Trang

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012

LỜI CHÚA MỖI NGÀY THỨ SÁU TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN năm II




LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ SÁU TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: I Cor 1:17-25; Mt 25:1-13.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Khôn ngoan của thập giá.
Con người thường có khuynh hướng không chấp nhận gian khổ và tìm cách tránh né, nhưng không có gian khổ sẽ không có vinh quang. Chẳng hạn, người lực sĩ thế vận phải hy sinh sức khỏe, thời giờ, tiền bạc, sở thích… trước khi có thể có huy chương vàng quàng quanh cổ của mình. Thánh Phaolô nhận xét: họ hy sinh tất cả để có một huy chương vàng sẽ mục nát; còn chúng ta hy vọng sẽ được phần thưởng không bao giờ mục nát: đó là cuộc sống đời đời. Vì thế, chúng ta sẵn sàng hy sinh chịu mọi gian khổ để chiến thắng cho được phần thưởng không mục nát này.
Các bài đọc hôm nay muốn làm nổi bật sự khôn ngoan theo cách thức của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, thánh Phaolô đề cao sự khôn ngoan của Thập Giá, cho dẫu người Do-thái cho là một xỉ nhục và dân ngoại cho là một điên rồ. Chính nhờ cây Thập Giá mà Đức Kitô đã gánh mọi tội cho nhân loại và đem lại ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu ví Nước Trời như 5 cô khôn ngoan đi đón chàng rể, họ mang theo đèn và mang cả bình đựng dầu; vì thế, khi chàng rể đến, họ theo chàng rể vào dự tiệc cưới; chứ không bị loại ra ngoài như 5 trinh nữ khác.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: So sánh khôn ngoan của con người với khôn ngoan của Thiên Chúa.

Thánh Phaolô có lý do để nhận xét: “Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.”

Đối với các triết gia Hy-lạp là những người yêu mến sự khôn ngoan, họ không thể hiểu được sự khôn ngoan của Thập Giá. Họ không thể chấp nhận một Thiên Chúa khôn ngoan lại mặc lấy thân xác con người; vì theo họ thân xác là ngục tù của linh hồn, mà họ đang dùng khôn ngoan để tìm cách thóat ra (Plato). Hơn nữa, Thập Giá biểu lộ sự dại khờ dưới mắt con người: Tại sao không dùng khôn ngoan để tìm ra cách nào dễ dàng hơn để đạt được sự bất tử? Đối với họ, một Thiên Chúa khôn ngoan sẽ không chọn con đường Thập Giá!

Đối với đa số Luật-sĩ và Biệt-phái Do-thái là những người yêu mến những điềm thiêng dấu lạ, họ không thể hiểu được uy quyền sức mạnh của Thập Giá. Họ cho rằng một Thiên Chúa chọn Thập Giá là một Thiên Chúa không uy quyền. Người Do-thái hy vọng Đấng Messiah sẽ đến trong uy quyền và vinh quang, sẽ đánh dẹp tất cả các quân thù, và sẽ cai trị dân chúng đến muôn đời. Chính ma quỉ đã bày kế cho Chúa trong sa mạc trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng của Ngài: Ông hãy biến đá thành bánh, hãy làm những dấu lạ chưa từng xảy ra để biểu lộ quyền năng, và cho hưởng phú quí vinh quang. Đó là những cái mà con người đang mong muốn, họ sẽ tin vào ông qua những dấu chỉ này.

Nhưng đối với Phaolô và những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đức Kitô chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. Con người muốn chọn những con đường rộng rãi thênh thang, nhưng những con đường này chỉ dẫn đến sự hủy diệt. Con người muốn chứng kiến những phép lạ chưa từng xảy ra, nhưng những phép lạ này đã không dẫn đến niềm tin đích thực vào Chúa. Thiên Chúa dùng Thập Giá để biểu tỏ tình yêu của Ngài dành cho con người, và con người cảm nhận được tình yêu này mỗi khi họ ngước nhìn lên Thập Giá. Thiên Chúa đã dùng Thập Giá để tiêu diệt kẻ thù cuối cùng và mạnh nhất của con người là sự chết bằng cách gánh tội lỗi để chết thay cho nhân lọai. Như vậy, Thập Giá được dùng để chứng tỏ tình yêu và công bằng của Thiên Chúa.

2/ Phúc Âm: Khôn ngoan và khờ dại.

Để nhấn mạnh cho con người biết sự cần thiết của việc chuẩn bị sẵn sàng, Chúa Giêsu so sánh Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi!" Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Theo tục lệ của Do-Thái, đám cưới thường xảy ra ban đêm, và chàng rể muốn tạo sự bất ngờ bằng việc không cho biết giờ đến. Đèn là nguồn ánh sáng duy nhất cho các gia đình trong thời này.

Năm cô khôn ngoan là những người biết nhìn xa và chuẩn bị: không những vừa mang đèn mà còn vừa mang chai dầu theo. Và khi được hỏi để cho mượn dầu, các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn." Không phải các cô ích kỷ không cho mượn, nhưng các cô không biết là tiệc cưới sẽ kéo dài bao lâu. Và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại.

Năm cô khờ dại là những người chỉ thấy những gì trước mắt và không phòng xa: các cô mang đèn mà không mang dầu theo. Khi được báo ra đón chàng rể, các cô năn nỉ với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!" Khi không vay mượn được, các cô chạy đi mua dầu; đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới. Sau cùng, các cô cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với!" Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!"

Và Chúa cảnh cáo: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.”
Nhiều nhà chú giải áp dụng dụ ngôn này cho người Do-thái vì họ là những người đã được kêu gọi và chuẩn bị cho ngày của Đấng Thiên Sai tới, nhưng khi Ngài tới họ đã không sẵn sàng để đón tiếp, nên đã bị lọai ra ngòai. Nhưng cách chú giải đúng hơn là dành cho mọi người về sự cần thiết để chuẩn bị cho ngày về với Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta cần cẩn thận khi so sánh khôn ngoan của con người với khôn ngoan của Thiên Chúa: Hầu hết các khôn ngoan và sức mạnh của con người là khờ dại và yếu hèn trước mắt Thiên Chúa. Ngược lại, những gì con người cho là khờ dại và yếu đuối thì Chúa lại dùng để dạy con người biết khôn ngoan (Thập Giá, người quan trọng nhất, khiêm nhường, phục vụ…).
- Cần biết phòng xa và chuẩn bị thích đáng; đừng để nước đến chân mới nhảy.
- Có những thứ không thể vay muợn: tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, công bằng xã hội.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

LỜI CHÚA MỖI NGÀY THỨ NĂM TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN năm II




LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ NĂM TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: I Cor 1:1-9; Mt 24:42-51.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Thiên Chúa trang bị cho con người đầy đủ mọi sự để đạt tới Nước Trời.
Có một câu chuyện nhỏ thuật lại cuộc đối thoại giữa thánh Gioan Bosco và các em nhỏ như sau: Một hôm cha hỏi: “Nếu bây giờ Chúa gọi các em về thì các em sẽ làm gì?” Một em bảo: “Con sẽ vào nhà thờ kiếm cha để xưng tội.” Em khác bảo: “Con sẽ về từ giã cha mẹ.” Sau cùng, có một em trả lời: “Con vẫn tiếp tục làm những gì con đang làm.” Cha xoa đầu và khen em bé thật khôn ngoan. Để có thể trả lời như thế, em bé phải rất tự tin vào những gì em đã sống.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật thái độ tự tin mà một người tín hữu phải có khi sống trong cuộc đời. Trong bài đọc I, thánh Phaolô muốn xác tín với các tín hữu Corintô Thiên Chúa đã trang bị cho họ mọi sự cần thiết trong cuộc đời để họ có thể đạt được đích điểm mà Ngài đã tiền định cho họ như: Giáo-hội, Lời Chúa, ơn thánh, các mạc khải. Họ chỉ cần mở lòng tiếp nhận và vâng lời làm theo những gì Ngài dạy. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kể một câu truyện để nói lên hai thái độ người môn đệ có thể rơi vào: Anh có thể có thái độ luôn trung tín và sẵn sàng chờ đợi chủ, hay có thể có thái độ lười biếng vì nghĩ ông chủ còn lâu mới trở lại. Thái độ thứ nhất là thái độ Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải sống.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Liệt kê những hành trang Chúa trao ban cho con người: Giáo Hội, Lời Chúa, ân sủng, và mục đích của cuộc đời.

(1) Giáo Hội: Tuy Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng thân xác hữu hình, nhưng Ngài vẫn ở với con người bằng những cách vô hình. Một trong những cách này là sự hiện diện của Ngài trong Giáo Hội, nơi các Tông Đồ và những người kế vị các ngài. Ngài không chỉ hiện diện trong Giáo Hội hòan vũ mà còn nơi các giáo hội địa phương như Côrintô, Thessalonica, Êphêsô… Mục đích của sự hiện diện này là để tiếp tục hướng dẫn, dạy dỗ, và ban ơn cho tất cả mọi người ở khắp nơi. Sự hiệp thông của mọi thành phần trong Giáo-hội được bày tỏ qua những lời chào thăm của thánh Phaolô tới giáo hội Côrintô: “Tôi là Phaolô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô, và ông Sosthenes là người anh em của chúng tôi, kính gửi hội thánh của Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta.”
(2) Được nghe Lời Chúa và hiểu biết các mầu nhiệm của Người: Một trong những hành trang quan trọng nhất mà Thiên Chúa trang bị cho con người là “Lời Chúa.” Có thể nói rằng không có điều gì con người cần biết mà đã không được nhắc đến trong Kinh Thánh. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã mặc khải cho con người tất cả các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu không mặc khải, con người không thể hiểu biết những mầu nhiệm này.

(3) Không thiếu bất cứ một ân huệ nào trong Chúa Giêsu Kitô: Ngoài Lời Chúa, tất cả những ơn thánh cần thiết được ban cho con người qua các bí-tích và những dịp đặc biệt được ban qua Giáo-hội. Nếu con người biết năng chạy đến lãnh nhận các bí-tích, họ sẽ không thiếu một ơn thánh nào cần thiết cho cuộc sống. Sự lơ là lãnh nhận các bí-tích làm con người không có đủ ơn thánh để chống trả với những cám dỗ và đau khổ của cuộc đời. Thánh Phaolô quả quyết điều này khi ngài nói: “Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.”

(4) Cho con người biết mục đích chính xác của cuộc đời qua những giáo huấn về Ngày Tận Thế: Sự khác biệt giữa người Công-giáo và các tín hữu của các đạo khác là người Công-giáo biết rõ mục đích của cuộc đời và những gì cần phải làm để đạt mục đích đó. Nếu đã biết tất cả những điều quan trọng này, các tín hữu Công-giáo phải an tâm chuẩn bị cho ngày về tới đích.

2/ Phúc Âm: Hãy chuẩn bị hành trang về nhà Chúa khi trời còn sáng.

Chúng ta đã được báo trước bởi Chúa Giêsu trong những chương cuối cùng của Phúc Âm Matthêu về Ngày Tận Thế là: (1) Điều chắc chắn là ngày ấy sẽ xảy ra; (2) Ngày và giờ sẽ xảy ra thì chỉ một mình Chúa Cha biết. Để luôn chuẩn bị cho ngày này, con người cần làm những việc sau:
(1) Chuẩn bị sẵn sàng: Yếu tố bất ngờ là một trong những điều sẽ xảy ra trong Ngày Tận Thế; vì thế cần chuẩn bị sẵn sàng. Phúc Âm hôm nay dùng ví dụ của tên ăn trộm để nói lên tính bất ngờ: “Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” Chuẩn bị sẵn sàng là chuẩn bị những gì cần thiết để ra trước tòa phán xét: đức tin vững mạnh vào Chúa, yêu thương và giúp đỡ mọi người, sạch mọi vết nhơ tội lỗi.
(2) Chu tòan các bổn phận hằng ngày: Sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng, con người cần chu toàn các bổn phận hằng ngày của mình cách tốt đẹp. Một điều để biết ai là người trung tín và khôn ngoan là thử thách họ bằng cách thăm viếng bất ngờ: nếu lúc nào họ cũng làm việc dù có mặt hay không có mặt của chủ, luôn chu toàn đầy đủ bổn phận của mình. Những người nào làm những điều này, chủ có thể tin cậy và trao mọi việc cho họ.

(3) Luôn tỉnh thức chờ đợi chủ: Sống ngày nào cũng như ngày cuối của đời mình. Một nguy hiểm thường xảy ra cho phần lớn các tín hữu là ngày ấy còn lâu mới đến! Đây là cách cám dỗ rất hiệu nghiệm của ma quỉ và không biết bao người đã rơi vào bẫy này. Nhiều người nói tuổi tôi còn trẻ chắc Chúa chưa gọi về, cứ việc ăn chơi thỏa thích cho tới khi bước vào tuổi già rồi sẽ ăn năn trở lại. Người khác lý luận: Chẳng cần theo đạo bây giờ để phải giữ bao nhiêu luật lệ và cứ phải xưng tội mãi, cứ chờ cho đến lúc nằm trên giường hấp hối, lúc đó sẽ trở lại cũng không muộn vì Thiên Chúa nhân lành sẽ trả công cho người làm một giờ cũng một nén bạc. Nhưng cuộc đời họ không học được chữ ngờ, Chúa cất họ đi khi họ chưa chuẩn bị như tên đầy tớ xấu xa hôm nay.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải vững tin vào Lời Chúa dạy bảo, đừng có thái độ ai nói gì cũng nghe. Sống trong một xã hội với bao nhiêu tôn giáo và niềm tin khác nhau, người Công-giáo phải xác tín vào những gì Chúa dạy bảo.
- Chúng ta phải luôn chuẩn bị sẵn sàng và sống giây phút hiện tại trong an bình và hy vọng.
- Điều gì chúng ta muốn làm và cần phải làm, hãy làm ngay đi khi trời còn sáng, trí khôn còn sáng.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

KINH THÁNH VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO




KINH THÁNH VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
I. Kinh Thánh Có Liên Hệ Đến Sự Mặc Khải của Thiên Chúa
Để đánh giá đúng sự hiểu biết của Công Giáo về Kinh Thánh, người ta phải thấu hiểu toàn thể quan điểm của Giáo Hội về Mặc Khải của Thiên Chúa.1 Giáo Hội Công Giáo dậy rằng trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa tự tỏ mình ra (mặc khải) một cách dần dần cho dân của Người.2 Sự mặc khải này lên đến tột điểm trong sự Nhập Thể của Đức Giêsu Kitô.3 Giáo Hội dậy rằng trong Đức Kitô, Thiên Chúa tỏ lộ chính mình một cách trọn vẹn và "giờ đây chúng ta không phải chờ đợi sự mặc khải mới lạ nào khác trước khi Đức Kitô Chúa chúng ta khải hiện trong vinh quang."4
Giáo Hội Công Giáo cũng xác nhận rằng Chúa Giêsu đã chọn mười hai tông đồ để rao giảng Phúc Âm cho toàn thế giới để sự mặc khải của Thiên Chúa được loan truyền cho nhân loại.5 Sau đó họ tấn phong các giám mục và linh mục để nối tiếp sứ vụ của họ, đó là những người được mời gọi để "bảo vệ chân lý đã được giao phó cho họ qua Chúa Thánh Thần."6 Vì vậy, người Công Giáo coi sự mặc khải của Thiên Chúa chính yếu được truyền khẩu ngay tự ban đầu (Thánh Truyền).7
Chúa Thánh Thần còn hướng dẫn một số tông đồ và các Kitô Hữu tiên khởi để viết xuống những câu chuyện về Chúa Giêsu và một số thư giảng dậy cũng như sự mặc khải. Giáo Hội thời tiên khởi nhận biết các văn bản này là được Thiên Chúa linh ứng. Do đó, Giáo Hội Công Giáo liên tục dậy rằng sự mặc khải của Thiên Chúa còn được truyền lại cho chúng ta bằng văn bản (Kinh Thánh).8 Tuy nhiên, khác hẳn với Tin Lành, Kinh Thánh thì không được coi như sự giảng dậy toàn vẹn, thấu đáo về Đức Tin Kitô Giáo. Đúng hơn, Thánh Truyền và Thánh Kinh cùng với nhau được coi là nguồn mặc khải toàn bộ của Thiên Chúa, như được giải thích trong Giáo Lý Công Giáo:
Vì vậy, Thánh Truyền và Thánh Kinh có liên hệ chặt chẽ với nhau và san sẻ cho nhau. Vì cả hai, xuất phát từ cùng một nguồn Thiên Chúa, cùng đến với nhau trong một kiểu cách nào đó để hình thành một điều và tiến về cùng một mục đích.9
Tuy nhiên, vẫn còn điểm thứ ba cần được giải thích về quan điểm Công Giáo về sự mặc khải của Thiên Chúa. Có thể nói, Chúa Giêsu Kitô chọn Giáo Hội để dậy bảo sự mặc khải của Người cho toàn thể nhân loại và mọi nơi. Người Công Giáo hiểu rằng Giáo Hội là Thân Thể mầu nhiệm, tương tự như người Tin Lành hiểu về một "Giáo Hội tinh thần." Tuy nhiên, người Công Giáo cũng tin rằng Chúa Giêsu đã thiết lập một Giáo Hội có phẩm trật, hữu hình, được dẫn dắt bởi Thánh Phêrô và các tông đồ cũng như những người kế vị. Để đảm bảo sự mặc khải đó được duy trì nguyên vẹn cho đến tận thế,10 Chúa hứa ban Thánh Thần để bảo vệ và dẫn dắt Giáo Hội này.11 Dĩ nhiên, điều này không được người Công Giáo hiểu rằng bất cứ tín hữu nào hay ngay cả thầy dậy nào cũng được bảo vệ khỏi sự sai lầm. Đúng hơn, Giáo Hội chủ trương rằng các giáo huấn chính thức và những công bố (của đức giáo hoàng hay công đồng) sẽ được bảo vệ không bị sai lầm. Bởi đó, người Công Giáo nhìn đến Công Đồng Giêrusalem như được ghi trong chương mười lăm của Công Vụ Tông Đồ là thí dụ chính yếu về thẩm quyền dậy dỗ và bảo vệ chân lý của Giáo Hội như được các tông đồ nhận lãnh từ Chúa Kitô.
Việc hình thành bộ quy điển Thánh Kinh cho thấy quan điểm của Công Giáo về thẩm quyền của Giáo Hội. Trong các thế kỷ đầu của Giáo Hội có sự bất đồng về những sách nào được coi là chính lục. Tỉ như, nhiều người coi một vài cuốn sách không có trong Tân ước ngày nay là một phần của Kinh Thánh, tỉ như Thư Gửi Tín Hữu Côrintô hay Mục Tử Hermas của Clêmentê. Ngược lại, một số đặt vấn đề hay tẩy chay tính cách quy điển của những cuốn sách hiện có, tỉ như thư gửi Tín Hữu Do Thái, thư Giacôbê, thư II của Phêrô, và sách Khải Huyền. Tuy nhiên, vấn đề này sau cùng đã được giải quyết qua các công đồng của giáo hội, và các thông tư của đức giáo hoàng.
Vì vậy, với tín hữu Công Giáo, lý do người ta chấp nhận tính cách linh ứng của các sách trong bộ chính lục là vì người ta tin rằng Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn và bảo vệ các giáo huấn chính thức của Giáo Hội về vấn đề đức tin và luân lý. Dù vấn đề là tính cách quy điển của Kinh Thánh hay sự hiểu biết thích hợp về đoạn Kinh Thánh, người Công Giáo chính thống coi thẩm quyền dậy bảo của Giáo Hội là một món quà của Chúa ban cho con người để bảo vệ sự mặc khải của Thiên Chúa trong mọi thời đại và mọi dân tộc. Giáo Hội xác nhận rằng Thiên Chúa đã thiết lập ba cột trụ là Kinh Thánh, Truyền Thống, và Huấn Quyền để duy trì sự mặc khải của Người cho nhân loại. "Phù hợp với hoạch định khôn ngoan nhất của Thiên Chúa," ba trụ cột này "quá liên hệ và hợp nhất với nhau đến nỗi một điều này không thể đứng vững nếu không có hai điều kia…"12 Bất cứ khi nào nghĩ đến sự tương giao của Giáo Hội Công Giáo với Kinh Thánh, trước hết, người ta phải nghĩ đến quan điểm nền tảng này của Công Giáo về sự Mặc Khải của Thiên Chúa.
II. Cách Giải Thích Kinh Thánh của Công Giáo Qua Lịch Sử
A. Giáo Hội Tiên Khởi
Sự kiện Kitô Hữu tiên khởi coi trọng Kinh Thánh có thể dễ nhận thấy qua việc nghiên cứu các bài giảng, phụng vụ, nhận xét và nghệ  thuật của Kitô Hữu. Họ đồng ý về tính cách linh ứng của Kinh Thánh (tuy có sự bất đồng ý về tính cách quy điển của các sách) và coi Kinh Thánh là "công trình độc nhất của một Tác Giả độc nhất."13 Trong những học giả Kinh Thánh vĩ đại của Kitô Giáo tiên khởi là Ambrôse, Giêrôme, Augustine, và ĐGH Grêgôriô Cả ở Tây Phương, trong khi ở Đông Phương có Athanasius, Gioan Kim Khẩu và các Giáo Phụ Cappadocian (Basil Cả, Grêgôriô Nazianzus, Grêgôriô ở Nyssa).
Trong khi một số giáo phụ, tỉ như, Melito ở Sardis, Clemente ở Alexandria, Origen, đưa ra các quy tắc để dẫn giải Kinh Thánh, trong thời kỳ tiên khởi này, tổng quát, các quy tắc vẫn còn uyển chuyển. Việc dẫn giải có tính cách ngụ ý của các văn bản thánh được chấp nhận một khi sự ngụ ý này hướng về Đức Tin Kitô Giáo và không thay đổi nhiều với Tông Truyền. Câu châm ngôn nổi tiếng của Vincent ở Lerins là quy tắc của thời ấy: quod ubique, quod semper, quod ab omnibus (điều [được dậy bảo] ở mọi nơi, luôn luôn, và bởi mọi người).
Chân lý của Kinh Thánh được hiểu theo nghĩa đen, có giá trị lịch sử thường được các Giáo Phụ mặc nhiên chấp nhận. Tuy nhiên, một vài ngoại lệ của điều này được thấy trong Học Phái Alexandria. Thí dụ, Origen dậy rằng các biến cố trong Cựu Ước không nhất thiết phải chính xác về lịch sử, nhưng được dùng như các câu chuyện để nói lên các chân lý có giá trị tinh thần. Trái lại, Học Phái Antiôkia tỉ như Gioan Kim Khẩu mạnh mẽ tẩy chay phương cách tiếp cận này, và duy trì tính cách xác thực lịch sử của Kinh Thánh.
Khi các thế kỷ trôi qua, sự quen thuộc tự nhiên với ngôn ngữ Kinh Thánh (tiếng Hy Lạp và cổ Do Thái) và các truyền khẩu tiên khởi giảm dần. Bởi đó, phát sinh nhu cầu cần có các quy tắc dẫn giải và chú thích. Từ từ, việc phát triển liên tục về nghệ thuật và khoa học của việc nghiên cứu Kinh Thánh đã đưa đến truyền thống Công Giáo về bốn ý nghĩa của Kinh Thánh.
Ý nghĩa đầu tiên là nghĩa đen (theo văn tự) mà theo T. Tôma Aquinas, là ý nghĩa mà tất cả các ý nghĩa khác phải dựa vào đó. Nghĩa đen thì đơn giản là ý nghĩa trực tiếp và đúng theo mặt chữ, tuy điều này có bao hàm phép ẩn dụ (tỉ như, Con của Sấm Sét vẫn là nghĩa đen tuy nó có tính cách ẩn dụ).
Ba ý nghĩa khác, ngụ ý, loại suy, và luân lý cùng hợp thành ý nghĩa tinh thần. Nghĩa ngụ ý chú ý đến ý nghĩa biểu tượng được phát sinh bởi chữ. Những hình ảnh tiên báo trong Cựu Ước và Tân Ước là thí dụ của ý nghĩa này. Nghĩa loại suy nhắm đến sự liên can của chữ với điều người Công Giáo gọi là "tứ chung;" có thể nói là sự chết, sự phán xét, thiên đàng, và hỏa ngục. Sau cùng, nghĩa luân lý dậy chúng ta cách sống. Tính cách dậy bảo của bốn ý nghĩa này được tóm tắt trong bài thơ nổi tiếng thời trung cổ:
Littera geta docet, quid credas allegoria,
moralis quid agas, quo tendas anagogica.
Theo nghĩa bóng, câu này có thể lược dịch như sau: "văn tự dậy chúng ta về điều đã xảy ra; điều bạn phải tin được gọi là ngụ ý; điều bạn phải thi hành được gọi là nghĩa luân lý; ý nghĩa loại suy có liên quan đến chung cuộc đời bạn."14
B. Thời Trung Cổ
Việc nghiên cứu Kinh Thánh phát đạt trong suốt thời trung cổ, một thời đại mà thần học và nghiên cứu Kinh Thánh được coi là "cực điểm của kiến thức" và "hoàng hậu của khoa học." Trong thời Trung Cổ, Giáo Hội Công Giáo duy trì và trao truyền lại Kinh Thánh. Người ta nói rằng nếu hai đan sĩ làm việc toàn thời gian thì phải mất bốn năm mới chép xong toàn bộ Kinh Thánh. Bởi đó, vì giá trị không thể tưởng được và vì không muốn bị mất cắp nên bộ Kinh Thánh đôi khi được giữ bằng giây xích trong nhà thờ và thư viện, chứ không phải vì Giáo Hội âm mưu muốn giữ làm của riêng không cho công chúng biết, như một vài người cáo buộc. Ngược lại, Giáo Hội đã làm mọi sự trong khả năng để phổ biến Kinh Thánh trong thời Trung Cổ cũng như giúp duy trì văn hóa và kiến thức của Tây Phương.
Thời đại này đề cao việc tìm kiếm sự thật ở bất cứ đâu. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy trong thời này, các đại học, thư viện, và nghệ thuật và khoa học nở rộ. Việc nghiên cứu Kinh Thánh và lưu ý đến ngôn ngữ nguyên thủy đã bành trướng trong thời gian này. Tỉ như, Công Đồng Viena (1311) ra lệnh các đại học phải có môn cổ ngữ.
Có lẽ phong trào nổi tiếng trong thời Trung Cổ về nghiên cứu Kinh Thánh là Học Phái Kinh Viện. Các học giả vĩ đại của thời này, trong đó có Bernard ở Clairvaux, Albert Cả, Tôma Aquinas, và Bonaventura, tìm cách tổng hợp lý lẽ với đức tin. Học phái này nghiên cứu triết học và Luật Tự Nhiên trong ánh sáng lời Chúa. Thí dụ, Aquinas giải thích đức tin Kitô Giáo dưới ánh sáng hiểu biết của Aristotle với ý định chứng minh rằng Kitô Giáo là một đức tin hữu lý, và chân thật. Tuy nhiên, cũng có giá trị để nhận xét rằng Giáo Hội thận trọng chủ trương rằng bất kể giá trị của lý lẽ và triết học, cần có ơn sủng để đạt được đức tin, đức cậy, và đức ái. Đó là, người ta có thể lý luận để tìm ra sự thật qua các phương tiện tự nhiên, nhưng chỉ nhờ ơn siêu nhiên, người ta mới có thể tin và được cứu độ.
Thần học gia thời Trung Cổ dựa nhiều vào bài nhận định của các Giáo Phụ và họ thờ ơ với các cách dẫn giải mới và có sáng kiến. Các học giả tỉ như sử gia và thần học gia người Anh là Bede, Peter Lombard, và Tôma Aquinas xuất bản các công trình là sự thu lượm các văn bản và ý kiến của các Giáo Phụ. Một học giả khác là thí dụ điển hình cho thời đại này khi ông viết, "Tốt hơn đừng mất thời giờ với các ý tưởng được cho là mới mẻ này, nhưng hãy ngập tràn với nguồn xưa cũ."15
Sự học hỏi Kinh Thánh cũng dựa nhiều vào ý nghĩa ngụ ý của Kinh Thánh. Thật vậy, trong con mắt nhiều người ngày nay, một số cách dẫn giải này dường như "giầu tưởng tuợng," nếu không muốn nói là ngớ ngẩn. Mark Holtz giải thích:
Nhờ bởi Hugh ở Victor (1090-1141), chúng ta được biết chiều dài của con tầu ông Nôe, 300 cubít, là dấu của Thánh Giá, vì con số 300 được tượng trưng là chữ "tau" (T) trong tiếng Hy Lạp, mà nó có hình dạng chữ thập. Rupert ở Deutz (1075-1129) nói cho chúng ta biết rằng câu trong sách Châm Ngôn (19:12), "Cơn giận của một ông vua thì giống như tiếng sư tử rống," nói về Đức Kitô trên thập giá, vì sau đó Vua của các vua gào thét vào mặt Lũ Qủy.16
Chắc chắn, tối thiểu một số giải thích được đưa ra trong thời Trung Cổ có thể bị ngày nay gạt bỏ vì quá hăng say dùng đến ý nghĩa thiêng liêng. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh sự tin tưởng sâu đậm của các thần học gia thời đại đó vào sự linh ứng của Kinh Thánh. Trái với sự chú giải tự do tân thời, họ có thể thấy Thiên Chúa là tác giả sau cùng của Kinh Thánh. Hậu quả là, ngay cả những câu trần tục nhất cũng thường được coi có giá trị thiêng liêng và đưa đến những giải thích có tính cách ngụ ý.
C. Thời Phản Cải Cách
Trong thế kỷ 16, Giáo Hội phải đương đầu với những thử thách nghiêm trọng khi người Thổ Nhĩ Kỳ xâm lăng đến gần Vienna, và sự Cải Cách Tin Lành. Trên nhiều khía cạnh, Giáo Hội thấy tinh thần hăng say dần dà suy đồi kể từ thế kỷ 13. Các vấn đề này bao gồm sự thối nát trong hàng giáo sĩ, không đủ người dậy giáo lý cho giáo dân, và cuộc Đại Ly Khai thật tai tiếng, trong thời gian này hai giáo hoàng tự cho mình là đại diện hợp pháp của Thánh Phêrô--một ở Rôma và một ở Avignon, Pháp.
Giáo Hội đáp ứng với cuộc Cải Cách Tin Lành qua Công Đồng Trentô. Các giáo phụ của công đồng nhìn nhận lỗi lầm của Giáo Hội Công Giáo trong sự suy thoái luân lý và giảng dậy trong đời sống Kitô Hữu. Tuy nhiên, Công Đồng đã nhắc lại các học thuyết truyền thống để trả lời cho những cách chú giải Kinh Thánh mới của Tin Lành. Bộ Vulgate được tái xác nhận là không có sai lầm gì về đức tin và luân lý. Tính cách quy điển truyền thống của Vulgate cũng được duy trì, bao gồm những thứ quy của Cựu Ước (được người Tin Lành gọi là "ngụy thư", họ tẩy chay những sách này không thuộc về chính lục). Quy điển này thường được Giáo Hội chấp nhận trong nhiều thế kỷ như được thấy hiển nhiên trong Công Đồng Hippo (393) và Carthage (397), và các công đồng khác. Tuy nhiên, Công Đồng Trentô không có lý do gì để hồ nghi, và mạnh mẽ dứt khoát xác định quy điển.
Trong Giáo Hội thời Cải Cách, việc nghiên cứu Kinh Thánh lại phát triển. Các linh mục dòng Tên như Peter Canisius, Robert Bellarmine, và Francisco Suarez là những thần học gia lỗi lạc nhất. Việc học ngôn ngữ nguyên thủy lại tiếp tục gia tăng. Tỉ như, Thomas More khẳng định, "Làm thế nào có thể biết thần học nếu không biết tiếng cổ Do Thái và Hy Lạp và Latinh?"
D. Thời Khai Sáng đến Hiện Đại
Việc tẩy chay quyền bính Giáo Hội bùng nổ trong thời Cải Cách đã mở cửa cho các phương cách tiếp cận có tính cách phê phán và hoài nghi đối với Kinh Thánh. Trong giai đoạn Hậu Khai Sáng, trong các thế kỷ 17 và 18, các học giả Kinh Thánh Tin Lành tự do bắt đầu tẩy chay tính cách không thể sai lầm của văn tự trong Kinh Thánh. Trong thế kỷ 19 phương pháp phê bình-lịch sử đối với Kinh Thánh chiếm ưu thế, nó nghiên cứu Kinh Thánh trong ánh sáng của các tiến trình lịch sử mà trong đó được viết xuống. Các học giả phái phê bình-lịch sử chịu ảnh hưởng của Hegel và các nhà tư tưởng hiện đại khác. Hậu quả là họ tìm hiểu Kinh Thánh với những phỏng đoán duy lý và tự nhiên, theo đó bất cứ biến cố siêu nhiên nào trong Kinh Thánh đều được giải thích là sản phẩm của thần thoại.
Các phương pháp của những người duy lý bị Giáo Hội lên án khi lịch sử bước sang đầu thế kỷ 20. Thí dụ, thông điệp Providentissimus Deus (1893) của ĐGH Lêô XIII mạnh mẽ tẩy chay thái độ từ chối chân lý và từ chối tính cách linh ứng của Kinh Thánh, ngài coi đó là lạc giáo và thiếu nền tảng đức tin, trong khi khuyến khích người Công Giáo hãy nghiên cứu. Năm 1943, ĐGH Piô XII viết thông điệp Divino Afflante Spiritu, để kỷ niệm năm mươi năm ngày ban hành thông điệp Providentissimus Deus. Đức thánh cha viết rằng khoa phê bình văn học đã phát triển đến mức nó có thể được dùng để nghiên cứu Kinh Thánh một cách an toàn mà không phương hại đến ý nghĩa đích thật của Kinh Thánh. Người cũng khuyến khích các học giả Kinh Thánh hãy theo sát các cuộc nghiên cứu về khảo cổ học, văn hóa, và lịch sử để hiểu biết hơn về văn tự của các văn gia trong Kinh Thánh.
Trong các văn kiện của Công Đồng Vatican II, Dei Verbum (Lời Chúa) là một trong những văn bản hay nhất. Văn kiện này tóm lược lập trường của Giáo Hội Công Giáo về sự Mặc Khải của Thiên Chúa. Nó tái khẳng định kho báu vĩ đại mà Kitô Hữu đang có trong Kinh Thánh, giá trị không thể lường được của Kinh Thánh để dậy bảo chân lý và giúp chúng ta đi theo Chúa Kitô. Nó cũng dậy rằng các hình thức văn chương, các khung cảnh lịch sử, và các "yếu tố nhân bản" khác phải được lưu ý trong việc học hỏi Kinh Thánh. Ảnh hưởng mạnh trong việc hình thành Dei Verbum là Sancta Mater Ecclesia (Mẹ Giáo Hội Thánh Thiện), được công bố bởi Ủy Ban Kinh Thánh năm 1964. Tài liệu này đưa ra sự hiểu biết của Công Giáo về các Phúc Âm, nhấn mạnh đến tính cách lịch sử và sự liên quan với các truyền khẩu của tông đồ.
Buồn thay, chúng ta phải than thở rằng trong thời hậu công đồng Vatican II, nhiều người trong Giáo Hội đã làm sái lệch ý định đích thực của công đồng để cổ vũ nhiều điều thường bị Giáo Hội lên án công khai. Tỉ như việc giải thích các phép lạ trong Kinh Thánh chỉ là thần thoại và chấp nhận phương cách phê bình-lịch sử một cách không hạn chế (hoàn toàn bỏ qua thông điệp Providentissimus Deus, Divino Afflante Spiritu, và toàn thể truyền thống dẫn giải Kinh Thánh của Giáo Hội). Có rất nhiều câu chuyện của các giáo dân bị bối rối khi nghe giảng rằng ma qủy chỉ là "sự giải thích những xáo trộn tâm lý của thế kỷ thứ nhất," hoặc phép lạ của Chúa Giêsu là huyền thoại được cộng đồng Kitô Hữu tiên khởi dựng nên sau này.
ĐGH Gioan Phaolô II cùng với ĐHY Ratzinger (khi còn là Trưởng Thánh Bộ Tín Lý) từ từ nhưng bền bỉ đưa giáo hội trở về con đường nguyên thủy được các Giáo Phụ của Công Đồng Vatican II đề ra. Sách Giáo Lý Công Giáo mới, được phát hành năm 1994, chứa đựng một đoạn tuyệt diệu về Kinh Thánh.17 Sách Giáo Lý trình bầy học thuyết chính thống của Công Giáo và có một giá trị vô giá để giúp dẫn dắt Giáo Hội trong những năm sắp tới. Ngoài ra sách này còn có một đoạn phi thường về sự mặc khải của Thiên Chúa, trong đó diễn tả bốn ý nghĩa của Kinh Thánh. Hành động này được nhiều người giải thích: rõ ràng là Vatican xác nhận giá trị của quan điểm truyền thống về Kinh Thánh.
Một văn kiện then chốt khác là "The Interpretation of the Bible in the Church" (1993) của Ủy Ban Kinh Thánh. Trong khi văn kiện này duy trì việc sử dụng phương cách phê bình-lịch sử đối với Kinh Thánh như một phương tiện để hiểu biết ý nghĩa Kinh Thánh chính xác hơn trong ánh sáng của khung cảnh lịch sử, văn hóa mà nó được viết ra, tài liệu này cảnh giác những nguy hiểm có thể xảy ra từ phương pháp này, nhất là khi nó được dùng để loại trừ sự dẫn giải có tính cách thiêng liêng. Tài liệu này tái xác nhận rằng sự dẫn giải Kinh Thánh không chỉ là công việc của các học giả. Đúng ra, Kinh Thánh là lời tích cực, sống động của Thiên Chúa, chủ yếu sống trong tâm hồn của các phần tử Giáo Hội.
Chắc chắn sẽ là điều ngây thờ và quá lạc quan khi nói rằng Giáo Hội Công Giáo đã thoát ra khỏi tình trạng buồn chán của giai đoạn hậu công đồng. Tuy nhiên, người tín hữu Công Giáo nhìn đến tương lai với đầy hy vọng, tin vào quan điểm của ĐGH Gioan Phaolô II rằng Giáo Hội đang có sự quân bình ở đầu một mùa xuân mới--một mùa hoa mà chắc chắn bao gồm sự nhấn mạnh đến việc canh tân học hỏi Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội.
III. Việc Chuyển Dịch Kinh Thánh và Giáo Hội Công Giáo
A. Cổ Ngữ Anh và Anh Ngữ thời Trung Cổ
Ngày nay nhiều người vẫn tin rằng Giáo Hội Công Giáo cố không cho người ta biết đến Kinh Thánh. Điều này cho thấy sự tệ hại về giao tế nhân sự của Giáo Hội trong hơn 500 năm qua, vì không có gì khác hơn sự thật.
Thật vậy, chính vì lời yêu cầu của ĐGH Damasus vào cuối thế kỷ thứ 4 mà Thánh Giêrôme đã hình thành bộ kinh thánh Vulgate bằng tiếng Latinh. Học thuật xuất sắc của T. Giêrôme đã làm cho bản dịch này trở nên một chuẩn mực chính xác và các bản Latinh trước đó trở nên lỗi thời. Bản dịch này được coi như bộ Kinh Thánh có giá trị quyết đoán cho Giáo Hội Tây Phương trong 1,500 năm kế đó. Công Đồng Trentô đã lập lại giá trị ấy và tán thành việc dùng bản dịch này "trong những cuộc thảo luận, bài thuyết trình và bài giảng."
Để hiểu giá trị của bộ Vulgate, trước hết người ta phải hiểu rằng trong thời Trung Cổ và ngay cả cho đến gần đây, Latin không phải là ngôn ngữ chết như ngày nay. Ở Tây Âu trong suốt thời Trung Cổ, người nào biết đọc biết viết đều có thể đọc và viết tiếng Latinh. Nền giáo dục được thể hiện hoàn toàn bằng tiếng Latinh. Đó là ngôn ngữ của những người có học thức và văn hóa. Do đó, với những người học thức của Anh, bộ Vulgate được coi là bộ Kinh Thánh chính yếu trong thời Trung Cổ.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa thú nhận lời cáo buộc rằng Kinh Thánh bị gò bó trong tiếng Latinh ở thời Trung Cổ. Trong thế kỷ thứ bảy, một đan sĩ tên Caedmon đã dùng thơ văn để viết lại một phần Kinh Thánh. Trong thế kỷ tiếp đó, vị đáng kính nổi tiếng Bede đã dịch sang tiếng địa phương. Nhiều bản dịch khác được thực hiện trong một vài thế kỷ tiếp đó, kể cả phần Thánh Vịnh được cho là của Vua Alfred Đại Đế.
Vào năm 1066, người Norman xâm chiếm nước Anh, và tiếng Anh thời Trung Cổ và tiếng Pháp thay thế cho Cổ Ngữ Anh (Saxon). Từ lúc đó trở đi chúng ta có nhiều bản viết tay tỉ như lời diễn giảng của Orm (k. 1150) và Salus Animae (k. 1250). Sự hiện diện của các bản dịch trong giai đoạn này được xác nhận qua lời nói đầu của King James Bible, và Thomas More là người đã viết: "Từ lâu trước thời của Wycliff, toàn thể bộ Kinh Thánh được những người đạo đức và học thức chuyển dịch sang tiếng Anh, và được đọc một cách nghiêm trang và kính cẩn bởi những người tốt lành và thánh thiện."18
B. Thế Kỷ 14 cho đến thời Cải Cách
Trong cuối thế kỷ 14, ngôn ngữ của những người nói tiếng Anh bắt đầu thay đổi đáng kể, tiến đến điều mà ngày nay chúng ta gọi là Anh ngữ. Trong giai đoạn này có một vài bản dịch từng phần Kinh Thánh trước cả Wycliff, bao gồm các Thánh Vịnh được cho là của William Shoreham và Richard Rolle, và những người khác. Trong thập niên 1380 bản dịch bộ Vulgate sang tiếng bản xứ được cho là của John Wycliff trong nhiều ấn bản khác nhau. Thượng Hội Đồng Oxford, được triệu tập năm 1408, lên án các bản dịch không được Giáo Hội phê chuẩn. Sở dĩ có việc này là vì Giáo Hội coi bản dịch của Wycliff là sai lầm (giống như các bản dịch của phái Chứng Nhân Giêhôva đối với ngày nay).
Trong toàn thể thời Trung Cổ, chính các đan sĩ là những người miệt mài duy trì bộ Kinh Thánh. Hàng giáo sĩ thường bị đòi hỏi phải thuộc lòng toàn bộ thánh vịnh. Các phụng vụ, bài giảng, âm nhạc, và lời phê bình trong thời đại này cũng quá đầy đủ để cho thấy sự thấu hiểu Kinh Thánh của hàng giáo sĩ.
Với giáo dân, những lời lẽ được ghi nhận dưới hình thức văn học, tài liệu luật pháp, thư từ, v.v., cho thấy chứng cớ hiển nhiên rằng giáo dân quá quen thuộc với Kinh Thánh. Tuy đa số dân chúng mù chữ, Kinh Thánh được truyền đạt cho họ dưới các hình thức khác hơn là bài đọc, tỉ như giảng dậy ở trường, bài giảng ở nhà thờ, kịch nghệ, và nghệ thuật. Các nhà thờ là "Kinh Thánh hình ảnh", trong đó có nhiều bức tượng và tấm kính mầu nói lên các câu chuyện trong Kinh Thánh.
C. Thời Cải Cách và Douay-Rheims
Sau khi máy in được phát minh trong thế kỷ 15, bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng tiếng bản xứ được in ở Anh là của William Tyndale. Bất chấp lệnh đức giám mục, ông rời nước Anh và cư ngụ ở Worms, nước Đức, ở đây ông gặp Luther. Ông hoàn tất việc chuyển dịch ở nước ngoài và lén lút đưa vào nước Anh. Sự chuyển dịch này gồm cả những chú thích có tính cách bài-Công Giáo và bị các giám mục Anh coi là sai lầm. Thomas More đã bình tĩnh và vô tư viết về bản dịch của Tyndale rằng "để tìm thấy những sai lầm trong sách của Tyndale thì cũng giống như tìm nước ở trong biển."19 Không ngạc nhiên gì, bản dịch này đã bị lên án và các bản sao chép đã bị thiêu hủy.
Trong suốt thế kỷ 16, rất nhiều bản dịch Kinh Thánh tiếng Anh xuất hiện. Các bản dịch này bao gồm bộ Kinh Thánh Coverdale và bộ Kinh Thánh Geneva, mà như cái tên cho thấy, được sáng tác ở Geneva bởi những người Tin Lành đi theo John Calvin và Theodore Beza. Cũng được hoàn tất là bộ Kinh Thánh các Giám Mục, được Giáo Hội Anh Quốc thực hiện dưới triều Hoàng Hậu Êligiabét để phản ứng với ảnh hưởng của phái Calvin qua bộ Kinh Thánh Geneva.
Người Công Giáo lánh cư đến lục địa Âu Châu dưới triều Hoàng Hậu Êligiabét. Một nhóm dịch giả Công Giáo bắt đầu dịch bộ Tân Ước ở Rheims, nước Pháp. Sau khi hoàn tất, văn bản này được công bố vào năm 1582. Bộ Cựu Ước sau đó được dịch ở trường English College ở Douay, nước Pháp và hoàn tất năm 1609. Theo lời các dịch giả, việc chuyển dịch được thực hiện "với mục đích thành tâm chống lại những sai lạc mà qua đó những người dị giáo đã từ lâu lừa dối cách thảm thương hầu như toàn thể người dân trong nước." Bản dịch này được dựa trên bộ Vulgate và được so sánh với bản nguyên thủy bằng tiếng Hy Lạp. Để trả lời tại sao họ lại dùng bộ Vulgate để làm căn bản thay vì tiếng nguyên thủy, họ trả lời rằng bộ Vulgate "không chỉ hay hơn các bản dịch khác bằng tiếng Latinh , nhưng còn hơn cả chính tiếng Hy Lạp, ở những chỗ họ bất đồng… chính bản Latinh này được duy trì tốt hơn khỏi những sai lạc."20
Trong giữa thế kỷ 18, ĐGM Challoner đã ráo riết duyệt lại bản dịch Douay-Rheims để giảm thiểu các chữ tối nghĩa và làm cho dễ đọc hơn. Ảnh hưởng của tiếng Latinh trong bản Douay-Rheims được thấy rõ. Bản Douay-Rheims còn ảnh hưởng đến các dịch giả của bản King James.
D. Các Bản Dịch Ngày Nay
Bản dịch Douay-Rheims trở nên bộ Kinh Thánh căn bản cho giới Công Giáo nói tiếng Anh trên ba trăm năm. Có một vài toan tính sửa đổi nhưng không thể so với bộ Douay-Rheims. Vào năm 1941, bản dịch Tân Ước của Confraternity được công bố. Đây là một chuyển dịch mới, mà giống như bản Douay-Rheims, được dựa trên bản Vulgate và được so sánh với tiếng nguyên thủy. Tuy nhiên, theo sự đòi hỏi của văn kiện Divino Afflante Spiritu vào năm 1943 là các bản dịch phải dựa trên tiếng nguyên thủy, công việc của Confraternity phải ngừng lại, khiến cho bộ Cựu Ước chưa được hoàn tất.
Bản New American Bible (NAB) được công bố từng phần từ 1952 cho đến 1970. Bộ NAB là một bản dịch đặc biệt, nó nghiêng về tính cách dễ đọc hơn là dịch sát nghĩa. Một số người Công Giáo than phiền về việc loại bỏ một đoạn dịch Công Giáo truyền thống. Tỉ như, Luca 1:28 được dịch là "Hail, favored one!" (Kính chào người được qúy mến!) thay vì "Hail, full of grace!" (kính chào người đầy ơn phúc)—mà đã tạo thành lời đầu của kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, bản NAB vẫn là bản dịch được đọc nhiều nhất trong giới Công Giáo Hoa Kỳ ngày nay, và được hoan nghênh bởi nhiều học giả của nhiều giáo phái.
Các bản dịch Kinh Thánh Công Giáo khác hiện nay bao gồm bản Jerusalem Bible và New Jerusalem Bible, được sử dụng vì mục đích phụng vụ trong các quốc gia nói tiếng Anh ở ngoài Hoa Kỳ. Bản dịch "Revised Standard Version-Catholic Edition" vẫn là bản được nhiều người Công Giáo ưa chuộng vì dịch sát nghĩa và không dùng ngôn từ không có phái tính rõ rệt.
Greg Youell
(Pt Giuse Trần Văn Nhật lược dịch)
GHI CHÚ
1. A comprehensive summary of this can be found in the Second Vatican Council's Dei Verbum or the new Catechism of the Catholic Church (CCC).
2. cf. Heb. 1:1-2, etc.
3. cf. Jn. 14:9, Dei Verbum 4.
4. ibid.
5. cf. Mt. 28:19ff., Mk. 16:15, etc.
6. 2 Tim. 1:14, cf. 2 Tim. 2:2, Acts 1:15-26, 14:23, 15:22ff., Rom. 10:15, Titus 1:5, etc.
7. cf. 2 Thes. 2:15, 3:6, 1 Cor. 11:2.
8. cf. 2 Pet. 3:16
9. CCC 80.
10. cf. Dan. 7:14, Mt. 16:18-19, 28:19-20
11. cf. Jn. 14:26, 16:12-15, Acts 15:28, Eph. 4:12-14, 1 Tim. 3:15, etc.
12. Dei Verbum 10..
13. The Interpretation of the Bible in the Church, III.B.2.
14. Wilker, Robert J. "Interpreting the Bible: Three Views." First Things (August/September 1994).
15. Demarest, Bruce A. "Interpreting the Bible," in Tim Dowley, ed., Eerdman's Handbook to the History of Christianity (Carmel, NY: Lion Publishing, 1977), 284-85.
16. Holtz, Mark. "All Scripture Is Inspired By God: Medieval Exegesis and the Modern Christian." The Catholic Dossier (March-April 1996).
17. CCC 101-141
18. Dialogues III. in Henry Graham, Where We Got the Bible (Rockford, IL: TAN Books 1977), 100.
19. Graham, 128.
20. Preface to the Douay Old Testament, 1609. (The original includes many spellings now obsolete. Hence, the extensive use of brackets in the quote.)

Nguồn: http://www.nguoitinhuu.com/kienthuc/ho-giao/kinhthanhconggiao.html

CN 22 B - Cao cả và bi đát



CN 22 B - Cao cả và bi đát
Con người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành.
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến.
Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ.
Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú.
Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.
Trong tiếng Do thái,Thánh có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, tách khỏi cái tầm thường thông tục.Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó,Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả. Đó là những ngọn núi thánh, những Đền thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần. Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư tế trong dân Do thái chỉ được chọn từ chi tộc Lêvi. Họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đều là những cái thánh: núi thánh, đền thánh, nơi thánh, ngày thánh, đồ vật thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan niệm linh thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục.Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi thánh, Đền thờ, nơi thánh, nơi cực thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân Israel được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ. Dân Israel chờ đợi một vị thiên sai ngự đến trong cung thánh đền thiêng.
Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ như thế, chúng ta mới thấy việc Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay từ giây phút nhập thể, Đức Giêsu đã không đến trong Đền thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Nazareth. Thiên Chúa làm người trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do thái. Rồi khi chào đời, Người đã lấy chuồng bò lừa làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do thái coi là uế tạp làm bầu bạn.Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Trang Tin mừng hôm nay kể về một sự kiện trong chuỗi những chống đối quyết liệt đó. Các Biệt phái Kinh sư trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisiêu và Kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, chứng tỏ mình thanh sạch trước mặt mọi người. Vì thế, họ chất vấn Đức Giêsu: Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay mà dùng bữa?
Đức Giêsu đã cho biết thế nào là sạch thế nào là dơ, thế nào là thánh thiêng, thế nào là phàm tục. Của ăn được nấu chín là sạch. Cái làm cho dơ đó là lòng người. Cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ.
Có câu chuyện trong sách Tông đồ công vụ (10,11-16). Vào trước giờ ăn trưa, Thánh Phêrô cầu nguyện và xuất thần: “Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống, trong đó có mọi giống vật bốn chân, rắn rết và mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: Phêrô, đứng dậy làm thịt mà ăn! Phêrô thưa: lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Có tiếng phán với ông lần thứ hai: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, ngươi đừng gọi là ô uế. Việc đó xảy đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên trời.”. Như vậy những gì Thiên Chúa sáng tạo đều là sạch, con người không thể coi là nhơ bẩn.
Đức Giêsu bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng.Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Người đời đã phải than thở rằng : “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ có câu: “Khẩu Phật tâm xà” hay “ Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả hạng người mang mặt nạ che dấu lòng dạ ác độc bên trong, loại người mà “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Chân giả, tay giả, tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả…. Những thứ giả ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm ngũ quả, hoa nến nhang đèn đều giả… Mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu. Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (Mt 23,13-29). Thánh Gioan đã lật tẩy: “Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1Ga 2,4); “Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
Cõi lòng hay thế giới nội tâm làm cho con người nên cao cả nhưng nó cũng làm nên sự bi đát. Cao cả và bi đát đan xen trong lòng người như ánh sáng và bóng tối.
Con người nên cao cả là nhờ thế giới nội tâm với tư duy, cảm xúc, phân tích, đúc kết, kinh nghiệm… Nhờ có thế giới nội tâm mới có khoa học, có sáng tạo văn hoá nghệ thuật. Cũng chính cái thế giới nội tâm này làm cho con người trở nên bi đát. Bề ngoài và bề trong liên quan với nhau và tác động lẫn nhau, nhưng về mặt luân lý đạo đức, bề trong mới là phần quyết định. Chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn. Đức Giêsu đã nhận xét: “ Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế” (Mt 15,19).
Đức Giêsu nhấn mạnh sự thanh tẩy từ bên trong. Người chẳng phản đối chuyện rửa tay. Người chỉ phê bình thói hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là rửa cõi lòng. Cái ô uế thực sự đáng sợ không đến từ việc đụng chạm hay ăn uống mà nó lại nằm trong lòng người. Nó không từ ngoài vào mà từ bên trong ra.
Đối với Đức Giêsu, yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Ý hướng bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có gía trị hay không. Đức Giêsu luôn sống tình thương với mọi người, luôn “chạnh lòng thương”.Tình thương chính là sự thánh thiện. Tình thương là thanh sạch. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương.Tình thương là chia sẽ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giêsu luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương, thanh sạch.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn “Giọt máu” một câu rất sâu sắc “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”.Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào nội tâm con người, vì thế có lẽ nó còn hữu hiện hơn xã hội rất nhiều trong việc chế ngự cái xấu, cổ vũ cái tốt. Bởi vì tôn giáo chân chính nào cũng đều kêu gọi, động viên, giáo dục con người làm lành lánh dữ, vươn lên làm chủ phần hạ đẳng nơi mình để thăng hoa phần cao thượng trong sáng. Người ta có thể không sợ dư luận hay luật pháp (vì còn có thể che dấu luồn lách), nhưng một khi đã tin vào Ðấng Linh Thiêng và nếu đó là một niềm tin sống động, người ta khó có thể không sợ sự phán xét của lương tâm và nhất là của Ðấng họ thờ kính.
Thường thì khi vừa sinh ra, người ta có cái tâm hồn hậu nhưng cái trí dại khờ. Càng lớn lên, trí càng khôn ngoan nhưng tâm càng vẩn đục. Đi cho trọn đường trần là trí học biết được càng nhiều càng tốt những khôn ngoan mà tâm vẫn giữ được cái hồn hậu của tuổi ấu thơ.
Đối với người Kitô hữu, nếu như xã hội mong muốn và chờ đợi chúng ta sống đạo đức một, thì chính Chúa còn đòi buộc chúng ta phải "thánh thiện" trăm ngàn lần hơn:"Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện" (Mt 5,48); "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian…Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mắt thiên hạ, để họ nhìn thấy công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời" (Mt 5,14.16).
Con người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành. Thiên Chúa đã ra lệnh truyền cho con người: “ Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Người còn phán: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi, Ta sẽ ban cho các ngươi môt trái tim mới” (Ed 36,25). Một trái tim mới biết yêu thương hay một tấm lòng để người ta sống tốt đẹp với nhau.
Tình thương của Chúa Giêsu là tình thương cứu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban sự sống mới.
Trong đời sống tâm linh, người Kitô hữu cần phải tu dưỡng cái tâm, phải có tâm ngay lành, luôn tôn trọng sự công bằng, yêu thương mọi người. Cần có một tấm lòng, tâm tốt thì mọi việc làm sẽ đẹp lòng Chúa.
Người Kitô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự tiệc Thánh Thể. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương và thanh sạch của Chúa.Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nguồn: kinhthanh.org

CN XXII TN B - Phải thờ Chúa với lòng yêu mến




CN XXII TN B - Phải thờ Chúa với lòng yêu mến
Truyền thống, luật lệ và các lễ nghi đối với Thiên Chúa đều tốt và cần được duy trì, nhưng không được quên điều quan trọng không kém là thực hành giới răn yêu thương.

I.        HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 7,1-8.14-15.21-23
(1) Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. (2) Họ thấy một vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. (3) Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống tiền nhân: Họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; (4) thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.  (5) Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (6) Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. (7) Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.- (8) Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”… (14) Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây và hiểu cho rõ: (15) Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được. Nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế… (21) Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, (22) ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. (23) Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế”.
2. Ý CHÍNH:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tranh luận với các người Pha-ri-sêu và kinh sư, về việc “thanh sạch” và “nhơ uế” theo Lề Luật. Đức Giê-su đã dùng lời ngôn sứ I-sai-a để phê phán thứ tôn giáo hình thức vụ luật của các người Pha-ri-sêu và kinh sư. Họ lầm lạc khi bỏ thi hành giới răn Thiên Chúa để tuân giữ cặn kẽ tập tục của loài người. Theo Người, lòng đạo đích thực không dựa trên việc làm hình thức theo Luật, nhưng ở tại tâm tình mến Chúa khi làm các việc ấy.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Những người Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là “Những kẻ sống tách biệt”. Thành viên trong nhóm phần đông là thường dân thuộc giai cấp trung lưu. Tuy nhiên cũng có một số tư tế, Lê-vi và kinh sư. Thời Đức Giê-su, nhóm này được dân chúng kính trọng vì có đời sống đạo đức gương mẫu. Họ thường thành lập những cộng đoàn nhỏ, chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và tuần giữ cặn kẻ mọi điều Luật Mô-sê dạy, Họ tin kẻ chết sống lại, có thiên sứ và quỷ thần, trái với người phái Xa-đốc (x. Cv 23,7-8). + và kinh sư: Kinh sư hay luật sĩ là những nhà chuyên môn về Thánh kinh vì nghiên cứu Thánh kinh kỹ lưỡng và lâu dài. Số ít trong nhóm kinh sư là tư tế, nhưng phần lớn là thường dân ủng hộ lập trường của nhóm Pha-ri-sêu. Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân. Các kinh sư là người giải thích và áp dụng Luật Mô-sê vào đời sống của dân chúng. Các kinh sư cùng với thượng tế và kỳ mục là ba thành phần trong Thượng hội đồng Do thái tại Giê-ra-sa-lem (x. Cv 23,6).
Về quan hệ giữa Đức Giê-su với các người Pha-ri-sêu và kinh sư: Nói chung Tin mừng phê phán mạnh mẽ các người Biệt phái và kinh sư: Gio-an Tẩy giả gọi họ là “nòi rắn độc”, do thái độ cố chấp không chịu hồi tâm sám hối để sinh hoa trái của họ (x. Mt 3,7-10). Đức Giê-su đòi môn đệ phải công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu (x. Mt 5,20). Người đã kiện toàn Luật Mô-sê và sửa đổi các lời giải thích hẹp hòi vụ Luật của họ về sự giận ghét tha nhân (x. Mt 5,21-26), về tội ngoại tình (x. Mt 5,27-30) về việc ly hôn (x. Mt 5,31-32), về sự thề thốt ( Mt 5,33-37), về sự trả thù (x. Mt 5,38-40) và cách đối xử với kẻ thù (x. Mt 5,43-48). Đức Giê-su cũng quở trách họ về nhiều tật xấu như: tự mãn về công đức của mình (x. Lc 18,9-14), khinh thường tha nhân (x. Mt 9,10-13), khinh “dân đen” không biết Luật (x. Ga 7,49), nói mà không làm (x. Mt 23,2-3), ham mê danh vọng (x. Mt 23,6-7), dẫn đường đùi mù (x. Mt 23,16-22), coi trọng điều tùy phụ mà bỏ qua điều chính yếu (x. Mt 23,23-26), đạo đức giả hình (x. Mt 23,27-28). Về phần các kinh sư: Họ nói Người bị quỷ ám (x. Mc 3,22). Họ liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm cách chống lại Đức Giê-su (x. Mc 3,6). Sau phép lạ cho La-da-rô sống lại, các người Pha-ri-sêu cùng với Thượng Hội Đồng quyết định giết Đức Giê-su (x. Ga 11,53). Tuy nhiên, trong sồ các người Pha-ri-sêu thuộc Thượng Hội Đồng Do thái cũng có ông Ni-cô-đê-mô đã lên tiếng bênh vực Đức Giê-su (x. Ga 7,50-52) và ông Ga-ma-li-ên đã bào chữa cho các Tông đồ (x. Cv 5,34-39). Thời Giáo Hội Sơ Khai, cũng có một người Pha-si-sêu tên là Sa-un, quê thành Tác-xô, đã cải đạo Do Thái thành môn đệ Đức Giê-su là thánh Phao-lô (x. Cv 22,1-21).
Họ từ Giê-su-sa-lem mà đếnNghe biết về các hoạt động của Đức Giê-su ở Ga-li-lê, các người có trách nhiệm về tôn giáo ở thủ đô Giê-ru-sa-lem đã phái người đi điều tra thực hư. + Dùng bữa mà tay còn ô uế: Các kinh sư ở Giê-ru-sa-lem coi việc dùng bữa mà không rửa tay là làm cho con người ra ô uế theo Luật. Việc rửa tay ở đây không nhằm giữ vệ sinh, mà để thanh tẩy tâm hồn theo lễ nghi của đạo Do thái.
C 3-4: + Người Do thái: Ở đây chỉ về mọi người dân Do thái. Nhưng ở nhiều chỗ khác nhất là trong Tin Mừng Gio-an, “Người Do Thái” ám chỉ những kẻ thù ghét chống đối Đức Giê-su (x. Ga 2,18; 5,18; 6,41; l 8,22.48; 9,18). + Rửa tay: Luật Mô-sê đề ra nhiều điều khoản buộc phải thanh tẩy bằng nước như: Khi chuẩn bị lãnh chức vụ (x. Xh 29,4), trong lễ Xá Tội (x. Lv 16,4.24), khi lỡ tay chạm đến xác chết (x. Lv 11,40 ; 17,15), khi thanh tẩy khỏi ô uế bệnh phong cùi (x. Lv 14,8), thanh tẩy khỏi ô uế dục tình (x. Lv 15,1-32). Về sau tập tục còn quy định lễ nghi thanh tẩy cách tỉ mỉ hơn như: Phải lấy nước ở trong bình bằng đồng hay bình sành.... Phải rửa từ khuỷu tay xuống.... Phải rửa hai lần: Lần trước để làm sạch tay bẩn, lần sau để làm sạch nước bẩn còn dính trên tay...
C 5-8: + Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế dùng bữa?: Mọi người Do Thái đều giữ các tập tục tẩy rửa, nhưng người Do Thái miền Giu-đê vì gần Giê-ru-sa-lem nên tuân giữ khỏan luật này chặt chẽ hơn miền Ga-li-lê, vì người miền Ga-li-lê thường xuyên tiếp xúc với dân ngoại và vì đất đai khô cằn ít nước hơn. Từ đó ta hiểu lý do tại sao các môn đệ của Đức Giê-su vốn xuất thân từ miền Ga-li-lê, đã không giữ tập tục rửa tay trước khi dùng bữa. + Những kẻ đạo đức giả: Đức Giê-su gọi các người Pha-ri-sêu và kinh sư từ Giê-ru-sa-lem kia là những kẻ đạo đức giả, nghĩa là chi lo làm các việc đạo đức hình thức bề ngoài, mà thiếu tâm tình mến Chúa bề trong. + “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”Những điều Ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm Lời Đức Chúa trách dân Do Thái thời xưa, đã được Đức Giê-su áp dụng cho các người Pha-ri-sêu và kinh sư Do Thái hôm nay khi họ tiếp tục coi trọng các truyền thống của loài người hơn giời răn của Thiên Chúa.
C 14-15: + Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người....: Luật Mô-sê (Lv 11,1-30) qui định một số loài vật thanh sạch và ô uế như sau: Loài vật thanh sạch mà người Do thái được ăn là: Mọi thú vật có mòng chân chẻ làm hai và nhai lại, các vật sống dưới nước có vây có vảy. Loài vật ô uế không được ăn và không được đụng đến xác chết của chúng là: Lạc đà, ngân thử, thỏ rừng, heo ; Tất cả các loài sống dưới nước mà không có vây, không có vẩy; Một số loài chim như đại bàng, diều hâu, ó biển...Chuột, thằn lằn, tắc kè ...+ Về vấn đề đồ ăn thanh sạch và ô uế: Đức Giê-su có một quan điểm vừa khác biệt với Luật Mô-sê vừa kiện toàn Luật này khi tuyên bố: Mọi đồ ăn tự nó là sạch (x. Mc 7,18). Cái có thể bị dơ, phát ra điều dơ, làm cho người ta ra dơ, chính là “lòng” người, vì: “Lòng đầy thì miệng mới nói ra” (x. Lc 6,45).
C 21-23: + Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu...: Đức Giê-su giải thích thêm về Luật cấm : Đó là những người có lòng dạ hư hỏng, tư tưởng xấu xa, tâm tình gian ác, ý định bất chính.... + Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ trong xuất ra: cái làm ô uế con người, bắt nguồn từ trong tâm hồn hay lương tâm, chứ không phải là các thức ăn từ bên ngòai ăn vào.
HỎI: 1)Bạn biết gi về người Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái? 2)Trong thời gian giảng đạo, quan hệ giữa Đức Giê-su với các Biệt phái và kinh sư thế nào? 3)Các Biệt phái và kinh sư nói đây từ đâu đến và chất vấn Đức Giê-su về vấn đề gì? 4)Luật Mô-sê buộc người Do thái phải thanh tẩy bằng nước trong những trường hợpnào? Về sau, các kinh sư còn giải thích thêm khoản luật này ra sao? 5)Tại sao môn đệ Đức Giê-su lại không giữ tập tục rửa tay trước khi dùng bữa? 6)Tại sao Đức Giê-su gọi các Biệt phái và kinh sư là bọn đạo đức giả? 7)Đức Giê-su đã trích dẫn lời nào của ngôn sứ I-sai-a trách dân Do thái? 8)Theo Luật Mô-sê thì đồ ăn nào là sạch và đồ ăn nào là nhơ uế? 9)Quan điểm của Đức Giê-su về sự sạch hay nhơ uế của đồ ăn thế nào? Nguyên nhân thực sự làm cho người ta ra nhơ uế là gì?

II.SỐNG LỜI CHÚA
1.LỚI CHÚA: Chúa phán: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7,8):
2. CÂU CHUYỆN: TÊN CƯỚP ĂN CHAY
Một hôm, Cha MƠ-RÂY (Murray) đang âm thầm đi trên một phố vắng vào lúc đêm khuya để mang Mình Chúa cho một bệnh nhân sắp chết. Khi đi tới một góc phố vắng, bỗng một tên cướp nhảy xồ ra chĩa súng về phía cha ra lệnh: “Đứng lại! Mau nộp tiền ra đây, nếu không tao bắn chết! “Cha Mơ-rây sợ hãi vội vàng mở nút chiếc áo khoác đang mặc và lấy ra một chiếc ví. Tên cướp trông thấy chiếc áo đen của giáo sĩ bên trong áo khóac, trên cổ có “côn” màu trắng, thì biết là linh mục. Hắn lập tức dịu dọng và ấp úng nói: Thưa cha, con rất tiếc vì con không biết là cha. Con thành thật xin lỗi cha. Xin cha vui lòng cất tiền đi”. Bây giờ cha Mơ-rây mới hòan hồn trở lại. Ngài móc trong túi ra một gói thuốc lá và mời hắn một điếu! Nhưng thật bất ngờ! Tên cướp xua tay từ chối với lời giải thích như sau: “Xin cám ơn cha, con đã dốc lòng chừa bỏ thói hút thuốc lá trong Mùa Chay này !!!”.
GIỮ ĐẠO NGOÀI MÔI MIỆNG
BÁC-CƠ-LÂY (Barclay) kể một câu truyện khác như sau: Có một người Hồi Giáo kia tìm cách giết một kẻ thù để dành quyền kết hôn với một cô gái đẹp. Một hôm, gặp kẻ thù ở chỗ vắng vẻ và nhân lúc kẻ kia không đề phòng, hắn ta rút đao chém một nhát khiến người kia bị thương vội vàng bỏ chạy. Người Hồi Giáo đã đánh lén liền tiếp tục truy đuổi quyết tâm tiêu diệt tình địch bằng được. Trong lúc đang hăng hái đuổi theo thì bỗng nghe thấy một hồi chuông báo giờ cầu kinh ban chiều, hắn ta lập tức nhảy xuống khỏi mình ngựa, trải chiếc chiếu luôn mang theo bên mình, quỳ hướng về thủ đô Méc-ca đọc bài kinh chiều thật mau, rồi lại leo lên mình ngựa tiếp tục cuộc truy đuổi !!!
3. SUY NIỆM:
+ Tên cướp công giáo trong câu chuyện thứ nhất đã quyết tâm bỏ thuốc lá để tỏ lòng sám hối Mùa Chay, nhưng lại đi trấn lột tài sản của kẻ khác. Rồi người Hồi Giáo trong câu chuyện thứ hai đã tuân giữ luật đọc kinh 5 lần mỗi ngày của đạo Hồi, nhưng lại không ngần ngại nhúng tay vào máu của kẻ thù. Còn các người Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái trong Tin Mừng hôm nay tuy giữ nghiêm ngặt tập tục thanh tẩy tắm rửa bằng nước trước khi dùng bữa, nhưng lại coi thường điều răn quan trọng của Thiên Chúa là “thảo kính cha mẹ”, khi cho phép con cái lấy của cải lẽ ra dùng để nuôi dưỡng cha mẹ, biến thành “Cô-ban”, nghĩa là “của thánh đã dâng cho Thiên Chúa”, rồi không buộc họ phụng dưỡng cha mẹ già yếu nữa! Cũng vậy, ngày nay có những người chỉ chú trọng làm một số việc đạo đức theo luật như đọc kinh, xem lễ Chúa Nhật, ăn chay kiêng thịt, bố thí... mà không chú trọng thanh tẩy tâm hồn, không giữ luật công bình bác ái khi ứng xử với tha nhân.
+ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng: Truyền thống, luật lệ và các lễ nghi đối với Thiên Chúa đều tốt và cần được duy trì, nhưng không được quên điều quan trọng không kém là thực hành giới răn yêu thương. Do đó, chúng ta vừa có bổn phận thực hành các việc đạo đức đối với Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng phải sống bác ái phục vụ tha nhân. Tôn kính Thiên Chúa bằng việc dự lễ đọc kinh là bổn phận phải làm, nhưng cần làm với một “trái tim mới” và một “Thần Khí mới” (x. Ed 18,31).
+ Nguyên việc tuân giữ các việc đạo đức như dự lễ đọc kinh, ăn chay kiêng thịt, làm việc bác ái... cũng chưa chứng tỏ lòng đạo đức thực sự, vì người ta có thể làm nhằm khoe khoang công đức và muốn được người đời ca tụng... hơn là vì lòng mến Chúa, như ngôn sứ I-sai-a đã trách dân Ít-ra-en: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì ở xa Ta” (Mc 7,6; Is 29,13). Để chứng tỏ lòng đạo đức thực sự, chúng ta phải cầu nguyện kết hiệp với Chúa Giê-su, như thánh Phao-lô đã dạy: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).- “Từ nay tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mỗi ngày chúng ta nên làm việc bổn phận như đi học, đi làm, phục vụ tha nhân… kèm theo một lời nguyện tắt như: “Lạy Chúa Giê-su. Con xin làm việc này để biểu lộ lòng con yêu mến Chúa và xin cho một người lương quen biết được nhận biết yêu mến Chúa”.
4. THẢO LUẬN1)Bạn đánh giá thế nào về nếp sống đạo của người tín hữu Việt Nam hôm nay? 2)Phải chăng chúng ta nên bỏ các việc bề ngoài như: làm dấu Thánh giá, dự lễ, rước sách, ngắm nguyện, ăn chay, kiêng thịt, bố thí....mà chỉ cần “giữ đạo tại tâm” là đủ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin biến đổi trái tim con nên giống trái tim Chúa. Ước gì con nhìn mọi sự mọi người với một cái nhìn bao dung đầy yêu thương noi gương Chúa xưa. Xin ban Thánh Thần Tình yêu đốt nóng lòng con. Xin giúp con siêng năng tham dự Thánh lễ và rước lễ mỗi ngày cách sốt sắng, để kín múc được sức sống ân sủng từ nguồn mạch yêu thương vô tận là thánh tâm Chúa, để con gieo rắc tình thương của Chúa cho mọi người, an ủi những người đau khổ, chia sẻ cơm bánh cho kẻ khó nghèo, phục vụ những người bệnh tật và bị bỏ rơi… hầu nên môn đệ thực sự của Chúa.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH