như thế. Ta nêu ra vài điều mà thôi.

1. Để ý được đến nhân vị. Chúng ta luôn bị cám dỗ của những người biệt phái: cơ cấu đến trước nhân vị. Nhờ một thần học chân chính để ý và phân định những dấu chỉ thời đại, giá trị con người luôn đến trước. Thiên Chúa luôn dành chỗ hàng đầu cho con người;[17] ngay cả những lễ tế cũng không sánh bằng những nhân vị. Ngay cả ngày sabat cũng để phục vụ cho con người. Theo ánh sáng này, một trình bày giáo lý không cần biết đến người nghe và những khao khát cùng vấn đề của họ, đã vô tình hay hữu ý, đặt nhân vị đến sau. Nói cách khác, vô tình hay hữu ý, chúng ta bày ra một vị Thiên Chúa vô cảm, mà sẽ trở thành bia cho sự chống đối.

2. Sự hiểu biết đức tin ngày một thích hợp hơn. Nhờ quan tâm hàng đầu đến con người, tạo vật duy nhất được Thiên Chúa tạo dựng vì chính họ, đức tin không còn được hiểu như một mớ kiến thức cho bằng là một ngôi vị, Đức Giêsu. Đức tin nhắm tới chính Đức Giêsu. Đức tin không được nhìn là một báu vật được chôn vùi, vì đã được nhận một lần cho tất cả. Đức tin phải được tăng trưởng, cùng theo mức độ lý trí của con người lớn lên. Nếu không, "đời sống đức tin gặp nguy hiểm khi một sự hiểu biết của một người về điều họ tin vẫn còn ở mức độ trẻ nít, khi mà nền giáo dục trần tục của người đó lại thích hợp cho một người trưởng thành"[18]  Sự bất tương hợp giữa kiến thức đức tin và kiến thức đời không phải là điểm chúng ta phải để ý trong hiện trạng giáo hội chúng ta hôm nay hay sao?

3. Canh tân lòng yêu mến Giáo hội. Chúng ta sẽ tăng trưởng cảm thức thuộc về Giáo hội như một thành phần sống động của Dân Thiên Chúa. Một đàng chúng ta gắn bó với Giáo hội phổ quát vốn có Giám mục Roma như nguyên lý hiệp nhất, nhưng lại sẵn lòng hiến thân cho Giáo hội địa phương, nơi đó ta sống đức tin, cậy mến, và cũng nơi đó ta có Giám mục là nguyên lý hiệp nhất.

4. Có thể kiến tạo một phụng vụ được hội nhập văn hóa. Dần dần, phụng vụ của Giáo hội địa phương có thể chắt lọc những gì sâu xa của văn hóa địa phương để ca tụng, ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa, ở một chiều sâu, chứ không phải chỉ ở một vài dáng vẻ bên ngoài. Giáo lý được hội nhập sẽ dần làm cho đức tin không phải là một thứ xa xỉ hay trang hoàng, hay thêm vào cho văn hóa. Nó trở thành rường cột cho một văn hóa đích thực: văn hóa tình thương, văn hóa ơn gọi, văn hóa sự sống.

KẾT LUẬN

Chắc hẳn con đường xây dựng nền thần học chân chính về bối cảnh hỗ trợ cho giáo lý là quan tâm của toàn Giáo hội tại Việt nam. Đó là một con đường mà phải luôn luôn lên đường. Hơn bao giờ hết, ở dưới phương diện này, Giáo hội tại địa phương đúng là người lữ hành. Giáo hội ấy phải lên đường như Abraham và không được quay đầu trở lại, nếu không muốn chối bỏ chính lời hứa của Thiên Chúa trung thành. Giáo hội ấy phải luôn quên chặng đường đã qua mà chỉ nhắm hướng tới Đức Giêsu, như thánh Phaolô nói cho chúng ta. Con đường này dường như không có điểm kết thúc. Tôi xin dùng một hình ảnh vốn đã được Henri de Lubac sử dụng: Như một người bơi trên biển, mỗi sải tay như thể chiếm được một chút chân trời đã thấy trước, song kỳ thực lại kinh nghiệm một chân trời mới, rộng hơn đang trải ra trước mắt.[19] Điều ấy không làm họ sợ cho bằng là một lời mời họ vươn lên không ngừng. Thiên Chúa và mầu nhiệm của Ngài luôn vượt xa chúng ta mãi mãi.

Lm Giuse Nguyễn Văn Am, SDB.


[1]Arbuckle, Earthing The Gospel, p. 1.
[2]X. Arburkle, ibid, 11; A. J. Maxon (ed). The Mission of St. Augustine to England according to The Original Documents, Being a Handbook for the Thirteenth Century (Cambridge, 1897) 89tt.
[3]Ratzinger, Đức tin Kitô giáo, hôm qua và hôm nay, (dịch giả: Nguyễn Quốc Lâm và Phạm Hồng Lam) trg. 37-38.
[4]X. GS 19-21; 40-44; Đức Giáo hoàng Phanxicô, Evangelii Gaudium; Ratzinger, Đức tin Kitô giáo, ..., 36-79.
[5]X. GS 33.
[6]X. GS 21.
[7]X. Ayward Shorter, Toward a Theology of Inculturation, Part One; Peter C. Phan, Mission and Catechesis; Francis A. Sullivan, Creative Fidelity.
[8]X. GS 4.
[9]Đồ thị này lấy từ Arbuckle, Earthing The Gospel,
[10]H. Sanks, Reading The Signs of The Times, p. 3.
[11]X. Ủy ban Thần học Quốc tế, Thần học ngày nay
[12]Đồ thị dưới lấy từ L. Luzbetak, Church and Cultures,
[13]Arbuckle, Earthing The Gospel, 3.
[14]X. Arbuckle, ibid. 3
[15]X. Ratzinger, "Relativism: The Central Problem for Faith Today"
[16]Gomez, Chúa Kitô phổ quát và độc nhất vô nhị. EAPR / 1983 / 1 / trg 4-30: "... Kitô học này sẽ được tạo hình (định hướng) trong một cuộc đối thoại với văn hóa, cách riêng với bối cảnh tôn giáo, một sự tương đối hóa hình ảnh Đức Giêsu là hậu quả tự nhiên. Một cách đáng để ý, kết quả này lộ hiện trong những “tước hiệu địa phương” về Đức Giêsu.  Tại phương Tây chúng ta đã biết một Đức Kitô là người “Do thái”, “người Marxit”, “người hoạt động chính trị”, “người chống giới cầm quyền”, “người theo chủ nghĩa nhân bản”, và thậm chí cả “Đức Giêsu người thương gia”. Ở Châu Mỹ Latinh, “Đấng giải phóng” dễ dàng chiếm chỗ danh dự. Còn tại Phi châu, người ta gọi Ngài là “Tù Trưởng”, “Vị bô lão hay tộc trưởng”, “người thuyên chữa” hay những danh hiệu tương tự của dân chúng. Đối với dân Papua ngày lễ hội heo (the pig-festival) cống hiến một kinh nghiệm tôn giáo mang tính cùng tận, vì thế Đức Kitô có thể được hội nhập văn hóa như “con Heo của TC”. Ở Trung hoa, ngài được đặt tên là “chủ tịch”;..."
[17]X. Đức Giáo hoàng Phanxicô, Evangelii Gaudium, 122-134
[18](F. A. Sullivan, Creative fidelity, p. 7.
[19]X. Henri de Lubac, Sur les chemins de Dieu.

http://giaolyductin.org/newsview/vn/1143/THAN-HOC-BOI-CANH-[AP-DUNG-VAO-HUAN-GIAO]--NHUNG-CAM-DO-VA-LOI-ICH-.html