Trang

Thứ Sáu, 28 tháng 10, 2022

Halloween và Lễ Các Đẳng Linh Hồn

 Halloween và Lễ Các Đẳng Linh Hồn


Những ngày cuối tháng 10, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, người ta đưa những tin liên quan đến việc chuẩn bị cho lễ hội Halloween. Nào là những biểu tượng, trò chơi, nào là những trang phục quái lạ và nghệ thuật trang điểm khuôn mặt quái dị như những thây ma đang bị thối rữa ….

Halloween là từ rút gọn của “All Hallows Eve” trong tiếng Anh, nghĩa là “đêm trước ngày Lễ các Thánh”. Trước thế kỷ X, dân Celtic ở Tây Âu mừng ngày đầu năm mới vào ngày 1 tháng 11 bằng việc tổ chức lễ hội đình đám và đêm trước đó là những nghi thức tưởng nhớ những người đã khuất.

Nhưng thực ra việc tưởng nhớ và cầu nguyện cho người đã chết đã có từ thời Cựu Ước (x. 2 Macabê 12,44-46) và vẫn được duy trì trong thời Tân Ước; khi cộng đoàn các tín hữu họp nhau cử hành nghi thức bẻ bánh và cùng nhau nghe lại những câu chuyện sống đạo anh hùng của các thánh tử đạo.

Dần dần, các cộng đoàn mở rộng việc tưởng nhớ đến những tín hữu đã tử vì đạo nhưng không được biết tới, và đến những tín hữu là chứng nhân sống Tin Mừng nhưng không tử đạo.

Vào năm 835, Giáo Hội Công Giáo đã quy định lấy ngày 1 tháng 11 hàng năm là ngày Lễ kính các Thánh nam nữ và ngày hôm sau là Lễ cầu cho các linh hồn để nhắc nhở tất cả các tín hữu, còn sống hay đã chết, có công trạng hay không đều được hợp nhất với nhau trong một Nhiệm Thể Chúa Kitô.

Khi phong trào Cải Cách bắt đầu vào thế kỷ XVI, những người Tin Lành đã bác bỏ tín điều các Thánh thông công và tập tục cầu nguyện cho người chết. Từ đó, ngày vọng Lễ các Thánh (Halloween) đã mất dần ý nghĩa nguyên thủy của nó.

Halloween đã biến thành một lễ hội trần tục và bị thương mại hóa. Lễ hội đã mất đi tính thánh thiêng và những người tham dự lễ hội không còn biết đến những vị thánh tốt lành, những mối tương quan gắn bó giữa người sống và người chết.

Lễ hội Halloween ngày nay đã biến tướng thành những hình thức ăn chơi mang dáng dấp của những trò ma thuật hay những tập tục mê tín dị đoan về người chết. Vài năm trở lại đây, lễ hội này cũng đã du nhập vào Việt Nam và được nhiều người đón nhận, nhất là các bạn trẻ đang tập tành lối sống phương Tây.

Người Việt Nam thường lấy chữ hiếu làm trọng, nhà có người qua đời được gọi là “nhà hiếu”. Chữ hiếu cũng đã được cha ông ta nâng lên thành đạo: Đạo Hiếu. Đạo Công Giáo cũng luôn nhắc các tín hữu hãy nhớ công sơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên. Trong kinh Mười điều răn, điều răn thứ bốn buộc các Kitô hữu phải thảo kính cha mẹ và kinh Thương linh hồn bảy mối cũng khuyên răn ta phải cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết.

Trong các bậc tổ tiên, có những vị đã biết đưa tinh thần Tin Mừng vào cuộc sống đời thường. Các Ngài dám chiến đấu quên thân để chiếm hữu được Chúa và lập nên những công trạng được Giáo hội tôn vinh lên bậc hiển Thánh. Cũng có những vị âm thầm sống hiền hòa, bác ái, vị tha, tín thác vào tình thương của Thiên Chúa mà chỉ có Chúa mới biết và ân thưởng. Cũng có những vị tuy đã sống cuộc đời Kitô hữu nhưng cũng còn có những thiếu sót do yếu đuối và thân phận bất toàn.

Giáo huấn của đạo Công Giáo cho biết có thiên đàng để thưởng người lành, có địa ngục để phạt kẻ dữ, và có luyện ngục để thanh tẩy các linh hồn còn vướng mắc các tội nhẹ chưa đền hết. Các linh hồn chính là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người thân … trước đó đã từng sống kiếp làm người với những tội lỗi như chúng ta. Họ là những người đã ra đi trước chúng ta để trở về nơi mà họ đã được Thiên Chúa tạo dựng từ bụi đất.

Nơi đó họ không còn khả năng lập công chuộc tội và trông chờ vào chúng ta là những người còn sống. Nhưng thường thì người sống thường hay quên kẻ chết vì không còn dịp gặp mặt; có chăng chỉ là những ngày giỗ, tết. Khi thực hiện mầu nhiệm tín điều các Thánh cùng thông công, có lẽ không gì quý hơn là chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn. Khi cầu nguyện cho họ là ta thể hiện lòng biết ơn, tinh thần hiệp thông, liên đới trong đức ái.

Vì thế, đạo Công Giáo dành trọn tháng 11 hằng năm, là tháng cuối cùng trong niên lịch phụng vụ, để cầu nguyện cho các linh hồn đồng thời để nhắc nhở chúng ta nhớ đến những ngày cuối cùng của thế giới và của mọi người chúng ta. Trong tháng này, nhiều hoạt động mang tính hiếu nghĩa được các Kitô hữu thực hiện như: xin lễ, đọc kinh cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa trang, chỉnh trang những ngôi mộ cho mới hơn...

Hãy bình tâm để đừng sa đà vào một lễ hội còn xa lạ, có lẽ không phù hợp với truyền thống dân tộc và người Kitô hữu chúng ta. Thay vào đó hãy xin lễ, dùng những lời kinh, tiếng hát để cầu nguyện cho các linh hồn được đón nhận trong tình thương của Thiên Chúa. Với tín điều các thánh cùng thông công, chúng ta tin tưởng các linh hồn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta như Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Những kẻ Cha đã ban cho con, con muốn rằng con ở đâu thì họ cũng ở đấy với con”.
 
Vietcatholic News

Nguồn gốc của ngày lễ Halloween

 Nguồn gốc của ngày lễ Halloween

Đặng Tự Do
 


Với Halloween nhanh chóng đến với chúng ta, thật thú vị khi xem xét nguồn gốc đằng sau lễ kỷ niệm phổ biến này. Trong khi nhiều người cho rằng đêm ma quái này có nguồn gốc từ văn hóa Mỹ, như một số truyền thống của nó, nhưng trên thực tế, nó một phần bắt nguồn từ một truyền thống Ái Nhĩ Lan cổ đại gọi là Samhain.

Samhain là một lễ hội được tổ chức trên khắp Eire để đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ thu hoạch và bắt đầu của nửa đen tối của năm. Do đó, người Ái Nhĩ Lan đốt lửa và tham gia các nghi lễ vào đêm 31 tháng 10. Những sự kiện này được cho là kết nối thế giới tâm linh với thế giới thực trong một khoảnh khắc ngắn.

Những linh hồn ma quỷ được cho là đi lang thang khắp nơi, và chỉ có những câu thần chú và những nghi lễ kỳ lạ mới có thể ngăn chúng làm hại. Mọi người thực sự sẽ ngụy trang để cố gắng đánh lừa những linh hồn này để họ được yên. Và “trò lừa hoặc điều trị” mà trẻ em của chúng ta tham gia ngày nay tương tự như trẻ em Ái Nhĩ Lan mặc quần áo quái đản và đi từng nhà để thu thập quà tặng, nhiên liệu đốt lửa và thực phẩm sẽ được đóng góp cho các bữa tiệc Samhain.

Trong những buổi lễ này, linh hồn của những người thân yêu và bạn bè đã qua đời sẽ được mời tham gia lễ hội, với một vị trí được đặt trên bàn cho họ.

Cùng với bữa tiệc vui vẻ, bạn bè có thể đổ lỗi cho nhau về những linh hồn ma quỷ đang lang thang xung quanh.

Giáo Hội Ái Nhĩ Lan đã Kitô hóa lễ hội vào khoảng thế kỷ 19, nhưng những trò đùa và những cuộc thu thập quà tặng từng cửa nhà vẫn là một phần không thể thiếu của sự kiện này. Và củ cải chứ không phải bí ngô sẽ được sử dụng để làm đèn lồng jack-o-o mà chúng ta thường liên tưởng đến Halloween.

Trong khi ở Mỹ, Halloween không được xã hội Thanh giáo hơn chấp thuận, khi nạn đói khoai tây ở Ái Nhĩ Lan xảy ra vào những năm 1840, hàng triệu người Ireland đã đến Mỹ và mang theo tình yêu của họ với Halloween.

Theo thời gian, những trò đùa trở nên thuần hóa hơn, trang phục cầu kỳ hơn, và bí ngô trở thành loại rau được lựa chọn để khắc đèn lồng. Một truyền thống được gọi là “làm bánh” và nướng “bánh linh hồn” để tôn vinh các tín hữu trong các nền văn hóa khác nhau của Âu Châu cũng có ảnh hưởng ở Mỹ, và xuất phát từ các nền văn hóa khác nhau ở Âu Châu.

Ngày nay Halloween đã trở nên thương mại hóa nhiều hơn, và khái niệm ăn mừng kết thúc thời kỳ thu hoạch đã ít nhiều bị bỏ qua. Tuy nhiên, điều đang được chứng minh là phổ biến trong các gia đình Công Giáo là sử dụng dịp này để mặc quần áo cho con cái của họ như những vị thánh yêu thích, hoặc thậm chí là Đức Giáo Hoàng.

Rất may, trong Giáo Hội Công Giáo, chúng ta cũng có thể kỷ niệm Ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn vào khoảng thời gian này trong năm, và nó mang lại cho chúng ta cơ hội hoàn hảo để tưởng nhớ những người đã ra đi trước chúng ta.

Source:Aleteia
 
Vietcatholic News

Thứ Năm, 27 tháng 10, 2022

Sự phiền muộn: Bài Giáo Lý Hàng tuần của Đức Phanxicô

 Bài Giáo Lý Hàng tuần của Đức Phanxicô về biện phân, đối tượng của biện phân: sự phiền muộn

Vu Van An
 

Theo tin Tòa Thánh, nhân buổi yết kiến chung, thứ tư ngày 26 tháng 10, 2022, tại Quảng trường Nhà thờ Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp tục nói về biện phân, nhấn mạnh đến sự phiền muộn như một đối tượng của biện phân. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện của ngài, dựa vào bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp.



Anh chị em thân mến, chào anh chị em buổi sáng!

Như chúng ta đã thấy trong các bài giáo lý trước, biện phân chủ yếu không phải là một thủ tục hợp luận lý; nó tập chú vào các hành động, và các hành động cũng có một hàm ý xúc cảm, điều này phải được nhìn nhận, bởi vì Thiên Chúa nói với trái tim. Như vậy, chúng ta đi vào phương thức xúc cảm đầu tiên, đối tượng của sự biện phân, tức là sự phiền muộn. Nó có nghĩa gì?

Sự phiền muộn (desolation) được định nghĩa như sau: "Sự tối tăm của linh hồn, sự xáo trộn bên trong, sự thôi thúc hướng tới những điều thấp kém và trần thế, sự bồn chồn do nhiều kích động và cám dỗ khác nhau: do đó linh hồn nghiêng về sự ngờ vực, không có hy vọng và không có tình yêu, và linh hồn thấy mình lười biếng, lãnh đạm, buồn bã, như thể bị tách rời khỏi Đấng Tạo Dựng và Chúa của nó” (Thánh Inhaxiô thành Loyola, Linh Thao, 317). Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về nó. Tôi tin rằng bằng cách này hay cách khác, chúng ta đã trải qua điều này, sự phiền muộn. Vấn đề là làm thế nào để đọc được nó, vì nó cũng có một điều gì đó quan trọng để nói với chúng ta, và nếu chúng ta vội vàng loại bỏ nó, chúng ta có nguy cơ đánh mất nó.

Không ai muốn trở nên phiền muộn, buồn bã: điều này đúng. Tất cả chúng ta đều mong muốn một cuộc sống luôn vui vẻ, hạnh phúc và viên mãn. Tuy nhiên, ngoài việc không thể - bởi vì nó không thể - điều này cũng sẽ không tốt cho chúng ta. Thật vậy, sự thay đổi từ một cuộc sống có xu hướng chiều theo thói xấu có thể bắt đầu từ một tình huống buồn bã, hối hận về những điều người ta đã làm. Từ nguyên của chữ này, "hối hận", rất đẹp: sự hối hận của lương tâm, tất cả chúng ta đều biết điều này. Hối hận: theo nghĩa đen, chính là lương tâm cắn rứt [trong tiếng Ý là mordere], không cho phép hòa bình. Alessandro Manzoni, trong cuốn The Betrothed, đã mô tả tuyệt vời cho chúng ta về sự hối hận như một cơ hội để thay đổi cuộc đời của một con người. Đó là cuộc đối thoại nổi tiếng giữa Đức Hồng Y Federico Borromeo và Người Vô Danh, người, sau một đêm khủng khiếp, đã cho thấy mình bị đánh bại bởi vị Hồng Y, người đã nói với anh ta bằng những lời đáng ngạc nhiên: “Bạn có một số tin tốt cho tôi; tại sao bạn lại ngần ngại nói nó ra? " Người kia nói, "Tin tốt?. Tôi đang có địa ngục trong linh hồn [...]. Hãy nói cho tôi biết, hãy nói cho tôi biết, nếu ngài biết, ngài có thể mong đợi tin vui nào từ một người như tôi”. “‘Thiên Chúa đã chạm vào trái tim bạn, và đang kéo bạn đến với chính Người’, vị Hồng Y đã trả lời một cách bình thản” (Ch. 23). Thiên Chúa chạm vào trái tim, và một điều gì đó đến với anh chị em trong nội tâm, nỗi buồn, sự hối hận về điều gì đó, và đó là lời mời gọi anh chị em khởi hành trên một nẻo đường mới. Người của Thiên Chúa biết cách nhận ra một cách sâu xa những gì đang chuyển động trong trái tim.

Điều quan trọng là học cách đọc được nỗi buồn. Tất cả chúng ta đều biết nỗi buồn là gì: tất cả chúng ta. Nhưng chúng ta có biết làm thế nào để diễn giải nó? Chúng ta có biết nó có ý nghĩa như thế nào đối với tôi không, nỗi buồn hôm nay đó? Trong thời đại của chúng ta, nó - nỗi buồn - thường bị coi là tiêu cực, như một căn bệnh cần tránh bằng mọi giá, nhưng thay vào đó nó có thể là một hồi chuông báo động không thể thiếu cho cuộc sống, mời gọi chúng ta khám phá những cảnh quan phong phú và màu mỡ hơn mà tính nhất thời và chủ trương thoát ly đời không cho phép. Thánh Tôma định nghĩa nỗi buồn như một nỗi đau của linh hồn: giống như dây thần kinh đối với cơ thể, nó chuyển hướng sự chú ý của chúng ta đến một mối nguy hiểm có thể xảy ra, hoặc một lợi ích bị coi thường (xem Summa Theologica I-II, q. 36, a.1). Vì vậy, nó không thể thiếu đối với sức khỏe của chúng ta; nó bảo vệ chúng ta khỏi làm hại bản thân và những người khác. Sẽ nghiêm trọng và nguy hiểm hơn nhiều nếu không cảm thấy điều này, và cứ tiếp tục. Đôi khi nỗi buồn hoạt động như một đèn giao thông: “Dừng lại, dừng lại! Nó màu đỏ, kìa. Dừng lại".

Mặt khác, đối với những người mong làm điều tốt, nỗi buồn là một trở ngại kẻ cám dỗ dùng để mưu toan làm nản lòng chúng ta. Trong trường hợp này, người ta phải hành động theo cách hoàn toàn trái ngược với những gì đã được đề xuất, quyết tâm tiếp tục những gì người ta đã đặt kế hoạch để làm (xem Linh Thao, 318). Hãy nghĩ đến công việc, học hành, cầu nguyện, một cam kết đã được dấn thân: nếu chúng ta bỏ rơi chúng ngay khi chúng ta cảm thấy chán nản hoặc buồn bã, chúng ta sẽ không bao giờ hoàn thành được bất cứ điều gì. Đây cũng là một kinh nghiệm chung cho đời sống thiêng liêng: Tin Mừng nhắc nhở chúng ta, con đường dẫn đến sự tốt lành hẹp và dốc, nó đòi hỏi phải chiến đấu, tự chinh phục. Tôi bắt đầu cầu nguyện, hoặc hiến thân cho một công việc tốt lành, và kỳ cục thay, ngay lúc đó nhiều điều xuất hiện trong đầu đòi phải được làm gấp - để tôi không còn cầu nguyện hay làm việc thiện nữa. Tất cả chúng ta đều trải qua điều này. Điều quan trọng là đối với những ai muốn phục vụ Chúa, đừng để mình bị phiền muộn dẫn ra sai lạc. Và điều này... “Nhưng không, tôi không muốn, thật là nhàm chán…” - hãy cẩn thận. Thật không may, một số người quyết định từ bỏ đời sống cầu nguyện, hoặc sự lựa chọn họ đã chọn, hôn nhân hoặc đời sống tu trì, bị thúc đẩy bởi sự phiền muộn, mà trước tiên không dừng lại để xem xét trạng thái tâm trí này, và đặc biệt là không có sự giúp đỡ của một người hướng dẫn. Một quy tắc khôn ngoan nói rằng không nên thay đổi khi bạn đang ở trong tình trạng phiền muộn. Chính thời gian sau đó, thay vì tâm trạng lúc này, sẽ cho thấy sự tốt đẹp hay cách khác của những lựa chọn của chúng ta.

Điều đáng lưu ý là trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã đẩy lùi các cám dỗ với thái độ cương quyết (x. Mt 3:14-15; 4: 1-11; 16: 21-23). Các thử thách tấn công Người từ mọi phía, nhưng luôn luôn tìm thấy nơi Người sự kiên định, quyết tâm làm theo ý muốn của Chúa Cha, chúng đã thất bại và không còn cản trở con đường của Người nữa. Trong đời sống thiêng liêng, thử thách là một thời điểm quan trọng, như Kinh Thánh nhắc nhở một cách minh nhiên khi nói: “Khi bạn đến để phục vụ Chúa, hãy chuẩn bị cho mình để đón thử thách” (Hc 2: 1). Nếu anh chị em muốn đi con đường tốt đẹp, hãy chuẩn bị cho mình: sẽ có trở ngại, sẽ có cám dỗ, sẽ có lúc buồn bã. Giống như khi một giáo sư kiểm tra một sinh viên: nếu ông ta thấy rằng sinh viên đó biết những điều cốt yếu của môn học, ông ta không nhấn mạnh: sinh viên đã vượt qua việc kiểm tra. Nhưng anh ta phải vượt qua việc kiểm tra.

Nếu chúng ta biết cách vượt qua nỗi cô đơn và phiền muộn bằng sự cởi mở và ý thức, chúng ta có thể thoát ra trong khi được củng cố về mặt nhân bản và thiêng liêng. Không thử thách nào nằm ngoài tầm với của chúng ta; không thử thách nào lớn hơn những gì chúng ta có thể làm. Nhưng đừng trốn chạy thử thách: hãy xem xem thử nghiệm này có nghĩa gì, tôi buồn, điều này có nghĩa là gì: tại sao tôi buồn? Lúc này tôi đang ở trong trạng thái phiền muộn, điều này có nghĩa gì? Tôi đang ở trong tình trạng phiền muộn và không thể tiếp tục, điều này có nghĩa gì? Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng không ai bị cám dỗ ngoài khả năng của mình, vì Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và với Người ở bên cạnh, chúng ta có thể chiến thắng mọi cám dỗ (x. 1Cr 10,13). Và nếu chúng ta không vượt qua được ngày hôm nay, chúng ta đứng dậy vào lúc khác, chúng ta bước đi và chúng ta sẽ vượt qua nó vào ngày mai. Nhưng chúng ta không được chết dí - có thể nói như vậy - chúng ta không được tiếp tục bị đánh bại bởi một khoảnh khắc buồn bã, phiền muộn: hãy tiến về phía trước. Xin Chúa chúc phúc cho con đường này của đời sống thiêng liêng, vốn luôn là một cuộc hành trình, hãy can đảm lên!
 
Vietcatholic News

Thứ Tư, 26 tháng 10, 2022

Các công thức trong Kinh Thánh về tha thứ

 Các công thức trong Kinh Thánh về tha thứ

Ronald Rolheiser, 2022-09-05

Không có gì quan trọng cho bằng tha thứ. Tha thứ là chìa khóa mở ra cho hạnh phúc và là mệnh lệnh thiêng liêng quan trọng nhất cuộc đời chúng ta. Chúng ta cần tha thứ, cần làm hòa với những tổn thương và bất công mình đã chịu để khỏi phải chết trong giận dữ và cay đắng. Trước khi chết, chúng ta cần tha thứ, tha thứ cho người khác, cho bản thân, cho Chúa, vì mọi sự xảy ra trong cuộc đời chúng ta.

Nhưng không dễ để tha thứ, thật sự nhiều lúc không thể tha thứ nổi. Cần phải nói rõ như thế, vì ngày nay, nhiều tác phẩm đủ thể loại, với ý định tốt, đem lại ấn tượng tha thứ chỉ là vấn đề có sẵn sàng và có bỏ qua hay không. Cứ buông bỏ và đi tiếp!

Nhưng chúng ta đều biết, đâu có dễ như vậy! Những vết thương hằn lên tâm hồn thì cần thời gian, có khi là một thời gian rất dài để chữa lành, và tiến trình đó vô cùng chậm rãi, một việc mà chúng ta không thể đi nhanh được. Thật sự, chấn thương từ vết thương cảm xúc thường tác động lên sức khỏe thể xác chúng ta. Chữa lành cần có thời gian.

Khi nhìn vào vấn đề chữa lành và tha thứ, chúng ta có một thấu suốt đầy giá trị nhưng lại lãng quên từ lâu linh đạo về ngày sa-bát trong do thái giáo và kitô giáo. Giữ ngày sa-bát không phải chỉ tôn vinh một ngày nhất định trong tuần, đó là một công thức của tha thứ. Cách nó tiến hành như sau.

Thần học và linh đạo về ngày sa-bát dạy chúng ta, Thiên Chúa tạo dựng thế giới trong sáu ngày và ngày thứ bảy là ngày sa-bát, ngày Ngài nghỉ ngơi. Hơn nữa, không chỉ Thiên Chúa nghỉ ngơi ngày sa-bát mà Ngài còn tuyên bố đó là ngày nghỉ ngơi cho tất cả mọi người đến muôn đời, và như thế, Thiên Chúa tạo một nhịp điệu nhất định cho cuộc sống chúng ta. Nhịp điệu đó phải như thế này:

  • Làm việc sáu ngày, nghỉ một ngày.
  • Làm việc 49 (bảy lần bảy) năm, thì có năm đại xá, cả thế giới trải qua kỳ sa-bát.
  • Làm việc bảy năm, nghỉ một năm (kỳ nghỉ sa-bát).
  • Làm việc cả đời, rồi nghỉ kỳ sá-bat vĩnh hằng.

Nhịp điệu đó cũng nên áp dụng cho cách chúng ta tha thứ:

  • Chúng ta có thể giữ ác cảm nhỏ trong bảy ngày, nhưng rồi chúng ta phải buông bỏ nó.
  • Chúng ta có thể giữ ác cảm lớn trong bảy năm, nhưng rồi chúng ta cần buông bỏ nó. (Mức hạn định dựa trên điều này).
  • Chúng ta có thể giữ một vết thương khủng khiếp khắc sâu vào tâm hồn trong 49 năm, nhưng rồi chúng ta cần buông bỏ nó.
  • Chúng ta có thể giữ một vết thương làm cho tâm hồn chúng ta tan vỡ cho đến chết, nhưng rồi chúng ta cần buông bỏ nó.

Điều này nêu bật một chuyện vốn thường không xuất hiện trong giới tâm linh và trị liệu thời nay, đó là: chúng ta cần thời gian để có thể tha thứ, và thời gian đó tùy thuộc vào mức độ của vết thương. Ví dụ như:

  • Khi bị đồng nghiệp xem thường trong cuộc họp, chúng ta cần chút thời gian để bực mình cho sự bất công này, nhưng thường thì một vài ngày là đủ để chúng ta hướng về phía trước và có thể buông bỏ nó.
  • Khi chúng ta bị đuổi việc một cách lạnh lùng bất công thì bảy ngày hay bảy tuần thường không đủ để chúng ta buông bỏ và tha thứ chuyện này. Có lẽ bảy năm thì thực tế hơn. (Xin lưu ý “mức hạn định” phỏng theo thấu suốt Kinh Thánh này).
  • Có những chấn thương chúng ta chịu đựng để lại vết thương sâu sắc hơn cả do bị đuổi việc bất công. Có những vết thương chúng ta chịu do bị lạm dụng, thờ ơ, do nhiều năm cam chịu bất công, và chúng cần hơn bảy năm để chữa lành. Có thể phải mất đến 49 năm, nửa thế kỷ, dể làm hòa với những chuyện chúng ta bị bắt nạt khi còn nhỏ, hoặc bị lạm dụng về cảm xúc, tình dục khi còn niên thiếu.
  • Có những vết thương quá sâu sắc đễn nỗi phải đến giờ hấp hối, chúng ta mới chỉ có thể làm hòa với sự thật là chúng đã xảy ra với mình, buông bỏ chúng và tha thứ cho người hoặc nhiều người đã gây ra chúng.
  • Cuối cùng, có những vết thương quá sức sâu đậm, quá sức hủy hoại, quá sức đau đớn đễn nỗi chúng ta không thể xử lý trong đời này. Với chúng, may thay, chúng ta còn có cái ôm chữa lành nhân từ của Thiên Chúa sau khi chết.

Năng lực tha thứ dựa vào ân sủng hơn là ý chí. Phạm lỗi lầm là thuộc tính con người, nhưng tha thứ là thuộc tính thần thánh. Câu đơn giản này chứa đựng một sự thật thâm sâu hơn những gì chúng ta nắm bắt thoáng qua. Điều làm cho tha thứ trở nên khó khăn và nhiều lúc bất khả thi, không phải chủ yếu do cái tôi của chúng ta bị bầm dập và tổn thương quá đỗi. Đúng hơn, khó khăn thực sự chính là việc một vết thương của tâm hồn cũng như vết thương của thể xác, nó làm chúng ta suy yếu.

Điều này đặc biệt đúng với những chấn thương in sâu vào tâm hồn và làm tan nát tâm hồn, cần đến 49 năm hay cả đời để chữa lành, hoặc có lúc không thể chữa lành trong đời này. Những vết thương như thế làm chúng ta cạn kiệt sức mạnh, nhất là khi đối diện với người đã gây cho chúng ta, làm chúng ta rất khó để tha thứ.

Chúng ta cần một linh đạo sa-bát để giúp đỡ cho mình.

J.B. Thái Hòa dịch

http://phanxico.vn/2022/09/08/cac-cong-thuc-trong-kinh-thanh-ve-tha-thu/

Liều lĩnh với lòng thương xót của Thiên Chúa

 Liều lĩnh với lòng thương xót của Thiên Chúa

Ronald Rolheiser, 2022-10-24

Không lâu sau khi chịu chức, tôi đi giúp xứ và ở đây tôi gặp một linh mục già thánh thiện. Cha đã hơn 80 tuổi và gần như mù, nhưng được giáo dân tôn trọng và tìm gặp, nhất là để xưng tội. Một tối nọ, khi chỉ còn hai cha con với nhau, tôi hỏi cha: “Nếu cha được làm lại đời linh mục từ đầu, việc gì cha sẽ làm khác đi?” Tôi tưởng một người liêm chính toàn vẹn như cha sẽ nói mình không có gì phải hối tiếc. Nhưng câu trả lời của cha làm tôi ngạc nhiên. Cha bảo cha có một hối tiếc, một hối tiếc rất lớn: “Nếu được sống lại đời linh mục từ đầu, cha sẽ nhẹ nhàng với mọi người. Cha sẽ không hà tiện lòng thương xót Chúa, hà tiện các bí tích và hà tiện tha thứ. Con biết đó, thời còn tập sinh, câu nằm lòng của cha là ‘Sự thật sẽ giải phóng anh em’ và cha nghĩ nhiệm vụ của cha là thách thức mọi người bảo vệ điều này. Làm thế là tốt, nhưng cha sợ cha đã quá cứng rắn với mọi người. Không cần cha và Giáo hội đặt thêm gánh nặng, họ đã có đủ đau đớn rồi. Đáng ra cha phải liều lĩnh hơn với lòng thương xót Chúa!”

Tôi kinh ngạc trước câu trả lời của cha, vì mới chưa đầy một năm trước, trong phần thi vấn đáp cuối khóa ở chủng viện, một linh mục đã cảnh báo tôi: “Hãy cẩn thận, đừng bao giờ để cảm giác của con cản đường sự thật, và nên nhớ quá mềm mỏng là sai trái. Nhớ nhé, dù có gay go, nhưng chỉ có sự thật mới giải phóng chúng ta!”. Đó có vẻ là lời khuyên chí lý cho một linh mục trẻ mới bắt đầu làm quen với mục vụ.

Tuy nhiên, cứ hàng năm trôi qua, tôi lại ngả dần theo lời khuyên của linh mục già ngày xưa. Chúng ta cần liều lĩnh hơn với lòng thương xót Chúa. Dĩ nhiên phải công nhận không bao giờ được bỏ qua tầm quan trọng của sự thật, nhưng chúng ta phải liều để cho lòng thương xót vô hạn, vô điều kiện của Thiên Chúa tuôn chảy tự do. Lòng thương xót Chúa phải sẵn sàng như vòi nước, phải như lời tiên tri I-saia, phải hoàn toàn nhưng không. “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào!”

Vậy điều gì ngăn cản chúng ta? Tại sao chúng ta quá ngập ngừng trong việc công bố lòng thương xót không phân biệt, dồi dào đến phung phí và vô cùng vô tận của Thiên Chúa?

Một phần là vì những động cơ tốt, thậm chí là cao thượng. Chúng ta có quan tâm rất hợp lý cho những điều quan trọng như sự thật, công lý, luân lý, tính chính thống, chuẩn bị đón nhận bí tích cho hợp lệ, sợ tai tiếng, và lo cho cộng đoàn giáo hội bị hấp thụ và mang lấy những tác động của tội lỗi. Tình yêu luôn cần được được thôi thúc bởi sự thật, dù sự thật phải được làm dịu đi bởi tình yêu. Tuy nhiên, đôi khi động cơ của chúng ta thiếu cao thượng, chúng ta lưỡng lự và nhút nhát, sợ hãi, ghen tương và vị luật – cũng như sự tự thị của những người pharisiêu hay nỗi ghen tức trong lòng người anh của đứa em hoang đàng. Có chúng ta canh gác thì không có ân sủng nhưng không!

Tuy nhiên, khi làm như vậy, chúng ta đã sai lầm, lại càng không phải là mục tử tốt, lạc điệu với Thiên Chúa của những điều Chúa Giêsu rao giảng. Lòng thương xót Chúa như Chúa Giêsu mạc khải thì ôm lấy tất cả, không phân biệt, cả người xấu lẫn người tốt, người xứng đáng lẫn người không xứng đáng, người hiểu cũng như không hiểu. Một trong những thấu suốt làm giật mình mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta, đó là lòng thương xót Chúa không thể không đến với tất cả mọi người, vì nó luôn nhưng không, không cần phải xứng đáng, không cần điều kiện, ôm lấy tất cả, vượt xa mọi tôn giáo, phong tục, lễ điển, quy cách hành xử, chương trình bắt buộc, ý thức hệ và thậm chí là vượt trên cả tội.

Và như vậy, về phần chúng ta, đặc biệt là bậc cha mẹ, mục tử, giáo viên, giáo lý viên, và những người lớn tuổi, chúng ta phải liều mình công bố đặc tính quảng đại đến phung phí của lòng thương xót Chúa. Chúng ta không được phân phát lòng thương xót Chúa như thể đó là của riêng chúng ta, chúng ta muốn chi dùng thế nào tùy, chúng ta không được phân phát nhỏ giọt sự tha thứ của Chúa như một loại hàng có giới hạn, không được đặt điều kiện về tình yêu của Chúa như thể Ngài là nhà độc tài hẹp hòi hay có một ý thức hệ chính trị, chúng ta không được chặn đường đến với Thiên Chúa như thể mình là người giữ cửa thiên đàng. Vì chúng ta đâu phải là người làm những chuyện này! Nếu chúng ta xem lòng thương xót Chúa theo kiểu đánh giá của mình, thì chúng ta đang liên kết những giới hạn, tổn thương và thiên kiến của mình với lòng thương xót của Thiên Chúa.

Một chuyện đáng chú ý trong các phúc âm là các tông đồ, dĩ nhiên vì thiện ý nhưng lại thường ngăn cản một số người đến gần Chúa Giêsu, như thể họ không xứng đáng, như thể họ làm sỉ nhục cho sự thánh thiện và tinh tuyền của Chúa. Các tông đồ đã nhiều lần đuổi trẻ con, cô gái điếm, người thu thuế, người có tội rành rành và những người vô tri đủ loại, nhưng Chúa Giêsu luôn gạt đi hành động của họ bằng những lời: “Hãy để họ đến! Ta muốn họ đến với Ta”.

Cho đến ngày nay, mọi chuyện vẫn không thay đổi. Trong Giáo hội, chúng ta, những người có ý định tốt, với động cơ giống các tông đồ, luôn cố giữ một số cá nhân và một nhóm người nào đó xa khỏi lòng thương xót Chúa qua lời Chúa, bí tích và cộng đoàn. Thiên Chúa không cần (và không muốn) chúng ta bảo vệ. Chúa Giêsu muốn tất cả mọi loại người đến với Ngài, và Ngài muốn họ đến với Ngài ngay. Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đến với dòng nước vô hạn của lòng thương xót Ngài, bất chấp luân lý, tính chính thống, sự thiếu chuẩn bị, tuổi tác hay văn hóa của họ.

J.B. Thái Hòa dịch

http://phanxico.vn/2022/10/27/lieu-linh-voi-long-thuong-xot-cua-thien-chua/

Thứ Ba, 25 tháng 10, 2022

6 Chương năm: Giáo hội, sự Viên mãn của Chúa Kitô

 Về Giáo Hội của Chúa Kitô, tác phẩm gần cuối đời của Jacques Maritain, chương năm

Vu Van An
 

Chương năm: Giáo hội, sự Viên mãn của Chúa Kitô



Sự Viên mãn

1. Khái niệm viên mãn (plentitude), như người ta thấy trong Thánh Phaolô và các Giáo phụ Hy Lạp, đã làm nảy sinh nhiều cuộc thảo luận và nghiên cứu. Tôi tự hài lòng với việc lưu ý ở đây rằng, ngay từ khi nó còn là một vấn đề viên mãn tâm linh, lúc chữ này được nhà siêu hình học hoặc nhà thần học sử dụng, viên mãn đã dư tràn rồi.

Đó thực là điều Thánh Phaolô nói với chúng ta. Chúa Kitô là sự viên mãn của mọi sự{1}. Và sự viên mãn của Người tràn ngập trên Giáo hội. Giáo Hội là sự viên mãn của Chúa Kitô{2}.

"Chính Người đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ, nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Chúa Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hợp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô,” εἰς μέτρου ἡλικίας τοῦ πληρώματος τοῦ Xριστοῦ [eis metron hê likias tou plerômatos tou Christou] {3}.

Và như thế Con Người Hoàn Hảo này, tức Giáo Hội, sẽ trở về với sự viên mãn của Thiên Chúa, nó "sẽ đạt tới sự viên mãn của chính Thiên Chúa {4}," sự viên mãn mà, trên thực tế, hoàn toàn dư tràn trong "toàn thể" sáng thế (thiên nhiên, ân sủng và vinh quang) mà Chúa Kitô vốn là sự sung mãn. Đó là chu kỳ đáng ngưỡng mộ của những viên mãn dư tràn.

2. Giáo Hội là sự viên mãn của Chúa Kitô. Không thể đánh dấu mạnh mẽ hơn nữa đặc tính của mầu nhiệm siêu nhiên, mầu nhiệm đức tin, mà Giáo hội mang trong chính hữu thể của mình.

Sự kiện nhiều Kitô hữu không lưu ý đến điều này, và tự trình bầy cho mình một Giáo hội chỉ như một cộng đồng tự nhiên, một gia đình tôn giáo đơn thuần được cấu thành, giống như các gia đình tôn giáo khác ở đây trên trái đất này, do sự kiện nó tập hợp những con người tuyên xưng các niềm tin giống hệt như nhau, cùng thực hành các nghi thức như nhau và sống trong cùng một bầu không khí đạo đức như nhau, đây là dấu hiệu cho thấy họ đã được dạy dỗ cách rất tồi tệ, và khi nói "Giáo hội", họ hoàn toàn đi bên cạnh đối tượng được họ nói tới.

Giáo Hội Đầy Ân Sủng

1. Tôi đã nói, ở cuối chương đầu tiên: có ba vị thánh thiện và vô nhiễm, mặc dù mỗi vị một cách khác nhau và bằng một danh hiệu khác nhau: Chúa Kitô, Đức Trinh Nữ và Giáo hội. Cũng cần phải nói giống như vậy rằng: do việc tuôn trào sự viên mãn của Thiên Chúa vào lòng vũ trụ tạo dựng, có ba ngôi vị, với những danh hiệu rất khác nhau, đều đầy ân sủng:

Chúa Kitô, mà bản chất nhân loại của Người được tạo dựng, nhưng Ngôi vị của Người là Ngôi Lời bất tạo, là Chúa Con vĩnh viễn được sinh ra từ Chúa Cha trong sự hiệp nhất ba ngôi hoàn hảo;

Đức Trinh Nữ Diễm phúc, mà ngôi vị hoàn toàn nhân bản được vô nhiễm ngay từ khi thụ thai, do công phúc dự phòng của Đấng Diễm phúc mà Trinh nữ sẽ mang vào thế gian;

Giáo Hội, mà ngôi vị tập thể hay đa nhân [multitudinaire] có sự tồn hữu siêu nhiên từ Thiên Chúa nhờ là hình ảnh của Chúa Kitô, hình ảnh được Giáo hội mang trong mình, và linh hồn và sự sống là ân sủng và đức ái.

Giữa ba ngôi vị này không có thước đo chung. Ngôi vị đầu tiên là thần linh; ngôi vị thứ hai là nhân bản; ngôi vị thứ ba không phải là ngôi vị cá nhân; ngôi vị này bao trùm trong mình vô số hữu thể nhân bản, những hữu thể tồn hữu và vốn đã hiện hữu bằng sự tồn hữu cá nhân và sự hiện hữu cá nhân của riêng họ, trong tính thống nhất của một sự tồn hữu tạo dựng đơn nhất và y như nhau được tiếp nhận một cách siêu nhiên.

Nhưng há người ta không nói rằng trong ba ngôi vị có mức độ hiện hữu rất khác nhau này, tức Chúa Con nhập thể, Đức Maria, Mẹ của Người, Giáo hội Cô dâu của Người, - Thiên Chúa đã muốn nhìn thấy, trong lòng vũ trụ tạo dựng, một loại bản sao mầu nhiệm và cao siêu của Thiên Chúa Ba Ngôi thánh thiện và không thể nào tiếp cận được, Ba Ngôi, nhưng trong trường hợp này, trong sự đồng nhất tuyệt đối của bản chất bất tạo và của sự sống bất tạo, là chính Người trong Sự Hiệp nhất hoàn hảo và vô cùng siêu việt của Người đó sao?

Khi Chúa Giêsu sống trên mặt đất, ân sủng mà Người đầy rẫy, và vô hạn trong bầu trời siêu ý thức của linh hồn Người, không ngừng tăng trưởng ở đây dưới thế này của linh hồn Người{5}, tương ứng với tuổi của Người, với các thử thách của Người và với các hành vi của tình yêu anh hùng của Người.

Nơi Đức Maria, bao lâu ngài còn sống trên mặt đất, ân sủng mà ngài được tràn đầy cũng không ngừng tăng lên, cho đến giây phút Đức Trinh Nữ được dẫn cả hồn lẫn xác tới gần Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, để trở thành Nữ vương của các Thiên thần và của Giáo hội Thiên đàng và Trái đất.

Và nơi Giáo Hội còn đang lữ thứ trên mặt đất trong khi vác thập giá của Chúa Giêsu, ân sủng mà Giáo Hội tràn đầy sẽ không ngừng lớn lên cho đến những thử thách cuối cùng và cho đến ngày tận thế; lúc đó, khi thời gian không còn nữa, Giáo Hội sẽ hoàn toàn được quy tụ trong vũ trụ của những người diễm phúc (nơi mà từ năm này qua năm khác, theo tỷ lệ như thời gian ở đây dưới thế này trôi qua, vô số thành viên của Giáo Hội bước vào vinh quang tăng lên không ngừng). Và chính từ đó, Giêrusalem trên trời sẽ xuống dưới vũ trụ vật chất đã được biến đổi{6}.

2. Tôi đã viết một vài dòng trên đây rằng ngôi vị của Giáo Hội bao trùm trong mình vô số các hữu thể nhân bản. Để chính xác hơn, cần phải nói rằng Giáo Hội ôm ấp trong mình, - trong sự hợp nhất của cùng một tồn hữu thụ tạo đơn nhất được tiếp nhận một cách siêu nhiên (cùng một sự tồn hữu siêu nhiên trên trái đất và trên thiên đàng), - vô số hữu thể không chỉ là con người, các chi thể của Giáo Hội ở đây trên trái đất này, mà còn là những linh hồn vinh quang đã lìa xác, và các thiên thần thánh thiện (tôi đã lưu ý rằng họ cũng là một phần của Giáo hội). Vì chính cùng một ngôi vị đơn nhất của Giáo Hội hiện hữu trong trạng thái vinh quang, nơi Giáo Hội thấy, và trong trạng thái "đi đường" hoặc đang lữ hành trên trần thế, nơi Giáo Hội tin tưởng.

Sự viên mãn của Chúa Kitô, làm thế nào Giáo Hội lại không tràn đầy ân sủng cho được? Thánh thiện, vô nhiễm, chói lọi, như Thánh Phaolô đã nhìn thấy Giáo Hội, "thánh thiện bất khả khuyết", như Công đồng Vatican II đã nói. Điều này đúng với Giáo hội trong trạng thái lữ hành trên trần thế cũng như Giáo hội trong trạng thái vinh quang vĩnh cửu.

Nhưng trong trạng thái lữ hành trên trần thế của Giáo Hội, - cuộc lữ hành đang làm chúng ta bận tâm vào lúc này, - chính trong các thành viên (ngoại trừ Trinh Nữ Diễm Phúc khi ngài còn sống giữa chúng ta) những tội nhân đáng thương mà ngôi vị của Giáo hội được đầy ân sủng. Điều đó đúng như thế, như chúng ta đã thấy trong Chương II, vì linh hồn của Giáo Hội chính là ơn thánh hóa, sự sống của Giáo Hội chính là đức ái; tư cách ngôi vị của Giáo Hội là tư cách ngôi vị siêu nhiên, một ngôi vị được ban cho Giáo Hội vì là hình ảnh của Chúa Kitô được in sâu trong Giáo Hội, và niêm ấn cả linh hồn Giáo Hội lẫn sinh vật gồm nhiều khớp nối được chỉ định cho cơ thể Giáo Hội bằng tính hiệp nhất hoàn hảo như thể tạo thành một bản thể cá nhân đơn nhất, và là ngôi vị vốn đem lại cho mỗi thành viên của mình cùng một mức ân sủng mà Chúa Kitô vốn làm sinh động hữu thể và hành động của họ, trong khi tất cả những gì liên quan đến sự dữ và tội lỗi đều tự rút lui khỏi tư cách ngôi vị siêu nhiên này. Biên giới của tư cách ngôi vị của Giáo hội băng qua trái tim của mỗi người. Nơi nào Chúa Cha không thấy hình ảnh Con của Người, ơn thánh hóa và đức ái, ở đó không thể có tư cách ngôi vị của Giáo Hội; một trong những thành viên của Giáo hội đánh mất ân sủng và đức ái đến mức nào, thì cũng đến mức ấy, họ đã xa lìa tư cách ngôi vị của Giáo hội.

Điều trên có nghĩa các thành viên "đã chết" của Giáo Hội vẫn còn là chi thể của thân thể Giáo Hội bởi Bí Tích Rửa Tội của họ, bởi đức tin của họ (đức tin "đã chết"), Bí Tích Thêm Sức của họ, và Bí Tích Truyền Chức Thánh nếu họ đã lãnh nhận nó, và vẫn còn hoạt động, mặc dù chỉ từ bên ngoài, bởi những ảnh hưởng, những lời kêu gọi, những kích thích và sự soi sáng mà với chúng ngôi vị của Giáo hội vẫn ôm ấp họ; nhưng, chừng nào họ còn “chết”, thì hữu thể bên trong của họ, vì đã lìa xa ân sủng của Chúa Kitô, nên không còn được tư cách ngôi vị của Giáo hội chiếm hữu nữa. Nếu một Giáo hoàng sống trong tình trạng tội trọng, vị đó vẫn có thể được ngôi vị của Giáo hội khích động như một dụng cụ trong các hành vi trong đó vị này thực thi sứ mệnh Giáo hoàng của mình, và lúc đó đã làm một công việc xuất sắc. Nhưng chừng nào còn sống trong tội lỗi, vị này, trong chính hữu thể thâm sâu nhất của ngài, không được ân sủng của Chúa Kitô làm cho sinh động cũng không được tư cách ngôi vị của Giáo Hội chiếm hữu.

Trong kiểu suy tư vòng tròn trong đó chúng ta đang tham gia, chúng ta sẽ được dẫn dắt, trong chương sau, để, trong cố gắng mở rộng chúng thêm một chút, lặp lại các suy nghĩ của chúng ta về mầu nhiệm của chính ngôi vị thì vô nhiễm nhưng nơi các thành viên thì có chuyện tranh luận về ân sủng và tội lỗi. Đây là mầu nhiệm riêng của Giáo hội trên mặt đất. Điều quan trọng đối với tôi ở đây là nhấn mạnh vào tư cách ngôi vị được Giáo hội đón nhận một cách siêu nhiên và vốn là tư cách ngôi vị của ân sủng.

Một nỗ lực mô tả bằng ảnh tượng

Các hình ảnh về Giáo hội có nhiều trong Sách Thánh, như Công đồng Vatican thứ hai đã lưu ý, vừa đa dạng vừa tản mạn, - điều này nhất quán với thiên tài biểu tượng vốn là đặc điểm của ngôn ngữ Cựu ước, cũng như ngôn ngữ của Thánh Phaolô và của Thánh Gioan. Và sẽ hoàn toàn vô ích nếu tìm cách dung hòa trong cùng một cách trình bầy các hình ảnh như Cánh đồng của Chúa, Vườn nho của Người, Đền thờ của Người, Mẹ sự sống, Đoàn chiên, thành Giêrusalem trên trời, Thân thể mà Chúa Kitô là Đầu. Nàng dâu mà Người đã chọn cho chính Người, - những hình ảnh có sự khác biệt minh chứng cho sự phong phú vô tận của đối tượng được minh họa.

Tuy nhiên, tác giả của cuốn sách này, tiếc thay, không phải là thiên tài của Israel. Ông là một nhà triết học sinh ra trong bầu khí La Hy, và là người, để nắm vững hơn tính khả niệm của các khái niệm mà ông tập hợp, luôn cảm thấy cần phải so sánh chúng, trong trí tưởng tượng của mình, với một số trình bầy có tính tượng trưng phần nào thỏa mãn được đôi mắt. Do đó, ông cố gắng kết hợp trong cùng một hình ảnh hai biểu tượng vĩ đại mà Thánh Phaolô dùng để nói về Giáo hội, đó là Thân thể mầu nhiệm và Nàng dâu, và ông đã yêu cầu, để có thể trình bày một cách xứng đáng hình ảnh này, sự giúp đỡ của người bạn mình là Jean Hugo.

Do đó, người ta sẽ thấy, trên trang sau, một hình minh họa mà tôi muốn có màu sắc, và trong đó người phụ nữ với cánh tay mở rộng đại diện cho Giáo hội được bao quanh hoàn toàn bằng một hào quang vĩ đại (mà tôi tưởng tượng bằng vàng) được hình thành bởi khuôn mặt của Chúa Giêsu; điều này nhắc cho tâm trí nhớ rằng Chúa Kitô là Đầu nhân thần của ngôi vị nhân bản Giáo Hội, caput supra omnem Ecclesiam [đầu trên toàn thể Giáo Hội]{7}, như Thánh Phaolô từng nói trong Thư gửi tín hữu Êphêsô, - Người là Đầu hoặc Người lãnh đạo của Giáo hội, nhưng "ở trên Giáo Hội."



Và đó là Giáo hội ở đây dưới thế này, Giáo hội trong tình trạng lữ hành trên trần gian, được trình bầy như vậy. Người phụ nữ tượng trưng cho Giáo Hội được đội vương miện gai, để chứng tỏ rằng qua mọi thời đại và cho đến ngày tận thế ngài "hoàn tất" (trong ứng dụng, chứ không phải trong công phúc) "điều còn thiếu trong các đau khổ của Chúa Cứu thế." Và đôi mắt của bà rơi lệ, - bà tắm trong nước mắt, - điều này cho thấy Nàng Dâu vô nhiễm nguyên tội, noi gương Chúa Kitô, nhận lấy cho mình các vi phạm của vô số chi thể của mình, và đền tội cho họ.

Đầu của bà là biểu tượng của thẩm quyền cao nhất trong Giáo hội trên trần gian, thẩm quyền của Vị Đại diện của Chúa Kitô, giám mục Rôma, với, ngay bên dưới ngài, là giám mục đoàn thế giới.

Đôi chân trần của bà vì bà nghèo, đẫm máu vì gai nhọn giữa lúc tiến bước trên trái đất này, tuy nhiên, mạnh mẽ vì Chúa trợ giúp bà và bảo vệ bà trên đường đi.

Tính phổ quát của Giáo hội là một mầu nhiệm, cũng như Giáo Hội là một mầu nhiệm

1. Như chúng ta đã thấy trong Chương III, Giáo hội có sự tồn hữu kép: một mặt là sự tồn hữu tự nhiên của vô số tín hữu của Giáo hội xét từng người một; mặt khác, một sự tồn hữu mầu nhiệm, và là sự tồn hữu độc nhất trong loại này, cùng trương độ với ân sủng lan tỏa khắp các chi thể của mình, - điều mà Giáo Hội nhận được một cách siêu nhiên từ Thiên Chúa vì Giáo Hội đã mang hình ảnh cực kỳ độc nhất và cá thể của Ngôi Lời Nhập Thể in sâu trong mình. Chính sự tồn hữu này, - sự tồn hữu của ân sủng, cùng một lúc là tập thể và được phú cho một sự hiệp nhất hữu thể học phát xuất từ chính Chúa Kitô, - một sự hiệp nhất làm cho Giáo hội, không giống như mọi cộng đồng khác, thành một ngôi vị đúng với tên gọi, được cấu thành một cách siêu nhiên, Thân thể của Chúa Kitô và Nàng dâu của Chúa Kitô.

Liên quan đến tính phổ quát của Giáo hội, - và tới mức độ (và điều này xem ra hợp pháp đối với tôi) khiến người ta phải quy từ ngữ “tính phổ quát” cho quần thể các ngôi vị cá nhân tạo nên tập thể bao la này (chính đức tin chung của họ là đức tin của Giáo Hội), - cũng cần phải nói rằng đối với Giáo hội có một tính phổ quát kép: một mặt là tính phổ quát về số lượng hoặc thống kê, mà lòng nhiệt thành tông đồ muốn thấy bao trùm tất cả mọi người, nhưng thực tế, bỏ ra ngoài phần cực kỳ lớn của dân số trên trái đất. Theo một nghĩa khác, Giáo hội đón nhận tất cả mọi người, khi Giáo hội bảo bọc họ trong lời cầu nguyện và trong tình yêu của mình, và như chúng ta sẽ thấy, theo mức độ người ta có thể tin, khi Giáo Hội hiện diện một cách tiềm ẩn và vô hình [virtuellement et invisiblement] trong tất cả mọi người. Trên thực tế, tính phổ quát về số lượng hoặc thống kê của Giáo Hội chỉ mở rộng tới tất cả những người được rửa tội vốn là thành viên của cơ cấu hữu cơ của Giáo Hội hoặc của cơ thể có nhiều khớp của Giáo Hội. Loại phổ quát như vậy là loại phổ quát mà hệ thống máy tính có khả năng đếm mọi thành viên thuộc bất cứ cộng đồng con người rộng lớn nào sẽ tiết lộ. Người ta có thể gọi nó là "tính phổ quát về số lượng." Nó không đáng ta quan tâm, nó không phải là tính phổ quát của Giáo hội theo nghĩa nền tảng của từ ngữ này.

Chúng ta hãy nhớ lại rằng Giáo hội không thể sai lầm trong vấn đề đức tin, bao lâu Giáo hội được xem xét trong tính hiệp nhất và phổ quát của mình. Nếu tính phổ quát của Giáo hội được hiểu theo nghĩa phổ quát của số lượng, thì đó là suy nghĩ, được biểu nhờ tôi không biết là cuộc thăm dò phổ quát nào của Gallup, về các cộng đồng được phân bổ trong tổng thể các giáo hội địa phương, những Giáo Hội sẽ cung cấp tiêu chuẩn cho điều gì thuộc đức tin. Nhưng những gì Giáo hội cho là đúng và được Thiên Chúa mạc khải hệ ở chính những điều được tin, ở hạ tầng, bởi sự nhất trí hoặc bởi số lượng lớn nhất các thành viên của các cộng đồng này trên toàn thế giới. Để thấy được sự phi lý của một quan niệm như vậy, người ta chỉ cần nghĩ đến cuộc khủng hoảng do phái Ariô gây ra, và nhận xét của Thánh Giêrônimô về tình trạng u mê của thế giới khi nhận thấy rằng nó gần như đã đánh thức phái này. Trong cơn sóng gió tôn giáo lớn lao của thế kỷ thứ tư, nhiều giáo hội địa phương, lúc này hay lúc khác, đã chạy sang phái Ariô hoặc bán Ariô, và đức tin của Giáo hội chỉ được cứu thoát bởi những vị thánh có tầm vóc vĩ đại đáng ngưỡng mộ và của một sự kiên định bất khả chiến bại, - một Athanasiô, một Hilariô thành Poitiers.

2. Tính phổ quát của Giáo Hội theo nghĩa nền tảng của từ ngữ này là tính phổ quát của tất cả những chi thể của Giáo Hội nào vẫn sống trong ân sủng của Chúa Kitô, và không cản trở sự trợ giúp của Thánh Thần Người được ngôi vị của Giáo Hội tiếp nhận, - và trong đó mỗi người có thể tham gia hoặc trực tiếp nếu bản thân họ được soi sáng nội tâm bởi sensus fidei [cảm thức đức tin] vốn của riêng "dân thánh Thiên Chúa", {8} hoặc thông qua giáo huấn và các quyết định của Giáo hội nếu họ sẵn lòng tuân theo chúng. Tính phổ quát như vậy là tính phổ quát của ân sủng, trong tư cách ấy, nó vô hình đối với con mắt chúng ta. Nhưng nó trở nên hiển nhiên đối với chúng ta mỗi khi từ trên cao, huấn quyền bình thường hoặc phi thường khiến tai chúng ta nghe thấy tiếng nói của ngôi vị Giáo hội, - điều này do Đức Giáo Hoàng nói ex cathedra [từ ngai tòa], hoặc bởi các Công đồng chung tập hợp giám mục đoàn khắp thế giới lại với nhau trong cùng một chứng từ đơn nhất, hợp nhất với Đức Giáo Hoàng, hoặc bởi sự thống nhất và liên tục qua nhiều thế kỷ của giáo huấn ở khắp mọi nơi do các giám mục đưa ra. Trong mỗi trường hợp mà tôi vừa đề cập này, tính hiệp nhất và tính phổ quát của ngôi vị Giáo hội được biểu lộ một cách khả giác, và Giáo hội được xem xét trong tính hiệp nhất và tính phổ quát của mình tự biểu lộ cho chúng ta.

Do đó, tính phổ quát của Giáo hội cũng mầu nhiệm như chính Giáo hội. Chỉ một mình Thiên Chúa biết trương độ của nó, chỉ một mình Thiên Chúa biết ai là những người được Giáo Hội bảo bọc trong hành động vào từng thời điểm của lịch sử. Đối với những người khác chúng ta, nó chỉ trở nên hiển nhiên, như tôi vừa nói, khi tiếng nói của Giáo hội tự làm cho nó được chúng ta nghe thấy, trong sự hiệp nhất được biểu lộ một cách khả giác trong giáo huấn tông truyền, - hoặc bởi huấn quyền bình thường trong suốt nhiều thế kỷ, hoặc theo các sắc lệnh và định nghĩa của các Công đồng chung, hoặc theo giáo huấn của Đức Giáo Hoàng ex cathedra [từ ngai toà]. Như thế, chính Giáo hội được xem xét trong tính hiệp nhất và tính phổ quát của mình, là người nói với chúng ta, và là người nói với chúng ta một cách không thể sai lầm.

3. Tuy nhiên, há tôi đã không nhắc lại ngay lúc này rằng vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng lớn sau Công đồng Nixêa, được tổ chức năm 325 (sau các Công đồng lớn, thường diễn ra các cuộc khủng hoảng lớn), đa số các giám mục đã nhận thấy mình, ngày nọ hay ngày kia, đứng về phía phái Ariô hay nửa Ariô đó sao? Do đó, điều gì sẽ xảy ra nếu ngay giữa cuộc khủng hoảng, Đức Giáo Hoàng Libêriô đã tìm ra cách triệu tập cùng số giám mục đó (có lẽ chiếm đa số) tham dự một Công đồng chung?

Theo ý kiến của tôi, câu trả lời rất đơn giản: đó là giữa sự hồ đồ tồi tệ nhất, và một sự hỗn loạn của các biến cố trong đó các ganh đua, các hèn nhát, các liên minh quyền lợi và những trò nịnh bợ ở triều đình Giáo Hội hòa lẫn với những âm mưu của triều đình đế quốc, những quyết định không được khiếu nại, những đe dọa và bạo lực của Hoàng đế, và với một làn sóng bách hại, và chính do sự yếu đuối, sợ hãi hoặc tham vọng mà các giám mục được đề cập đã sa vào sai lầm. Vâng, giả sử ngay giữa cuộc khủng hoảng, mọi người được tập hợp lại trong một Công đồng chung, thì sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần được hứa ban cho ngôi vị của Giáo hội đã quét sạch khỏi họ những điều khốn cùng của Ađam cũ rồi; và cùng các giám mục đó, được Thần Khí Chúa Kitô soi sáng, đã long trọng lên án phái Ariô và phái nửa Ariô, như sau này, vào năm 381, Công đồng Constantinople đã làm.

__________________________________________________________________________________________________

{1} Eph. 1: 23. - "... sự viên mãn của Người lấp đầy vũ trụ trong mọi thành phần của nó." Xem thêm Ch. I, tr. 3 và ghi chú 3.

{2} Đã dẫn. - "Et ipsum decit caput supra omnem Ecclesiam, quae est Corpus ejus, et Plenitudo ejus" [và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người].

{3} Eph. 4: 11-13.

{4} Đã dẫn, 3:19.

{5} Xem cuốn sách của tôi De la Grâce et de l'Humanité de Jésus [Về Ân sủng và Nhân tính của Chúa Giêsu], Paris, Desclée De Brouwe, 1965, các tr.49-91

{6} Kh. 21: 1 tt. - x. Lumen Gentium, I, 6. Hình ảnh này của Sách Khải huyền đã được áp dụng vào Giáo hội lữ hành, vì tư cách ngôi vị của Giáo hội thuộc về trật tự siêu nhiên.

{7} Eph. 1: 23. - Ở đây, chúng ta hãy theo bản Phổ thông (Vulgate); chính Thánh Giêrônimô là người đã dịch đoạn văn này một cách trung thực nhất.

{8} Xem Lumen Gentium, Ch. II, số 12.

{9} Công đồng Tyre, mà năm 335 đã lên án và phế truất Thánh Athanasiô, và Công đồng Rimini, mà năm 359, dưới áp lực của triều đình, cuối cùng đã chấp nhận một công thức không thể chấp nhận được nhằm thỏa hiệp và hòa giải với phái Ariô, là những Công Đồng không có giá trị chung hoặc thẩm quyền đích thực, đã át đi tiếng nói của Giáo hội thay vì giúp nó được lắng nghe. Giả thuyết hoàn toàn nhưng không đề ra ở đây có ý nói đến một công đồng phát biểu tư tưởng của toàn thể hàng giám mục và được ban cho một thẩm quyền đích thực, có ý nói đến một công đồng chung (theo nghĩa trong đó khái niệm đã được sống và thực hành ngay từ đầu và được định nghĩa sau này).
 

Vietcatholic News

Những lý do mà Thánh Gioan Phaolô II đã đưa ra để thêm các Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi

 Những lý do mà Thánh Gioan Phaolô II đã đưa ra để thêm các Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi

Đặng Tự Do
 


Hai mươi năm trước, Thánh Gioan Phaolô II đã công bố tông thư Rosarium Virginis Mariae, tức là Kinh Mân Côi Kính Đức Trinh Nữ Maria, bổ sung năm Mầu nhiệm Sự Sáng vào 15 Mầu nhiệm truyền thống được suy niệm trong chuỗi Mân Côi.

Các Mầu Nhiệm Sự Sáng nói đến cuộc đời công khai của Chúa Kitô, bao gồm Phép Rửa của Ngài tại sông Jordan; Chúa làm phép lạ trong tiệc cưới Cana; lời công bố Nước Thiên Chúa, với lời kêu gọi hoán cải; Chúa biến hình; và việc Người thiết lập Bí tích Thánh Thể,” như một cách diễn tả Mầu nhiệm Vượt qua”

Trong tông thư của mình, Đức Thánh Cha giải thích rằng “Kinh Mân Côi, mặc dù có đặc điểm rõ ràng là Đức Mẹ, nhưng cốt lõi là một lời cầu nguyện hướng về Chúa Kitô” và nó có “một vị trí quan trọng” trong đời sống thiêng liêng của Đức Gioan Phaolô II trong thời niên thiếu.

Hai tuần sau khi được bổ nhiệm làm mục tử toàn thể Hội Thánh, Thánh Gioan Phaolô II đã cho biết: “Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện yêu thích của tôi”.

Đức Giáo Hoàng đã đề xuất các Mầu nhiệm Sáng để “làm nổi bật đặc tính Kitô học của chuỗi hạt Mân Côi.” Những mầu nhiệm này đề cập đến “sứ vụ công khai của Chúa Kitô từ Phép Rửa cho đến Cuộc Khổ Nạn của Người”.

Do đó, trong những mầu nhiệm này “chúng ta chiêm ngưỡng những khía cạnh quan trọng của con người Chúa Kitô như là sự mặc khải cuối cùng của Thiên Chúa,” Đức Thánh Cha nói, vì chính Ngài đã “tuyên bố Con yêu dấu của Chúa Cha trong Phép Rửa ở sông Giođan, Chúa Kitô là Đấng loan báo Nước Trời sắp đến, làm chứng cho Nước Trời trong các công việc của Người và công bố những đòi hỏi của Nước Trời”.

Thánh Gioan Phaolô II cũng ghi nhận trong tông thư của ngài rằng “chính trong những năm thi hành sứ vụ công khai của Ngài, mầu nhiệm của Chúa Kitô rõ ràng là mầu nhiệm ánh sáng: ‘Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.’ (Ga 9: 5).” Do đó, để Kinh Mân Côi “trở thành một 'bản tóm tắt của Phúc Âm' ', Đức Thánh Cha cho rằng cần phải có” sự suy niệm về những khoảnh khắc đặc biệt quan trọng nhất định trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô, sau khi suy tư về Sự Nhập Thể và cuộc đời chưa công kahi của Chúa Kitô trong Năm Sự Vui, và trước khi tập trung vào những đau khổ trong cuộc Khổ nạn của Người trong Năm Sư Thươnh, và sự khải hoàn Phục sinh của Người trong Năm Sự Mừng.

Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng việc thêm các Mầu nhiệm Sự Sáng được thực hiện “không ảnh hưởng đến bất kỳ khía cạnh thiết yếu nào trong hình thức truyền thống của Kinh Mân Côi, nhưng mang lại cho nó cuộc sống tươi mới và khơi dậy sự quan tâm mới đến vị trí của Kinh Mân Côi trong linh đạo Kitô giáo như một cánh cửa thực sự dẫn đến chiều sâu của Trái tim của Chúa Kitô, đại dương của niềm vui và ánh sáng, đau khổ và vinh quang. “

Những mầu nhiệm mạc khải ánh sáng của Nước Trời

Thánh Gioan Phaolô II giải thích rằng mỗi mầu nhiệm ánh sáng “là một mạc khải về Nước Trời hiện đang hiện diện trong chính con người Chúa Giêsu.”

Sự hiện diện này được thể hiện theo một cách cụ thể trong mỗi một trong những mầu nhiệm sự sáng.

Trong phép Rửa tại sông Jordan, Chúa Kitô “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người. (x. 2Cr 5,21),” Chúa Cha công bố Người là Con Yêu dấu và Chúa Thánh Thần “ngự xuống trên Người để đầu tư cho Người sứ mệnh mà Người sẽ thực hiện.. “

Tại tiệc cưới Cana, bằng cách biến nước thành rượu, Đức Kitô đã “mở lòng các môn đệ đến với đức tin, nhờ sự can thiệp của Đức Maria, người đầu tiên trong số các tín hữu”.

Với việc rao giảng về vương quốc và lời kêu gọi hoán cải, Chúa Kitô khởi xướng “sứ vụ của lòng thương xót,” tiếp tục qua “Bí tích Hòa giải mà Người đã ủy thác cho Giáo hội của Người”.

Đối với Thánh Gioan Phaolô II, cuộc Biến hình là “mầu nhiệm của ánh sáng xuất sắc” vì “vinh quang của Thiên Chúa tỏa ra từ khuôn mặt của Chúa Kitô khi Chúa Cha ra lệnh cho các Tông đồ đang kinh ngạc hãy lắng nghe Người”.

Việc thiết lập Bí tích Thánh Thể cũng là một mầu nhiệm ánh sáng vì “Đức Kitô đã hiến dâng mình và máu Người làm lương thực dưới dấu chỉ bánh và rượu, và làm chứng 'cho đến cùng' tình yêu của Người dành cho nhân loại (Ga 13:1).

Đức Maria trong những mầu nhiệm sự sáng

Đức Thánh Cha chỉ ra rằng “ngoài phép lạ ở Cana, sự hiện diện của Đức Maria vẫn còn trong hậu cảnh.” Tuy nhiên, “một cách nào đó, vai trò mà Đức Mẹ đảm nhận tại Cana đồng hành với Chúa Kitô trong suốt sứ vụ của Người,” với lời khuyên từ mẫu của Đức Mẹ: “Hãy làm bất cứ điều gì Người bảo các anh” (Ga 2: 5).

Thánh Gioan Phaolô II coi lời khuyên này là “lời giới thiệu thích hợp cho những lời và dấu chỉ về sứ vụ công khai của Chúa Kitô và nó tạo nên nền tảng của Đức Mẹ cho tất cả các 'mầu nhiệm ánh sáng'.”

Sau đó, giáo hoàng đề xuất rằng những mầu nhiệm sự sáng này được chiêm ngưỡng vào các ngày thứ Năm.

Những lý do mà Thánh Gioan Phaolô II đã đưa ra để thêm các Mầu Nhiệm Sáng vào chuỗi Mân Côi

Source:Catholic News Agency
 
Vietcatholic News

Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 23 tháng 10

 Huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 23 tháng 10

J.B. Đặng Minh An dịch

Chúa Nhật 23 tháng 10, Giáo Hội trên toàn thế giới cử hành Chúa Nhật thứ 30 Mùa Thường Niên, cũng là Khánh Nhật Truyền Giáo.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.

Khi ấy, Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.’ Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.’ Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”

Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Bài Tin Mừng của Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta một dụ ngôn có hai nhân vật chính, một người Pharisêu và một người thu thuế (Lc 18:9-14), tức là một người sùng đạo và một kẻ tội lỗi. Cả hai người đều lên Đền thờ để cầu nguyện, nhưng chỉ có người thu thuế mới thực sự nâng mình lên với Thiên Chúa, bởi vì anh ta khiêm tốn cúi xuống trong sự khiêm nhường của chính mình và anh ta thể hiện thực tại của mình, không đeo mặt nạ, trong sự khốn cùng của mình. Do đó, chúng ta có thể nói rằng dụ ngôn nằm giữa hai chuyển động, được diễn tả bằng hai động từ: nâng lên và hạ xuống.

Chuyển động đầu tiên là nâng lên. Thật vậy, bản văn bắt đầu bằng câu: “Hai người lên đền thờ cầu nguyện” (câu 10). Khía cạnh này gợi lại nhiều tình tiết trong Kinh thánh, trong đó để gặp Chúa, một người đi lên núi có sự hiện diện của Ngài: Ápraham lên núi để dâng của lễ; Môise lên Núi Sinai để nhận các Điều Răn; Chúa Giêsu lên núi nơi Ngài được biến hình. Do đó, vươn lên thể hiện nhu cầu của trái tim tách mình ra khỏi cuộc sống bằng phẳng để hướng về Chúa; vươn lên từ bình nguyên của bản ngã của chúng ta để tiến về phía Thiên Chúa, giải phóng bản thân khỏi cái “tôi” của chính mình; gom góp những gì chúng ta sống trong thung lũng để mang ra trước mặt Chúa. Đây là “sự trỗi dậy”, và khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta sẽ đứng dậy.

Nhưng để sống cuộc gặp gỡ với Người và được biến đổi bằng lời cầu nguyện, để vươn lên với Thiên Chúa, cần phải có một động tác thứ hai: hạ xuống. Làm thế nào để hạ xuống? Điều đó có nghĩa là gì? Để vươn lên đối với Người, chúng ta phải hạ xuống trong chính mình: trau dồi sự chân thành và khiêm tốn của trái tim, cho chúng ta một cái nhìn trung thực về sự yếu đuối và nghèo khó bên trong của chúng ta. Thật vậy, với sự khiêm nhường, chúng ta có khả năng đem những thực tại của chúng ta đến với Thiên Chúa, mà không cần giả vờ: những vết thương, tội lỗi và những đau khổ đang đè nặng lên tâm hồn chúng ta, và cầu xin lòng thương xót của Ngài để Ngài chữa lành chúng ta, phục hồi chúng ta và nâng chúng ta lên. Chính Người sẽ nâng chúng ta lên, chứ không phải chúng ta. Chúng ta càng hạ mình với sự khiêm nhường, thì Thiên Chúa càng nâng chúng ta lên.

Thật vậy, người thu thuế trong dụ ngôn khiêm nhường dừng lại ở khoảng cách xa (xem câu 13) - anh ta không đến gần, anh ta xấu hổ - anh ta cầu xin sự tha thứ, và Chúa nâng anh ta lên. Trái lại, người Pharisêu tự đề cao bản thân, tự tin, tin chắc rằng mình tốt lành: đứng thẳng lên, anh ta bắt đầu chỉ nói với Chúa về mình, tự ca ngợi mình, liệt kê tất cả những việc làm đạo đức tốt lành mà anh ta thực hiện, và khinh thường người khác: “con không như bao kẻ khác …” Đây là những gì gây ra bởi sự kiêu ngạo tâm linh làm. “Nhưng thưa cha, tại sao cha lại nói với chúng tôi về sự kiêu ngạo thuộc linh?” Thưa, bởi vì tất cả chúng ta đều có nguy cơ rơi vào cái bẫy này. Nó khiến anh chị em tin rằng mình đúng và đánh giá người khác. Đây là sự kiêu ngạo về tâm linh: “Tôi tốt lành, tôi giỏi hơn những người khác: người này làm thế này, người kia làm thế kia…”. Và theo cách này, trong vô thức, anh chị em tôn thờ cái tôi của chính mình và phủ nhận Chúa của anh chị em. Nó xoay quanh bản thân mỗi người. Đây là lời cầu nguyện không có sự khiêm tốn.

Anh chị em, người Pharisêu và người thu thuế có liên quan chặt chẽ đến chúng ta. Hãy nghĩ đến họ, chúng ta hãy nhìn lại chính mình: chúng ta hãy xác nhận xem trong chúng ta có hay không sự xác tín của người Pharisêu về sự công chính của chính mình (xem câu 9) khiến chúng ta khinh thường người khác. Chẳng hạn, điều đó xảy ra khi chúng ta tìm kiếm những lời khen ngợi và luôn lập danh sách những công lao và việc làm tốt của mình, khi chúng ta quan tâm đến vẻ bề ngoài của chúng ta hơn là thực chất của chúng ta, khi chúng ta để mình bị mắc kẹt bởi lòng tự ái và chủ nghĩa phô trương. Chúng ta hãy cẩn thận với chủ nghĩa tự ái và chủ nghĩa phô trương, dựa trên vinh hoa phù phiếm, khiến ngay cả chúng ta là những Kitô hữu, linh mục và giám mục, cũng luôn có một lời nói trên môi. Lời nào? Thưa: đó là từ “Tôi”: “Tôi đã làm điều này, tôi đã viết điều đó, tôi đã nói điều đó, tôi hiểu điều đó trước bạn”, vân vân. Ở đâu có quá nhiều “tôi”, ở đó có quá ít Chúa. Ở đất nước tôi, những người như thế được gọi là “Tôi, với tôi, cho tôi, chỉ mình tôi”, đây là tên của những người đó. Và ngày xưa họ thường nói về một linh mục như thế, tự cho mình là trung tâm, và người ta nói đùa rằng, “Khi cha ấy xông hương, cha ấy xông ngược, ngài tự xông hương chính mình”. Nó là như vậy đó; nó thậm chí làm cho anh chị em có vẻ lố bịch.

Chúng ta hãy cầu xin lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh, tôi tớ khiêm nhường của Chúa, là hình ảnh sống động của những gì Chúa yêu thích hoàn thành, lật đổ kẻ quyền thế khỏi ngai vàng và nâng cao kẻ khiêm nhường (x. Lc 1,52).

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:

Anh chị em thân mến,

Hôm nay là Khánh Nhật Truyền Giáo Thế giới, với chủ đề: “Anh em sẽ là nhân chứng của Thầy”. Đây là một cơ hội quan trọng để khơi dậy trong tất cả những người đã được rửa tội ước muốn tham gia vào sứ mệnh phổ quát của Giáo hội, qua việc làm chứng và loan báo Tin Mừng. Tôi khuyến khích mọi người ủng hộ những nhà truyền giáo bằng lời cầu nguyện và tình liên đới cụ thể, để họ có thể tiếp tục công việc rao giảng Tin Mừng và thăng tiến nhân loại trên khắp thế giới.

Hôm nay ban tổ chức Ngày Giới trẻ Thế giới sẽ diễn ra tại Lisbon vào tháng 8 năm 2023, bắt đầu nhận ghi danh. Tôi đã mời hai thanh niên Bồ Đào Nha đến đây với tôi trong khi tôi cũng ghi danh, với tư cách là một người hành hương. Tôi sẽ làm điều đó ngay bây giờ. Vâng, tôi đã ghi danh. Còn anh chị em, anh chị em đã ghi danh chưa? Hãy làm điều đó… Còn bạn, bạn đã ghi danh chưa? Làm đi…. Các bạn trẻ thân mến, tôi mời các bạn ghi danh tham gia buổi họp mặt này, để sau một thời gian dài lưu lạc, chúng ta sẽ khám phá lại niềm vui của tình huynh đệ giữa các dân tộc và giữa các thế hệ, là điều mà chúng ta rất cần!

Hôm qua, Vicente Nicasio Renuncio Toribio và 11 bạn đồng hành của Dòng Chúa Cứu Thế Chí Thánh, bị giết vì hận thù đức tin ở Tây Ban Nha vào năm 1936, đã được tuyên chân phước tại Madrid. Gương của những nhân chứng này của Chúa Kitô, những người thậm chí đã đổ máu ra để làm chứng cho Chúa Kitô, khích lệ chúng ta kiên định và can đảm; Nguyện cho lời cầu bầu của các ngài nâng đỡ những ai ngày nay nỗ lực gieo Tin Mừng trên thế giới. Chúng ta hãy hoan nghênh các Chân Phước mới!

Tôi theo dõi tình hình xung đột dai dẳng ở Ethiopia với sự lo lắng. Một lần nữa, tôi nhắc lại với sự quan tâm chân thành rằng bạo lực không giải quyết được sự bất hòa mà chỉ làm tăng thêm những hậu quả bi thảm. Tôi kêu gọi những người có trách nhiệm chính trị chấm dứt sự đau khổ của những người dân không có khả năng tự vệ và tìm ra các giải pháp công bằng cho hòa bình lâu dài trên khắp đất nước. Cầu mong những nỗ lực của các bên trong việc đối thoại và tìm kiếm lợi ích chung sẽ dẫn đến một con đường hòa giải thực sự. Mong những lời cầu nguyện của chúng ta, sự đoàn kết của chúng ta và những viện trợ nhân đạo cần thiết nâng đỡ các anh chị em Ethiopia của chúng ta, những người đang rất cố gắng.

Tôi rất đau buồn vì lũ lụt đang ảnh hưởng đến các quốc gia khác nhau ở Phi Châu và đã gây ra chết chóc và tàn phá. Tôi cầu nguyện cho các nạn nhân và gần hàng triệu người phải di dời, và tôi hy vọng sẽ có một nỗ lực phối hợp nhiều hơn nữa để ngăn chặn những thảm họa này.

Tôi chào tất cả các bạn, những người Rôma và những người hành hương đến từ các quốc gia khác nhau. Đặc biệt, tôi chào các giáo sĩ Indonesia và tu sĩ đang sống tại Rome; cộng đồng Peru đang tổ chức lễ kỷ niệm Señor de los Milagros, Trung tâm Học thuật Roman Fundación và nhóm từ giáo phận Tarnow của Ba Lan. Tôi chào các tín hữu từ San Donà di Piave, Padua, Pontedera và Molfetta, các ứng cử viên cho Bí tích Thêm sức từ Piacenza, nhóm “TIberiade” từ Carrobbio degli Angeli và Phong trào Bất bạo động từ Verona. Và hôm nay, khi thành lập chính phủ mới, chúng ta hãy cầu nguyện cho sự thống nhất và hòa bình ở Ý.

Ngày mốt, Thứ Ba ngày 25 tháng 10, tôi sẽ đến Đấu trường Rôma để cầu nguyện cho hòa bình ở Ukraine và trên thế giới, cùng với đại diện của các Giáo hội và Cộng đồng Kitô giáo và các tôn giáo trên thế giới, tụ họp tại Rôma cho cuộc họp “Lời kêu gào hòa bình”.. Tôi mời anh chị em hiệp thông tham gia trong lời khẩn cầu lớn lao này với Chúa: cầu nguyện là sức mạnh của hòa bình. Chúng ta hãy cầu nguyện, chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho Ukraine tử đạo.

Chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật nhiều may mắn. Xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt.

Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana
 

BÀI 71 - NÓNG GIẬN DỄ HÀNH XỬ OAN SAI

 

BÀI 71 HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH


BÀI 71 HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH
BÀI 71
HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH - NÓNG GIẬN DỄ HÀNH XỬ OAN SAI
 

1. LỜI CHÚA : Thánh Gia-cô-bê dạy: “Mau nghe, chậm nói, khoan giận” (Gc 1,19).
2. CÂU CHUYỆN : CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH BỊ CHẾT OAN.
- Năm đó tại ALASKA Hoa Kỳ, có một đôi vợ chồng sống chung với nhau trong một căn nhà ở bìa rừng. Sau một thời gian, chị vợ mang bầu và đã từ giã cuộc đời khi sinh con, để lại cho chồng một bé trai kháu khỉnh. Từ khi vợ chết, anh chồng chịu vất vả với cảnh gà trống nuôi con: hằng ngày anh phải đìu đứa con phía sau lưng đi vào rừng sâu cưa cây, rồi chở đến nhà máy xén gỗ bán lấy tiền nuôi con. Một ngày kia anh đã gặp được một con chó hoang bị thương nằm thoi thóp bên đường, anh liền mang về nhà săn sóc và huấn luyện nó trở thành chó nhà giúp đỡ công việc cho anh. Đây là giống chó bẹc-dê rất thông minh và mạnh khỏe. Nó luôn ngoan ngoãn đi theo chủ vào rừng và giúp chủ chăm sóc đứa con khi anh đang làm việc.
- Ngày nọ, anh chủ nhà có việc phải ra khỏi nhà không tiện mang theo con nhỏ. Trước khi đi, anh đã dặn dò con chó phải ở nhà thay anh trông coi đứa bé. Lẽ ra công việc chỉ cần sáng đi tối về, nhưng hôm đó trời bị bão tuyết, nên anh đành nán ở lại đến trưa hôm sau mới về nhà. Đến nhà, anh hơi chột dạ khi thấy cổng ngòai căn nhà đã bị mở toang và con chó của anh từ trong nhà khập khiễng chạy ra vẫy đuôi chào chủ. Thấy miệng con chó còn dính đầy máu tươi, anh liền chạy vào trong nhà quan sát, thì nhìn thấy một quang cảnh tan hoang: Đồ đạc lộn xộn, chỗ nào cũng có vết máu đỏ, ngay cả trên giường cũng bê bết máu. Nhưng anh lại không nhìn thấy con trai đâu. Anh gọi tên con nhưng vẫn không nghe thấy tiếng trả lời.
- Nghĩ là con chó nhà của anh đã quay trở lại bản tính hoang dã trước kia nên ăn thịt con trai mình. Trong lúc nóng giận, anh liền rút súng ra nhắm bắn vào đầu con chó tội phạm. Nó chỉ kịp kêu “ẳng” lên một tiếng rồi ngã lăn ra đất giãy chết. Ngay lúc đó, anh nhìn thấy đứa con của anh đang từ dưới gầm giường bò ra và lớn tiếng gọi ba. Anh vội bồng con trên tay quan sát từ đầu đến chân. Tuy trên mình nó cũng có vết máu, nhưng dường như con anh không bị thương chỗ nào cả. Anh nhìn lại con chó, thấy trên đùi của nó bị mất một miếng thịt, và tại góc nhà gần đó là xác một con chó sói bị chết nằm giơ bốn vó lên, trên miệng chó sói vẫn còn ngậm miếng thịt của con chó nhà của anh. 
- À, thì ra con chó Bẹc-dê của anh đã anh dũng chiến đấu chống lại chó sói để cứu cậu chủ, nhưng bây giờ lại bị chủ “lấy óan đền ơn” ra tay giết hại cách oan ức. Đây là một sự ngộ nhận gây hậu quả nghiêm trọng, mà từ đó về sau mỗi lần nghĩ đến là anh đều cảm thấy nhói đau trong tim. Anh luôn tự trách đã quá nóng vội hồ đồ, khi chưa hiểu rõ thực hư, đã vội ra tay giết chết con chó trung thành đã có công bảo vệ cậu con trai của mình khỏi bị sói rừng giết hại.
3. SUY NIỆM :
1) Nguyên nhân thường hay dẫn đến thái độ ngộ nhận hiểu lầm : Một phần là do tính nóng nảy như người ta thường nói : “Giận quá mất khôn”; phần khác cũng do thành kiến về người khác như anh chủ nhà đã nghĩ sai cho con chó, nghĩ rằng nó đã biến đổi trở về tính hoang dã trước kia. Nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do thái độ thiếu kiên nhẫn, nên đã vội vàng xử lý, khi chưa biết rõ thực hư, như anh chủ nhà đã vội giết hại con chó trung thành khi chưa hiểu rõ sự việc.
2) Hậu quả của thái độ ngộ nhận : Sự ngộ nhận tiến triển từ sự nghĩ không tốt cho đối phương , làm cho sự hiểu lầm càng thêm trầm trọng, đưa đến chỗ không thể ngồi lại nói chuyện phải quấy với nhau được. Ngộ nhận đối với một con vật mà đã phát sinh hậu quả nghiêm trọng như vậy, thì sự ngộ nhận giữa người với người còn gây hậu quả nghiêm trọng biết chừng nào !
4. SINH HOẠT :
Ta cần làm gì để tránh sự ngộ nhận gây hậu quả nghiêm trọng để khỏi phải ân hận vì sự đã rồi như anh chủ nhà trong câu chuyện trên ?
5. LỜI CẦU :
LẠY CHÚA, trong cuộc sống chung với tha nhân, chúng con thường hay hiểu sai về người khác và cũng hay bị người khác hiểu không đúng về mình. Theo chúng con nghĩ : nguyên nhân chính dẫn đến hiểu lầm là do thành kiến, do thái độ hồ đồ khi xét đóan sự việc, và hành động hấp tấp theo tính nóng nảy của mình. Xin cho chúng con quyết tâm thực hành lời Chúa trong thư thánh Gia-cô-bê hôm nay là : “Mau nghe, chậm nói và khoan  giận”. Nhờ đó, chúng con sẽ bình tĩnh suy xét thấu đáo mọi việc và hành xử khôn ngoan trước bất cứ tình huống nào xảy ra trong cuộc sống thường ngày.- AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM