Trang

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2021

Tín điều đầu tiên về Đức Maria: Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

 

Tín điều đầu tiên về Đức Maria: Đức Maria Mẹ Thiên Chúa

 
  •  
  •  


TÍN ĐIỀU ĐẦU TIÊN VỀ ĐỨC MARIA: ĐỨC MARIA, MẸ THIÊN CHÚA

Tác giả: Leon J. Suprenant và Philip C. L. Gray

WGPQN - Đâu là giáo huấn của Giáo hội liên quan đến tư cách làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria?

Chân lý mặc khải cơ bản và quan trọng nhất về Đức Mẹ của chúng ta, để từ đó hết thảy những vai trò và vinh dự khác của Mẹ tuôn trào, đó chính là Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.

Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) số 509 tóm tắt giáo huấn ấy như sau: “Đức Maria thực sự là ‘Mẹ Thiên Chúa’ vì là Mẹ của Con Thiên Chúa làm người, người Con hằng hữu ấy cũng chính là Thiên Chúa”. Tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” chỉ ra chân lý cao cả của mầu nhiệm Nhập thể, Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật.

Giáo huấn của Giáo hội liên quan đến tư cách làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria có nguồn gốc sâu xa từ trong Thánh kinh và Thánh truyền, và đã được định tín tại Công đồng Êphêsô năm 431. Giáo hội cử hành mầu nhiệm của đức tin Công giáo này vào ngày 1 tháng 1.

“Mẫu cách thần linh” của Đức Maria – hay nói cách khác là tư cách “Mẹ Thiên Chúa” – hầu như đã trở nên rất thân quen đối với nhiều người Công giáo. Một trong những lời kinh lâu đời và được cầu nguyện nhiều nhất, kinh Kính mừng, cầu khẩn cách rõ ràng “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”. Cách tiêu biểu, chúng ta thường gọi Đức Maria là “Đức Mẹ”, điều đó chỉ ra sự tham dự của chúng ta vào đời sống thần linh trong tư cách là nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Rm 8,15-17; Gl 4,4-7; Kh 12,17). Chúng ta không thể gọi Mẹ là Đức Mẹ của chúng ta, trừ khi đầu tiên và trên hết, Mẹ chính là Mẹ của Ngài.

Kể từ thế kỷ thứ năm, tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” của Đức Maria đã được thiết định cách chắc chắn, và rõ ràng nó ít gây tranh cãi nhất trong số các tín điều Kitô giáo liên quan đến Đức Maria. Như thế, giáo huấn này là một điểm khởi đầu thích hợp cho việc đối thoại đại kết cũng như gìn giữ sự chính xác cho giáo huấn liên quan đến việc Chúa Giêsu Kitô là ai, như sẽ được trình bày dưới đây.

[…]chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về thân mẫu của Ngài, đấng mà từ đó “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể” (Ga 1,14).

Logic của Thánh kinh

Không có nơi nào trong Thánh kinh sử dụng cụm từ “Mẹ Thiên Chúa”. Nhưng Đức Maria được minh định là “mẹ Chúa Giêsu” (x. Mt 2,13.20; Lc 1,31; 2,34; Cv 1,14) và là mẹ của Con Thiên Chúa (x. Lc 1,35; Gl 4,4). Ngay cả trước khi Chúa Giêsu sinh ra, bà Êlisabét công bố rằng Đức Maria là “thân mẫu của Chúa tôi” (Lc 1,43; x. GLHTCG 495). Thật rõ ràng, xuyên suốt cả Tân ước, Đức Maria được nhận biết trong tư cách là mẹ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và là Đấng cứu rỗi chúng ta.

GLHTCG số 481 tóm tắt nền tảng niềm tin Kitô giáo về Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật: “Chúa Giêsu Kitô có hai bản tính, thiên tính và nhân tính, không lẫn lộn, nhưng hợp nhất trong một ngôi vị duy nhất của Con Thiên Chúa”. Cho nên thánh Phaolô có thể viết rằng khi thời gian đến hồi viên mãn, “Thiên Chúa đã sai Con của Người đến, sinh làm con một người phụ nữ” (Gl 4,4).

Chính vào thời đã định, Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa (x. Ga 1,1), Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi, “đã trở thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Thánh kinh dạy rằng Chúa Kitô là Emmanuel – vị Thiên Chúa thực sự ở cùng chúng ta (x. Mt 1,23).

Nếu chúng ta đón nhận hai giáo huấn Kinh thánh a) Đức Maria là mẹ của Chúa Giêsu và b) Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, vậy thì chúng ta phải kết luận rằng Đức Maria là mẹ của Thiên Chúa. Kết luận ngược lại sẽ chối bỏ (a) hoặc (b) hoặc cả hai, và do đó rơi vào một trong các lạc giáo cổ xưa đã bị Giáo hội tông truyền phi bác.

Mẫu vị là gì?

Để hiểu được giáo huấn của Giáo hội về tư cách làm mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, điều quan trọng là phải làm sáng tỏ ý nghĩa mà chúng ta muốn nói qua ý niệm mẫu vị.

Mẫu vị là một mối tương quan được thiết lập khi một người phụ nữ thông truyền bản tính nhân loại của chính mình cho con cái. Việc trao ban bản tính này xuất hiện tại thời điểm thụ thai, và được dưỡng dục liên tục qua quá trình mang thai, sinh con, và đời sống của đứa trẻ. Vào lúc thụ thai, một nhân vị, tức một bé trai hay bé gái thực sự – chứ không đơn thuần là một thân xác vật chất – tiến vào hiện hữu. Đây là sự thật, dù chúng ta biết rằng người mẹ không tạo ra linh hồn của đứa trẻ, thứ được tạo ra và phú ban trực tiếp bởi Thiên Chúa.

Đức Maria đã không trao ban cho Chúa Giêsu thần tính hay ngôi vị thần linh của Ngài, là điều thuộc về Ngài từ thuở đời đời. Đức Maria cũng không trao ban cho Chúa Giêsu linh hồn nhân loại của Ngài, là điều Ngài được phú ban khi trở thành con người trong cung lòng trinh nguyên của mẹ (x. GLHTCG, số 471). Trong tư cách là một người mẹ thực sự, Đức Maria đã trao ban cho Chúa Giêsu một bản tính nhân loại y hệt như của chính Mẹ, và Mẹ là mẹ của một ngôi vị, chứ không đơn thuần là một thân xác hay bản tính.

Còn đây là bước ngoặt. Nơi Chúa Giêsu Kitô, có hai bản tính – nhân tính và thần tính – và hai bản tính này được hợp nhất mà không lẫn lộn trong cùng một Ngôi vị thần linh, Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi, điều được gọi là ngôi hiệp. Bởi vì Đức Maria là mẹ của Chúa Giêsu và Chúa Giêsu là một Ngôi vị thần linh – tức là Thiên Chúa – vậy nên Đức Maria được gọi cách xác đáng là “Mẹ Thiên Chúa”.

Có hai tử vị, nhưng chỉ có duy nhất một người Con. Chúa Kitô là Con thật của Thiên Chúa Cha từ thuở đời đời, nhưng Ngài cũng là Con thật của Đức Maria, được sinh ra khi thời gian đến hồi viên mãn (x. Gl 4,4).

Các Giáo phụ nói gì về điều này?

Truyền thống Kitô giáo sơ thời, cách đặc biệt là phụng vụ, đã làm chứng cho niềm tin Kitô giáo rằng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Theo lời tuyên xưng cổ kính nhất của đức tin Kitô giáo, Kinh Tin kính các Tông đồ (x. GLHTCG 194), các tín hữu trong gần hai thiên niên kỷ đã tuyên xưng đức tin của mình vào “Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, Đấng được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần, được sinh ra bởi Đức Trinh nữ Maria”. Sub tuum praesidium (“Chúng con chạy đến tìm nương ẩn nơi ngài…” [Kinh Trông cậy]), một kinh nguyện về Đức Maria cổ xưa có niên đại từ thể kỷ thứ ba, gọi Đức Maria cách dứt khoát là “Mẹ Thiên Chúa”.

Mẫu vị thần linh của Đức Maria được chứng thực đầy đủ trong những tác phẩm của các Giáo Phụ. Chẳng hạn, thánh Irênê (+202) đã viết: “Đức Trinh nữ Maria, … khi vâng phục lời của Người, đã lãnh nhận từ sứ thần tin mừng rằng mình sẽ cưu mang Thiên Chúa”.[1]

Thánh Ephrem xứ Syria (+373), trong Thánh ca Nhập thể đầy thi vị của ngài, đã sáng tác như sau:

Nơi cung lòng Đức Maria, một Trẻ thơ đã nên hình nên dạng,
Đấng tự thuở đời đời vẫn đồng hàng với Chúa Cha…
Dù vẹn tuyền đức khiết trinh
vì Nữ trinh đã nên Thân mẫu;
Dù vẫn mãi là đấng trinh nguyên
ngài đã cưu mang một Hài nhi trong cung lòng;
Vị nữ tỳ, công trình Đấng Thượng trí
đã trở nên Mẹ Thiên Chúa.[2]

Thánh Athanasiô (+373), trong khảo luận Về sự Nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa và Chống bè Ariô, đã viết:

Ngôi Lời, người con được Chúa Cha sinh ra từ trời cao, Đấng vĩnh cửu, không thể diễn đạt, không thể giải thích, không thể đạt thấu, chính là Đấng được sinh ra trong thời gian dưới trần thế, bởi Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa - để cho những kẻ thoạt tiên được sinh ra dưới trần thế có thể được sinh ra lần nữa từ trời cao, bởi Thiên Chúa.[3]

Trên đây chỉ là một vài trong số những tư tưởng giáo phụ có quy chiếu đến giáo huấn về Đức Maria trong suốt bốn thế kỷ đầu của Kitô giáo. Dĩ nhiên, sau định tín của Công đồng Êphêsô năm 431 (xin xem bên dưới), giáo huấn này đã được thiết lập cách vững chắc như một phần của kho tàng đức tin được trao phó cho Giáo hội (x. 1Tm 6,20).

Chúng ta có thể mắc sai lầm ra sao?

Về mặt lịch sử, có ba sai lầm liên quan đến làm mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Đầu tiên, một số người cho rằng Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, nhưng không phải là người thật. Theo đó, vì Chúa Kitô đã không nhận một bản tính nhân loại từ Đức Maria, nên không thể gọi Đức Maria là mẹ của Ngài.

Sai lầm thứ hai, phổ biến nhiều hơn vào thời nay, đó là xem Chúa Kitô thực sự là một con người, nhưng không phải là Thiên Chúa. Như thế, Đức Maria thực sự là mẹ của Đức Kitô, nhưng không có nghĩa là mẹ của Thiên Chúa.

Sai lầm thứ ba, được gọi là thuyết Nestôriô, chính là điều đã dẫn đến tuyên tín của Giáo hội tại Công đồng Êphêsô. Quan niệm ấy cho rằng có hai ngôi vị nơi Đức Kitô, một ngôi vị thần linh và một ngôi vị nhân loại, và Đức Maria chỉ sinh ra ngôi vị nhân loại. Đức Maria có thể được gọi một cách đúng đắn là Mẹ Chúa Kitô (Christotokos) hay thậm chí là  Người Tiếp nhận Thiên Chúa (Theodokos), nhưng không phải là Mẹ Thiên Chúa (Theotokos).

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn Giáo hội đã hóa giải những sai lầm này như thế nào.

Cuộc đối đầu tại Êphêsô

Trong thông điệp “Kỷ niệm 1500 năm Công đồng Êphêsô” (Lux Veritatis, năm 1931), Đức Giáo hoàng Piô XI mô tả lại diễn biến những sự kiện đưa đến các quyết định của công đồng đại kết này.

Nestôriô, một đan sĩ tại Antiôkia, người trở thành thượng phụ Constantinốp vào năm 428, công khai giảng dạy rằng Chúa Kitô đã không là Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa chỉ ngự trong Ngài như trong một đền thờ. Nói cách khác, ông dạy rằng có hai ngôi vị nơi Đức Kitô, và do đó, Đức Maria là Christotokos (Mẹ Đức Kitô), chứ không phải là Theotokos (Mẹ Thiên Chúa). “Christotokos” trở thành khẩu lệnh của những người theo Nestôriô.

Giáo huấn Kitô giáo chân chính đã được bênh vực bởi thánh Cyrilô, vị thượng phụ thành Alexandria. Thánh Cyrilô không chỉ hăng hái bảo vệ đức tin Công giáo giữa đoàn chiên của chính ngài, nhưng ngài còn gửi các lá thư cho Nestôriô trong một nỗ lực mang tính khoan dung và huynh đệ để đưa dẫn ông ta trở lại với đức tin Công giáo.

Khi những nỗ lực ấy thất bại, Cyrilô đã thượng tố lên Đức Giáo hoàng Cêlestinô, ngài viết: “truyền thống cổ kính của các Giáo hội răn dạy chúng ta rằng những vấn đề như thế này cần được thông tri cho Đức Thánh Cha”.[4] Cêlestinô đã kết án giáo huấn của Nestôriô và chỉ định Cyrilô với tư cách là đại diện của ngài để dàn xếp cuộc luận chiến.

Giữa tình cảnh ấy, Hoàng đế Theođôsiô triệu tập một công đồng đại kết tại Êphêsô để thuận tiện cho việc giải quyết tranh chấp. Dưới sự chủ trì của thánh Cyrilô, và với thẩm quyền cùng sự phể chuẩn đầy đủ của Đức Giáo hoàng, Công đồng đã kết án giáo huấn sai lạc của Nestôriô và xác nhận cách đầy đủ thần tính của Đức Kitô:

Kinh thánh không dạy rằng Ngôi Lời đã liên kết ngôi vị của một con người với chính Ngài, nhưng dạy rằng Ngài đã trở thành xác phàm. Tuy nhiên, khi nói rằng Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, điều đó chỉ có nghĩa khi Ngài đã thông phần xác thịt và máu huyết như chúng ta, do đó, Ngài đã đảm nhận thân xác của chúng ta, và đã sinh ra làm người bởi một người phụ nữ, đồng thời vẫn không gạt đi Thần tính hay việc được sinh ra bởi Chúa Cha; vì khi mang lấy xác phàm, Ngài vẫn chính là Đấng mà Ngài đã là.[5]

Quyết định của Công đồng Êphêsô là một ví dụ điển hình của cách thức mà tín điều chính thức về Đức Maria khởi nguồn từ các giáo huấn chính thức liên quan đến Ngôi vị của Chúa Kitô và sẽ luôn bảo vệ cũng như gìn giữ chúng. Bằng việc tuyên bố rằng Đức Maria là Theotokos, Giáo hội đang khẳng định Đức Maria thực sự là một người mẹ, do đó, cũng khẳng định nhân tính của Đức Giêsu. Bằng việc khẳng định rằng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Giáo hội khẳng định không chỉ thần tính của Đức Giêsu, nhưng còn cả sự kết hiệp nhân tính và thần tính của Ngài trong một Ngôi vị thần linh duy nhất.

Những can hệ về đại kết

Điều quan trọng cần nhấn mạnh là lời tuyên bố của Công đồng Êphêsô, ngoại trừ là một sự phi bác cần thiết đối với lạc giáo Nestôriô, cũng là nguyên nhân mang tới niềm hoan hỷ và sự tán dương khắp các phố phường tại Êphêsô:

Dân chúng tại Êphêsô được lôi cuốn đến với Đức Trinh nữ Mẹ Thiên Chúa bằng một lòng sùng mộ lớn lao, và được nung nấu bởi một tình yêu nồng nhiệt, thế nên khi họ biết được phán quyết do các Nghị phụ Công đồng thông qua, họ đã chào đón các ngài với con tim ngập tràn hoan hỷ, và quây quần bên các ngài thành một đoàn hội, rồi cầm đuốc sáng trên tay, họ hộ tống các ngài về nhà.[6]

Cho đến ngày nay, sự sùng mộ dành cho Theotokos là một điểm hòa hợp giữa nhiều nhóm Kitô hữu, đặc biệt là các Giáo hội Chính thống Đông phương, như Công đồng Vatican II dạy bảo:

Thánh Công đồng rất vui mừng và được an ủi khi thấy ngay giữa các anh em ly khai không thiếu những người dâng lên Mẹ Chúa Cứu Thế vinh dự ngài đáng được, nhất là các anh em Ðông phương, những người nhiệt thành và hết lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa trọn đời đồng trinh (Lumen Gentium [LG],số 69).

Trong số các Kitô hữu theo Tin Lành tại Tây phương, có những quan điểm khác nhau liên quan đến vai trò của Đức Maria trong công trình cứu độ (Unitatis Redintegratio, số 20). Điều thú vị là cả ba nhà sáng lập phong trào Cải cách Tin lành – Luther, Calvin và Zwingli – đều xác nhận mẫu cách thần linh của Đức Maria.

“Muôn thế hệ sẽ khen tôi có phúc” (Lc 1,48)

Từ rất sớm, Giáo hội đã tôn vinh Đức Maria với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” (GLHTCG, số 971). Vì mối quan hệ thâm tình mẹ-Con với Đấng Cứu chuộc thế gian, Giáo hội thừa nhận một “chức phận và phẩm vị cao cả” của Mẹ, cũng như sự thật rằng Mẹ cũng là “ái nữ của Chúa Cha và cung thánh của Chúa Thánh Thần” (LG, số 53).

Bằng một cách thức phi thường nhưng vẫn mang tính suy phục, Mẹ cộng tác cách tự do trong công trình cứu độ của người Con nhờ lòng vâng phục, đức tin, đức cậy, và đức mến nồng nàn (LG, số 61). Mẹ là mẹ của chúng ta trong trật tự của ân sủng, là người mẹ mới của tất cả những ai đang sống trong Chúa Kitô (x. St 3,20), người mẹ của tất cả các môn đệ yêu dấu của Chúa Kitô (x. Ga 19,27), những kẻ tuân giữ các huấn lệnh và làm chứng cho Ngài (x. Kh 12,17).

Vì lẽ đó, Giáo hội tôn kính Đức Maria “với tâm tình con thảo và sùng kính ngài như một người mẹ hết mực dấu yêu” (LG, số 53). Sự sùng kính này không phải là sự phụng thờ, điều được dành riêng cho một mình Thiên Chúa, nhưng đúng hơn là tình yêu dành cho một người mẹ, đấng luôn nhắc nhở chúng ta chúng ta bước theo Con của Mẹ (x. Ga 2,5), để Ngài có thể được biết đến, được yêu mến và được tôn vinh, và để tất cả mọi người có thể được hiệp đoàn vào một gia đình duy nhất trong Chúa Kitô, hầu vinh danh Ba Ngôi Chí Thánh.

Phần bổ sung: Đức Maria theo những nhà Cải cách Tin lành

Martin Luther: “Bởi công trình này, bà được trở nên Mẹ Thiên Chúa, vậy nên biết bao nhiêu điều thiện hảo đã được trao cho bà mà không một ai có thể với tới… Maria không chỉ là mẹ của Đấng được sinh ra [tại Bêlem], nhưng còn là mẹ của Đấng, trước khi có thế gian, đã được sinh ra bởi Chúa Cha từ vĩnh cửu, từ một người Mẹ trong thời gian và đồng thời vừa là Thiên Chúa vừa là con người”.

John Calvin: “Không thể phủ nhận việc Thiên Chúa, khi tuyển chọn và đặt định cho Maria làm Mẹ người Con của Người, đã ban cho bà vinh dự cao cả nhất… Êlisabét gọi Maria là Mẹ của Đức Chúa, bởi vì sự hiệp nhất ngôi vị trong hai bản tính của Chúa Kitô khiến bà Êlisabét có thể nói rằng, phàm nhân được cưu mang nơi cung lòng của Maria cũng đồng thời là Thiên Chúa vĩnh cửu”.

Ulrich Zwingli: “Bà được tặng ban điều không hề thuộc về trật tự tạo thành, hầu bà có thể sinh ra Con Thiên Chúa bằng xương bằng thịt”.

-- Các phát biểu ở trên của Martin Luther, John Calvin và Ulrich Zwingli được trích từ tác phẩm Khởi đầu hộ giáo: Cách giải thích và bảo vệ đức tin Công giáo, San Juan Catholic Seminars, Farmington, New Mexico, 1993-96.

Grêgôriô Võ Trần Nhựt chuyển ngữ
Trích trong: Leon J. Suprenant và Philip C. L. Gray, Sự thật Đức tin: Giải đáp các thắc mắc Công giáo, Tập I, Emmaus Road Publishing, Steubenville, Ohio, 1999, 187-194. Tại books.google.com.vn 

 

[1] Thánh Irênê, Chống lạc giáo, 5, 19, 1, trong William A. Jurgens và cộng sự, Đức Tin của các Giáo phụ sơ thời, tập 1, The Liturgical Press, Collegeville, Minnesota, 1970, 101.
[2] Ibid., 312.
[3] Ibid.340.
[4] Trong Thông điệp Lux Veritatis, số 12.
[5] Trong Ibid., số 28; x. GLHTCG, số 466.
[6] Trong Ibid., số 41. 

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Niềm Vui Mỗi Ngày – NVMN 31.12.2021

 




Niềm Vui Mỗi Ngày – NVMN 31.12.2021

Niềm Vui Mỗi Ngày

“Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”.
Thánh Vịnh 37,4

NVMN 31.12.2021

Niềm Vui Mỗi Ngày

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
 

Niềm Vui Mỗi Ngày – đã đi được một chặng đường khá dài – 365 ngày – với bao xúc cảm.

 

Giữa đại dịch Covid đang xảy ra, cuộc sống đầy khó khăn thử thách, mỗi người phải tìm cho mình một niềm vui để sống. Cám ơn các độc giả đã dành cho NVMN những yêu thương thể hiện qua những lần đọc, những like và những chia sẻ. Và thật bất ngờ có bài NVMN đã có trên 2000 bạn đọc. Đây là một niềm vui lớn trong những ngày tháng đi tìm niềm vui giữa đại dịch.

 


Như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết trong ca khúc Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui:

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười
Tôi nhặt gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em cười tựa lá bay…


Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Cùng với anh em tìm đến mọi người
Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát
Để thấy tiếng cười rộn rã bay…


Mỗi ngày tôi chọn một điều thôi
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời
Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới
Để lúa reo mừng tựa vẫy tay …


Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi
Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi …

 

Không chỉ chọn niềm vui như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhưng tôi còn nhớ đến vua Đavít, trong lời Thánh vịnh 37 nói về số phận của con người lữ hành trên dương thế, và nhất là số phận dành cho những người chọn Chúa làm niềm vui cho mình.

 


4 Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.

5 Hãy ký thác đường đời cho Chúa,
tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay.

6 Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh,
công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ.

18 Chúa chăm sóc cuộc đời người thiện hảo,
gia nghiệp họ tồn tại đến muôn năm.

19 Buổi gian nan họ không hề hổ thẹn,
ngày đói kém lại được no đầy.

22 Người Chúa chúc lành được đất hứa làm gia nghiệp,
kẻ Chúa nguyền rủa sẽ bị diệt trừ.

23 Chúa giúp con người bước đi vững chãi,
ưa chuộng đường lối họ dõi theo.

24 Dầu họ có vấp cũng không ngã gục,
bởi vì đã có Chúa cầm tay.

25 Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả,
chưa thấy người công chính bị bỏ rơi,
hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ.

26 Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay,
dòng giống mai sau hưởng phúc lành.

27 Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời.

28a Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực,
chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung.

29 Người công chính được đất hứa làm gia nghiệp,
và định cư tại đó mãi muôn đời.

30 Miệng người công chính niệm lẽ khôn ngoan,
và lưỡi họ nói lên điều chính trực.

31 Luật Thiên Chúa, họ ghi tạc vào lòng,
bước chân đi không hề lảo đảo.

34 Hãy trông chờ Chúa, giữ vững đường lối Người,

rồi Người sẽ cất nhắc bạn lên
và ban đất hứa làm gia nghiệp
bạn sẽ nhìn thấy ác nhân bị diệt trừ.

39 Còn chính nhân được Chúa thương cứu độ
và bảo vệ chở che trong buổi ngặt nghèo.

40 Chúa phù trợ và Người giải thoát,
giải thoát khỏi ác nhân và thương cứu
 độ,
bởi vì họ ẩn náu bên Người. (Tv 37)


Dẫu biết rằng trần gian đầy quyến rũ và cám dỗ, khi chọn Chúa làm niềm vui cho mình, chính chúng ta cũng phải từ bỏ những gì không phù hợp với Chúa và chấp nhận những thử thách trong cuộc sống. Nhưng “Đừng sợ!” vì có Chúa ở cùng.

Như Đức Maria trước chương trình của Thiên Chúa, thiên sứ đã trấn an Mẹ (Lc 1,30). Như thánh cả Giuse, trước mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người trong người bạn đời yêu dấu, ngài không hiểu và muốn âm thầm, lặng lẽ ra đi... Sứ thần Chúa đã khuyến khích ngài hãy gánh vác trọng trách bảo vệ “Hài Nhi và Mẹ Người” trong cuộc đời dương thế của Con Thiên Chúa (x. Mt 1,18-25). Và như các môn đệ giữa biển hồ Galilê, khi cuồng phong ập đến, dẫu là những ngư phủ lành nghề, hằng ngày đối diện với phong ba bão táp, các ông vẫn hoảng sợ, cầu cứu Đức Giêsu. Hình như Ngài đang im lặng! Khi thức giấc, Ngài ngăm đe, gió và biển liền lặng như tờ (x. Mc 4,35-41).

Chuẩn bị bước sang một Năm Mới - 2022 - đại dịch vẫn chưa thấy có điểm dừng. Những khó khăn thử thách cho cuộc sống ngày càng lớn. Thử thách về đời sống kinh tế, xã hội. Thử thách về đời sống đức tin.

Dẫu bao thử thách, chúng ta cũng “Đừng sợ” vì có Chúa ở cùng.

Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con...

Nguyễn Thái Hùng


Lễ Hiễn Linh

 Lễ Hiễn Linh

Lm. Jude Siciliano, OP
 

LỄ HIỄN LINH
Isaia 60: 1-6; Tvịnh 71; Êphêsô 3: 2-3a, 5-6; Mátthêu 2: 1-12

Bạn có thể đã nghe được điều tôi đã đọc trong lời mở đầu của ngôn sứ Isaia hôm nay không? "Hãy vùng đứng. Hãy bừng sáng! Hởi Giêrusalem, Này đây ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi". Tôi nghe thấy một tiếng thở dài nhẹ nhỏm và còn nghe cả một từ đi kèm với tiếng thở dài "Cuối cùng!". Khi tôi viết bài này, tôi đang ngồi ở phi trường Dallas đợi giờ ra cổng máy bay. Khi nó đến đã trễ rồi! Và tôi thở phào nhẹ nhõm tự nhủ “Cuối cùng!” Khi tôi ngồi trong phòng chờ đợi của bác sỉ, vì bác sỉ đến muộn. và khi bác sỉ đến tôi cũng tự nhủ "Cuối cùng!"

Những lời thở phào nhẹ nhỏm của ngôn sứ Isaia còn sâu sắc hơn nhiều. Dân chúng sau những năm bị lưu đày ở Babylon, cuối cùng đã được trở về. Giờ đây, họ đang đối mặt với những khó khăn đó là xây dựng lại nền kinh tế, chính trị và tôn giáo mà họ cần để trở nên một quốc gia thống nhất và hòa hợp. Họ không thể tự họ hoàn thành những chương trình này. Công việc còn ở phía trước sẽ rất lâu và gian khổ. Ngôn sứ Isaia đang khuyến khích cho người dân viễn ảnh một Giêrusalem tráng lệ sẽ như thế nào. Nó chưa đến ngay bây giờ, nhưng một ngày nào đó nó sẽ tới. Viễn ảnh này sẽ giúp họ gắng sức làm việc đôi khi nhiệm vụ có vẻ như không thể thực hiện được.

Ngôn sứ hứa là thành phố sẽ trở nên toả sáng trong một thế gian u tối. Ánh sáng đó sẽ thu hút những người khác đến thành thánh Giêrusalem và đến với Thiên Chúa của họ. "Họ sẽ lập thành đoàn đi về phía ngươi". Nói một cách khác, sau một thời gian dài chờ đợi, đau khổ và gian nan, sự thanh thản nhẹ nhõm sẽ đến với mọi người khi viễn ảnh của họ đã được thực hiện. Họ sẽ thở ra nhẹ nhõm và nói "Cuối cùng rồi!"

Nhưng, tất cả các điều đó không phải là kết quả của những cố gắng của họ. Nếu họ muốn chiếu tỏa một thứ ánh sáng nào để thu hút mọi người khác về Thành Phố Thánh Thiện, đó là việc của Thiên Chúa làm – Chính Ngài sẽ thu hút họ, kéo họ ra khỏi cảnh lưu đày nô lệ, và dẫn đưa họ về quê hương của họ. Phải rất khó khăn để chờ đợi khi thời gian rất giới hạn cho một kết quả tốt đẹp trong khi không có một dấu chỉ nào cho biết cuộc đấu tranh hiện nay sẽ kết thúc. Điều gì giúp dân chúng đang khi họ tranh đấu để xây dựng một quốc gia công bình trong lâu dài? Ngôn sứ hứa rằng chính Thiên Chúa sẽ giúp họ.

Thật ra, ngôn sứ nói với dân chúng là Thiên Chúa đang đưa đến sự thay đổi như lời đã hứa, bất chấp những bóng tối đang bao trùm họ. Chúng ta tin rằng viễn cảnh của ngôn sứ sẽ được ứng nghiệm qua đời sống, sự chết và sự sống lại của Đức Kitô. Bóng tối của tội lỗi, của phá hoại và chia rẻ giữa mọi người đã bị ánh sáng của Chúa Kitô chiếu qua. Qua phép Rữa tội của chúng ta, chúng ta sẽ là những người mang ánh sáng và ánh sáng đó đã sẵn sàng rọi chiếu cho thế gian thông qua đời sống của những người mang danh phận là môn đệ Chúa Kitô trong đời sống của cộng đoàn Giáo hội.

Câu chuyện nói về sự Giáng sinh của Chúa Kitô là một câu chuyện tuyệt vời. Trong khi các gia đình bước vào nhà thờ, trong mùa Giáng Sinh, con trẻ sẽ nắm tay cha mẹ hân hoan bước ngay đến cảnh trang trí Giáng Sinh bên cạnh bàn thờ, chúng và cha mẹ chúng cũng đã bị thu hút bởi Đức Kitô hài đồng. Câu chuyện các Đạo sĩ từ phương Đông đi theo ánh sáng của một ngôi sao để mang quà tìm đến thờ kính một hài nhi còn hơn cả sự tuyệt vời. Câu chuyện này làm chúng ta ấm lòng khi nghĩ đến những kỷ niệm ấm cúng của tuổi thơ chúng ta. Câu chuyện về Chúa Hài Nhi của thánh Mátthêu cho thấy Chúa Kitô như là một Môsê mới. Vì như Môsê, đời sống của đứa bé sẽ bị đe dọa bởi một vị bạo chúa khác. Vua Hêrôđê không có ý định tìm đến một Hài Nhi để tôn kính. Sau đó ông Philatô sẽ tuyên án xử tử Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã che chở ông Môsê và Thiên Chúa cũng sẽ che chở cho đứa bé. Nhưng, sau đó quyền lực của tối tăm sẽ chiến thắng - Nhưng chỉ là tạm thời. Cũng như Môsê là người đã dẫn đường cho dân Israel đang bị lưu đày rời khỏi Ai Cập, Chúa Giêsu, qua sự chết và sự sống lại của Ngài sẽ giải cứu chúng ta thoát khỏi bóng tối của tội lỗi và đưa chúng ta vào vùng ánh sáng của một sự sống mới.

Các nhà Đạo sĩ không lấy đồ đạc trên lạc đà xuống. Họ đã sa thải các người giúp việc của họ, và họ tự đến Bêlem để tiếp tục tỏ lòng tôn kính Đức Kitô Hài Nhi. Thánh Mátthêu diễn tả như thế là để bày tỏ sự tôn kính của các đạo sĩ đối với Đức Kitô Hài Nhi, rồi họ vội vàng đứng dậy ra đi. Có thể họ về nhà để kể với gia đình và bạn bè về chuyến đi của họ và về ngôi sao đã giúp dẫn đường cho họ trong đêm tối. Chúng ta không thể nhìn thấy các ngôi sao khi bầu trời sáng. Có lẽ chúng ta không nên sợ hãi bóng tối của thế giới và cuộc sống đang bao quanh chúng ta. Vì nếu một Thiên Chúa thật sẽ tạo ra ánh sáng, và ánh sáng đó sẽ chiếu soi trong bóng tối và giúp chúng ta cùng nhau đi đúng đường lối của Ngài.

Chúng ta không biết điều gì nơi Hài nhi Giêsu đã làm cho ba Đạo sĩ thay đổi lối sống của họ như thế nào. Chắc là họ sẽ ngẫm suy theo kinh nghiệm của họ và điều chỉnh đời sống theo điều gì họ đã thấy và đã học được trong chuyến đi của họ. Và chúng ta cũng thế. Không ai có thể cho chúng ta biết chính xác đời sống của các môn đệ của Chúa sẽ hình thành như thế nào. Chúng ta chỉ biết rằng; chúng ta không tự bản thân mình để tìm đến Chúa Kitô được. Thánh Phaolô thường nhắc chúng ta là chúng ta trước kia đang ở trong bóng tối đến khi Thiên Chúa chiếu rọi ánh sáng của Chúa Giêsu vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin đến Ngài và bây giờ chúng ta trở lại cuộc hành trình "bằng một con đường khác".

Khi chúng ta rời nhà thờ ra về và rời khỏi cảnh trí Giáng Sinh hôm nay, chúng ta tin chắc là không có bóng tối nào mà chúng ta phải gặp có thể dập tắt được ánh sáng đang rực cháy từ trong chúng ta. Hãy nghe lời ngôn sứ Isaia hứa "Rồi các ngươi sẽ chiếu ánh sáng bởi những điều các ngươi đã thấy. Và trái tim của các ngươi sẽ đập mạnh và chiếu lòa". Liệu chúng ta có quyết tâm tiếp tục hướng về ánh sáng mà chúng ta đã thấy. Cúi đầu thờ lạy và sau đó đem ánh sáng trở lại cho thế gian hay không?

Nhiệm vụ của ba Đạo sĩ nhắc chúng ta nhớ rằng trong suốt cuộc đời chúng ta, chúng ta vẩn luôn tiếp tục tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ có thể yên ổn tại vị an nhàn tự mãn chỉ với lòng mộ đạo, mặc dù chúng ta cảm thấy mình đã “tìm được Thiên Chúa”. Còn nhiều điều phía trước, hãy lên đường và tiếp tục tìm kiếm.

Chúng ta cũng cần phải tôn trọng hành trình tìm kiếm của những người chân thành khác, mặc dù họ đi khác đường của chúng ta. Sự thật quá lớn lao cho bất kỳ ai trong chúng ta có thể khẳng định rằng mình đã tìm được tất cả. Vì không thể nắm giử hoàn toàn Thiên Chúa với đôi tay nhỏ bé của mình được. Vậy, hôm nay chúng ta hãy quỳ xuống bái lạy Đấng Thánh Toàn Năng và chỉ có một Đấng đó đến với chúng ta trong thân hình một Hài Nhi bé nhỏ. Nhưng sau đó sẽ lớn lên và sẽ mời gọi chúng ta đi theo Đấng mà chúng ta gọi là Ánh Sáng của thế gian.

Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP

Gợi Ý Bài Giảng – Lễ Đức MA-RI-A, Mẹ Thiên Chúa

 


Gợi Ý Bài Giảng – Lễ Đức MA-RI-A, Mẹ Thiên Chúa

–Lm Inhaxiô Hồ Thông–

Khi tôn vinh Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta khẳng định niềm tin của chúng ta vào Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta, Ngài thật sự là Con Thiên Chúa nhưng cũng thật sự là con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong biến cố Nhập Thể.

Lễ kính trọng thể “Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa” có gốc tích rất lâu đời và được phổ biến trên khắp thế giới. Trong lịch canh tân Phụng Vụ, lễ kính trọng thể Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa này được cử hành vào ngày mồng một tháng giêng, trùng với ngày bát nhật Giáng Sinh, ngày kính nhớ việc cắt bì và đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su, nhưng cũng trùng với ngày Tân Niên, ngày đầu năm mới cầu cho hòa bình thế giới.

Đức Phao-lô VI viết: “Ngày lễ trọng ấy nay được đặt vào mồng một tháng giêng theo như tập tục xa xưa của Phụng Vụ Rô-ma. Lễ này được dành riêng ca tụng việc Đức Ma-ri-a góp phần vào mầu nhiệm cứu độ và tán dương tước vị cao quý đặc biệt do phần đóng góp ấy đem lại cho Người Mẹ rất thánh, Đấng có công giúp chúng ta đón tiếp Tác Giả của sự sống” (“Marialis Cultus”, 5).

-Ds 6: 22-27

Những lời chúc lành của tư tế nêu bật sự hiện diện thi ân và giáng phúc của Thiên Chúa, nguồn mạch của sự sống và phúc lành. Những lời chúc lành cầu xin được che chở, ân sủng và bình an: ba hồng ân tóm gọn mọi ước vọng của con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng cách sung mãn. 

-Gl 4: 4-7

Trong đoạn thư gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô khẳng định với chúng ta rằng chúng ta thực sự là nghĩa tử của Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su, Ngài là Con Thiên Chúa được sinh ra làm con của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.

-Lc 2: 16-21

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca tường thuật các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su được Đức Ma-ri-a sinh ra trong máng cỏ là Cứu Chúa của mình.

BÀI ĐỌC I (Ds 6: 22-27)

Trong văn hóa Ít-ra-en, chúc lành không chỉ dành riêng cho giới tư tế. Tất cả những ai có quyền đều có thể chúc lành cho những người dưới quyền, chẳng hạn như người cha chúc lành cho con cái (St 27), anh em trai chúc lành cho chị em gái (St 24: 60), nhà vua chúc lành cho dân chúng (2Sm 6: 18; 1V 8: 55), tư tế chúc lành cho các tín hữu (Lv 9: 22).

Trong đoạn trích Dân Số này, “những lời chúc lành của tư tế” nêu bật sự hiện diện thi ân giáng phúc của Thiên Chúa, Ngài là nguồn mạch của Phúc, Lộc Thọ. Tư tế hành xử chỉ như người trung gian: ông kêu cầu Danh Đức Chúa, Đấng chúc lành cho con cái Ít-ra-en (6: 27). Đây là một trong những đoạn văn đẹp nhất của Ngũ Thư, về phương diện văn chương và thần học.

Đây là những lời chúc lành cổ kính nhất mà Kinh Thánh còn bảo tồn cho chúng ta. Những lời chúc lành này có nội dung giống với vài Thánh Vịnh, như Tv 31:

“Xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời

trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ” (Tv 31: 17)

hay như Tv 67:

“Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,

xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con” (Tv 67: 2).

Trong đoạn trích Dân Số này, những lời chúc lành, được các tư tế sử dụng trong phụng vụ Đền Thờ, gồm ba lời nguyện, mỗi lời nguyện đều bắt đầu với danh xưng Đức Chúa. Danh Thiên Chúa được kêu cầu ba lần bảo đảm với Ít-ra-en rằng sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ đem lại cho họ biết bao ân phúc:

– “Nguyện xin Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh (em)!”.

– “Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!”.

– “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!”.

Các Giáo Phụ nhìn thấy ở nơi ba lời nguyện chúc này tiên trưng Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba lời nguyện chúc này tóm gọn mọi ước vọng của con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đáp ứng cách sung mãn. 

Giáo Hội duy trì truyền thống chúc lành cho tín hữu trong các lễ nghi phụng vụ, nhất là vào cuối cử hành lễ Tạ Ơn, để nguyện xin Thiên Chúa tỏ cho thấy tấm lòng ưu ái của Ngài. Sách Lễ Quy Rô-ma dùng bản văn này như một trong những lời chúc lành nhiệm ý mà chủ tế có thể dùng cuối Thánh Lễ.

BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)

Trong một đoạn trích thư ngắn gởi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô nói cho chúng ta biết chúng ta được ơn làm nghĩa tử của Thiên Chúa là công trình của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

1.Chúa Cha:

Trong công trình này, Chúa Cha là Đấng có sáng kiến và thực hiện khi sai Chúa Con đến để cứu độ chúng ta và sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa chúng ta.

2.Chúa Con (4: 4-5):

Để chúng ta được nên nghĩa tử của Thiên Chúa, “khi tới hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con mình tới”. Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa “sinh làm con một người nữ và sống dưới Lề Luật”. Chính nhờ Con Thiên Chúa được sinh ra bởi Đức Ma-ri-a mà chúng ta trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa. Đời sống nghĩa tử của chúng ta là hoa trái của Tình yêu Thiên Chúa.

3.Chúa Thánh Thần (4: 6):

Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong lòng người Ki-tô hữu, đóng một vai trò đặc biệt trong “ơn nghĩa tử” của chúng ta hiện nay. Nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa, chúng ta trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, và nhờ Chúa Thánh Thần tác động, chúng ta sống ơn nghĩa tử của Thiên Chúa luôn mãi. Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta được cảm nghiệm ơn nghĩa tử này đang khi còn sống trong trần thế này: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!”.

TIN MỪNG (Lc 2: 16-21)

Vào ngày lễ tôn vinh “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”, Giáo Hội mời gọi tín hữu suy gẫm sâu xa đoạn Tin Mừng Lu-ca 2: 16-21. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã chọn Đức Ma-ri-a làm Mẹ của Hài Nhi Giê-su, Ngài là Thiên Chúa thật và là con người thật bất khả phân ly. Vì thế, Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa.

Đoạn Tin Mừng hôm nay tường thuật hai biến cố:

A-Mục Đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su là Cứu Chúa của mình (2: 16-20)

B-Hài Nhi Giê-su chịu phép cắt bì (2: 21)

  1. Các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giê-su là Cứu Chúa của mình (2: 16-20):

Sau khi được các thiên sứ báo một tin mừng trọng đại: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Ngài là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (2: 11) và được ban một dấu chỉ để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (2: 12), các mục đồng cùng nhau lên đường ngay tức khắc. Thánh Lu-ca nêu bật thái độ tích cực của các mục đồng: Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ, phải đi kiểm chứng tức khắc và cố tìm hiểu ý nghĩa dấu chỉ của Người. Thái độ của các mục đồng nói lên biết bao bài học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết sống động: phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20), phản ứng của những người nghe họ kể lại (2: 18) và cuối cùng là phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19).

a.Phản ứng của các mục đồng (2: 16-17, 20)

Các mục đồng “liền hối hả ra đi” vì họ quá vui mừng và nôn nóng gặp Đấng Cứu Độ. Trước đây, thánh Lu-ca đã nhận xét rằng sau biến cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a “vội vả ra đi” để gặp bà Ê-li-sa-bét (Lc 1: 39). Một người đã mở trọn tâm hồn mình cho Thiên Chúa bước vào cuộc đời mình thì hân hoan vui mừng vì Thiên Chúa đã viếng thăm mình và cuộc sống của mình có được năng lực mới, như lời giải thích của thánh Giáo Phụ Am-rô-si-ô: “Không ai tìm kiếm Đức Ki-tô chỉ một nữa tấm lòng” (Expositio Evangelii sec. Lucam., in loc.).

Trong hoạt cảnh Giáng Sinh, thánh Lu-ca ba lần nói đến “máng cỏ”. Trong lần thứ nhất, Đức Ma-ri-a “sinh con trai đầu lòng, lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (2: 7). Trong lần thứ hai, sứ thần cho các mục đồng một dấu chỉ để nhận ra Ngài: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”, dấu chỉ này tương phản với tin vui trọng đại mà thiên sứ đã loan báo cho họ: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (1: 10-12). Trong lần thứ ba của đạon Tin Mừng hôm nay, các mục đồng đến nơi “họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Những gì họ chứng kiến cũng tương phản với phản ứng của họ vào lúc kết thúc hoạt cảnh này: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa” (1: 20).

Tương phản nầy tiên báo một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của Đồi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thân làm người không phải là để một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Tuy nhiên, trong mạch văn, Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ, tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ này: dấu chỉ để nhận ra Ngài đó là “một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Chiếc tã đầu đời của Ngài là chiếc khăn trùm đầu một nắng hai sương của Mẹ Ngài và máng cỏ cho bò lừa ăn là chiếc nôi đầu đời của Ngài, đó là dấu chỉ cho những mục đồng nghèo khổ và bị khinh miệt này nhận ra được Đấng Cứu Thế đã đến: con trẻ sơ sinh này sẽ là Đấng sau này đón tiếp những kẻ tội lỗi và đồng bàn với họ (15: 2). Thiên Chúa đã ưu ái những người phận hèn bé mọn (x. Cn 3: 32).

Các mục đồng lên đường đến Bê-lem theo dấu chỉ mà các sứ thần đã loan báo cho họ. Và sau khi đã kiểm chứng, “họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này”. Các mục đồng là những chứng nhân đầu tiên về cuộc Giáng Sinh của Đấng Cứu Độ. “Các mục đồng không hài lòng tin vào biến cố hạnh phúc mà thiên sứ công bố cho họ và đầy kinh ngạc, họ đã chứng kiến tận mắt; họ đã bày tỏ niềm vui của mình không chỉ với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se nhưng cho mọi người và, còn hơn nữa, họ cố gắng ghi khắc biến cố này trong tâm khảm của họ” (Photius, Ad Amphilochium, 155).

Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thành Lu-ca phác họa chân dung của những người Ki-tô hữu: “Họ liền hối hả ra đi” (2: 16) và “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt  thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (1: 20).

b.Phản ứng của những người nghe các mục động kể lại (2: 18)

Đấng được các ngôn sứ loan báo biết bao lần và được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, nay vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất, vì thế, “khi nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên”“Tại sao không kinh ngạc cho được, khi thấy trên cõi thế Đấng ở trên cõi trời, và đất và trời được hòa giải; khi thấy Hài Nhi khôn tả liên kết điều gì là trời – thần tính – và điều gì là đất – nhân tính – sáng tạo một giao ước kỳ diệu qua sự hiệp nhất này. Không chỉ họ kinh khiếp trước mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng cũng trước lời chứng vĩ đại mà các mục đồng làm chứng, những người đã không thể bịa ra điều gì họ đã không nghe và công bố một cách hùng hồn sự thật” (Photius, Ad Amphilochium, 155).

Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ khỏi mọi thiên kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký về đức nghèo khó. Những mục đồng là những kẻ bị liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các tiến sĩ Luật nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gởi đến. Chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21).

c.Phản ứng của Đức Ma-ri-a (2: 19)

Thánh Lu-ca ghi nhận nhân cách quý báu của Đức Ma-ri-a: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Qua ghi nhận này, thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh ký. Thánh Lu-ca đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thần linh, nhưng khởi đi từ những sự kiện mà ông đã gìn giữ từ chính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng để cố hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ.

Lời ghi nhận này, được lập lại đến hai lần (ở đây và ở 2: 51), nói với chúng ta nhiều điều về Đức Mẹ. Với thái độ cung kính, Mẹ chiếm ngắm những điều kỳ diệu được hiện thực ở nơi cuộc Giáng Trần của Con Thiên Chúa và cũng là con của Mẹ. Mẹ đã gẫm suy chúng, chiêm ngắm chúng và cất giữ chúng vào trong cõi thinh lặng của tấm lòng Mẹ. Mẹ là Bậc Thầy đích thật của cầu nguyện. “Đức Ma-ri-a sử dụng cả ba năng lực quan trọng của con người. Đức Ma-ri-a ghi nhớ tất cả những gì đã nghe, đó là ký ức. Đức Ma-ri-a suy nghĩ về các điều đó, tức là dùng lý trí. Đức Ma-ri-a suy nghĩ trong lòng, tức là dùng tình cảm, vì xúc động. Ký ức, lý trí, tình cảm đều được dùng để ứng xử với những gì đã nghe” (“Nước Suối Giữa Sa Mạc”, 84).

Nếu chúng ta noi gương Mẹ, nếu chúng ta gìn giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng mình điều gì mà Đức Giê-su nói với chúng ta và điều gì Ngài làm trong chúng ta, chúng ta thật sự bước trên đường thánh thiện Ki-tô giáo và chúng ta sẽ không bao giờ thiếu đạo lý của Ngài và ân sủng của Ngài. Cũng vậy, bằng việc chiêm niệm theo cách thức này về giáo huấn Đức Giê-su đã cho chúng ta, chúng ta sẽ đạt được một sự hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm của Đức Ki-tô như Giáo Huấn của Công Đồng Va-ti-can II: “Thánh Truyền do các Tông Đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận các điều đó trong lòng (x. Lc 2: 19 và 51); nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ những việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức Giám Mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội” (Vatican II, Dei Verbum, 8).

B.Hài Nhi Giê-su chịu phép cắt bì (2: 21)

Phép cắt bì là một nghi thức được Thiên Chúa thiết lập để xác định những ai thuộc về dân Chúa chọn. Người đã truyền lệnh cho ông Áp-ra-ham thiết định phép cắt bì như một dấu chỉ Giao Ước mà Người đã ký kết với ông và tất cả dòng dõi của ông (x. St 17: 10-14), khi quy định rằng con trẻ sẽ chịu phép cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh. Nghi thức được thực hiện ở tại tư gia hay ở hội đường, kèm theo những kinh nguyện và việc đặt tên cho con trẻ. Khi chấp nhận sinh ra trong một gia đình Do thái, Đức Giê-su cũng tuân theo định chế này: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su”:

Với định chế Phép Rửa Ki-tô giáo, lệnh truyền cắt bì không còn được áp dụng nữa. Ở Công Đồng Giê-ru-sa-lem (x. Cv 15: 1tt.), các Tông Đồ dứt khoát công bố rằng những ai gia nhập Giáo Hội không cần phải chịu phép cắt bì. Thánh Phao-lô dạy cách minh nhiên rằng phép cắt bì không còn thích đáng trong bối cảnh của Giao Ước Mới được Đức Ki-tô thiết lập (Gl 5: 2tt.; 6: 12tt.; Cl 2: 11tt.).

Tên Giê-su có nghĩa “Đức Chúa cứu độ” hay “Đức Chúa là ơn cứu độ”, tức là, “Đấng Cứu Độ”. Tên này được ban cho Hài Nhi không như thành quả của bất cứ quyết định phàm nhân nào nhưng tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa mà sứ thần đã truyền đạt cho Đức Trinh Nữ và thánh Giu-se (x. Lc 1: 31; Mt 1: 21).

LỄ HIỂN LINH

 Lễ Hiển Linh mời gọi chúng ta suy niệm về Giáo Hội, Bí Tích Hiệp Nhất toàn thể gia đình nhân loại chung quanh Hài Nhi Giê-su, Đấng Cứu Độ của mình.

Is 60: 1-6

Ngôn sứ I-sai-a loan báo hình ảnh vinh quang của Giê-ru-sa-lem mới, tiên trưng Giáo Hội: “Muôn dân muôn nước sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.

Ep 3: 2-3a, 5-6

Thánh Phao-lô có sứ mạng loan báo “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa” nay được tỏ lộ, đó là muôn dân muôn nước trên khắp toàn cõi địa cầu đều được kêu mời họp thành một dân tộc duy nhất là Giáo Hội, trở nên một thân thể duy nhất là Nhiệm  Thể Đức Giê-su Ki tô.

Mt 2: 1-12

Từ một hiện tượng thiên nhiên: ánh sao lạ, đến Mặc Khải: Lời Chúa, các nhà chiêm tinh, tiên trưng Giáo Hội, được soi lối chỉ đường đến thờ lạy Chúa Hài Nhi, Đấng Cứu Độ trần gian.

BÀI ĐỌC I (Is 60: 1-6)

Các ngôn sứ Cựu Ước đều đã công bố sứ mạng phổ quát của thành thánh Giê-ru-sa-lem. Các ngài đã mở rộng những viễn cảnh của dân Ít-ra-en vượt qua chủ nghĩa quốc gia và nhấn mạnh một trong những yêu sách mà ơn gọi của họ đòi hỏi: phải là ánh sáng cho muôn dân muôn nước.

Bản văn Cựu Ước được chọn để mừng lễ Hiển Linh trích từ tác phẩm của một trong số các ngôn sứ nầy. Ông là vị ngôn sứ vô danh, môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vì thế người ta gọi ông là I-sai-a đệ tam (Is 56-66). Ông thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem giữa những năm 537-520, nghĩa là sau cuộc hồi hương trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon.

1.Vinh quang của Thành Đô Giê-ru-sa-lem mới (60: 1-2).

Ông loan báo sứ điệp đầy tin tưởng và lạc quan để an ủi cộng đoàn đang chán chường và thất vọng.

Cuộc trở về quê cha đất tổ đã đem lại một tinh thần phấn chấn cho những người hồi hương; nhưng rồi sớm vỡ mộng. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bần cùng và thưa thớt người, chẳng khác gì một làng quê. Cảnh Đền Thờ hoang phế trơ gan cùng tế nguyệt gần năm mươi năm trôi qua. Đất đai bị những người ngoại kiều, nhất là dân Sa-ma-ri chiếm đoạt… Cuối cùng, những nổ lực tái thiết Đền Thánh bị dang dỡ.

Chính vào lúc ấy, một sấm ngôn vang lên để an ủi những ai mất can đảm. Làm thế nào phải thất vọng được chứ khi Thiên Chúa đã tỏ mình ra bằng cách cho họ được trở về quê cha đất tổ:

“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi,

vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi.

Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;

còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa,

 vinh quang Người xuất hiện trên ngươi

Những kẻ áp bức đã bị nghiền nát. Thành thánh Giê-ru-sa-lem được ví như “ánh sáng bừng lên”. Đức Chúa được sánh ví như “bình minh chiếu tỏa”. Những biến cố sau đó sẽ còn rực rỡ hơn nữa. Vị ngôn sứ đưa ra hai thị kiến chứa chan hy vọng.

2.Cuộc tụ họp vĩ đại (60: 3-4).

 “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi,

vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.

Đưa mắt về tứ phía mà xem, tất cả đều tụ họp, kéo đến với ngươi:

con trai ngươi từ phương xa tới,

con gái ngươi được ẵm bên hông”.

Những con trai con gái nầy là những “cộng đồng Do thái hải ngoại” (họ không bao giờ vắng bóng trong tâm trí của ngôn sứ I-sai-a đệ tam). Thế nên, một truyền thống rất sống động muốn rằng sự thống nhất của toàn thể dân Ít-ra-en phải là công trình của Đấng Thiên Sai. Như vậy, sấm ngôn bao hàm hậu cảnh Thiên Sai.

Thế nhưng những con trai con gái từ phương xa này cũng là muôn dân nước sẽ tiến đến Giê-ru-sa-lem như Thành Đô của mình vì uy danh Đức Chúa  trên thành quyến rủ họ.

3.Nguồn phú túc của chư dân sẽ đổ về Thành Đô (60: 5-6).

Thị kiến chứa chan hy vọng thứ hai được nối kết với thị kiến thứ nhất: chư dân sẽ đề xuất sự phú túc của mình để phụng sự Thành Thánh:

“Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ,

lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ,

vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả,

của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.

Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà của người Ma-đi-an và Ê-pha;

tất cả những người từ Sơ-va kéo đến,

đều mang theo vàng với trầm hương,

và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa”.

Những người Ma-đi-an, Ê-pha và Sơ-va là những dân miền Á-rập. Tên Sơ-va gợi lên kỷ niệm của nữ hoàng xứ Sơ-va đến triều yết vua Sa-lô-mon và dâng tặng cho vua nhiều quà tặng quý giá.

Thành đô Giê-ru-sa-lem sẽ không còn lầm than, nhưng sống trong cảnh phú túc thịnh vượng. Thành Đô sẽ lại vùng đứng lên từ những hoang tàn đổ nát, Đền Thánh sẽ được tái thiết để trở thành nơi xứng đáng cho muôn dân đến tán dương ca tụng Thiên Chúa của dân mình.

Bức tranh muôn màu rực rỡ của vị ngôn sứ xem ra loan báo trước dáng dấp của các nhà chiêm tin, tiên trưng muôn dân muôn nước đến tôn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en. Vị ngôn sứ thoáng thấy điều mà thánh Phao-lô sẽ gọi “mầu nhiệm giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa”: muôn dân muôn nước đồng thừa tự với người Do thái, dân của Lời Hứa (Bài Đọc II). Thị kiến hùng vĩ về một cuộc sum họp bao la chung quanh Thiên Chúa đích thật chuẩn bị thị kiến của thánh Gioan trong sách Khải Huyền: thành đô Giê-ru-sa-lem tương lai là Thành Đô thiên quốc mà bản phác thảo của nó trên trần thế nầy là Giáo Hội.

BÀI ĐỌC II (Ep 3: 2-3, 5-6)

Thánh Phao-lô viết thư nầy có lẽ trong khi ngài bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-63. Thánh nhân ngỏ lời với tín hữu Ê-phê-xô, đúng hơn với các cộng đoàn khác nữa ở miền Tiểu Á, mà thánh nhân muốn thư của mình được chuyển đến.

Những cộng đoàn nầy đa số là những Ki tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô nhắc nhở họ ơn gọi tông đồ dân ngoại của mình. Nhiệm vụ của ngài là loan báo cho họ không còn một dân tộc đặc quyền đặc lợi nữa vì muôn dân được chấp nhận đồng thừa hưởng cùng một ơn cứu độ như dân Do thái.

1.Mầu nhiệm của Đức Ki tô: 

Sứ điệp trọng tâm của bức thư nầy là “mầu nhiệm của Đức Ki tô”. Qua từ “mầu nhiệm” nầy, thánh Phao-lô muốn nói đến ý định ẩn kín từ muôn thuở ở nơi Thiên Chúa mà người ta có thể biết được chỉ nhờ Mặc Khải mà thôi.

Đối với thánh nhân, các thầy thông luật đã học hỏi Kinh Thánh dù thành tâm mấy đi nữa cũng không thể nào biết được mầu nhiệm: “nhờ rao giảng Tin Mừng và được liên kết với Đức Giê-su Ki tô, các dân ngoại cũng được đồng thừa tự với người Do thái”. Thánh nhân đã hiểu được Thiên Ý nhiệm mầu nầy chỉ nhờ ơn soi sáng của Đức Giê-su trên đường Đa-mát.

2.Dân thánh:

 Từ trong chốn lao tù của mình, vào lúc cuộc đời xế bóng, thánh Phao-lô không quên liên kết sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của mình với tất cả các tông đồ và các nhà rao giảng khác (những người mà thánh nhân gọi “ngôn sứ”), họ là những người đã lãnh nhận Thần Khí và thi hành sứ vụ như ngài. Qua cách diễn tả “các thánh”, thánh nhân không gợi lên sự thánh thiện nói riêng, nhưng chỉ chung tất cả mọi người Ki-tô hữu. Xuống vài hàng, thánh Phao-lô khiêm tốn tự nhận mình là “kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh”.

3.Vị Tông Đồ của dân ngoại:

Thánh nhân đã hiến dâng mọi sức lực của mình cho ơn gọi của mình. Sách Công Vụ tường thuật thánh nhân đã nhiệt thành thực hiện sứ mạng của mình biết là ngần nào: trèo non lặn suối, vượt biển băng ngàn không quản ngại gian nguy. Chương 13 tường thuật một chi tiết điển hình: sau bài thuyết giáo của thánh nhân ở hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a, người Do thái sinh lòng ghen tức…trong khi dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa.

Đó cũng là hai thái độ khác nhau mà thánh Mát-thêu nêu bật trong hoạt cảnh “Các Nhà Chiêm Tinh đến triều yết Chúa Hài Nhi”.

TIN MỪNG (Mt 2: 1-12)

Thánh Mát-thêu là vị thánh ký duy nhất tường thuật biến cố “các nhà chiêm tinh đến yết kiến Chúa Hài Nhi”. Ông đã giữ lại chuyện tích nầy vì nó xác minh một trong những chủ đề sách Tin Mừng của ông. Chính quyền và giáo quyền Giê-ru-sa-lem đã không nhận ra Đấng Cứu Độ; vì thế, Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho dân ngoại gia nhập Giao Ước, bởi vì sứ điệp Tin Mừng cũng được gởi đến cho họ. Thật lạ lùng trong khi dân ngoại đáp trả lời mời gọi, thì con cái của Lời Hứa lại quay lưng với Giao Ước.

Thánh Lu-ca trình bày cho chúng ta các mục đồng đến chiêm ngưỡng và thờ lạy Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người đơn sơ, khiêm tốn, chân thành và nghèo khó. Trong khi đó, thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta các nhà chiêm tinh từ phương xa vạn dặm đến triều bái Chúa Hài Nhi, họ đại diện những người giàu có, thông thái. Những người đầu tiên là những thành viên của dân Chúa chọn, trong khi những người thứ hai đến từ thế giới ngoại giáo. Hai bức tranh tương phản nhưng bổ túc cho nhau.

1.Lên đường theo ánh sáng tự nhiên.

Trong chuyện tích Tin Mừng Mát-thêu, ngôi sao được trình bày như một hiện tượng thiên nhiên. Nhưng xa hơn một chút, thánh ký làm cho nó thành một dấu hiệu: ánh sáng của ngôi sao là lời kêu gọi mầu nhiệm soi lối dẫn đường cho các nhà chiêm tinh nầy như Thánh Vịnh đã nói với chúng ta:

“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,

không trung loan báo việc tay Người làm.

Ngày qua mách bảo cho ngày tới,

đêm nầy kể lại với đêm kia.

Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,

 mà tiếng vang đã vang dội khắp hoàn cầu

và thông điệp loan đi tới khắp chân trời góc biển” (Tv 19: 2-5).

Nếu chỉ suy nghĩ một cách sâu xa biến bao biến cố xảy ra trong đời thường là những ánh sao lạ thúc đẩy chúng ta lên đường đấy chứ.

2.Dừng chân ở Giê-ru-sa-lem.

Các nhà chiêm tinh đến Giê-ru-sa-lem bởi vì “vua dân Do thái” mà họ tìm kiếm. Thánh Mát-thêu có chủ ý dùng tước hiệu nầy: đó là tước hiệu được ghi ở nơi bản án kết tội của Đức Giê-su: “Người nầy là Giê-su, vua dân Do thái” (Mt 27: 37).

Sự xuất hiện của các nhà chiêm tinh ở Giê-ru-sa-lem làm cho vua Hê-rô-đê và triều thần của vua bối rối. Điều nầy xem ra cũng dễ hiểu thôi vì vua cùng triều thần của vua nghĩ đến một đối thủ bất ngờ xuất hiện. Nhưng cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao thì quả thật là lạ lùng. Tại sao dân thành Giê-ru-sa-lem không vui mừng nhỉ? Đây là lời ghi nhận mang đậm nét Tin Mừng Mát-thêu. Thánh Mát-thêu không thích Giê-ru-sa-lem, bởi vì dân nầy đã lỗi hẹn gặp gỡ Đấng Cứu Độ mà họ trông đợi qua những lời loan báo của các ngôn sứ. Ở nơi nỗi xao xuyến của dân thành Giê-ru-sa-lem, thánh ký báo trước việc dân nầy sẽ từ chối Đức Giê-su trong tương lai. Mặt khác, vào thời điểm thánh Mát-thêu viết Tin Mừng của mình, những người Do thái chống đối cộng đoàn Ki-tô hữu rất dữ dội. Sự căng thẳng nầy có thể được nhận ra ở nơi những lời nhận xét nầy.

“Nhà vua triệu tập các thượng tế, các kinh sư lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ở đâu”. Các thượng tế là những lãnh tụ tối cao của Do thái giáo và các kinh sư là những chuyên viên Kinh Thánh, vì thế họ có thể trả lời cho các nhà chiêm tinh biết chính xác Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu. Họ rất tự phụ về sự hiểu biết Kinh Thánh của mình, nhưng họ không muốn đi xa hơn. Sự hiểu biết Kinh Thánh của họ đã soi lối chỉ đường cho những người ngoại quốc xa lạ nầy đến với Chúa Hài Nhi, trong khi chính họ và toàn thể dân thành Giê-ru-sa-lem từ chối đến với Ngài. Như vậy sự quy tụ của những người ngoại quốc chung quanh vị vua Do thái vừa mới sinh nầy xem ra là hình ảnh tham dự trước một cuộc quy tụ vĩ đại của Giáo Hội đến từ muôn dân.  

Bản văn mà các kinh sư trích dẫn là lời sấm của ngôn sứ Mi-kha (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên) được thánh Mát-thêu thay đổi một chút. Trong khi ngôn sứ Mi-kha viết:

“Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha,

ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giu-đa,

từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện

một vị có sứ mạng thống lãnh Ít-ra-en ” (Mk 5: 1),

còn lời trích dẫn của bản văn Mát-thêu thì viết:

“Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa,

ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa,

vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.

Rõ ràng trong bản văn của mình, thánh Mát-thêu không trích dẫn nguyên văn lời sấm của Mi-kha, nhưng còn sửa đổi và thêm “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta…” (2Sm 5: 2).

Vua Hê-rô-đê bí mật triệu tập các nhà chiêm tinh và dò hỏi tường tận ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện để xác định chính xác thời gian xuất hiện của Hài Nhi. Rõ ràng nhà vua có mưu đồ hãm hại Hài Nhi rồi, nhưng với thái độ giả nhân giả nghĩa nhà vua nói với họ: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái yết Người”.

Vài nét chấm phá trên đây phác họa chân dung của nhân vật nầy sát với những gì các sử gia miêu tả về vị bạo chúa nầy: tâm địa ngờ vực, thù hằn, mê tín dị đoan và tàn bạo cho đến điên cuồng khát máu. Ông ra lệnh thảm sát vợ ông, bà Marianne, cùng nhiều người thân của bà, ba người anh em họ và ba người con riêng của bà. Chính ông ra lệnh hành hình nhiều người Pha-ri-sêu trước công chúng. Cũng như ông truyền lệnh thiêu sống mười bốn trẻ em để trả thù cho việc dân chúng đã phá đổ con ó bằng vàng mà ông đã cho đặt trước Đền Thờ. Vì thế, đối với vị vua nầy, việc thảm sát các hài nhi Bê-lem không có gì là không thể. Vì danh vọng và quyền lực người ta có thể làm bất cứ điều gì dù mất đi nhân tính của mình đi nữa.

Phải chăng việc các nhà chiêm tinh dừng chân ở Giê-ru-sa-lem được khai triển theo cách thức giải thích “Midrash” ? Chắc chắn một phần nào đó. Chúng ta đọc thấy cách giải thích Midrash về cuộc chào đời của Mô-sê như sau: “Pha-ra-ô triệu tập tất cả các nhà thông thái và triều đình …Toàn dân kinh hải…một hoàng tử triều yết vua và tấu trình lên vua…một hài nhi sắp chào đời cho con cái Ít-ra-en. Xin ra lệnh giết tất cả nam nhi…”. Đây là lời chú giải Midrash trên đoạn văn sách Xuất Hành 1: 9-22. Phải chăng thánh Mát-thêu đã được gợi hứng từ phương thức nầy? Hai hoàn cảnh tương tự như nhau thì rất rõ.

3.Lên đường theo ánh sáng Lời Chúa.

Chắc chắn cũng phải lưu ý đến cách thức tô điểm midrash ở nơi việc tái xuất hiện của vị sao lạ nầy. Việc ngôi sao lạ này lại xuất hiện có cần thiết không, bởi vì Kinh Thánh đã cho họ thông tin chính xác về nơi sinh hạ của Hài Nhi rồi. Ấy vậy, làng nầy rất gần với Giê-ru-sa-lem, cách khoảng 9 km. Vậy, ánh sao dẫn lối đưa đường các nhà chiêm tinh đến Bê-lem phải được hiểu theo văn mạch là “ánh sáng Lời Chúa”. Quả thật, Thánh vịnh đã không nói với chúng ta: “Lời Chúa là ánh sáng soi lối dẫn đường cho bước chân con đi” sao?

4.Gặp gỡ Ngôi Lời Thiên Chúa làm người.

Bấy giờ các nhà chiêm tinh gặp thấy Hài Nhi không còn trong “hang lừa máng cỏ” nữa, nhưng trong “nhà”. Một khoảng thời gian đã trôi qua giữa Hài Nhi chào đời và các nhà chiêm tinh đến yết kiến: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a…” Như vậy, theo dấu chỉ của Lời Chúa, họ đã đến gặp gỡ chính Đấng mà Tin Mừng Gioan tuyên xưng: “Ngôi Lời làm người và cư ngụ ở giữa chúng ta”. Chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước quy về và cũng chính ở nơi Ngài mà Cựu Ước gặp thấy ý nghĩa tròn đầy của mình.

Chúng ta ghi nhận thánh Giu-se không được kể ra ở đây. Điều nầy thật lạ lùng, vì cho đến lúc nầy thánh Mát-thêu rất chú ý đến những sự việc xảy ra cho thánh Giu-se. Việc không nhắc đến thánh Giu-se ở đây có ẩn ý gì? Phải chăng đây là dấu chỉ đầu tiên bày tỏ niềm tôn kính dành cho Đức Trinh Nữ ở nơi cách nói “Hài Nhi cùng với thân mẫu của Ngài”?

Với tấm lòng tôn kính và quảng đại Đông Phương quen thuộc, họ dâng tiến các tặng vật lên Hài Nhi bé bỏng mà họ nhận ra ở nơi cái vẻ bên ngoài quá mức tầm thường nầy là một vị vua vừa mới giáng sinh. Các Giáo Phụ cố gắng giải mã ý nghĩa của những phẩm vật nầy: vàng là phẩm vật cao quý được dâng tặng cho vua, vì Hài Nhi nầy là vua; nhũ hương là hương liệu được đốt trên bàn thờ của các thần linh, tỏa hương trầm nghi ngút, vì Hài Nhi nầy là Thiên Chúa; mộc dược là một trong những vật liệu được dùng để ướp xác, vì Hài Nhi nầy sẽ thực hiện ơn cứu độ trần gian bằng con đường Tử Nạn. Như vậy, qua ba phẩm vật đầy ý nghĩa nầy, các nhà chiêm tinh tuyên xưng Hài Nhi Giê-su là vua, Thiên Chúa và cũng là Đấng Cứu Thế.

Các nhà chiêm tinh đến từ xa thời lạy Hài Nhi, thế là các sấm ngôn về Đấng Cứu Thế trần gian được ứng nghiệm ở nơi Hài Nhi Giê-su nầy (Tv 72: 10-15; Is 60: 5tt; 49: 23; Ds 24: 17).

Người ta có thể nêu lên vấn đề lịch sử tính của câu chuyện nầy, nhưng không ai có thể chối cãi đây là cuộc hành trình tâm linh của chính Giáo Hội vốn từ muôn dân mà đến khởi đi từ con đường mặc khải tự nhiên: một hiện tượng thiên nhiên, một biến cố, một hoàn cảnh sống… đến con đường mặc khải siêu nhiên: Lời Chúa, để rồi cuối cùng gặp gỡ chính Đấng là Ngôi Lời Thiên Chúa. Theo một cách nào đó, đây cũng là cuộc hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta.


https://kinhthanhvn.net/goi-y-bai-giang/goi-y-bai-giang-le-duc-ma-ri-a-me-thien-chua.html