Trang

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2019

Các Thánh là những ai ?

Các Thánh là những ai ?
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương



Lễ Các Thánh Nam Nữ 01/11

Kh 7,2-4,9-14; 1 Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a

Ngày nay, các nhà khoa học đã phóng những tín hiệu vào trong vũ trụ, với hy vọng có thể nhận được những tín hiệu từ một số sinh vật thông minh trên những hành tinh đã mất tích. Giáo Hội luôn liên lạc với những dân cư thuộc thế giới khác – đó là các Thánh Nam Nữ trên trời, điều mà chúng ta tuyên xưng khi nói rằng: “Tôi tin Các Thánh thông công.” Nếu có những dân cư ngoài hệ mặt trời đã hiện hữu, sự hiệp thông với họ có lẽ là không thể, bởi vì giữa câu hỏi và câu trả lời là khoảng cách hàng triệu năm qua rồi. Tuy nhiên, ở đây, đối với chúng ta, câu trả lời là trực tiếp bởi vì có một trung tâm chung cho sự truyền thông và gặp gỡ này, đó là Đức Kitô Phục Sinh.

Có lẽ vì ngày lễ Các Thánh được cử hành vào một thời điểm đặc biệt gần cuối năm phụng vụ, nên có điều gì đó đặc biệt diễn tả ý nghĩa cuộc đời. Chính vì thế, người tín hữu rất yêu thích tham dự thánh lễ này. Đó chính là điều mà Thánh Gioan nói trong bài đọc II: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ” (1 Ga 3,1-3). Chúng ta giống như phôi thai trong dạ mẹ mong được sinh ra. Các thánh đã được “sinh ra.” Vì thế, phụng vụ coi ngày từ trần của Các Thánh là “ngày sinh nhật” của các ngài (dies natalis). Chiêm ngắm Các Thánh là chiêm ngắm vận mệnh chúng ta. Mọi sự xung quanh chúng ta, thiên nhiên như tàn lụi và lá cây rụng xuống, nhưng lễ các thánh mời gọi chúng ta nhìn cao hơn. Nó nhắc nhở mỗi người ý thức rằng, chúng ta không được tiền định để mãi mãi tàn lụi ở trên trái đất này, giống như lá rụng, nhưng là để sống vĩnh cửu với Thiên Chúa như Các Thánh.

Bài Tin Mừng là các mối phúc. Một mối phúc đặc biệt gợi hứng cho chọn lựa sống của Các Thánh, đó là: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ (Mt 5,10). Các Thánh là những người đã đói khát sự công chính. Theo nghĩa Kinh Thánh, công chính là đói khát sự thánh thiện. Họ không chấp nhận sống tầm thường và không hài lòng với kiểu nửa vời.

Bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu Các Thánh là ai. Họ “đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Sự thánh thiện được đón nhận từ Chúa Kitô; nó không phải là sản phẩm của chúng ta. Trong Cựu Ước, nên thánh có nghĩa là ‘được tách riêng’ khỏi mọi sự ô uế; theo truyền thống Kitô giáo, nên thánh nó ngược lại, nghĩa là được “kết hợp với Chúa Kitô.”

Các Thánh là những người được cứu độ, được kết hợp với Chúa Kitô. Họ không chỉ là những người được đề cập trong lịch phụng vụ hoặc trong sách hạnh Các Thánh. Nhưng còn rất nhiều vị Thánh mà chúng ta không biết đến, có vô số những người đã sống cuộc sống trần thế một cách tốt lành và thánh thiện, đã được Thiên Chúa vinh thăng. Có rất nhiều người âm thầm hy sinh cuộc đời của mình vì tha nhân, có người phải tử đạo vì công lý và tự do, có người một đời tận tụy chu toàn bổn phận của mình trong âm thầm, khiêm tốn phục vụ người khác nơi bệnh viện, nơi học đường, nơi các gia đình và các tổ chức Giáo Hội… Dầu không ai biết đến, nhưng họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên, vì họ sống theo tiếng nói lương tâm và luôn lo lắng vì thiện ích của tha nhân.

Một câu hỏi tự nhiên đặt ra: Các Thánh trên trời làm gì? Chúng ta tìm thấy câu trả lời ở đây trong bài đọc I: “Họ sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: “Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! Amen!” (Kh 7,11-12). Ơn gọi đích thực của con người được thành toàn trong họ, đó là được “ca ngợi vinh quang Thiên Chúa (Ep 1,14). Ca đoàn các thánh được hướng dẫn bởi Đức Maria, Đấng tiếp tục Thánh Thi Tạ Ơn của mình trên thiên đàng: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.” Trong lời ca ngợi này mà các thánh tìm thấy hạnh phúc và niềm vui. “Linh hồn tôi hớn hở trong Thiên Chúa.” Một người đang yêu, là người luôn biết ngưỡng mộ và ca ngợi. Khi yêu mến và ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở nên giống Thiên Chúa, tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Người.

Một ngày nọ, một vị thánh có tên là Saint Simon The New Theologian, có một kinh nghiệm thần bí về Thiên Chúa rất mãnh liệt, ngài kêu lên rằng: “Thiên đàng không hơn điều này, nó đủ cho con rồi.” Nhưng ngài nghe Chúa Kitô nói: “Con là người rất nghèo nàn nếu con bằng lòng với điều đó. Vì niềm vui con đang trải nghiệm khi so sánh với thiên đàng giống như bầu trời được vẽ trên giấy so với bầu trời thật.”

Như thế, lễ Các Thánh là ngày cử hành niềm vui của chúng ta, bởi vì Các Thánh là những thành viên trong gia đình, giáo xứ của chúng ta đã được vinh thăng, đồng thời ngày lễ này nhắc nhở và củng cố niềm hy vọng lớn lao về định mệnh cao cả nhất của mỗi người là được kết hợp với Đức Kitô. Nguyện xin Các Thánh Nam Nữ trên trời cầu bầu cho chúng ta. Amen.

ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An

http://nguoinguphu.blogspot.com/
 

26 Tài liệu năm 2014 về Linh Hứng của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, Kết luận chung

Tài liệu năm 2014 về Linh Hứng của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, Kết luận chung
Vũ Văn An
KẾT LUẬN CHUNG

Giáo Hội Công Giáo, trong một tuyên bố long trọng và có tính quy phạm (tại Công Đồng Chung Triđentinô, EB 58-60), đã ấn định qui điển các sách thánh, do đó xác định các tiêu chuẩn căn bản cho đức tin của mình. Giáo Hội do đó giải thích những bản văn nào phải được coi "là soạn thảo dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần" (Dei Verbum, n. 11), và do đó cần thiết cho việc đào tạo và xây dựng các tín hữu và toàn bộ cộng đồng Kitô hữu (2 Tm 3:15-16). Nếu, một mặt, Giáo Hội hoàn toàn ý thức được rằng những trước tác được soạn thảo bởi các tác giả phàm nhân, những người đã đánh dấu chúng bằng tài năng văn chương của riêng mình, thì mặt khác, người ta cũng nhìn nhận trong chúng một phẩm chất thần thiêng hoàn toàn chuyên biệt, được chứng thực nhiều cách khác nhau bởi chính các bản văn thánh, và được giải thích nhiều cách đa dạng bởi các nhà thần học, trong suốt lịch sử.

Nhiệm vụ của Ủy ban Kinh Thánh, được mời phát biểu về chủ đề này, không hệ ở việc cung cấp một học thuyết về linh hứng, một học thuyết có thể cạnh tranh với những gì thường được trình bầy trong các khảo luận của thần học hệ thống. Với sự trợ giúp của tài liệu này, Ủy Ban tìm cách chứng minh chính Kinh thánh đã chứng minh ra sao nguồn phát xuất thần thiêng của chứng từ của nó, do đó, là người mang và truyền đạt sự thật của Thiên Chúa. Vì vậy, chúng ta định vị mình trong bối cảnh đức tin, khi chấp nhận điều Giáo Hội đã giao phó cho chúng ta như là Lời của Thiên Chúa, và, khởi đi từ Lời này, cố gắng đạt cho được các yếu tố của một sự thấu hiểu giúp chúng ta tiếp nhận thành công hơn di sản thần thiêng này.

Kinh Thánh tạo nên một tổng thể thống nhất, vì tất cả các cuốn sách, "với mọi phần của chúng" (Dei Verbum, n. 11) đều là các bản văn được linh hứng, có chính Thiên Chúa "là tác giả" (ibid ..). Tuy nhiên, dù thừa nhận rằng mọi lời của bản văn thánh đều có thể được coi là Lời của Thiên Chúa, trong gắn bó chặt chẽ với mọi lời khác, Giáo hội vẫn luôn nhìn nhận khía cạnh đa dạng của chúng, một khía cạnh xem ra mâu thuẫn với sự quả quyết về nguồn gốc thần thiêng duy nhất của chúng.

Sự phân biệt giữa Cựu Ước và Tân Ước là biểu hiện rõ ràng nhất của tính đa dạng Kinh Thánh. Trong các vương cung thánh đường Kitô Giáo cổ xưa, hai đài giảng kinh (ambons) đã được sắp xếp để đọc các bản văn thánh, với mục đích làm nổi bật sự khác biệt và sự bổ sung của hai giao ước, cả hai đều cần thiết để chứng thực biến cố mặc khải độc đáo dứt khoát, tức mầu nhiệm Chúa Kitô. Đó là lý do tại sao, trong tài liệu này, chúng ta tôn trọng bản chất riêng của mỗi phần cấu thành Kinh thánh, bằng cách làm rõ cách thức mà sự đa dạng của chúng không những không gây trở ngại, mà còn làm phong phú thêm chứng từ trung thực của Ngôi Lời duy nhất của Thiên Chúa.

Tuy nhiên, bên trong hai phần chính của Kinh thánh, sự đa dạng về thể văn, các phạm trù thần học, các cách tiếp cận nhân học và xã hội học đặc biệt hiển nhiên. Thiên Chúa thực sự đã nói "nhiều cách" (Dt 1:1), không những thời xưa, mà cả sau khi Chúa Con đã đến, Đấng đã mạc khải trọn vẹn Chúa Cha (xem Ga 1:18). Do đó, trong Tài liệu này, điều xem ra cần thiết là phải đưa ra ánh sáng, bằng các thí dụ được chọn lọc, sự phong phú của các biểu thức này, tất cả đều được lên sinh khí từ cùng một sự chắc chắn sẽ nói lên sự thật của Thiên Chúa.

1. Nguồn gốc thần thiêng của các trước tác Kinh thánh

140. Cộng đồng đức tin sống nhờ một truyền thống: nó được thành lập và xây dựng bằng việc lắng nghe Lời Chúa, được viết ra trong những cuốn sách, được lưu truyền như những sách quy phạm, vì mang trong chính chúng dấu ấn thế giá riêng của chúng.

Dấu ấn ấy trước hết được bảo đảm bởi thế giá của các tác giả của chúng, những người, theo một truyền thống cổ xưa và đáng kính, vốn được công nhận như các sứ giả của Thiên Chúa, và được ân ban đặc sủng linh hứng. Do đó, trong nhiều thế kỷ, và cho đến tận thời hiện đại, tư cách làm cha về văn chương của Ngũ kinh, vốn được gán cho Môsê, không bị đặt câu hỏi, cả tư cách làm cha của những cuốn sách tiên tri và khôn ngoan khác, những cuốn, khi không có tựa đề chuyên biệt, vốn được gán cho các tác giả nổi tiếng (như Đavít, Salômôn, Giêrêmia). Cách tiếp nhận các sách kiểu truyền thống này cũng có giá trị đối với các trước tác Tân Ước, tất cả đều được coi như phát xuất từ đoàn Tông đồ. Ngày nay, nhờ các cuộc nghiên cứu đồng qui được thực hiện bằng các phương pháp văn học và sử học, chúng ta không thể duy trì cùng một quan điểm như trong quá khứ. Thật vậy, khoa giải thích đã chứng minh, với những lập luận thuyết phục, rằng các cuốn sách khác nhau không chuyên nhất phát xuất từ các tác giả được nhắc đến trong tựa đề của chúng, hoặc được truyền thống thừa nhận như thế. Trái lại, lịch sử văn học của Kinh Thánh giả thiết nhiều can thiệp khác nhau, và do đó, sự hợp tác của nhiều tác giả khác nhau, mà nhiều người trong số này ẩn danh, trong một lịch sử soạn thảo rất dài và soạn tới soạn lui. Các nhận xét khác nhau liên quan đến một mô hình cho phép giải thích nguồn gốc của các trước tác thánh không đối lập trực diện với quan niệm truyền thống, đôi khi bị coi quá nhanh là chủ nghĩa giải thích giản đơn (simplisme herméneutique). Trong thực tế, Giáo hội, nhờ công biện phân đòi hỏi khắt khe và kiên nhẫn, kéo dài nhiều thế kỷ, luôn cho rằng mình có thể tiếp nhận như là linh hứng các trước tác vốn phù hợp với kho tàng đức tin được bảo tồn vững chắc và trung thành bởi cộng đồng tín hữu, được bảo đảm bởi những người mà Thiên Chúa đã thiết lập như các mục tử và hướng dẫn viên của các tín hữu. Chúa Thánh Thần, luôn làm việc trong Giáo hội, bằng sức mạnh và sự hiểu biết của riêng Người, đã cho phép khả thể tách biệt những gì là thông đạt thần thiêng đích thực khỏi những biểu thức dối trá và không có nền tảng đầy đủ. Do đó, có khả thể các bản văn được gán cho những người được linh hứng đã bị bác bỏ, trong khi các trước tác, mặc dù không thể được quy cho một tác giả có tiếng một cách chắc chắn, thì lại được tiếp nhận một cách tôn kính, mang dấu ấn linh hứng một cách không thể chối cãi. Ý thức rõ sự thật mặc khải, Giáo hội đã tự đặt mình vào thế vâng phục và thừa nhận đối với Lời Chúa mà mình vốn sống bằng.

Hòa hợp với Lời

141. Giáo hội đặt nền móng cho toàn bộ việc biện phân của mình trên kinh nghiệm sống của Chúa Giêsu, nhận được qua lời của các nhân chứng từng biết Người, và nhìn nhận nơi Người sự nên trọn của Mặc Khải. Khởi đi từ những gì các Tông đồ và các tác giả Tin Mừng đã công bố, Qui điển các sách thánh dần dần được xác lập và Giáo hội đã xem các phát biểu đa dạng của chúng là đúng và chân chính, theo mức chúng phù hợp với chứng từ của Con Thiên Chúa. Không phải vì Người tự cao coi mình là Lời Thiên Chúa mà một trước tác đặc thù cụ thể đã được duy trì để được đọc trong cộng đồng phụng vụ như là nền tảng của đức tin, nhưng đúng hơn, vì nó "đồng âm” (consonance), có thể nói như thế, với Ngôi Lời, và trình bầy một giải thích đáng lưu ý về chính Ngôi Lời. Chính "sự đồng âm" với Ngôi Lời này, vượt quá sự đa dạng của cách diễn đạt và tính đa nguyên của thần học, mà các trang của tài liệu này đã tìm cách minh họa, bằng cách đưa ra ánh sáng các hình thức "tự chứng" (autotémoignage) khác nhau do các sách khác nhau của Kinh thánh mang lại.

Việc đồng âm này không tự giới hạn ở sự hội tụ tổng quát xung quanh các tín lý căn bản. Nếu chúng ta bám vào nó, chúng ta sẽ không tôn trọng tính đa dạng của các quan điểm, tính bổ sung của những đóng góp của các trước tác khác nhau, lịch sử văn học của những cuốn sách ra đời tiếp theo việc đồng hóa và lên công thức lại các truyền thống xưa. Như lời chứng thực của Chúa Giêsu, nhà trước tác thánh, từ kho báu của mình, rút ra cái mới và cái cũ (xem Mt 13:52). Điều này có nghĩa là các trước tác được Giáo hội công nhận là linh hứng tự nhận nguồn gốc thần thiêng của mình một cách ít nhiều minh nhiên, và cũng cho thấy tính chân chính của các trước tác có trước chúng. Các Tiên tri củng cố bộ Tôra, và các trước tác khôn ngoan nhìn nhận nguồn gốc thần thiêng của Lề Luật Tiên tri. Cùng cách này, chứng từ của Chúa Giêsu thánh hiến trọn truyền thống thành văn của người Do Thái, và các trước tác của Tân Ước tự củng cố lẫn nhau, bằng cách giả định một cách triệt để và ăn khớp với mọi truyền thống của “Sách Thánh” xưa.

Tính đa nguyên của các phương thức chứng thực

Khái niệm trên tạo nên một trong những kết quả chính của việc phân tích các sách của Cựu Ước và Tân Ước được thực hiện trong Tài liệu này. Ngoài việc đồng qui mà nó vừa trở thành vấn đề, tính đa nguyên (la pluralité) trong các kinh nghiệm tôn giáo và phương thức phát biểu nhằm truyền tải chúng là một điều hiển nhiên. Ở đây, không thể nói lại một cách chi tiết và thấu đáo cách các tác giả Kinh Thánh khác nhau chứng thực nguồn gốc thần thiêng phát sinh ra các trước tác của họ. Chỉ cần trích dẫn các phương thức khác nhau, với những điểm nhấn khác nhau, tìm thấy trong các sách khác nhau của Kinh Thánh.

Mô hình chính của việc tự chứng thực là mô thức được tìm thấy trong các câu truyện nói về ơn gọi làm tiên tri, và trong các công thức khác nhau nhấn mạnh đến các trang của các trước tác tiên tri. Thực tại linh hứng được chính thức giải thích ở đó, được phát biểu như ý thức thâm hậu của một số người tuyên bố mình có khả năng hiểu lời lẽ của Thiên Chúa và có nhiệm vụ truyền tải chúng một cách trung thành. Mô hình này, do sức mạnh gợi ý của nó, được các tác giả thánh khác của truyền thống lập pháp (để mô tả Môsê), khôn ngoan (đại diện là Salômôn) hoặc khải huyền (đại diện là Đanien), để xây dựng một loại tính độc dạng (uniformité) toàn diện, một loại con dấu bảo đảm, xác nhận với độc giả phẩm chất của một trước tác mà người ta đã truy nguyên từ một nguồn thần thiêng duy nhất.

143. Nói một cách khá chung chung hơn, Kinh Thánh cũng nhấn mạnh tới sự tham gia của các cộng tác viên của người được linh hứng, vốn được ân ban kỹ năng văn chương và độ tin cậy cao, các cộng tác viên không những chỉ giúp đỡ các tác giả chính mà còn thu thập tài liệu văn chương mới, thích ứng các tiền lệ với các yêu cầu mới của người đọc. Họ thực hiện, từ thế hệ này qua thế hệ khác, một công việc soạn tác đầy ấn tượng, có tầm quan trọng quyết định đối với phẩm chất của bản văn Kinh thánh. Đặc sủng tiên tri chắc chắn hành động trong các nhà soạn tác ẩn danh này, những người gián tiếp chứng thực rằng họ ý thức được việc truyền tải Lời Chúa, trong chính hành động truyền tải bản văn mà họ ghi dấu bằng sự đóng góp của chính họ.

Những người nghiên cứu Kinh Thánh đã hợp lý đưa ra giả thuyết về sự hiện hữu của các trào lưu, trường phái và các nhóm tôn giáo, cả trong việc bảo tồn, một cách sinh tử, các truyền thống văn chương được coi là thánh thiêng, những truyền thống sau đó đã được kết hợp trong khuôn khổ chung của Sách thánh - điều này giúp nhấn mạnh tới tính hữu dụng trong việc làm sáng tỏ lịch sử soạn thảo các bản văn Kinh thánh -, một cách không thể cũng không nên gán một giá trị khác hoặc một thế giá riêng biệt đối với điều vốn “nguyên khởi” so với điều vốn chỉ có bản chất đệ nhị đẳng.

Thật vậy, trong nhiều trường hợp, chúng ta không có được ipsissima verba (chính lời mói) của một nhà tiên tri (được Thiên Chúa linh hứng), mà là qua lời kể lại của các môn đệ vị này. Một cách khá điển hình, đây là trường hợp các sách Tin mừng, mà sự linh hứng không bị ai bàn cãi. Trong loại trước tác này, tác giả (nghĩa là tin mừng gia) tự trình bầy mình như nhân chứng trung thành của Thầy Chí Thánh, và trong một số trường hợp, như môn đệ của các môn đệ đầu tiên (bản thân không được đề cập trong danh sách các tông đồ).
Khởi từ các nhận xét này, và từ những gì Kinh thánh nói về chính nó, ta có thể quả quyết rằng cần phải chấp nhận một định nghĩa rộng hơn và nhiều sắc thái hơn về khái niệm linh hứng. Không theo nghĩa: trong bản văn thánh, có những phần có giá trị kém và vô giá trị, mà đúng hơn, theo nghĩa: đặc sủng linh hứng được phân phối cách khác nhau. Dù sao, điều phù hợp là chúng ta nên ngoan ngoãn lưu ý đến những điều rõ ràng tạo nên chứng từ của Chúa Kitô và thông điệp cứu rỗi hoàn hảo của Người.

Viễn cảnh vừa được xác định không làm giảm việc gắn bó tin vào Lời Thiên Chúa. Trái lại, nó cổ vũ một cái hiểu sâu sắc hơn, vì nó tôn kính sự mặc khải của Thiên Chúa trong lịch sử, và vì nó tôn vinh Chúa Thánh Thần, Đấng vốn nói qua các tiên tri (xem Gcr 7:12; Nkm 9:30) trong suốt nhiều thế kỷ của lịch sử cứu độ. Đàng khác, nó cũng giúp hiểu rõ hơn việc Thần Trí này không bao giờ ngừng hoạt động sau cái chết của các Tông đồ, vì Thần Trí này đã được ban cho Giáo hội theo nghĩa Giáo Hội có thể biện phân và tiếp nhận các linh hứng. Ngày nay, Thần Trí này đang hoạt động trong việc lắng nghe Lời của Thiên Chúa một cách "tôn giáo" (Dei Verbum, 12), vì Kinh thánh - theo cách diễn đạt của Dei Verbum, n. 12 - phải "được đọc và giải thích dưới ánh sáng của cùng một Thần Trí như Thần Trí đã khiến nó được soạn tác". Lời linh hứng sẽ không có ích chi nếu người nhận được nó không sống theo Thần Trí, Đấng đã biết biện phân và nếm được nguồn gốc thần thiêng của trang sách Kinh thánh.

2. Sự thật của Kinh thánh

144. Phát xuát từ Thiên Chúa, Kinh thánh có những phẩm chất thần thiêng. Trong số này, phẩm chất nền tảng, tức làm chứng cho sự thật, được hiểu không phải như một tổng số các thông tin chính xác về các khía cạnh khác nhau của kiến thức con người, mà như một mặc khải về chính Thiên Chúa và về kế hoạch cứu rỗi của Người. Thực thế, Kinh thánh làm người ta biết mầu nhiệm tình yêu của Chúa Cha, được biểu lộ trong Ngôi Lời trở thành thân xác, Đấng, qua Chúa Thánh Thần, dẫn con người đến sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa (xem Dei Verbum, 2).

Theo cách đó, điều xem ra rõ ràng là sự thật của Kinh thánh lấy sự cứu rỗi các tín hữu làm viễn cảnh. Những phản bác - được nêu ra trong quá khứ, và vẫn còn tái diễn ngày nay – đối với các điều không chính xác, các mâu thuẫn về địa dư, lịch sử, khoa học, khá phổ biến trong Kinh Thánh, những phản bác có cao vọng nghi vấn tính đáng tin cậy của bản văn thánh và do đó, nguồn gốc thần thiêng của nó, đã bị Giáo hội bác bỏ với lời quả quyết rằng "các sách Kinh thánh dạy cách vững chắc, trung thành và không sai lầm sự thật mà Thiên Chúa muốn thấy được ghi lại trong các chữ thánh vì sự cứu rỗi của chúng ta" ( Dei Verbum, 11). Chính sự thật này mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho nhân sinh và là sự thật đượcThiên Chúa muốn làm cho mọi người biết đến.

Tài liệu này chia sẻ quan điểm giải thích này. Sự đóng góp của nó, chỉ đổi mới một phần, hệ ở việc, nhờ một diễn trình được vạch ra từ các bản văn được lựa chọn của các sách Kinh thánh và các cách diễn đạt văn học khác nhau, cho thấy sự thật mà Thiên Chúa muốn tiết lộ cho thế giới qua trung gian các tôi tớ của Người, tức các tác giả thánh, đã được trình bày ra sao.

Một sự thật đa dạng

145. Đặc điểm đầu tiên của sự thật Kinh Thánh hệ ở sự kiện nó được phát biểu dưới nhiều hình thức và phương thức khác nhau (xem Dt 1: 1). Sau khi được truyền tải bởi nhiều người, vào những thời điểm khác nhau, từ trong nội tại, nó mang theo một khía cạnh đa dạng, cả trong các khẳng định về tín lý và luân lý, lẫn trong các phát biểu văn chương. Do đó, các tác giả của bản văn thánh trình bày, trong thời kỳ lịch sử của họ và phù hợp với ơn phúc của Thiên Chúa, những gì họ đã được trao cho để hiểu và truyền tải. Những gì được Chúa nói trong một đoạn đặc thù thì sau đó đã được nối kết với các mặc khải gần đây hơn của Thiên Chúa. Ngoài ra, sự thật Kinh Thánh mặc lấy rất nhiều thể văn đa dạng. Do sự kiện này, nó không chỉ bao gồm các mệnh đề quan trọng theo quan điểm tín điều, mà nó còn bao gồm cả sự thật đặc điểm hóa một câu truyện, một quy định lập pháp, một lời nói, sự thật của một lời cầu nguyện hoặc sự thật của một bài thơ tình, chẳng hạn như Diễm Ca, sự thật của các trang phê phán trong sách Gióp và Giảng Viên, sự thật của các sách khải huyền. Hơn nữa, ở bên trong cùng các thể văn này, người ta có thể thấy sự đa dạng về quan điểm, xem như là quy luật chứ không phải chỉ là sự lặp lại đơn giản các biểu thức đồng quy.

Sự đa dạng về hình thức biểu lộ chân lý này không chỉ liên quan đến nền văn chương của Cựu Ước, mà nó còn áp dụng cho sự mặc khải được chứng thực bởi Tân Ước, nơi chúng ta tìm thấy những câu truyện và diễn ngôn, không phải chồng lên nhau, và là nơi chúng ta nhận thấy các dị biệt đáng kể trong việc trình bày thông điệp. Thực thế, có bốn Tin Mừng và Giáo hội đã bác bỏ như không thích đáng bất cứ nỗ lực nào nhằm làm chúng phù hợp với nhau (concordist): thí dụ, những gì được viết "theo Luca", đã được tôn trọng và tiếp nhận, ngay cả khi nó không có sự tương ứng chính xác nào với những gì Tin mừng Máccô hoặc Tin mừng Gioan viết. Hơn nữa, trong khi trong Tin mừng, sứ điệp chủ yếu dựa trên cuộc đời của Chúa Giêsu và các lời nói của Người, thì đối với Thánh Phaolô, sự thật của Chúa Kitô bắt nguồn gần như duy nhất trong sự chết và sự phục sinh của Người. Hoặc, sự khác nhau trong cách diễn đạt giữa thư gửi cho người Rôma và thư của Thánh Giacôbê dường như là một mô hình về tính đa nguyên qua đó Kinh thánh làm chứng cho sự thật duy nhất về Thiên Chúa.

Tính đa âm trong các tiếng nói thánh này được cung cấp cho Giáo hội làm mô hình, để ngày nay, Giáo hội có thể chứng minh cùng một khả năng liên hợp tính thống nhất của sứ điệp cần truyền đến con người và sự tôn trọng cần thiết đối với tính đa nguyên của các kinh nghiệm cá thể, các nền văn hóa và ơn phúc dư ban của Thiên Chúa.

Sự thật được phát biểu dưới hình thức lịch sử

146. Đặc điểm quan trọng thứ hai của sự thật Kinh Thánh hệ ở sự kiện nó được phát biểu dưới hình thức lịch sử. Một số sách của Kinh thánh mang dấu chỉ thời kỳ chúng được viết ra; trong các trường hợp khác, các khoa giải thích có thể đặt chúng một cách có cơ sở vào các thời điểm chính xác trong lịch sử. Thời kỳ được bao trùm bởi văn chương Kinh Thánh hết sức mênh mông, vì nó vượt quá một thiên niên kỷ. Di sản các quan niệm được truyền tải bởi một thời kỳ đặc thù, các ý kiến phát xuất từ kinh nghiệm hoặc các mối quan tâm đặc trưng của một thời kỳ nhất định trong cuộc sống của dân Chúa nhất thiết được phát biểu trong đó. Công việc do các nhà biên tập thực hiện, tìm cách mang đến một sự gắn bó tín lý và thực hành cho bản văn thánh, đã không làm mất các dấu vết của lịch sử, từ đó có các do dự và bất toàn của nó, bất kể trong lĩnh vực thần học hay trong lãh vực nhân học. Do dó, nhiệm vụ của người giải thích hệ ở việc tránh lối đọc Kinh thánh một cách cực đoan (fondamentaliste), và phải định vị các khẳng định khác nhau của bản văn thánh trong bối cảnh lịch sử của chúng, theo các thể văn đang được sử dụng thời đó. Thật vậy, chính nhờ tiếp đón hình thức mặc khải thần thiêng có tính lịch sử này mà chúng ta được dẫn tới mầu nhiệm Chúa Kitô, một biểu hiện đầy đủ và dứt khoát của sự thật Thiên Chúa trong lịch sử con người.

Sự thật qui điển

147. Mặt khác, việc giải thích Kinh Thánh theo quan điểm Công Giáo, dẫn đến việc chấp nhận chân lý Thiên Chúa trong bối cảnh Mặc Khải, với tính toàn diện của nó, được chứng thực như qui điển Kinh thánh. Điều này có nghĩa là chân lý mặc khải không thể bị giới hạn vào một phần của gia tài thánh (bằng cách bác bỏ, thí dụ, Cựu Ước để nhấn mạnh Tân Ước), cũng không bị giới hạn vào một cái nhân đồng nhất, mà loại bỏ phần còn lại hoặc tương đối hóa nó, coi như không đáng kể. Không những, tất cả những gì được linh hứng đều cần thiết đối với sự mặc khải trọn vẹn của Thiên Chúa, mà tất cả các phần đều được đọc trong tương quan với các phần khác, theo một nguyên tắc hòa hợp, một hòa hợp không nên bị nhầm lẫn với sự độc dạng, mà đúng hơn là sự hội tụ tốt đẹp của những gì đa dạng.

Tuy nhiên, theo quan điểm Kitô giáo, điều xem ra rõ ràng là sự thật của bản văn Kinh thánh trùng hợp với chứng từ về Chúa Giêsu, "Đấng trung gian và là sự viên mãn của mọi Mặc Khải" (Dei Verbum, 2), Đấng vốn tự định nghĩa là "đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14:6). Đặc tính trung tâm và chủ yếu này của mầu nhiệm Chúa Kitô không mâu thuẫn với sự kiện này: các truyền thống xưa cũng nói về Người và sự cứu rỗi dứt khoát được thực hiện trong cái chết và sự phục sinh của Người, như chính Người đã khẳng định (x. Ga 5:39). Trong mầu nhiệm vô cùng của Người, Chúa Kitô là trung tâm chiếu sáng trọn bộ Kinh thánh.

Truyền thống văn chương của các tôn giáo khác

148. Trong một tổng quan ngắn gọn, chúng ta sẽ gợi lên và tìm cách hiểu, trong đoạn này, mối tương quan giữa Kinh thánh và các truyền thống văn chương của các tôn giáo khác. Vấn đề này có tính thời sự cấp bách đối với cuộc đối thoại liên tôn. Giải đáp nó không hề dễ dàng, vì nó phải kết hợp nguyên tắc không thể miễn chước là "tính duy nhất và tính phổ quát cứu độ của Chúa Giêsu Kitô và của Giáo hội" (như đã nêu trong tiêu đề của Tuyên ngôn "Dominus Iesus" của Thánh bộ Giáo lý Đức tin), và mặt khác, việc đánh giá đúng đắn đối với kho tàng tinh thần của các tôn giáo khác. Tài liệu này không nêu chi tiết các yếu tố mà, khởi từ chính Kinh thánh, có thể được trao cho nghiên cứu thần học và mục vụ của Giáo hội. Ở đây, chỉ cần gợi lại hình ảnh Balaam (xem Ds 22-24), để chứng tỏ rằng lời tiên tri (được linh hứng) không phải là đặc ân độc quyền của dân Chúa, và để nhớ lại rằng Thánh Phaolô, trong diễn từ của ngài ở đồi Areopagus, đã dựa vào trực giác của các nhà thơ và triết gia Hy Lạp ra sao (xem Cv 17:28). Mặt khác, đa số chấp nhận rằng văn chương Cựu Ước chủ yếu phụ thuộc phần lớn vào những gì đã được viết ở Lưỡng Hà và Ai Cập, giống như các sách Tân Ước phần lớn cũng rút tỉa từ di sản văn hóa của thế giới Hy Lạp. Các semina Verbi (hạt giống Lời Chúa) được lan truyền khắp thế giới và không thể bị giới hạn trong bản văn duy nhất của Kinh thánh. Giáo hội đã định nghĩa điều Giáo Hội coi là được linh hứng, nhưng chưa bao giờ nói tiêu cực về phần còn lại của nền văn hóa. Tuy nhiên, chính Lời của Thiên Chúa được ghi lại trong Kinh thánh qui điển, và đặc biệt trong phần làm chứng trực tiếp cho Ngôi Lời nhập thể, tạo nên nguyên tắc biện phân sự thật của mọi cách phát biểu tôn giáo khác, dù ở trong Giáo Hội, hay trong các truyền thống tôn giáo khác nhau của các dân tộc khác nhau trên trái đất.

Từ nhận xét cuối cùng trên, ta thấy Giáo hội phải tự đặt mình bên trong một vòng giải thích. Từ việc lắng nghe lời Kinh thánh, Giáo hội rút ra các nguyên tắc cho đức tin của mình và, khi được đức tin này soi sáng, Giáo Hội hiện có và mãi có khả năng giải thích chính xác những gì mình đọc như là sách thánh của mình, và đồng thời biện phân được giá trị của tất cả những lời chứng thực khác vốn đòi được lắng nghe. Chính Chúa Thánh Thần, với đặc điểm là nguyên lý của sự thật, đã khởi động diễn trình đức tin, và đưa nó đến chỗ nên trọn của nó, bằng cách cởi mở hoàn toàn đối với sự biểu lộ của Thiên Chúa trong lịch sử.

3. Việc giải thích các trang khó hiểu của Kinh thánh

149. Đó là lý do tại sao Giáo hội, thân thể sống động của các độc giả tín hữu, người giải thích bản văn linh hứng được ủy quyền, có sứ mệnh làm trung gian tiếp nhận và công bố sự thật của Sách Thánh ở từng thời đại của lịch sử, và cả ngày nay nữa. Vì Giáo hội đã nhận được Chúa Thánh Thần, nên Giáo Hội thực sự là " cột trụ và điểm tựa của chân lý" (1 Tim 3:15), bao lâu Giáo Hội trung thành truyền tải cho thế giới Lời đã tạo nên mình. Nhiệm vụ của Giáo Hội hệ ở việc loan báo Lời này một cách chắc chắn (parresia), Lời vốn tuyên bố Chúa Giêsu Kitô là Cứu Chúa duy nhất và dứt khoát. Nhưng, trong vai trò quan trọng của mình, Giáo hội cũng phải giúp các tín hữu và những người đang tìm kiếm sự thật giải thích các bản văn Kinh thánh một cách chính xác, nhờ một phương pháp thích nghi và một tư thế giải thích thích đáng. Về vấn đề này, Tài liệu Giải Thích Kinh Thánh Trong Giáo Hội năm 1993 của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh tỏ ra đặc biệt hữu ích.

Lâu nay, các dè dặt liên quan tới truyền thống Kinh Thánh đã xuất hiện, vì một số trang và một số trào lưu văn chương của nó xem ra không thể chấp nhận được đối với tâm trí đương thời, do sự kiện các quan niệm về công lý dường như lỗi thời, các phong tục và thực tiễn pháp lý gây tranh cãi, và thậm chí đáng trách, cuối cùng do sự kiện có những câu chuyện dường như không có nền tảng lịch sử. Thành thử bản văn thánh phần nào mất uy tín, người ta phần nào không tin tưởng tính hữu ích mục vụ của nó, đến độ trực tiếp nghi vấn tính linh hứng của một số phần trong Kinh Thánh, và do đó tư thế sự thật của chúng. Trong trường hợp này, điều không đủ là quả quyết một cách chung chung rằng trong Cựu Ước có "sự không hoàn hảo và lỗi thời" (Dei Verbum, 15), hoặc nhắc nhở rằng các tác giả Tân Ước, cả họ nữa, cũng chịu ảnh hưởng của thời đại họ. Nếu việc nhấn mạnh tới khái niệm nhập thể là điều chính đáng và áp dụng nó một cách loại suy vào việc đặt bút viết ra mặc khải, thì điều thích hợp không kém là chứng tỏ rằng, ở giữa sự yếu đuối như thế của con người, vinh quang của Lời thần thiêng vẫn đã tỏa sáng. Cũng sẽ không đủ, khi vì một ưu tư mục vụ khôn ngoan, ta loại bỏ các đoạn văn có vấn đề ra khỏi việc đọc công khai trong các cộng đoàn phụng vụ. Người biết tính toàn vẹn của bản văn có thể cảm thấy một cách chính đáng đó là một việc làm nghèo nàn di sản thánh thiêng và có thể trách cứ các mục tử vì đã che giấu bất chính các khía cạnh khó hiểu của Kinh thánh.
Giáo hội không được miễn trừ nhiệm vụ khiêm nhường và kiên nhẫn phải giải thích một cách tôn kính toàn bộ truyền thống văn chương đã được định nghĩa như được linh hứng, và do đó tạo thành một biểu thức của sự thật Thiên Chúa. Để giải thích, trước hết cần có các nguyên tắc rõ ràng, giúp ta hiểu rằng ý nghĩa của những gì đã được truyền tải không y hệt như "chữ viết" của bản văn. Mặt khác, cần phải tiến hành một cách chính xác, và lần lượt đề cập tới các khó khăn cần phải làm sáng tỏ, cũng như phải nhắc nhở bổn phận của mọi tín hữu sở đắc Lời Chúa, theo ơn hiểu biết mà Chúa Thánh Thần vốn phân phát cho mỗi thời kỳ của lịch sử.

Đó là lý do tại sao Tài liệu này của Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh đã chọn những vấn đề chính đặt ra cho người đọc, và đã gợi ý những đường hướng giúp giải đáp chúng, trong khuôn khổ đức tin của chúng ta. Sự ngắn gọn của những gì đã được trình bày có thể không phải lúc nào cũng có vẻ thỏa đáng, nhưng các nguyên tắc diễn giải được trình bầy ở đây xem ra hữu ích, cả các giải thích được cung cấp để trả lời các câu hỏi chuyên biệt cũng thế. Thay vì là một cuộc khảo sát dứt khoát và thấu đáo các đoạn khó hiểu của bản văn thánh, Tài liệu này trình bầy một diễn trình giải thích nhằm kích thích một suy tư sau này, trong cuộc đối thoại với các nhà giải thích bản văn thánh khác. Trong nỗ lực tìm kiếm chung này, con đường dẫn đến sự thật sẽ tự cho thấy nó khiêm nhường và khiêm tốn, nhưng đồng thời soi sáng, bao lâu nó còn là dấu ấn của việc lắng nghe cùng một Chúa Thánh Thần.

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2019

“KHỞI ĐẦU” VÀ “KẾT THÚC MỞ” TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ

“KHỞI ĐẦU” VÀ “KẾT THÚC MỞ” TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ
Nội dung

1. Nghĩa của từ “Khởi đầu” (arkhê)
2. “Kết thúc mở” mời gọi “khởi đầu mới”
3. Hai cách “đọc lại” bản văn
4. Ba cấp độ khởi đầu trong Tin Mừng Mác-cô

 

Có thể nói, Tin Mừng Mác-cô bao gồm nhiều sự khởi đầu và không có kết thúc. Nói cách khác, kết thúc của Tin Mừng Mác-cô là kết thúc mở vì là kết thúc bỏ lửng, kết thúc chưa xong, nghĩa là kết thúc bằng cách mời gọi độc giả thực hiện một khởi đầu mới. Bài viết này sẽ bàn về ý nghĩa của từ “khởi đầu” (arkhê) và ba cấp độ “khởi đầu” trong Tin Mừng Mác-cô.

1. Nghĩa của từ “Khởi đầu” (arkhê)

Câu đầu tiên của Tin Mừng Mác-cô viết: “Khởi đầu (arkhê) tin mừng của Đức Giê-su Ki-tô [Con Thiên Chúa]...” (Mc 1,1). Danh từ Hy Lạp “arkhê” (khởi đầu) có hai nghĩa: (1) “Khởi đầu”  một sự việc trong thời gian. (2) “Khởi đầu” tuyệt đối, đặt nền tảng cho một điều gì đó.

Chẳng hạn, câu đầu tiên trong lời tựa Tin Mừng Gio-an viết: “Lời có lúc khởi đầu (en arkhê)” (Ga 1,1). Từ “arkhê” (khởi đầu) ở đây có nghĩa thứ hai: Khởi đầu tuyệt đối. Thực vậy, Ga 1,1 nói tới khởi đầu mọi sự, gợi lại khởi đầu của sách Sáng Thế: “Lúc khởi đầu (en arkhê), Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1).

Ở Mc 1,1, danh từ “arkhê” (khởi đầu) có nghĩa: “khởi đầu sách Tin Mừng Mác-cô” (nghĩa thứ nhất). Tuy nhiên, trong viễn cảnh đọc lại Tin Mừng (relecture), “arkhê” (khởi đầu) trong Mác-cô cũng được hiểu theo nghĩa thứ hai. Đối với độc giả, “khởi đầu tin mừng” (Mc 1,1) nối kết với phần “kết thúc mở” của Tin Mừng (Mc 16,7-8), làm cho biến cố Đức Giê-su (sứ vụ công khai và biến cố Thương Khó - Phục Sinh) trở thành “khởi đầu nền tảng”, “khởi đầu tuyệt đối” của tin mừng mà các môn đệ rao giảng. Nói cách khác, biến cố Đức Giê-su là “khởi đầu” (arkhê) của Ki-tô giáo.

2. “Kết thúc mở” mời gọi “khởi đầu mới”

Những câu cuối cùng của Tin Mừng Mác-cô (Mc 16,5-8) có thể được gọi là “kết thúc mở”, bởi vì thông điệp người thanh niên trao cho các phụ nữ ở Mc 16,6-7 chưa được thực hiện. Vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, một số phụ nữ ra mộ Đức Giê-su lúc mặt trời mọc và thấy tảng đá trước mộ đã được lăn ra (Mc 16,2-4). Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên đang ngồi bên phải, mặc áo chùng trắng, và các bà hoảng sợ (Mc 16,5). Người thanh niên nói với các bà: “6 Đừng hoảng sợ. Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét đã bị đóng đinh, Người đã được trỗi dậy, Người không ở đây nữa. Hãy xem chỗ người ta đã đặt Người. 7 Các bà hãy đi nói với các môn đệ của Người và với Phê-rô rằng: ‘Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.’”

Tin Mừng Mác-cô kết thúc ở 16,8 một cách lạ lùng như sau: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, các bà run lẩy bẩy và hết hồn hết vía. Họ chẳng nói gì với ai, vì họ sợ hãi” (16,8). Đoạn văn Mc 16,9-20 thuộc Quy Điển, nhưng được thêm vào sau, vì Mc 16,9-20 không có trong nhiều thủ bản Hy Lạp. Nhiều Giáo phụ không biết đến Mc 16,9-20. Có lẽ không phải Mác-cô soạn thảo 16,9-20, nhưng một người khác viết ra để bổ sung cho phần kết lạ lùng ở Mc 16,8.

Kết thúc này làm độc giả ngạc nhiên vì câu chuyện chưa thực sự kết thúc, thông điệp chưa được thực hiện. Kiểu kết thúc câu chuyện dở dang này, có ý nghĩa quan trọng: Kết thúc Tin Mừng Mác-cô trở thành lời mời gọi độc giả tiếp nối và thực hiện việc loan báo tin vui Phục Sinh, loan báo Tin Mừng. Nói cách khác, kết thúc Tin Mừng Mác-cô mở ra một khởi đầu mới, khởi đầu hành trình rao giảng Tin Mừng, nhờ quá trình đọc lại (relecture) liên lỷ sách Tin Mừng.

3. Hai cách “đọc lại” bản văn

Có hai cách đọc lại một sự kiện: (1) Lặp lại theo vòng tròn khép kín như kiểu sản xuất dây chuyền. (2) Lặp lại theo vòng tròn xoắn ốc, có tiến triển theo thời gian.


 
Khởi đầu Tin Mừng Mác-cô (Mc 1,1) kèm theo trích dẫn được cho là của I-sai-a ở Mc 1,2b-3, cho thấy cách đọc Kinh Thánh theo vòng xoắn ốc. Đây là cách “đọc lại” (relecture) bản văn theo chiều sâu. Mỗi lần “đọc lại” ý nghĩa được đào sâu thêm nhờ thích nghi và áp dụng bản văn vào hoàn cảnh cụ thể. Lời trích trong Tin Mừng Mác-cô (Mc 1,2b-3) là cách thức tác giả đọc lại các sách Xuất Hành (Xh 23,20), sách Ma-la-khi (Ml 3,1) và sách I-sai-a (Is 40,3) để áp dụng vào nhân vật Gio-an Tẩy Giả. Ông là người rao giảng và giới thiệu Đức Giê-su (Mc 1,7-8).

4. Ba cấp độ khởi đầu trong Tin Mừng Mác-cô

Sơ đồ đọc lại bản văn theo vòng xoắn ốc trên đây cho thấy nội dung sách Tin Mừng Mác-cô trình bày ba cấp độ khởi đầu:

1) Ở Mc 1,1 là “khởi đầu” tin mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa. Đức Giê-su bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Mc 1,14).

2) Mc 16,8 cho thấy sách Tin Mừng kết thúc bỏ ngỏ. “Kết thúc mở” này mời gọi độc giả tiếp nối các phụ nữ ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Nói cách khác, Tin Mừng Mác-cô mời gọi độc giả “khởi đầu” sứ vụ loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh cụ thể.

3) Đặc biệt lời giáo huấn của Đức Giê-su ở Mc 13,10: “Tin Mừng phải được rao giảng trước tiên cho mọi dân tộc” cho thấy “tin mừng của Đức Giê-su” (Mc 1,1) là một thông điệp không ngừng được “khởi đầu”, nhờ lời rao giảng của các môn đệ qua mọi thời đại.

Tóm lại, độc giả mọi nơi mọi thời được người thuật chuyện mời gọi đọc Tin Mừng theo vòng xoắn ốc, càng đọc càng hiểu sâu hơn nội dung nhờ tích luỹ điều đã khám phá trong lần đọc trước. Với kinh nghiệm và hoàn cảnh sống hiện tại, độc giả được mời gọi không ngừng “khởi đầu” việc “đọc lại” sách Tin Mừng, và từ đó, không ngừng “khởi đầu” việc loan báo tin mừng cho mọi người./.



                                                                                        Giuse Lê Minh Thông, O.P.

                                                               Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com

 

Thư của chánh án Toà Ân giải Tối cao nhân tháng cầu nguyện cho các linh hồn

Thư của chánh án Toà Ân giải Tối cao nhân tháng cầu nguyện cho các linh hồn
Nhân lễ trọng kính các thánh và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời trong tháng 11, Đức Hồng Y Mauro Piacenza, chánh án Toà Ân giải Tối cao gởi một lá thư đến cộng đoàn Dân Chúa.
 
Lá thư mở đầu với câu hỏi: Khi chúng ta nghe từ “Giáo hội”, hoặc khi chúng ta tuyên xưng đức tin mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta thực sự nghĩ gì? Giáo hội là gì, hay đúng hơn, là ai?
Thánh Augustino dẫn chúng ta đến câu trả lời cho câu hỏi đơn giản nhưng nền tảng này. Đó là Giáo hội không chỉ là tổ chức của con người nhưng có đặc tính vừa thần linh vừa con người. Do đó, chúng ta liên lỉ hướng về thiên đàng, trong tương quan với Ba Ngôi và liên hệ với tất cả anh chị em đã được cứu, họ đã rời khỏi thế giới này.
Trong những ngày thánh này, cả trong suy tư cá nhân khi nhớ đến anh chị đã qua đời, lẫn trong cầu nguyện và chiêm niệm, chúng ta được mời gọi kín múc từ kho tàng vô tận của sự Hiệp thông những Ơn xá đặc biệt.
Qua việc tham dự Thánh Lễ, cầu nguyện cá nhân, đền tội và bố thí, các việc diễn tả lòng thương xót, tín hữu kết hợp với công trình cứu độ của Chúa Kitô.
Trong chiều kích cánh chung, chúng ta hướng đến những người đã qua đời và cầu nguyện cho họ ngang qua việc làm mới lại đời sống đức tin của chúng ta nơi bí tích Hoà giải và Thánh Thể, và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

Vì vậy, chúng ta cùng chạy đến với bí tích Hoà giải trong những ngày thánh này và cùng đón nhận ơn toàn xá cho những anh chị em của chúng ta đã qua đời. Như thế, tương quan của chúng ta với họ tiếp tục được củng cố trong tình yêu.
Nơi toà giải tội của những ngày thánh này, chúng ta được an ủi, khích lệ và lau khô nước mắt, đây cũng là cơ hội để chúng ta chạm đến đời sống vĩnh cửu, để giúp chúng ta can đảm tha thứ và dịu dàng trong các việc của lòng thương xót, và để chúng ta hiểu hơn ý nghĩa cuộc hành hương hằng ngày của đời sống dương thế. (CSR_6380_2019)
Văn Yên, SJNguồn: Vatican News

Nhìn lại Hội thảo Văn Hóa Bốn trăm năm hình thành và phát triển Chữ Quốc Ngữ trong lịch sử loan báo Tin Mừng tại Việt Nam

Nhìn lại Hội thảo Văn HóaBốn trăm năm hình thành và phát triển Chữ Quốc Ngữ trong lịch sử loan báo Tin Mừng tại Việt Nam
Bốn bài thuyết trình đều gợi nhớ câu chuyện cố tích Việt Nam. Một gia đình nghèo, ông bà để lại gia sản cho con cháu vỏn vẹn cây khế ngọt. Cây khế thường thôi, chẳng sinh lợi, chẳng đẻ ra tiền của nên có vẻ con cháu hờ hững, chỉ chăm bón cho cây khế như một kỷ vật để nhớ ông bà! Nhưng lạ đời nhà chỉ có cây khế mà đủ loài chim chóc bốn phương bay đi bay về, rủ nhau tụ hội, líu lo thưởng thức những trái khế làm các con cháu trong nhà sốt cả ruột, rủ nhau xua đuổi cho đám chim bay đi. Bị xua đi, bầy chim ríu rít đáp lại, “Ăn một trái trả ngàn vàng, may túi ba gang đem đi mà đựng”. Thì ra cây khế là cây vàng, cây ngọc, cây sung túc ông bà để lại cho con cháu.
Có phải cũng như cây khế, chữ Quốc Ngữ là gia sản tổ tiên để lại chỉ là gia sản văn hóa không giữ làm kinh doanh, làm giàu nhưng Chữ Quốc Ngữ làm chúng ta nở mày, nở mặt với thế giới. Việt Nam chưa giàu, Việt Nam chưa bằng ai nhưng Việt Nam có chữ Việt, Việt Nam có nền văn hóa Việt lâu dài, sáng tỏ. Cuộc hội thảo Bốn Trăm Năm Hình Thành Và Phát Triển Chữ Quốc Ngữ đã để lại đôi cảm nhận khó quên.

Cảm nhận về thuyết trình viên
Các thuyết trình viên không phải ai xa lạ, đều là người Việt nói tiếng Việt, nói về chữ Việt, nên ai đó có thể ái ngại, biết đâu “mẹ hát con khen hay” bỏ ngoặc kép, thêm phẩy khen chữ Việt, khen người Việt và dễ hờ hững với các thừa sai nước ngoài đã cùng với người dân bản địa nỗ lực hình thành chữ Quốc Ngữ. Ts Kiều Ly là một trong bốn thuyết trình viên là người Việt không Công giáo đã khẳng định trong một bài phỏng vấn của báo chí, Ts. chủ trương khách quan, không quá đề cao dân tộc, cũng không quá khích bài ngoại khi tìm hiểu cuộc hình thành chữ Quốc Ngữ.
Tất cả các thuyết trình viên được mời đều thuộc giới chuyên môn cao về sử học, ngôn ngữ học, văn hóa, truyền giáo học và cả bốn vị đều đầy kinh nghiệm trong nghiên cứu, và giảng dạy. Chỉ nhận lời thuyết trình với thời gian giới hạn nhưng mỗi thuyết trình viên đến với hội thảo đều nóng bỏng tâm huyết.
Từng vị đã cất công tìm bới cả rừng tài liệu, nghiên cứu sách vở và kêu gọi các đồng nghiệp cộng tác để viết và đã dốc cạn tâm trí công sức cho bài viết. Cách nào đó, các thuyết trình viên đã làm con tằm nhả tơ, những sợi tơ mong manh nhưng đã dệt nên nhiều góc cạnh của một tấm thảm lịch sử về Chữ Quốc Ngữ và quý báu hơn các thuyết trình viên đã làm lời mời gọi thế hệ hậu duệ tiếp tục phát triển và làm sáng tỏ nền văn hóa, văn chương Việt.
Về hội thảo viên
Chủ đề: “Bốn Trăm Năm Hình Thành và Phát Triển Chữ Quốc Ngữ” như chẳng thiết thân, không cụ thể và cũng khó hấp dẫn với những ai lạnh nhạt với văn hóa. Chính ban tổ chức cũng băn khoăn mãi không biết gửi thiệp mời ai, đừng ai, mà ai ngờ các hội thảo viên lại rất thiết tha. Con số 320 hội thảo viên có mặt là bằng chứng. Nhiều hội thảo viên còn phải vất vả mới theo kịp các thuyết trình viên khi trình bày các góc cạnh kỹ thuật của chữ Quốc Ngữ. Thực sự dù còn mải chèo chống với các vấn đề khó nuốt, các đề tài khô khan, mọi người vẫn nhiệt tình theo dõi từng vấn đề, lắng nghe từng thuyết trình viên. Rõ ràng không phải chỉ tò mò theo dõi chuyện mới, chuyện cũ mà mỗi người còn để lộ tâm tư buồn vui giống tâm tư những người con, người cháu có dịp về thăm quê cha đất tổ, ai cũng thích thú nghe kể về sản nghiệp tổ tiên. Sản nghiệp tổ tiên không chỉ là mảnh vườn tược, ruộng đất, nhưng còn là vùng trời, bờ cõi: Thanh Chiêm, Nước Mặn, đất Đàng Trong, đất Đàng Ngoài, Phú Xuân, Thăng Long nhưng Chữ Quốc Ngữ  còn là di sản văn hóa quý giá. Đó là Chữ Quốc Ngữ dành cho người Việt nhưng do sáng kiến của các thừa sai nước ngoài cộng tác với người dân bản địa. Các hội thảo viên đã chăm chú lắng nghe, đâu như nghe để “để nhớ, để thương” để biết ơn công ơn các tiền nhân.
Trong hội thảo nhiều chuyên viên ngành ngôn ngữ, nhiều nhà văn hóa, ngữ học, sử học là tín hữu đạo Chúa và có cả các thân hữu lương dân góp mặt trong hội thảo. Các vị có thể đã sẵn một công trình nghiên cứu đồ sộ, với các luận chứng, quan điểm riêng nhưng qua cuộc hội thảo này, mong quý vị tìm được vài ba mảnh ghép nào đó cho bức tranh toàn cảnh lịch sử vẫn còn nhiều mảng trống hoặc có dịp thu thập thêm luận chứng mới cho một quan điểm, một lập luận. Hay là giản dị, các vị có mặt chỉ để gặp gỡ, lắng nghe những người quen, người thân nói về tổ tiên mình. Dù với bất cứ lý do gì, cuộc góp mặt lắng nghe và chia sẻ của quý vị hôm nay đã thành lời khích lệ các con cháu ghi ơn các tổ tiên và tựa trên ngôn ngữ thống nhất này làm điểm mạnh cho cuộc phát triển văn hóa trên quê hương đất Việt.
Nhìn từ một góc độ nào, chính quý vị, từ nhiều lãnh vực chuyên môn đã và đang tiếp tục điểm tô, làm đẹp cho “nàng Việt Ngữ” khoe hương khoe sắc trong vườn hoa ngôn ngữ thế giới.
Về nội dung hội thảo
Lm Gs Ts Quốc Anh muốn chứng minh Kitô giáo đã được đón nhận vào vùng Á Đông, mảnh đất đã thấm nhuần từ lâu nền triết học và tôn giáo của tam giáo (Nho, Phật và Đạo giáo). Chính nền triết học và thần Kitô giáo đã giúp các giáo hữu Việt Nam ý thức họ thuộc về một tôn giáo phổ quát toàn cầu để giữ vững lòng tin qua nhiều cuộc bắt đạo thế kỷ 18 & 19. Những sách giáo lý thuở ban đầu đã định hình căn tính giáo hữu Việt Nam. Giúp họ ý thức, họ thuộc về một tôn giáo phổ quát, toàn cầu và giữ vững niềm tin qua nhiều cuộc bắt đạo.
Ngoài việc sử dụng khoa triết và thần học tự nhiên để lập luận cho việc thờ phượng một Thiên Chúa đích thực và đối thoại với các truyền thống ngoại giáo, cha Alexandre de Rhodes giới thiệu những hiểu biết cơ bản về giáo lý Công giáo. Chẳng hạn với Phép Giảng Tám Ngày, cha dựa trên quan hệ quân-sư-phụ, thuyết Tam Phụ để trình bày, mỗi người phải có bổn phận trung hiếu với ba người cha của mình, theo thứ tự ưu tiên là Thiên Chúa, đến quốc vương, rồi mới đến cha mẹ. Là Đấng Tạo Hóa của trời đất muôn loài, Thiên Chúa giống như Cha chung của toàn thể nhân loại. Ngài là vị Thượng Phụ tối cao vượt xa vai trò của vị Trung Phụ, vua chúa cai trị một nước và vị Hạ Phụ là cha mẹ trong gia đình.
Theo cha Quốc Anh, bên cạnh thừa sai Alexandre de Rhodes còn có những khuôn mặt triết học, thần học lớn như Lm Girolamo Majorica, vị linh mục đã để lại nhiều công trình giáo lý do cha in ấn, phiên dịch hay soạn thảo như cuốn Thiên Chủ Thực Nghĩa (nguyên bản của Lm Matteo Ricci), cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông (viết theo Brevio doctrina Christiana của Roberto Bellarmino), Các Thánh Truyện gồm 12 tập và còn rất nhiều những tài liệu hộ giáo khác của Lm Francesco Buzomi đã được cha Majorica ấn loát.
Tiếp đó, 150 năm sau sách giáo lý của Majorica, cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ của giám mục thừa sai Pierre Pigneaux de Behaine, MEP đã ra đời, đánh dấu giai đoạn phát triển cận đại của chữ Quốc Ngữ.
Sau thời kỳ gian nan, được các thừa sai dòng Tên khai sáng, chữ Quốc Ngữ  đã chuyển mình phát triển và lan rộng dần trên đất Việt, Ts Kiều Ly dẫn hội thảo viên vào giai đoạn chữ Quốc Ngữ nở hoa. Đáng chú ý là Ts Kiều Ly đã giới thiệu một từ ngữ mới “Ngôn ngữ Thừa Sai” trong bài Nhà Biên Soạn Thực Sự Sự Của Manuductio. Ts Kiều Ly đã có công: sử dụng từ chìa khóa này làm lời khẳng định chữ Quốc Ngữ luôn nhắm tới mục đích truyền giáo, không là phương tiện giao thương hay lợi thế chính trị. Nói khác, Việt Ngữ là ngôn ngữ hội nhập văn hóa không xâm thực văn hóa.
Ts Kiều Ly còn xác định, vào thời kỳ Chữ Quốc Ngữ đang trên đà phát triển, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, các thừa sai dòng Tên “nghỉ việc” và các Lm Hội Thừa Sai đã tiếp nối các thừa sai dòng tên tiếp tục phát triển thứ ngôn ngữ truyền giáo này tại Việt Nam và nhấn mạnh vai trò của các cộng tác viên người Việt như Lm Bentô Thiện và thầy Igesio Văn Tín, nhưng chính yếu vẫn là các vị giám mục như Pierre Lambert de la Motte và François Pallu, Đức cha Laneau, Đức cha Bá Đa Lộc và Đức cha Adran, vị giám mục điều phối công trình soạn trừ điển Dictionarium Annamiticum-Latinum (cùng với tám cộng tác viên người Việt, Đàng Trong). Do nhu cầu giáo dục các chủng sinh, Đức cha Laneau đã quyết định dạy tiếng Việt, chữ tiền Quốc Ngữ cho các chủng sinh. Và chữ Quốc Ngữ đã thành chữ viết trung gian giữa các vị giám mục nước ngoài với các chủng sinh. Riêng Đức cha Deydier muốn các bí tích phải được viết bằng ngôn ngữ bản xứ để các linh mục có thể đọc được khi cử hành các nghi lễ.
Ts Kiều Ly cũng ghi nhận, việc tổ chức các chủng viện đóng góp rất quan trọng vào việc giảng dạy và gìn giữ chữ quốc ngữ trong vòng gần ba trăm năm giữa lòng Giáo hội và chính các linh mục, chủng sinh người Việt góp phần lớn cho việc gìn giữ, phát triển chữ quốc ngữ.
Riêng Lm Ts Nguyễn Đức Thông đã giới thiệu bức tranh toàn cảnh về chữ Quốc Ngữ và văn học Công giáo từ những năm tháng ươm mầm tới giai đoạn triển nở rực rỡ. Mỗi giai đoạn chuyển mình của chữ quốc ngữ được đánh dấu bằng các tác phẩm Quốc Ngữ mới. Bắt đầu là công thức thánh tẩy của 35 giáo sĩ Dòng Tên bằng chữ Quốc Ngữ, công thức thanh tẩy đã xuất hiện ngay từ năm 1645, đã thành câu, viết rời và sử dụng dấu chính xác: “Tau rữa mài nhân danh Cha và Con và Spirito Sancto”. Sau công thức thanh tẩy là cuốn Phép Giảng Tám Ngày và từ điển Việt-Bồ La của Alexandre de Rhodes, rồi tới từ điển Tự điển Annam - Latin của Bá Đa Lộc, tiếp theo là tập lịch sử nước Annam và Từ điển Annam - Latin và Latin - Annam của Giám mục Taberd và tiếp tục tới văn học Việt Nam thời cận đại và hiện đại.
Theo cha, ba yếu tố thuận lợi của môi trường Việt Nam: con người sùng đạo, chủ trương hội nhập của các thừa sai và chữ Quốc Ngữ dễ học, dễ viết đã dẫn  tới thành công tốt đẹp về công trình truyền đạo và phát triển chữ Quốc Ngữ.
Cha nguyễn Đức Thông coi chủ trương nâng đỡ chữ Quốc Ngữ của chính quyền Pháp thời Pháp thuộc và xu hướng tích cực phát triển chữ Quốc Ngữ của các trí thức Việt Nam thời cận đại là những yếu tố thuận lợi cho chữ Quốc Ngữ vươn lên. Có thể coi trình bày của cha như một tổng quan về văn học sử Công giáo Việt Nam. Các đề tài tuy không được trình bày với chuyên môn sâu nhưng đủ cho con cháu hiểu biết công ơn trời biển của ông bà tổ tiên.
Ngược với Lm Ts Nguyễn Đức Thông, Lm Gs Đào Trung Hiệu đã dừng bước đưa hội thảo viên tới chiêm ngưỡng một nhân vật tài danh trong khu rừng văn hóa Công giáo Việt Nam, thánh Philipphê Phan Văn Minh, vị thánh đã rạng danh trong toàn Giáo hội Việt Nam do đã chết vì đạo Chúa năm 1853, với án trảm quyết tại pháp trường Đình Khao, Vĩnh Long. Riêng ở đây Lm Gs Đào Trung Hiệu muốn giới thiệu cha thánh Minh như một chuyên viên ngữ học. Khi còn là chủng sinh Philipphê Minh đã cộng tác soạn thảo cuốn từ điển Dictionarium Anamitico-Latinum và Việt-Latinh. Trong cuốn này, chữ Quốc Ngữ không khác nhiều với tiếng Việt hom nay.
Và thánh Minh cũng được giới thiệu là nhà thơ. Hồi ấy tại Việt Nam đã hiện nhiều thi đàn như Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú,  Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập, Gia Định Tam Gia  Thi Tập. Thánh Philipphê cũng mở một thi đàn, những bài thơ trên thi đàn được ghi lại trong tập Phi Năng Thi Tập nhắm trình bày đạo lý Chúa và khuyến khích giáo dân can đảm sống đạo. Lời Phi lộ của Phi Năng Thi Tập là tâm tình rất sốt sắng do Thánh Philipphê Phan Văn Minh viết: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa là phần gia nghiệp đời đời của tôi. Tôi xin chọn Thánh Danh Chúa làm chủ tể trong hội thi xướng họa này để tỏ lòng tha thiết kính yêu, và cũng là việc giải trí tốt đẹp trong đời sống thường ngày của hàng văn gia đất nước Đại Nam.”
Kết luận
Các thừa sai đến đất việt không đi buôn bán, đi mua đất nhưng đi giảng đạo Chúa cho người Việt bằng ngôn ngữ Việt và may mắn thuở đó thế hệ các thừa sai ban đầu đã sáng nghĩ ra chữ Quốc Ngữ và cùng với những người dân bản xứ, tất cả cùng đổ mồ hôi sôi nước mắt định hình và phát triển chữ Quốc Ngữ làm ngôn ngữ rao giảng Tin Mừng và làm phương tiện tiếp cận thừa sai với các dân bản xứ.
Ước mong các thế hệ con cháu luôn trân trọng gìn giữ lấy chữ Quốc Ngữ như của gia bảo cũng là kho tàng văn hóa ông bà để lại. Ước mong các thế hệ con cháu biết chung lòng, góp sức phát triển lên mãi kho tàng văn hóa quý báu này.
Cuộc góp mặt hôm nay của các thuyết trình viên và các hội thảo viên đã thành lời biết ơn ngỏ với các tiền nhân vì món quà vô giá chúng ta đã nhận, Chữ Quốc Ngữ.
Linh Mục Giuse Trịnh Tín Ý, Thư Ký Ủy Ban Văn Hóa Nguồn: Ủy ban Văn hóa/HĐGMVN 

Sự cần kíp phải cầu nguyện cho các đẳng linh hồn.

Sự cần kíp phải cầu nguyện cho các đẳng linh hồn

Truyền thống cầu nguyện cho những người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước:

Sách Macabêô quyển thứ hai ghi lại như sau:

“Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,43-46).

Giáo Hội từ những thế kỷ đầu, cũng đã có cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.

Thánh Augustinô, thế kỷ IV, đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.”

Các dòng tu đặc biệt quan tâm đến việc này. Thánh Ôđilô, Tu viện trưởng Dòng Cluny, vào giữa thế kỷ XI (1048) đã có sáng kiến cho dòng của ngài cầu nguyện cho những người đã qua đời vào ngày 2/11, ngay sau lễ Các Thánh. Sáng kiến này được Giáo Hội đưa vào lịch Phụng vụ Rôma.

Công Đồng Triđentinô (1545-1563) nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.

Vì thế, Giáo Hội dùng cả tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn, được bắt đầu bằng Lễ Các Đẳng Linh Hồn vào ngày 2 tháng 11. Nhiều nơi trên thế giới vẫn gọi tháng 11 là tháng cầu cho các đẳng linh hồn.

Đức Tin của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng, con người sau khi chết sẽ xảy ra ba tình trạng; lên Thiên Đàng, xuống Hoả Ngục hay vào Luyện Ngục.

Khi một người sống theo luân lý Công Giáo, luôn kính sợ Thiên Chúa và sống theo giới răn của Ngài. Thiên Đàng là phần thưởng Thiên Chúa dành cho họ vì công trạng và sự mong ước khi họ còn sống. Thiên Đàng là hạnh phúc bất diệt, là sự sống đời đời và là sự hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa, các Thiên Thần, và các Thánh.

Khi còn sống những ai đã từ chối ân sủng của Thiên Chúa, những ai biết tỏ tường điều tốt xấu nhưng vẫn phạm tội chống lại Thiên Chúa và tha nhân để chọn điều xấu thì hỏa ngục là nơi dành cho họ.

Sách Giáo Lý Công Giáo định nghĩa Luyện Ngục là nơi dành cho “những người chết trong ân sủng và tình thân nghĩa với Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào hưởng niềm vui thiên đàng” (số 1030).

Có một điều là những linh hồn nơi luyện hình không thể cầu nguyện cho chính họ, và họ phải cậy nhờ hoàn toàn vào lòng thương xót và lời cầu nguyện của những người đang còn sống.

Ngay từ thuở đầu, Giáo Hội luôn cầu nguyện cho những người qua đời, đặc biệt trong Thánh Lễ và các phụng vụ chung. Tất cả các Kinh Nguyện Thánh Thể đều có phần cầu nguyện cho các linh hồn. Chẳng hạn, Kinh Nguyện Thánh Thể ghi rằng: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng Tôn Nhan Chúa.”

Cha Piô năm dấu thánh kể câu chuyện sau cho thấy sự cần kíp phải cầu nguyện cho các đẳng linh hồn.

Một buổi tối lúc cầu nguyện một mình nơi nhà nguyện bỗng tôi trông thấy một thầy trẻ tuổi đứng nơi bàn thờ chính. Thầy có vẻ như đang lau chùi các chân nến và sửa lại các bình hoa. Lúc ấy là giờ ăn tối. Tôi đinh ninh người lo bàn thánh chính là thầy Leone nên tôi tiến lại gần và nói:

- Thầy Leone à, đang giờ ăn tối, thầy xuống phòng ăn đi, chứ đâu phải giờ lau bụi và sửa soạn bàn thánh!

Nhưng một giọng nói - không phải của thầy Leone - trả lời:

- Con không phải thầy Leone!

Tôi hỏi lại:

- Vậy thầy là ai?

Tiếng nói trả lời:

- Con là tu sĩ cùng dòng với Cha và từng là tập sinh sống ở Tu Viện này. Đức vâng lời dạy con phải luôn luôn giữ gìn bàn thánh thật sạch và thật ngăn nắp. Đáng tiếc, con thường bê trễ trong bổn phận và thiếu lòng tôn kính đối Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Chính vì tội thiếu tôn thờ cách trầm trọng này mà cho đến nay con vẫn còn bị hình phạt trong Lửa Luyện Hình. Nhưng giờ đây Thiên Chúa Từ Nhân, trong lòng thương xót vô biên của Ngài, cho phép con hiện về với Cha. Chính Cha là người có thể thu ngắn thời gian con phải chịu giam cầm trong Lửa Luyện Ngục. Xin Cha vui lòng giúp con.

Tôi nghĩ mình quả thật quảng đại đối với Linh Hồn đang đau khổ nơi Lửa Luyện Tội khi nhanh nhẹn hứa rằng: “Anh sẽ chỉ còn ở trong Lửa Luyện Tội cho đến sáng mai lúc dâng Thánh Lễ”. Nào ngờ Linh Hồn này thét lên: “Thật là tàn nhẫn!”. Thét xong câu đó Linh Hồn biến đi. Tiếng than khóc kinh khiếp của Linh Hồn như lưỡi gươm đâm xuyên trái tim tôi. Tôi thật đau đớn và mãi mãi như nghe tiếng thét vang vọng bên tai. Tôi, nhờ sự ủy quyền đặc biệt của Thiên Chúa, có thể giúp Linh Hồn đi thẳng về Trời, trái lại, tôi đã kết án giam giữ Linh Hồn ở lại trong Lửa Luyện Ngục thêm một đêm nữa cho tới sáng mai!