Trang

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

CÙNG HỌC HỎI LỜI CHÚA LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B


CÙNG HỌC HỎI LỜI CHÚA
LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B
Tin Mừng thánh Mátthêu 28,16-20



I. TIN MỪNG

16 Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế."

16  The eleven disciples went to Galilee, to the mountain to which Jesus had ordered them.

17  When they saw him, they worshiped, but they doubted.

18 Then Jesus approached and said to them, "All power in heaven and on earth has been given to me.

19 Go, therefore,  and make disciples of all nations, baptizing them in the name of the Father, and of the Son, and of the holy Spirit,20 teaching them to observe all that I have commanded you. And behold, I am with you always, until the end of the age."


II. TRẮC NGHIỆM

01. Ai đã dạy cho chúng ta biết Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?
a. Các tông đồ
b. Các ngôn sứ
c. Đức Giêsu
d. Giáo hội

02. Chúng ta nhớ đên Ba Ngôi Thiên Chúa khi nào?
a. Đọc kinh Lạy Cha
b. Làm dấu thánh giá
c. Đọc kinh Sáng Danh
d. Chỉ có b và c đúng.

03. Qua sự mạc khải của Chúa Giêsu, Kitô giáo cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Tuy nhiên, Thiên Chúa có nhiều hoạt động khác nhau nên có ba ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Vì thế … … …
a. Hoạt động sáng tạo đều quy về Chúa Cha, Đấng dựng nên mọi sự, quan phòng cho mọi loài.
b. Hoạt động cứu độ quy về Chúa Con hay Ngôi Lời.
c. Để con người và vạn vật có thể đạt được ơn cứu độ, cần phải có Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng Thánh Hoá, nghĩa là làm cho con người hoá nên thánh như Chúa là Đấng Thánh.
d. Cả a, b và c đúng.

04. Thánh Phaolô viết trong thư gởi tín hữu Côrinthô::”Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em”(2Cr 13,13). Qua câu này thánh Phaolô muốn diễn tả điều gì?
a. Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.
d. Mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh
c. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
d. Cả a, b và c đúng.

05.Trong Tân Ước, trình thuật nào có sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa?
a. Biến cố Đức Giêsu giáng sinh.
b. Biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa
c. Biến cố Đức Giêsu làm phép lạ cho Ladarô sống lại.
d. Cả a, b và c đúng.

06. Khi làm dấu thánh giá, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm gì?
a. Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể.
d. Mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh
c. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
d. Cả a, b và c đúng.

07. Thiên Chúa Ba Ngôi là mẫu gương cho chúng ta về sự gì?
a. Hiệp thông và yêu thương.
b. Cầu nguyện
c. Hy sinh
d. Cả a, b và c đúng


III. CÂU THÁNH KINH GHI NHỚ VÀ HỌC THUỘC LÒNG     

Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Tin Mừng thánh Mátthêu 28,19



Lời giải đáp
CÙNG HỌC HỎI LỜI CHÚA
LỄ CHÚA BA NGÔI NĂM B
Tin Mừng thánh Mátthêu 28,16-20

01. c. Đức Giêsu
02. d. Chỉ có b và c đúng.
03. d. cả a, b và c đúng.
04. c. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
05. b. Biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa
06. c. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
07. a. Hiệp thông và yêu thương.



NGUYỄN THÁI HÙNG




Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Lòng thương xót của Chúa trong kinh ca ngợi của Đức Maria




Lòng thương xót của Chúa trong kinh ca ngợi của Đức Maria
Trên đường đến thăm người chị họ là bà Elisabeth, Đức Maria hân hoan vui mừng vì Mẹ cảm nhận được tình thương vô biên của Thiên Chúa dành cho mình. Mẹ đang dự tính sẽ kể cho người chị họ điều mới xảy ra do cuộc viếng thăm của Sứ thần Gabrien, thì Bà Elisabeth đã biết hết điều Đức Maria định kể! Vì thế, lời chào của bà Elisabeth làm cho niềm vui nơi Trinh Nữ thêm tràn đầy.
Trong kinh Ca ngợi (Magnificat), Đức Maria nhắc tới lòng thương xót của Chúa ba lần. Mỗi lần mang một chiều kích khác nhau:
– “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1,48)
– “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (câu 50)
– “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham” (câu 55).
Qua lời vinh tụng của Đức Maria, chúng ta thấy lòng thương xót của Chúa thật lớn lao, vĩ đại. Mẹ đã ba lần nhắc tới lòng thương xót của Chúa. Sau mỗi lần tuyên dương lòng thương xót của Chúa, đều có lời giải thích đi kèm để quảng diễn ý tưởng được nêu:
– “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” cho nên “từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
– “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”, vì vậy mà phường lòng trí kêu căng bị dẹp tan; người quyền thế bị hạ bệ; người nghèo được đầy dư và người giàu trở thành tay trắng”.
– “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham” cho nên Người độ trì dân Israel và con cháu Ông đến muôn đời.
Chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ khám phá những chiều kích khác nhau của lòng thương xót của Chúa, được diễn tả trong lời kinh tuyệt diệu này:
1. Lòng thương xót của Chúa đối với cá nhân mỗi người
Đức Maria được tràn đầy niềm vui, khi nghe lời người chị họ chúc phúc: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng, Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (câu 45). Chính trong tâm tình hân hoan đến mức xuất thần đó mà Đức Maria ca lên bài tán dương Thiên Chúa. Mẹ ca tụng Chúa bằng cả con người: linh hồn, thần trí và thân xác. Đó là ba yếu tố cấu thành con người trọn vẹn theo quan niệm của truyền thống Thánh Kinh, như sau này Thánh Phaolô viết: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn…” (1 Tx 5,23). Đức Maria đã ca tụng Chúa vì Mẹ được Chúa yêu thương cách riêng. Lời tán dương trên đây của Đức Mẹ có thể được dịch nguyên ngữ như sau: “Vì Người đã cúi mình xuống trên nữ tớ hèn mọn của Người – Il s’est penché sur son humble servante”. Cử chỉ “cúi mình xuống” là ân huệ của một người bậc trên ưu ái đến người ở bậc thấp hơn mình. Thiên Chúa đã “cúi mình xuống” để gặp gỡ con người và nâng họ lên cao. Mầu nhiệm Nhập thể đã diễn tả điều đó. Đức Giêsu là Thiên Chúa cao cả, đã hóa thành xác thịt, đã mang lấy thân phận con người. Nhờ mầu nhiệm nhập thể mà con người được nâng lên bậc thần thánh. Chúng ta thấy rõ điều này khi suy niệm mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời. Người lên trời đem theo một nhân loại được cứu chuộc. Người cho phép con người được thần linh hóa, được trở nên con Thiên Chúa và được hứa hạnh phúc đời đời. Chúa yêu từng người trong chúng ta. Lòng thương xót của Chúa không phải là một khái niệm mông lung, mờ nhạt, nhưng được thực thi cụ thể nơi mỗi con người, vì Chúa là Đấng “ấn định con số các vì sao; Người đặt tên cho từng ngôi một” (Tv 147,4). Đức Giêsu đã tiếp nối giáo huấn này của Cựu ước và Người còn cụ thể hơn khi dùng hình ảnh con chim sẻ, cánh huệ ngoài đồng hay ngay cả sợi tóc trên đầu… để diễn tả tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Đức Maria đã cảm nhận điều đó. Vì Chúa thương mà Mẹ được mọi người ca tụng là diễm phúc. Đây cũng chính là lời chào của sứ thần Gabrien khi đến gặp Mẹ để loan báo Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Lời chào ấy hôm nay được lặp đi lặp lại nơi môi miệng các tín hữu, như tiếp nối lời ca của Mẹ, cùng Mẹ tán dương Thiên Chúa.
Khi tín thác vào lòng thương xót của Chúa, chúng ta trở nên những người có phúc. “Em thật có phúc, vì đã tin rằng, Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Chúng ta có phúc vì chúng ta tín thác vào Chúa, tin rằng Người sẽ thực hiện nơi chúng ta những gì Người đã hứa. Thiên Chúa hứa cho chúng ta hạnh phúc Nước Trời, nếu chúng ta mến Chúa yêu người. Chúng ta tin điều ấy, như Mẹ Maria đã tin, và đức tin đem lại cho Mẹ niềm vui.
2. Lòng thương xót của Chúa đối với mọi thế hệ
Thiên Chúa yêu thương mọi người và Người muốn cho họ hết thảy được cứu rỗi. Tình yêu thương được thể hiện qua công trình sáng tạo. Người yêu thương mọi tạo vật. Người yêu thương con người một cách đặc biệt, đến nỗi Người muốn để lại dấu ấn của Người nơi khuôn mặt con người. Khi tạo dựng con người giống hình ảnh Người, Người muốn sau này, hễ ai nhìn thấy con người thì một cách nào đó họ nhận ra Chúa, vì họ giống Chúa, và vì Chúa giống họ. Ý muốn làm nên một vật gì giống mình xuất phát từ tình yêu thương và tin tưởng. Đức Maria đã cảm nhận tính phổ quát của ơn cứu độ. Bất cứ ai thành tâm yêu mến Chúa đều có thể được Người cứu thoát và bênh vực. Người là vị thẩm phán công tâm, dẹp tan phường gian ác, nâng cao người khiêm nhường. Đánh đuổi người giàu có, đỡ nâng kẻ nghèo hèn… những hình ảnh đó cho chúng ta thấy một quan niệm rất phổ biến trong truyền thống Thánh Kinh về Thiên Chúa: Người luôn đứng về phía người nghèo, người bị áp bức bất công, người cô thân cô thế và mồ côi góa bụa. Sau này, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa không chỉ thể hiện qua sự quan tâm, săn sóc, mà Thiên Chúa còn trở nên đồng hình đồng dạng với những người đau khổ bất hạnh trong cuộc đời. Nếu từ ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người, thì sau này Con Thiên Chúa đã thực hiện sự “nên giống” ấy một cách kỳ diệu: Chúa đồng hóa với người nghèo, đến nỗi ai giúp người nghèo là giúp Chúa (x. Mt 25).
Trong tâm tình hân hoan, Mẹ Maria đã nhìn thấy một nhân loại được Chúa yêu thương. Mẹ đã đại diện cho cả nhân loại và vũ trụ để tán dương Chúa. Khi xác tín Thiên Chúa yêu thương mọi người, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông và chia sẻ với anh chị em mình hơn. Bởi lẽ mọi người đều là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Để được Chúa yêu thương, chúng ta cần phải thực thi tình mến đối với anh chị em mình. Điều này được quảng diễn qua dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót. Ông chủ đã lên án con người cạn tình này: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). Yêu mến tha nhân là một trong những điều kiện cần thiết để đón nhận tình yêu Thiên Chúa.
3. Lòng thương xót của Chúa đối với dân riêng của Người
Thiên Chúa đã chọn Ông Abraham để từ ông xuất phát một dân tộc mới. Người đã trường kỳ và kiên nhẫn để dân riêng của Người được hình thành. Chúa đã hứa cho ông Abraham một đất để định cư. Người cũng hứa sẽ làm cho dòng dõi ông đông như sao trên trời, như cát bãi biển. Abraham đã tin vào Chúa. Chúa đã giữ lời hứa với Ông. Dân Do Thái tự hào vì họ là dân riêng của Chúa. Trải qua bao thế hệ, họ vẫn luôn xác tín rằng Chúa bao bọc che chở dân của Người. Họ cũng tin rằng chính tự dân tộc của họ mà Đấng Thiên Sai sẽ xuất hiện.
Khi vang lời tán dương ca ngợi Chúa, Đức Maria nhìn lại suốt bề dày lịch sử dân tộc mình. Lịch sử ấy ghi khắc quyền năng của Thiên Chúa và sự yếu đuối của con người. Lịch sử ấy cũng ghi lại những bất trung của con người và lòng nhân từ bao dung của Thiên Chúa. Thấy được lòng bao dung của Chúa thể hiện trong suốt bề dày lịch sử dân tộc, Đức Maria đã lớn tiếng ca ngợi: “Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham”. Vâng, Mẹ thấy rõ nay đã đến thời Chúa thực hiện lời hứa của Người từ ban đầu của lịch sử, khi đôi lứa đầu tiên đã bất tuân lệnh truyền của Người. Mẹ cũng như nghe thấy bên tai lời tuyên án năm xưa Chúa dành cho con rắn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Mẹ thấy rõ thời của tối tăm và tội lỗi đã hết, nhường chỗ cho kỷ nguyên ánh sáng sắp khởi đầu. Mẹ vinh dự được cộng tác với Thiên Chúa để Đấng là “Ánh sáng bởi Ánh sáng” bước vào trần gian. Mẹ vui mừng, vì thời của lời hứa đã đến. Chúa luôn trung thành. Người thực hiện điều Người đã hứa, dù cho lòng người luôn bội tín bất trung.
Giáo Hội của Chúa chính là dân Israel mới. Nhờ bí tích Thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào dòng giống Abraham và là những người thừa kế lời hứa. Chúng ta là những “con cháu” của Abraham. Sống giữa thế gian còn biết bao tăm tối lọc lừa, Giáo Hội là Ánh sáng cho muôn dân, là con tàu đưa nhân loại vượt biển cả, về bến bờ hạnh phúc và an bình. Nhìn lại những bước thăng trầm của lịch sử Giáo Hội, chúng ta cùng với Đức Maria tán dương ca ngợi Chúa: “Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời”.
Ngay từ rất sớm, Giáo Hội đã nhận lời kinh ca ngợi của Đức Maria như lời kinh của chính mình. Vì thế, Thánh ca Tin Mừng này được đọc trong các giờ Kinh Chiều, khi một ngày vừa kết thúc. Đây cũng là lúc chúng ta nhìn lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm cho chúng ta trong một ngày. Và, trước nhan Thiên Chúa, “là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” (Tv 103,8), chúng ta cùng hát lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…”.
Xin cho chúng ta biết cùng với Đức Maria, ngợi khen Thiên Chúa bằng cả cuộc đời.
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, 2012
+ Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Nguồn: WHĐ

SUY NIỆM: CHÚA GIÊSU

 
SUY NIM: CHÚA GIÊSU
 
 
Read message at the end of pictures!
These are the pictures of the crucifixion of Ct
Sculptured from metal by a man near Amarillo , TX .
The crosses are made of metal also. The man did

this  out  of the kindness of his heart.
Someone donated the land
On which to erect them.
Who is Jesus?
HE IS JESUS
WHO IS HE?
 
Bạn hãy đọc những dòng chữ ở cuối những bức ảnh!
Đây là những bức ảnh nói về việc Chúa bị đóng đinh trên thập giá. Những bức tượng được chạm trổ từ kim loại
bởi một người đàn ông sống gần Amarillo , TX . 
Thánh giá cũng được làm từ kim loại.
Người làm việc này bằng tâm hồn của mình.
Vài người khác hiến đất để ông có nơi dựng tượng
Thiên Chúa là ai?
Giêsu là ai?


IN CHEMISTRY, HE TURNED WATER TO WINE.  
        Trong lĩnh vực hóa học, Ngài đã hóa nước thành rượu


IN BIOLOGY, HE WAS BORN WITHOUT THE
NORMAL CONCEPTION;  
Trong lĩnh vực sinh học, Người đã được sinh ra không theo bất kì một quy luật thụ thai bình thường nào 


IN PHYSICS, HE DISPROVED THE LAW OF
GRAVITY WHEN HE ASCENDED INTO HEAVEN;
Trong lĩnh vực vật lý, Người lại bác bỏ định luật hấp dẫn (trọng lực) khi Người thăng thiên


IN ECONOMICS, HE DISPROVED THE LAW
OF DIMINISHING RETURN BY FEEDING 5000 MEN WITH
TWO FISHES & 5 LOAVES OF BREAD;
 
 
Trong lĩnh vực kinh tế, Người lại bác bỏ lần nữa khi có thể nuôi sống 5000 người chỉ với 2 con cá & 5 chiếc bánh


IN MEDICINE, HE CURED THE SICK AND THE
BLIND WITHOUT ADMINISTERING A SINGLE DOSE OF DRUGS,
Trong lĩnh vực y học, Người đã chữa lành người bệnh tật, kẻ đui mù mà chẳng cần đến bất kì một liều thuốc nào


IN HISTORY, HE IS THE BEGINNING
AND THE END;
Theo lịch sử, Người là khởi đầu & kết thúc 
 

IN GOVERNMENT, HE SAID THAT HE SHALL
BE CALLED WONDERFUL COUNSELOR, PRINCE OF PEACE
Theo chính quyền, Người phán rằng
“Người sẽ được gọi là Hoàng tử Hòa Bình”
 

IN RELIGION, HE SAID NO ONE COMES TO
THE FATHER EXCEPT THROUGH HIM;
Theo tôn giáo, Người đã phán
“Không ai đến được với Chúa Cha mà không phải qua Thầy”
 


SO, WHO IS HE?
HE IS JESUS!
Thế thì, Người là ai?
Người là Giêsu!


JOIN ME AND LET'S CELEBRATE HIM;
HE IS WORTHY.
Hãy cùng đến với tôi & tán dương Người 
Vì Người rất đáng ngợi khen 
 


THE EYES BEHOLDING THIS MESSAGE SHALL
NOT BEHOLD EVIL,
Mắt nào đọc những dòng chữ này sẽ không chứa tội lỗi


THE HAND THAT WILL
SEND THIS MESSAGE TO EVERYBODY SHALL
NOT LABOR IN VAIN,
Tay nào gửi những dòng chữ này đến mọi người
sẽ không ra uổng công vô ích

AND THE MOUTH SAYING AMEN
TO THIS PRAYER SHALL SMILE FOREVER.
Và miệng thưa Amen theo lời nguyện này sẽ tuơi nở mãi mãi


REMAIN IN GOD AND SEEK HIS FACE ALWAYS.
AMEN
Hãy ở lại trong Chúa và luôn luôn tìm kiếm
gương mặt đích thực của Ngài. Amen


IN GOD I'VE FOUND EVERYTHING!
Trong Chúa, tôi khám phá ra tất cả mọi thứ


The Greatest Man in History
Jesus had no servants, yet they called Him Master.
Con Người vĩ đại trong lịch sử, Giêsu đã không có một tôi tớ nào
Tuy nhiên người ta gọi Ngài là Ông chủ
 


Had no degree, yet they called Him Teacher.
Không có bằng cấp nào, tuy nhiên, người ta gọi Ngài là Thầy dạy


Had no medicines, yet they called Him Healer
Không có thuốc men, nhưng ngừoi ta gọi Ngài là Đấng chữa lành


He had no army, yet kings feared Him..
Không có quân dội nhưng các vua đều kính sợ Ngài
 


He won no military battles, yet He conquered the world.
He committed no crime, yet they crucified Him.
He was buried in a tomb, yet He lives today.
I feel honored to serve such a Leader who loves us!
If you believe in God and in Jesus
Christ His Son ..   
 
Ngài không chiến thắng trận chiến nào,
nhưng Ngài đã chinh phục cả thế giới
Ngài không phạm tôi nào, nhưng người ta đóng đinh Ngài
Ngài đã được mai táng trong mồ, tuy nhiên hiện nay, Ngài vẫn sống
Tôi cảm thấy vinh dự phuc vụ nhà Lãnh đạo là người yêu thương chúng tôi
Nếu bạn tin tưởng vào Chúa và vào Đưc Giêsu con Thiên Chúa..

Nguồn: thanhlinh.net
 


VUI HỌC THÁNH KINH THÁNG SÁU



VUI HỌC THÁNH KINH
THÁNG SÁU



Tháng sáu Giáo Hội dành để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Mục VUI HỌC THÁNH KINH
xin gởi đến quý Anh Chị chủ đề về Tháng Thánh Tâm và các tông đồ của Chúa Giêsu.



TIN MỪNG
Tin mừng thánh Gioan 19,31-37

31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su.33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.

31 Now since it was preparation day, in order that the bodies might not remain on the cross on the sabbath, for the sabbath day of that week was a solemn one, the Jews asked Pilate that their legs be broken and they be taken down.

32 So the soldiers came and broke the legs of the first and then of the other one who was crucified with Jesus.

33 But when they came to Jesus and saw that he was already dead, they did not break his legs,34 15 but one soldier thrust his lance into his side, and immediately blood and water flowed out.

35 An eyewitness has testified, and his testimony is true; he knows 16 that he is speaking the truth, so that you also may (come to) believe.

36 For this happened so that the scripture passage might be fulfilled: "Not a bone of it will be broken."

37 And again another passage says: "They will look upon him whom they have pierced."


I. HÌNH TÔ MÀU



*Chủ đề của hình ảnh này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

* Bạn hãy viết lại câu Tin mừng thánh Gioan 19,34
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .



II. TRẮC NGHIỆM
THÁNG THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU

01. Nhìn vào ảnh Thánh Tâm Chúa Giêsu, chúng ta thấy những gì?
a. Có ngọn lửa nơi trái tim.
b. Trên trái tim có Thánh giá.
c. Có mão gai bao quanh trái tim.
d. Cả 3 đều đúng.


02. Để truyền bá việc tôn thờ Trái Tim Chúa, Chúa Giêsu đã nhờ ai?
a. Nữ tu Lucia.
b. Nữ tu Faustina.
c. Nữ tu Margarita Maria Alacoque.
d. Nữ tu Bernadette.


03. Đây là những đặc ân mà Chúa Giêsu hứa ban cho những ai tôn thờ Trái Tim Chúa.
a. Cha sẽ ban ơn hòa thuận xuống trên gia đình họ.
b. Cha sẽ yên ủi họ trong lúc gian khổ.
c. Nhờ kết trái tim Cha, linh hồn nguội lạnh sẽ nên sốt sắng.
d. Cả a, b và c đúng.


04. Đức Giáo Hoàng nào đã chính thức thiết lập lễ Thánh Tâm trong toàn Giáo Hội? (simonhoadalat.com)
a. Đức Piô IX
b. Đức Gioan XXIII.
c. Đức Piô XII.
d. Đức Gioan Phaolô II.


05. Vị linh mục đã cổ võ lòng tôn sùng Thánh Tâm đầu tiên là ai? (simonhoadalat.com)
a. Thánh Gioan Eu-đê
b. Thánh Gioan Thánh giá.
c. Thánh Gioan Maria Vianney.
d. Thánh Phanxicô Assisi.


06. Thánh sử nào đã trình thuật cho chúng ta biết 1 người lính đã lấy lưỡi đòng đâm cạnh sườn Đức Giêsu?
a. Thánh sử Mátthêu
b. Thánh sử Máccô
c. Thánh sử Luca
d. Thánh sử Gioan


07. Trong tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, có ngày lễ Thánh Tâm và ngày này đã trở thành ngày gì?
a. Ngày Thánh hóa các linh mục.
b. Ngày cầu nguyện cho Ơn thiên triệu.
c. Ngày cầu nguyện cho hòa bình.
d. Ngày cầu nguyện cho các bệnh nhân.


08. Đức Giáo Hoàng nào đã ra sắc công nhận tháng sáu dâng kính Trái Tim Chúa Giêsu? (simonhoadalat.com)
a. Đức Piô IX
b. Đức Gioan XXIII
c. Đức Piô XII
d. Đức Lêô XIII


09. Đây là tháng Giáo Hội dành để mời gọi con người nhớ lại tình yêu của Chúa, 1 tình yêu tự hiến, hy sinh và hoàn toàn vô vị lợi.
a. Tháng năm
b. Tháng sáu
c. Tháng bảy
d. Tháng tám


10. Vị tông đồ đã chứng kiến việc Chúa Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu. (Ga 19,31-37)
a. Tông đồ Phêrô
b. Tông đồ Tôma
c. Tông đồ Gioan
d. Tông đồ Giuđa



III. Ô CHỮ

VUI HỌC THÁNH KINH THÁNG SÁU
CÁC TÔNG ĐỒ





Những gợi ý

01.   Người thành Bếtxaida, cùng quê với thánh Anrê và thánh Phêrô, được Chúa Giêsu kêu gọi và đi theo Ngài. Không chỉ đến với Chúa một mình, ông tìm gặp Nathanaen và cả hai đã đến với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế như Môsê cùng các tiên tri nói tới. Vị ấy tên là gì ? (Ga 1,42-45)

02.  Chúa Giêsu đã kêu gọi một người thu thuế theo làm môn đệ của Ngài. Người ấy tên là gì ? (Mc 2,14)

03.  Vua Hêrôdê Ácrippa I cấm đạo gay gắt đã bắt tù các thánh tông đồ và đã cho trảm quyết một vị tông đồ của Chúa. Vị được phúc tử đạo đầu tiên ấy tên là gì ? (Cv 12,1-2)

04.  “Anh em thân mến, phần anh em, hãy tài bồi cho nhau, nhờ đức tin chí thánh của anh em, hãy cầu nguyện trong Thánh Thần, hãy canh giữ lấy mình trong lòng mến của Thiên Chúa, ngóng đợi ơn thương xót của Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô, cho đến sự sống đời đời”.  Đây là lời khuyên của ai ?  (Gđ 20)

05.   Trước lúc sinh thì, trên cây Thánh giá, Chúa Giêsu đã trao phó Mẹ Ngài cho ai ? (Ga 19,25-27)

06.  Thời Chúa Giêsu, có một nhóm người lấy tên “Nhiệt Thành”, để chỉ họ là những người nhiệt thành với đường lối Chúa. Họ trông ngóng Thiên Chúa gởi đến cho họ vị Mesia. Họ nghĩ vị Mesia là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự như Đavít hay Giuđa Mấccbê, người sẽ dẹp tan mọi kẻ thù của Itraen. Nhóm Nhiệt thành tẩy chay mọi thoả hiệp với kẻ địch và nhiều khi họ lập các đơn vị xung kích để đánh quân La Mã.  Trong số 12 tông đồ của Chúa, có một vị  thuộc nhóm Nhiệt thành này. Vị ấy tên là gì ? (Mt 10,4ss)

07.  Khi bị treo trên Thánh giá, trong đau khổ cùng cực, Ngài vẫn một lòng yêu thương nhân loại và cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng:  “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.  Lời cầu nguyện này của ai ? (Lc 23,34)

08.  Trong danh sách các tông đồ của Chúa, có một người được gọi là Đyđymô. Đó là tên gọi của tông đò nào ? (Ga 11,16)

09.  Trước đông đảo dân chúng, Đức Giêsu bảo các tông đồ hãy cho họ ăn. Một trong các tông đồ đã thưa với Thầy: “Ở đây có một em bé có năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu”.  Người ấy là tên là gì ? (Ga 6,1-9)

10.  Sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã hỏi ông ba lần: “Con có yêu mến Thầy không?”.  Và ông đã đáp lại: “Lạy Chúa, Chúa hay biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa.” Đáp lại, Chúa Giêsu đã trao cho ông sứ mạng mục tử là chăn dắt đoàn chiên của mình. Vị tông đồ này tên là gì ? (Ga 21,16..)


11.  Người trong số các tông đồ của Chúa Giêsu đã đi gặp các thượng tế để “bán” Thầy lấy 30 đồng bạc tên là gì ?  (Mt 26,14)

12.  Ngôn sứ Agabô đã tiên đoán rằng người này sẽ bị trói và nộp vào tay dân ngoại ở Giêrusalem. Người này tên là gì ?  (Cv 21,10..)


13.  Tại Công đồng Giêrusalem, ngài đã lên tiếng nói rằng: “Tôi xét là không được phiền nhiễu người ngoại quay về với Thiên Chúa, song chỉ biên thư dạy họ kỵ hẳn: đồ nhơ uế bởi tà thần, dâm bôn, thịt ngột và máu huyết”.  Đây là lời của ai ? (Cv 15,19)
 
14.  Khi Giuđa mất đi, Tông đồ đoàn mất đi một người, thánh Phêrô đã nói với anh em rằng : “Phải chọn thêm một người để cùng với chúng ta làm chứng cho sự sống lại của Đức Giêsu”. Và ông đã được liệt vào hàng với Mười một tông đồ. Người được chọn tên là gì ? (Cv 1,15..)


15.  Tông đồ Philipphê đã gọi ông Nathanaen đến gặp Chúa và ông Nathanaen trở nên một tông đồ của Chúa. Ông Nathanaen còn được gọi tên là gì ? (Ga 1,43ss)


IV. THỬ TÀI
A. THỬ TÀI NHỚ

Các bạn hãy đọc kỹ danh sách các tông đồ của Chúa Giêsu để có thể trả lời những câu hỏi sau:

01.  Tông đồ Phêrô (Ga 6,60..)        
02.  Tông đồ Anrê (Ga 1,40)
03.  Tông đồ Giacôbê (Cv 12,1-2)
04.  Tông đồ Gioan (Ga 13,23)
05.  Tông đồ Philipphê (Ga 6,1-13)
06.  Tông đồ Batôlômêô (Ga 1,45-51)
07.  Tông đồ Tôma (Ga 20,24..)
08.  Tông đồ Matthêu (Mt 9,9ss)
09. Tông đồ Giacôbê tông đồ, (quen gọi là thánh Giacôbê Hậu) (Gia 2,26)
10.  Tông đồ Giuđa Tađêô (Gđ 18-19)
11.  Tông đồ Simon (Mt 10,4ss)
12.  Tông đồ Giuđa Ítcariốt (Lc 22,47-53)
13.  Tông đồ Matthia (Cv 1,13..)
14.  Tông đồ Phaolô tông đồ dân ngoại (Cv 9,1..)



A. Có bao nhiêu tông đồ gồm 5 mẫu tự.
B. Có bao nhiêu tông đồ bắt đầu bằng mẫu tự G.
C. Có bao nhiêu tông đồ có mẫu tự A.
D. Có bao nhiêu tông đồ có 3 mẫu tự trùng nhau.


B.TÌM TỪ KHÁC NHÓM

Chỉ có một từ trong nhóm mẫu tự dưới đây có thể sắp xếp lại để tạo ra tên của một tông đồ.
CAIN
AMOT
MOSE
HOSE
XILA
LUCA
MINA


V. CÂN NÃO
A. HÃY CÙNG ĐỌC GIESU



 

CHÚA GIÊSU
Đấng Cứu Chuộc nhân loại
.


Có tất cả bao nhiêu cách đọc được từ GIÊSU từ những chữ cái đứng cạnh nhau trong hình vẽ trên ?


Ai yêu mến Thầy,
thì sẽ giử lời Thầy.
Ga 14,22


B. CHIA 1 THÀNH 4 : CÁC TÔNG ĐỒ

Ô chữ này được chia làm 4 phần bằng nhau. Mỗi phần nhỏ là 1 nhân vật 5 chữ cái. Bạn hãy xem đó là những tông đồ   nào ?


Những gợi ý

01.  Tại Caphácnaum, trong diễn từ Bánh đem lại sự sống, giáo lý này làm chói tai nhiều người và họ đã bỏ đi. Thấy vậy, Chúa hỏi nhóm mười hai:   “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”  Một tông đồ liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy, chúng con sẽ đi với ai?  Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời”.  Người tông đồ này tên là gì ? (Ga 6,60..)

02.  Tại bữa Tiệc ly, người môn đệ đã để đầu tựa vào ngực Chúa Giêsu tên là gì ? (Ga 13,23)

03.  Thời Chúa Giêsu, có một nhóm người lấy tên “Nhiệt Thành”, để chỉ họ là những người nhiệt thành với đường lối Chúa. Họ trông ngóng Thiên Chúa gởi đến cho họ vị Mesia. Họ nghĩ vị Mesia là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự như Đavít hay Giuđa Máccabê, người sẽ dẹp tan mọi kẻ thù của Ítraen. Nhóm Nhiệt thành tẩy chay mọi thoả hiệp với kẻ địch và nhiều khi họ lập các đơn vị xung kích để đánh quân La Mã.  Trong số 12 tông đồ của Chúa, có một vị  thuộc nhóm Nhiệt thành này. Vị ấy tên là gì ? (Mt 10,4ss)

04.  Người tông đồ đã dùng cái hôn để nộp Thầy mình cho kẻ thù tên là gì ? (Lc 22,47-53)


VI. CÂU KINH THÁNH GHI NHỚ VÀ HỌC THUỘC LÒNG :


Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.
Tin mừng thánh Gioan 19,34

NGUYỄN THÁI HÙNG


BÀI ĐỌC THÊM
TRÁI  TIM  CHÚA  GIÊSU

Tháng kính Thánh Tâm Chúa

Giáo hội muốn dùng cả tháng sáu này để giáo hữu tôn sùng trái tim Chúa Giêsu trong lòng và bằng những việc thờ phượng bên ngoài để tỏ lòng tôn sùng và phạt tạ Thánh Tâm Chúa vì những sự vô ơn tệ bạc loài người đã làm cho Chúa. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về Trái Tim Chúa để rút ra bài học thực hành cho đời sống chúng ta.

I. LỊCH SỬ THÁNG THÁNH TÂM CHÚA.

Khi Chúa trỏ trái tim Người ra cho bà thánh Maria Margarita Alacoque thì bà thấy sốt sắng kính mến Chúa hết sức và hằng tìm mọi cách để tăng thêm lòng kính mến ấy lên hơn nữa.

Một hôm, sau khi rước lễ bà ước ao rằng : giá dâng một tháng nào để kính thờ rất thánh Trái Tim Chúa thì rất hay và hợp lý lắm. Bà đem ý nghĩ ấy trình bầy với Đức Giám mục thành Paris. Đức Giám mục luận lý rằng : yêu mẹ thì phải kính con. Chúng ta đã có tháng kính Đức Mẹ thì tại sao lại không có tháng kính Đức Chúa Giêsu, nhất là Người mới hiện ra truyền phải kính mến trái tim Người, thì ý nghĩ lập một tháng để kính Người phải là ý nghĩ Người muốn. Tuy nhiên,  Đức Giám mục cũng chỉ ưng thuận trên nguyên tắc và cho phép nhận tháng sáu để làm việc ấy trong dòng của bà thôi.

Công việc đã bắt đầu đem lại nhiều ơn  ích, nên ngài lại ban phép cho giáo dân trong địa phận Ngài đuợc làm theo. Rồi việc dâng kính tháng sáu ấy đã lan ra nhiều nước, nên năm 1899 Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã ra sắc công nhận việc ấy, đồng thời làm thêm ba ngày nữa là 33 ngày để kính 33 năm Chúa sống ở thế gian.

Cách thức kính tháng này không nhất định. Tại Paray-le-Moniale chị em ăn chay kiêng thịt và cầu nguyện nhiều giờ hơn trong tháng sáu, ấy là chưa kể việc làm giờ thánh vào đêm thứ năm sang ngày thứ sáu đầu mỗi tháng như ý Chúa muốn khi hiện ra nói rõ với thánh Margarita.

   (Nguyễn duy Tôn, Cây đòng vấy máu, 1973, tr 101-102)


Đến đây ta lại thắc mắc đặt câu hỏi : tại sao không kính thờ óc, miệng, mắt , cạnh nương long hay đầu gối Chúa Giêsu  như người Hồi giáo thờ cái râu của Đức Mahomed, màø lại tôn thờ trái tim Chúa ?

Câu trả lời trước tiên phải nói là chính Chúa Giêsu muốn vậy khi Người hiện ra nói rõ cho bà thánh Margarita biết về nguyện ước đó.

Câu trả lời thứ hai là : trái tim là trung tâm điểm của tình yêu, trái tim tượng trưng cho tình yêu, mà thánh Gioan tông đồ nói : Thiên Chúa là tình yêu, nên nói tới tình yêu Chúa thì chúng ta liên tưởng ngay tới trái tim Chúa Giêsu.  Ai còn hồ nghi về tình yêu của Chúa đối với chúng ta ? Chúa đã nói : không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người chết cho người mình yêu. Vậy nếu Chúa Giêsu đã chịu chết trên thánh giá để cứu chuộc nhân loại và cách riêng cho chúng ta, thì ai trong chúng ta còn hồ nghi về tình yêu ấy ? Để đáp lại trái tim đã thương yêu chúng ta vô ngần, chúng ta cũng phải yêu trái tim ấy vì “có đi có lại mới toại lòng nhau” !

II. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA TRÁI TIM .

1. Mô tả trái tim.

Đáng lẽ chúng ta cần mô tả trái tim để tìm hiểu một cách tỉ mỉ hơn nhưng đứng về mặt
sinh lý và khoa học  thì hầu hết chúng ta đã có quan niệm tổng quát về trái tim rồi.  Chúng ta chỉ cần nói rằng trái tim là nguồn phát máu đi nuôi thân thể con người, khi nào trái tim ngừng đập, lúc ấy không còn sự sống nữa.  Trái tim làm việc kinh khủng để cung cấp máu, không hề nghỉ một giây phút, từ lúc con người sinh ra cho đến lúc chết.  Tính ra mỗi phút trái tim chuyển được 10 lít máu, mỗi giờ được 600 lít, một ngày được 14.000 lít, một năm được 5.110.000 lít.  Và nếu ai sống được 60 tuổi thì trái tim đã làm việc để chuyển đi được 30.000.000 lít máu.  Một ngày, tim đập được 100.000 lần, có một sức mạnh tổng cộng có thể nâng được một toa xa hỏa nặng 45 tấn lên cao một mét.  Thật là quả tim có sức mạnh phi thường, không ai ngờ được.


2. Trái tim cần thiết cho đời sống.

Theo một tờ báo chuyên về khoa học ở Mỹ cho biết, bác sĩ Kerbank có thể làm cho  người

chết hồi sinh được. Ông thay một quả tim tươi trong bộ ngực của người mới tắt thở hay là chích máu tươi vào trong quả tim vừa ngưng đập.


Theo sự nghiên cứu của nhiều bác sĩ, khi người ta vừa tắt thở, quả tim thôi đập, thân thể trở nên lạnh ngắt và cứng đờ. Máu từ mầu đỏ biến ra mầu đen sậm, đoạn thành ra mầu trắng bệch.

Hồi năm ngoái (1956 ?), bác sĩ đã chữa bệnh trong ba nhà thương tại New York và Chicago. Ông đã cứu được lối 225 người vừa chết hay là chết dưới hai giờ đồng hồ sống lại. Trong số những người được bác sĩ cứu sống, có một ông lão quá lục tuần.
Người ta chứa sẵn những quả tim tươi của những người thanh niên chết vì sự rủi ro, tai nạn xe cộ, những tên tù vừa bị xử tử và những người vừa mới chết. Có điều quan hệ là những người đau gần chết hứa chịu hiến trái tim của mình cho khoa học xử dụng.

Nếu gặp trường hợp của những người đau tim, bác sĩ Kerbank chỉ có việc chích lấy hết chất máu ở trong quả tim của người đó ra. Sau đó, ông tìm chất máu tốt của một quả tim ướp sẵn để thay vào trong quả tim của người vừa mới chết, không cần đến thuật giải phẫu. Theo lời bác sĩ Kerbank, trong số 100 bệnh nhân, có 90 người bị thiếu máu trong tim.

Người ta hy vọng áp dụng phương pháp của bác sĩ để cứu thoát nhiều người bệnh sắp chết hay chết dưới hai giờ đồng hồ. Bác sĩ lại cho biết ông sẽ khám nghiệm những người còn trẻ tuổi mắc bệnh yếu tim, đau tim. Ông sẽ dùng khoa giải phẫu để cắt bỏ trái tim xấu và thay một quả tim mạnh vào. Người đó sẽ sống tới 100 tuổi hay hơn nữa. Tóc của anh ta không bị bạc, răng không bị rụng, không nhăn da và máu huyết vẫn hồng hào, đi đứng mạnh mẽ như người mới tứ tuần.
   (Trích báo Đời Mới, số 87, tr 29)


3. Ảnh hưởng của trái tim.

Óc là trung tâm điểm của đời sống lý trí, còn tim là trung tâm của đời sống tình cảm.
Nhưng trong thực tế, trong mọi sinh hoạt của con người, bao giờ cũng có phần tham dự của quả tim hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.


Nhiều khi tiếng nói của lý trí không thắng nổi được tiếng nói của con tim vì quả tim có lý lẽ riêng của nó (theo Blaise Pascal). Bao giờ lý trí cũng bị quả tim chi phối hoặc ít hoặc nhiều. Nhưng ta có thể nói : người ta hay hành động theo tiếng nói của con tim vì nếu người ta cứ sống theo lý trí thì chẳng ai dại gì mà phạm tội, chẳng dám làm gì hại cho mình, đúng như lời nhà hiền triết Socrate đã nói :”Không ai cố tình làm điều gì xấu”. Như thế có nghĩa là nếu theo đúng tiếng nói của lương tâm, của lý trí thì không ai cố tình làm điều gì xấu, nhưng vì người ta bị mù quáng bởi sức lôi kéo của con tim mà làm điều xấu.

Trong lịch sử, chúng ta thấy còn để lại biết bao gương của những người thuộc loại tai to mặt lớn đã bán cả danh giá, bán cả cuộc đời, bán cả cái chết ô nhục bỉ ổi, chỉ vì chỉ biết nghe theo tiếng gọi của con tim mà mù quáng trước tiếng nói của lý trí, của lương tâm.

Đọc Tam quốc chí, chúng ta thấy có ba vị anh hùng đã lập nên ba nước theo thế chân vạc : nước Ngụy, nước Ngô và nước Thục do Tào Tháo, Tôn Sách (và Tôn Quyền) và Lưu huyền Đức. Theo sử để lại, chúng ta thấy những vị đó là những người biết sống, biết trọng cái danh dự của mình, biết thương dân yêu nước, dám hy sinh thân mình để bảo vệ... Nhưng than ối ! Về sau này Lưu Thiện thế Lưu Bị cai trị nước Thục, Tôn Hưu cai trị nước Ngô đã sống một đời gian dâm vô độ, người nhu nhược, tâm trí mù quáng, không còn biết gì đến dân nước. không biết tới chính sự, không còn biết mở mắt ra lắng tai nghe những lời can gián của các bậc trung thần.mà chỉ biết chúi đầu vào tửu sắc, vào những đam mê thấp hèn, để sau cùng phải dâng nước đầu hàng vua Ngụy Tấn võ Đế (Tư mã Viêm) một cách nhục nhã.

Con người ai cũng biết yêu, không yêu kể như đã chết rồi.  Người ta định nghĩa : người là con vật biết yêu. Sắt đá lạnh nhạt, giết người trong các lò sát sinh dã man ghê rợn, như Himmler, con hùm xám của Đức quốc xã, vậy mà Heinrich Himmler, trước khi uống thuốc độc tự tử (tháng 5 năm 1945) cũng đã để lại 300 bức thư tình lâm ly thắm thiết, tỏ rõ con người ướt át cuồng si. Đã là người, dù sang hèn, giầu nghèo, là em gái hậu phương hay anh trai tiền tuyến, tất cả đều mang trong dòng máu, trong thớ thịt, trong hơi thở một tình yêu sâu xa, khi ẩn khi hiện.

Theo Dante, tình thương ở trung tâm vạn vật, vì là nguyên tắc sáng tạo mọi vật.  Dante nói:”Tình thương làm cử động mặt trời và mọi tinh tú”.

Đúng vậy, chính vì tình yêu của Chúa đối với ta mà Người đã bỏ trời xuống thế, làm lay chuyển cả trời và đất, để cho đất trời se chữ đồng.  Thánh Augustinôâ nói :”Tình yêu có sức mạnh ghê gớm đến nỗi nó kéo ta đi đâu thì ta phải đi đấy”.  Kinh Thánh cũng nói :”Tình yêu mạnh hơn sự chết”.   Vì thế trong đời sống chúng ta, tình yêu là một vấn đề quan trọng lắm, chính tình yêu sẽ chi phối mọi công việc chúng ta, chi phối cả con người chúng ta, nên phải biết điều khiển con tim, phải biết yêu vì thánh Augustinô đã nói :”Yêu ai thì nên giống người đó : yêu đất thì trơ nên đất, yêu Chúa thì trơ nên Chúa”.

III. TRÁI TIM CHÚA GIÊSU.

1. Chúa kêu mời.

Cách đây gần 300 năm, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với thánh nữ Margarita. Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa đã mở ngực ra và chỉ trái tim Người như một tòa lửa sáng rực hơn mặt trời, trong suốt như thủy tinh, chung quanh có vòng gai và trên cùng là thánh giá.Thánh nhân kể : Chúa đã cho tôi biết lòng Chúa nóng nảy khát khao được nhân loại mến yêu, và Người muốn giải thoát nhân loại khỏi vòng trụy lạc.  Vì thế, Chúa có ý trỏ trái tim Người cho nhân loại, trái tim chan chứa tình yêu, đầy tràn ân sủng và sự cứu rỗi.

Lần khác, đang sốt sắng chầu Mình Thánh Chúa, Margarita lại được xem thấy Chúa, toàn thân Người sáng láng vinh quang với năm vết thương chói lòa như vầng đông, và nhất là trái tim đáng kính của Chúa tựa như lò than hồng. Chúa đã thông cảm cho thánh nữ biết những việc lạ lùng khôn tả của tình yêu Chúa và Người đã yêu nhân loại vô ngần.  Thế mà Chúa đã nhận được những gì ?  Chúa chỉ nhận được những vô ân tệ bạc !

Thật thế, Chúa đã yêu thương loài người hết cách, đến tuyệt độ, đến chết trên thập giá, ta thấy Chúa hằng giang tay ra ngày đêm như muốn ôm cả nhân loại vào lòng. Chúa nghiêng đầu cúi xuống như tha thiết kêu gọi người ta trở về cùng Chúa.  Trái tim Người mở toác ra để chứng tỏ lòng yêu thương không bờ bến. Tình yêu thương vô cùng ấy chưa được nhận biết, Người Yêu chí thánh ấy chưa được yêu lại mà còn bị khinh dể và phản bội nhiều lắm. Kìa,  chúng ta thấy còn hàng tỉ người chưa nhận biết Cúa, còn biết bao bao kẻ tội lỗi khô khan còn xúc phạm đến Chúa.

2. Ta đáp trả.

Chúa Giêsu đã yêu ta trước vì từ đời đời Chúa đã thương ta nên mới dựng nên ta, chúng ta là sản phẩm của tình yêu Chúa. Đáp lại,  chúng ta phải biết tha thiết yêu Chúa vì tình yêu bao giờ cũng phải song phương, phải cho đi rồi lấy lại vì “có đi có lại mới toại lòng nhau”.  Những người yêu thì tìm đến với nhau, Chúa yêu nên đã tìm đến với ta, ta yêu nên ta tìm đến với Chúa vì người ta nói :”Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (similis similem quaerit).

Chúa yêu ta nên đã chết trên thập giá cho ta. Người còn tỏ tình yêu ra bằng cách để người lính đâm lưỡi đòng thâu qua cạnh nương long để cho nước và máu chảy ra để rửa sạch tội lỗi và nước giải khát cho linh hồn chúng ta.

   Truyện : nước và máu

Hôm ấy trên ngọn đồi Golgotha náo nhiệt rồi im dần. Lý hình  cũng như dân chúng đã lần lượt xuống hầu hết, vì bản án đã thi hành xong. Hai người trộm cướp còn đang ngắc ngoải trên thập giá liền bị đánh giập ống chân cho chết, còn Chúa Giêsu lúc ấy đã từ trần. Ông Longinô – tên người lính ấy – cầm đòng đâm vào cạnh sườn Chúa, tức thì có nước và máu chảy ra (Ga 19,34).  Có lời tương truyền rằng ông này vốn bị mù  một mắt, và khi máu chảy theo cán đòng xuống tay ông, ông lấy tay vấy máu ấy dụi vào mắt mình, liền được sáng tức thì.

Chúng ta hãy dùng máu và nước từø cạnh nương long Chúa chảy ra để rửa sạch linh hồn :

“Lạy ông, xin cho tôi đựoc sạch” (Mc 10,51 ; Lc 18,41)



IV. TRÁI TIM CHÚA VỚI CHÚNG TA.

Chúa Giêsu yêu chúng ta, không những Người để trong lòng, nhưng vì yêu ta quá đến nỗi không che giấu trong lòng nữa mà còn phơi bầy ra cho nhân loại thấy. Ngày mà tình yêu củaNgười phải tỏ bầy cho nhân loại là ngày 27.12.1673 với thánh nữ Margarita. Trái tim của Người không còn ở trong lồng ngực nữa, mà vượt ra ngoài để tỏ cho nhân loại biết vẫn còn thật nhiều tình yêu đối với nhân loại.

Ôi ! “Hữu ư trung, xuất hình ư ngoại”. Tình yêu của Người chất chứa trong lòng bao thế kỷ qua, nay đã  “xuất hình ư ngoại” không còn ngôn từ nào mô tả, để ca ngợi khi trái tim của Người phải xuất hình ư ngoại. Ôi ! Tình yêu Chúa, một lần nữa lại tỏ biểu cho nhân loại được tường tận. Trái tim của Người đã vượt ra khỏi lồng ngực đã hiển nhiên minh chứng cho tình yêu của Người.

Lạy Chúa, chúng con đã làm gì có tình yêu đối với Chúa ở trong lòng “hữu ư trung” thì làm sao chúng con ban phát cho anh em chúng con, cho những người cần nếm hương vị của Chúa, qua trung gian là chúng con để “xuất hình ư ngoại”.

Lạy Chúa, trong cuộc đời của chúng con chỉ “xuất hình ư ngoại” mà thật ra chẳng hề “hữu ư trung”. Tình yêu mà chúng con “xuất hình ư ngoại” đóù, chỉ đặt trên môi miệng, trên tư lợi của đời sống trần gian này, mà không nương tựa nơi Chúa để tạo cho nó có “hữu ư trung”. Xin cho chúng con có tình yêu thật bên trong như Chúa đã ban phát ra cho những người khác.

   Truyện : xuất hình ư ngoại

Năm 1597 lệnh bắt đạo trên đất Nhật thật gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở công giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố tàn tạ.

Tại vùng Odawara, Kamakura, người ta bắt được hai Linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng giải về Tokyo. Quan đại thần Tsukamoto nhặt trong đống ảnh tượng một mẫu ảnh thật kỳ cục : người gì mà để trái tim ra ngoài !

Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế, thích tìm hiểu. Ông cầm mẫu ảnh trái tim coi qua rồi vứt vào sọt rác, nhưng đến tối, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn có một ý nghĩa nào đó. Ông lượm lại bức ảnh để trên bàn  và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà quan vẫn còn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ :”đối ngoại hữu kỳ tâm – đối nội vô tâm giả”.

Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim trên bàn làm việc một cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn Osaki đến chơi, thấy vậy hỏi :

- Thế nào, bạn lại thích ảnh tượng của bọn tả đạo rồi sao ?


- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình và hành động cùng lối xử thế tổng quát của Kitô giáo.  Để ông bạn coi : đối với thiên hạ, tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì “Vô Tâm”.  Cho nên họ mới vẽ trái tim để ra ngoài... Nghĩa là phải đem hết trái tim của mình mà phục vụ xã hội, giúp ích cho đời; còn về phần mình thì hy sinh xả kỷ, đừng bao giờ lo riêng cho mình, phải diệt cái ngã vị kỷ.  Đem hết trái tim ra giúp đời giúp người. Nội bức ảnh này tôi thấy đầy đủ hơn cả cái học Từø Bi của Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão, mạnh mẽ hơn cái học Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản vậy.  Một tôn giáo dạy phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, không quan tâm đến tư ợi, thì quả là ngay chính của Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt của bạn. Không ngờ Đạo Công giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu như vậy. Từ đó hai ông trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm nhận phép rửa tội,  đồng thời vận động triều đình thả hai linh mục...
   (Hồ bạc Xái, Hạt giống nảy mầm, CN B, tr 85-86)


Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã có tình yêu “hữu ư trung” đó. Cả cuộc đời thánh nữ gồm tóm trong chữ  y ê u  , yêu Chúa tận tình. Trong bức thư thứ hai gửi cho chị em họ Marie Gúerin, thánh nữ say sưa viết :

  “Tôi chỉ biết một phương thế đạt đến sự trọn lành : đó là yêu Chúa. Chúng ta hãy
  yêu Chúa bởi vì trái tim chúng ta chỉ được dựng nên để cho tình yêu” !


Tất cả cuộc đời của thánh nữ lại được tóm lại trong một tiếng YÊU. yêu mãi, yêu hơn nữa, yêu cho đến khi nào trái tim ngất đi và ngã quỵ. Thế là không những sống trong tình yêu mà còn chết vì tình yêu như bài thơ “được chết vì yêu” mà thánh nữ đã viết.
Trái tim Chúa phải là sức mạnh cho chúng ta. Mỗi khi chúng ta thấy mệt mỏi, chán nản trên đường thiêng liêng, giao động trước những thử thách, hãy nhìn vào trái tim Chúa để múc lấy nguồn sức mạnh mà chiến đấu.

   Truyện : Đại úy La Tour d’Auvergne

Năm 1800, đại úy La Tour d’Auvergne đã chết oanh liệt trên chiến trường Neugourg cạnh sông Danube.  Quân lính mổ ngực ông, lấy quả tim rồi ướp thuốc thơm, đặt vào trong chiếc hộp vàng.  Một quân nhân mang cờ danh dự và treo hộp ấy trước ngực.  Mỗi khi kích thích tinh thần quân sĩ, viên tướng hô to : Đại úy La Tour d’Auvergne. Tức thì, tất cả đạo binh đồng thanh ứng lại :”Người đã chết anh dũng trên chiến trường, nhưng trái tim còn ở giữa chúng ta”.  Và tất cả đều cảm thấy hăng hái lạ thường.

Qủa tim của vị đại úy đã kích thích được tinh thần quân sĩ chỉ vì đại úy đã anh dũng hy sinh vì tổ quốc và hiện giờ quả tim còn hiện diện giữa quân đội.  Cũng thế, Chúa Giêsu đã anh dũng hy sinh chịu chết trên thánh giá cho nhân loại, cho chúng ta, và gần hai nghìn năm nay, trái tim Chúa vẫn còn ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy nhìn vào trái tim Chúa Giêsu mà chiến đấu với ba thù, để sẵn sàng hy sinh cho Người, bất chấp gian khổ :

   Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
   Tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua.
           (ca dao)


KẾT LUẬN


Chúa Giêsu đã trao ban trái tim Người cho chúng ta, để đáp lại sự trao ban ấy, chúng ta cũng phải dâng trái tim của ta cho Người để từ nay trái tim ta, lòng ta thuộc trọn về Chúa, không bị chia sẻ cho mộ tạo vật nào nữa.

Thánh Benoit Joseph Labre là đấng thánh đã đi ăn xin và đã qua đời tại Roma năm 1783. Ngày kia, khi đi thăm một người đau nặng, Ngài dạy cho ông ta phải biết dâng của lễ gì cho đẹp lòng Chúa. Ngài nói : phải dâng cho Chúa ba quả tim ;

- Quả thứ nhất bằng lửa, nghĩa là quả tim đầy tình yêu đối với Chúa.


- Quả thứ hai bằng thịt, nghĩa là quả tim đầy tình yêu đối với tha nhân và năng hướng về sự cầu nguyện.


- Qủa thứ ba bằng đồng, nghĩa là quả tim mạnh mẽ để chống các đam mê của ta, nhất là chống lại tình dục của ta và lo hãm mình để phạt thân xác.


Hằng ngày ta hãy nhắc lại sự phó dâng ấy để luôn luôn lúc nào lòng ta cũng hướng về Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta tình yêu chân thật và nồng say mỗi khi ta đọc lời nguyện tắt này :

LẠY TRÁI TIM CỰC THÁNH ĐỨC CHÚA GIÊSU,
XIN BAN CHO CON KÍNH MẾN TRÁI TIM CHÚA MỘT NGÀY MỘT HƠN.


Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Ngày 24 Tháng 5 năm 2004

Nguồn : simonhoadalat.com



Ý nghĩa và lịch sử :
Lễ Thánh Tâm và tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu


1. Nếu như thế kỷ XIX đã được coi là thế kỷ của lòng sùng kính Thánh Mẫu Maria, thì thế kỷ này cũng còn được gọi là thế kỷ của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thực ra, lòng tôn sùng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, một trái tim 'con người' của Ðấng là 'Con Thiên Chúa', mời gọi các tín hữu chiêm ngắm như dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Lòng tôn sùng này đã được thánh Gioan Euđê (1680) cổ võ từ giữa thế kỷ XVII, và nhất là qua các thị kiến mà thánh nữ Margarita-Maria Alacoque (1690) nhận được tại tu viện Thăm viếng ở Paray-le-Monial vào năm 1673 và 1675 ; trong các thị kiến, M-M. Alacoque được Chúa Giêsu chỉ cho thấy Trái Tim Người, "một trái tim đã yêu thương con người đến thế, mà chỉ nhận được sự đáp trả bạc bẽo vô ơn". Thánh nữ còn được ủy thác việc cổ võ xin thiết lập một ngày lễ kính Thánh Tâm. Nhưng phải đợi đến gần hai thế kỷ sau ngày ngài qua đời, vào năm 1856, Ðức Piô IX mới chính thức thiết lập ngày lễ này trong toàn Giáo Hội. Rồi sau đó, dưới thời các Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô XI và Piô XII, đã có các giáo huấn liên hệ đến việc tôn sùng Thánh Tâm qua thông điệp "Annum sacrum", công bố ngày 25.5.1899 chuẩn bị Năm Thánh 1900, với việc dâng loài người cho Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, thông điệp "Miserentissimus Redemptoris" ngày 18.5.1926, "Summi Pontificatus" ngày 20.9.1939 và "Haurietis aquas" ngày 15.5.1956.

2. Nền tảng Kinh Thánh cho việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đó là đoạn Tin Mừng Ga 19,31-37, về việc xảy ra sau khi Chúa Giêsu chết trên cây thập giá, "một người lính đã lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức có máu cùng nước chảy ra". Một đoạn Tin Mừng khác cũng không thể bỏ qua là Mt 11,25-30 về mạc khải rất quý báu : "Hết thảy những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho. Hãy mang lấy ách của Ta và học cùng Ta vì Ta dịu hiền và khiêm nhường trong lòng...".

3. Trong tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, có ngày lễ Thánh Tâm, và ngày này đã trở thành ngày Thánh hóa các linh mục. Chúng ta có thể gợi ra một vài hệ luận đạo đức : Trước hết, hệ luận liên hệ đến đời sống đạo đức của cá nhân mỗi người : vì biết rằng Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu thương từng con người cụ thể, yêu thương hết lòng và yêu thương cho đến cùng, cho đến cái chết để cứu độ ... nên chúng ta được mời gọi đáp trả, sống giới luật yêu thương "mến Chúa yêu người", theo gương của Ðấng đã yêu thương chúng ta và cũng theo mức độ như Người đã yêu thương, để đi vào cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể yêu thương đón nhận mọi người anh chị em chung quanh. Chớ gì khi được Thánh Tâm Chúa nung đốt, chúng ta cũng biết mặc lấy tâm tình của Chúa, một đàng ý thức thân phận yếu đuối của mình để sám hối ăn năn, và đàng khác biết thật lòng sống yêu thương như Chúa muốn. Hệ luận thứ hai nhắc nhở chúng ta cầu nguyện nhiều cho hàng linh mục, xin Chúa ban cho các ngài là những mục tử chăm sóc các linh hồn biết để cho Tình Yêu của Chúa uốn nắn, làm cho các ngài nên "những mục tử như lòng Chúa mong muốn".


Giuse Trần Ngọc Liên
NGUỒN : simonhoadalat.com



LỜI GIẢI ĐÁP
VUI HỌC THÁNH KINH
THÁNG SÁU

I. HÌNH TÔ MÀU
*Chủ đề :
Chúa Giêsu bị lưỡi đòng đâm thâu.

* Tin mừng thánh Gioan 19,34:
Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.


II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
THÁNG THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU


01. d. Cả 3 đều đúng.
02. c. Nữ tu Margarita Maria Alacoque.
03. d. Cả a, b và c đúng.
04. a. Đức Piô IX (1865) (simonhoadalat.com)
05. a. Thánh Gioan Eu-đê (1680)   (simonhoadalat.com)
06. d. Thánh sử Gioan (Ga 19,31-37)
07. a. Ngày Thánh hóa các linh mục.
08. d. Đức Lêô XIII (1899) (simonhoadalat.com)
09. b. Tháng sáu
10. c. Tông đồ Gioan(Ga 19,31-37)


III. Lời giải đáp Ô CHỮ
VUI HỌC THÁNH KINH THÁNG SÁU
CÁC TÔNG ĐỒ



01.  Thánh Philipphê (Ga 1,42-45)
02.  Thánh Matthêu (Mc 2,14)
03.  Thánh Giacôbê (Cv 12,1-2)
04.  Thánh Giuđa Tađêô (Gđ 20)
05.  Thánh Gioan (Ga 19,25-27)
06.  Thánh Simon (Mt 10,4ss)
07.  Đức  Giêsu  (Lc 23,34)
08.  Thánh Tôma (Ga 11,16)
09.  Thánh Anrê (Ga 6,1-9)
10.  Thánh Phêrô (Ga 21,16..)
11.  Giuđa Ítcariốt (Mt 26,14)
12.  Thánh Phaolô (Cv 21,10..)
13.  Thánh Giacôbê (Cv 15,19)
14.  Thánh Matthia (Cv 1,15..)
15.  Thánh Batôlômêô (Ga 1,43ss)



IV. Lời giải đáp THỬ TÀI
A. THỬ TÀI NHỚ


A.
01. Tông đồ Phêrô
02. Tông đồ Gioan
03. Tông đồ Giuđa
04. Tông đồ Simon
05. Tông đồ Giuđa


B.
01. Tông đồ Giacôbê
02. Tông đồ Gioan
03. Tông đồ Giacôbê tông đồ,
(quen gọi là thánh Giacôbê Hậu)
04. Tông đồ Giuđa Tađêô
05. Tông đồ Giuđa Ítcariốt


C.
01. Tông đồ Anrê
02. Tông đồ Giacôbê
03. Tông đồ Gioan
04. Tông đồ Batôlômêô
05. Tông đồ Tôma
06. Tông đồ Matthêu
07. Tông đồ Giacôbê tông đồ, (quen gọi là thánh Giacôbê Hậu)
06. Tông đồ Giuđa Tađêô
09. Tông đồ Giuđa Ítcariốt
10. Tông đồ Matthia
11. Tông đồ Phaolô tông đồ dân ngoại


D.
01. Tông đồ Philipphê
02.  Tông đồ Batôlômêô


B. Lời giải TÌM TỪ KHÁC NHÓM
TOMA

V. Lời giải đáp CÂN NÃO

A.  HÃY CÙNG ĐỌC GIÊSU


Mỗi chữ G trong hình đã cho đều liền kề với 4 chữ I, mà mỗi chữ I  lại liền kề với 3 chữ E, trong đó :
* 1 chữ E liền kề với 7 cụm SU;
* 2 chữ E còn lại liền kề với 4 cụm SU. Vậy số cách để đọc được từ GIESU trong hình trên là : 4 x ( 7 + 8 ) = 60 cách.


B. Lời giải đáp

CHIA 1 THÀNH 4 : CÁC TÔNG ĐỒ



01.  Tông đồ  Phêrô(Ga 6,60..)
02.  Tông đồ  Gioan (Ga 13,23)
03. Tông đồ Simon (Mt 10,4ss)
04. Tông đồ Giuđa (Lc 22,47-53)



NGUYỄN THÁI HÙNG

Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

CÁCH YÊU


CÁCH YÊU 

Lm. Giuse Đinh Tuấn Việt

Ai sống trên đời cũng cần tình yêu. Một cuộc sống thiếu vắng tình yêu là một cuộc sống chưa trọn vẹn. Chỉ có hơi ấm của tình yêu mới đủ năng lực làm cho tâm hồn hạnh phúc tròn đầy. Để biết tình yêu có sức hấp dẫn kì diệu như thế nào, không cần nhìn vào con người là thụ tạo có tình yêu mà chỉ cần nhìn vào phản ứng của cô chó, chú mèo để thấy cô chú tự nhiên quấn quýt với người nào tỏ ra dịu dàng với cô chú.
Một người bình thường mang tâm trạng bình thường sẽ có nhu cầu bình thường là diễn tả tình yêu trong lòng mình đối với người mình thương mến. Bản chất của tình yêu thương đích thực là tốt lành, xinh đẹp, thánh thiêng. Nhưng lại có một hiện tượng đáng tiếc vẫn xảy ra trong cuộc sống thường nhật là: sự diễn tả tình yêu thương đôi khi lại gây ra khó chịu, bực tức, thất vọng cho người được quan tâm. Bầu khí sau khi diễn tả yêu thương đâm ra nặng nề hơn trước đó. Tại sao kì vậy?
Có một người phát hiện ra hiện tượng này và bắt đầu tìm kiếm lý giải. Anh nhìn lại hành trình mình đã đi qua với những trường hợp cụ thể. Cách đây khoảng một năm, anh gọi điện cho một người bạn.
“Alo, cậu khỏe không?”
“Cảm ơn cậu, tớ khỏe. Cậu thì sao?”
“Tớ cũng tạm tạm. Lâu rồi không thấy tin cậu, gọi điện xem tình hình thế nào. Chắc cậu bận rộn lắm hả?”
“Kì này công việc cũng bớt căng thẳng hơn trước một chút rồi cậu.”
“Ồ, vậy mà không gọi điện cho tớ. Lúc nào tớ cũng gọi cho cậu trước. Hay là kì này có nhiều người hâm mộ quá rồi cậu không còn nhớ đến người bạn này….”
Người bạn được quan tâm bỗng cảm thấy khó chịu về cuộc gọi lẽ ra đã rất thân tình, vui vẻ. Người gọi cũng thấy nặng nề.
Một lần khác cách đây ít tháng, anh đi uống cà phê với một đồng nghiệp. Trong cuộc chuyện trò, anh bạn kia hỏi thăm anh về công trình xây dựng anh đang tự tin thực hiện. Không biết chính xác anh bạn kia đã nói thế nào mà sau đó anh cảm thấy khá bực mình vì không được tin tưởng đến nỗi anh có ý không bao giờ chia sẻ chuyện làm ăn với người đó nữa.
Cách đây mấy tuần, xảy ra một việc bực mình giữa anh và cô cháu gái. Anh thương cháu gái lắm nên thường chăm sóc cô còn kĩ hơn là bảo mẫu hay vú nuôi: “Cháu đừng có mặc chiếc áo đó, nhìn không đẹp”, “Cháu ngưng nói chuyện với thằng đó đi, cậu thấy không có cảm tình với nó”, “Cháu phải uống sữa nhiều vào, phải ăn uống cho đầy đủ, phải …”, …. Hôm ấy, cô cháu gái phản ứng: “Trời ơi, con 20 tuổi rồi đó cậu, đâu còn con nít nữa đâu!” Lúc ấy anh sùng lên giận dỗi: “Cậu có lo thì mới quan tâm như thế. Người dưng nước lã thì đừng hòng.” Mặc dù biết rằng cậu làm thế là vì thương, cô vẫn cảm thấy ngột ngạt giống như bị tước mất tự do. Cả hai đều cảm thấy nặng nề khó chịu. 
Còn nhiều lần khác nữa làm anh ngày càng thấy nản lòng chẳng thiết quan tâm ai nữa. Anh tự hỏi sao mỗi lần “làm ơn” lại hay “mắc oán” thế. Mệt cái thân! Bế tắc!
***
Thế rồi một ngày nọ trong mùa Phục Sinh, anh đi dự Lễ tại ngôi giáo đường nhỏ gần chỗ làm việc. Đầu óc đang ngổn ngang. Mệt mỏi. Chán chường. Lời Chúa hôm ấy vẫn là những bài anh đã nghe nhiều lần, nhiều đến nỗi phát nhàm. Không sốt sắng nên cảm thấy Lễ dài, anh ngao ngán liếc nhìn chiếc đồng hồ trên tường. Đúng lúc ấy anh nghe linh mục đọc đến câu: Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.” (Gioan 15:12) Anh bỗng giật mình! Chính câu nói ấy là chìa khóa quan trọng để tháo gỡ các bế tắc anh đang gặp phải bấy lâu. Yêu thương nhau thì các môn đệ vẫn yêu thương nhau đấy thôi, nhưng để đảm bảo tình yêu thương ấy được diễn tả cách đúng đắn nhất thì Thầy dặn “như Thầy đã yêu thương anh em.” Phải chăng Thầy hiểu rõ khó khăn trong tương quan giữa con người với nhau nên mới dặn: “Như Thầy đã yêu thương”? Đây chính là chìa khóa, là bí quyết cho nghệ thuật yêu thương.
***
Muốn hiểu rõ bí quyết này cũng đơn giản thôi: chỉ cần nhìn ngắm cho kĩ cách thức diễn tả tình yêu của Thầy. Tất cả những cử chỉ, lời nói, hành động của Thầy khi diễn tả tình yêu là: tự hiến sự sống cho người mình yêu. Đó vừa là nền tảng bảo đảm cho tình yêu đích thực vừa là đỉnh cao của nghệ thật diễn tả yêu thương; cho nên, Thầy khẳng định: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu.”(Gioan 15:13)
Anh chợt tỉnh ngộ: Khi quan tâm, Thầy không bao giờ muốn kiểm soát cuộc đời người khác, không tỏ vẻ thiếu tin tưởng, không đòi hỏi người khác phải quan tâm lại mình, và không muốn chiếm giữ lối sống của họ. Tất cả đến từ tình yêu thương vô điều kiện của Thầy. Thầy để cho việc đáp lại tình yêu của Thầy được diễn ra hoàn toàn trong tự do và tự nguyện. Nếu có thì Thầy mừng vui hạnh phúc lắm; còn nếu không có thì Thầy đón nhận điều ấy một cách vẫn đầy yêu thương. Yêu như thế là yêu của một trái tim vĩ đại. Con người được sinh ra để trở nên vĩ đại trong tình yêu.
Từ ngày ấy, anh bắt đầu ngắm nhìn Thầy để học hỏi. Và anh đã hiểu: Yêu thương đích thực là hướng đến sự bình an và hạnh phúc của người khác chứ không phải để mình cảm thấy thoải mái. Chừng nào lòng mình còn hướng về chiếm hữu cho lợi ích bản thân thì chừng ấy mình vẫn chưa biết yêu thương thật sự, mình vẫn đang yêu bản thân mình là chính. Bây giờ, những người được anh quan tâm cảm thấy nhẹ lòng hơn, bình an hơn, ấm áp hơn mỗi lần gặp gỡ anh.
***
Ta cùng chiêm ngắm Thầy để cách yêu thương của ta có thêm nghệ thuật và hiệu quả, bạn nhé!
Lm. Giuse Đinh Tuấn Việt, O.Carm.



***********************




Nguồn:  NGƯỜI LỮ HÀNH HY VỌNG