Trang

Thứ Ba, 30 tháng 6, 2020

Bộ Giáo lý đức tin: Một vài suy xét liên hệ đến những người đồng tính

Bộ Giáo lý đức tin: Một vài suy xét liên hệ đến những người đồng tính

 
  •  
  •  
BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
MỘT VÀI SUY XÉT LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC ĐÁP TRẢ CÁC DỰ LUẬT VỀ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG TÍNH
Chuyển ngữ: BS Trần Như Ý Lan, C.N.D
từ 
vatican.va
WHĐ (30.6.2020) - Gần đây, dự luật coi việc phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tình dục là bất hợp pháp được đề xuất ở nhiều khu vực khác nhau. Tại một số thành phố, chính quyền đã xây các nhà công cộng dành cho các cặp đồng tính (cũng như các cặp khác phái tính chưa kết hôn), mà đúng ra những nhà này phải được dành cho các gia đình. Những sáng kiến như thế trong thực tế có thể gây tác động xấu đến gia đình và xã hội, ngay cả khi chúng có vẻ hướng đến việc hỗ trợ các quyền dân sự căn bản, hơn là dung dưỡng các hoạt động và lối sống đồng tính. Những vấn đề như việc nhận con nuôi, việc thuê giáo viên, nhu cầu cần nhà ở của các gia đình đích thực, các sự quan tâm chính đáng của chủ nhà trong việc kiểm tra người thuê tiềm năng, thường đều bị ảnh hưởng.
Mặc dù không thể tiên liệu mọi việc liên hệ đến các dự luật về lãnh vực này nhưng những quan sát sau đây sẽ cố gắng xác định một vài nguyên tắc và sự phân biệt có tính chất tổng quát mà các nhà lập pháp thiện chí, các cử tri, hay giáo quyền cần cân nhắc khi đối diện với những vấn đề trên.
Phần thứ nhất sẽ nhắc lại các đoạn trong Thư gửi các Giám mục của Hội thánh Công giáo về vấn đề mục vụ cho những người đồng tính năm 1986 của Bộ Giáo lý Đức tin. Phần thứ hai sẽ bàn đến việc áp dụng chúng.
I. CÁC ĐOẠN CÓ LIÊN QUAN TỪ LÁ THƯ CỦA BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
1. Lá thư gợi nhớ rằng “Tuyên ngôn về một số vấn đề liên quan đến đạo đức Tính dục” của Bộ Giáo lý Đức tin năm 1975 “đã ghi nhận sự phân biệt giữa tình trạng hay xu hướng đồng tính luyến ái với hành vi quan hệ đồng tính”; loại thứ hai là “lệch lạc nội tại” và “không thể được chấp nhận trong bất cứ trường hợp nào” (số 3).
2. Vì “trong việc bàn luận theo sau việc ban hành bản tuyên ngôn (nói trên) ..., người ta ghi nhận một biện giải quá nhân nhượng được dành cho tình trạng đồng tính, và một số bàn luận đi xa hơn khi coi tình trạng đó là trung tính hay thậm chí là tốt”, lá thư tiếp tục minh định rằng: “Mặc dù một khuynh hướng nào đó của người đồng tính không phải là một tội, nhưng nó ít nhiều cũng là một sự khuynh chiều được thiết định hướng tới một sự dữ luân lý nội tại; và vì thế khuynh hướng ấy phải được nhìn nhận như một sự lệch lạc có tính khách quan.
Do đó, sự quan tâm đặc biệt và lưu ý mục vụ cần hướng đến những người trong tình trạng này kẻo họ tin rằng việc sống khuynh hướng đồng tính qua những hành vi đồng tính là một lựa chọn luân lý có thể chấp nhận được. Thực tế không phải vậy” (số 3).
3. “Như trong mọi lệch lạc về luân lý, hoạt động đồng tính luyến ái ngăn trở sự viên mãn con người cũng như ngăn cản hạnh phúc của người ấy bằng hành vi trái nghịch với sự khôn ngoan sáng tạo của Thiên Chúa. Khi gạt bỏ những tư tưởng sai lạc về đồng tính luyến ái, Hội thánh không giới hạn, nhưng đúng hơn bảo vệ tự do cá nhân và nhân phẩm được hiểu theo nghĩa thực tế và đích thật ” (số 7).
4. Đối với phong trào đồng tính luyến ái, lá thư xác định: “Một chiến thuật được dùng để phản đối rằng bất kỳ hay mọi lời chỉ trích, sự e dè dành cho người đồng tính, hoạt động và lối sống của họ đều là các hình thức khác nhau của sự phân biệt đối xử cách bất công” (số 9).
5. “Một số quốc gia nỗ lực thao túng Hội thánh bằng cách giành lấy sự ủng hộ từ các mục tử, các vị này thường với ý hướng ngay lành, nhằm thay đổi quy chế dân sự và luật pháp. Điều này được thực hiện nhằm thích ứng với khái niệm của các nhóm có thế lực trong xã hội, những người này cho rằng đồng tính ít ra là điều hoàn toàn vô hại, nếu không muốn nói là điều hoàn toàn tốt. Ngay cả khi việc thực hành đồng tính có thể đe dọa nghiêm trọng đến đời sống và phúc lợi của phần lớn dân chúng, những người ủng hộ nó vẫn không lay chuyển và từ chối xem xét đến mức độ rủi ro to lớn đi kèm” (số 9).
6. “Hội thánh cũng ý thức rằng quan điểm cho rằng nên nhìn nhận hành vi đồng tính tương đương, hay có thể được chấp nhận như sự diễn tả tình dục của tình yêu vợ chồng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hiểu biết của xã hội về bản chất và các quyền lợi của gia đình và phá hủy chúng” (số 9).
7. “Đáng tiếc là những người đồng tính đã và đang là đối tượng của sự ác mang tính bạo lực trong ngôn từ cũng như hành vi. Lối hành xử như thế đáng bị các mục tử của Hội thánh lên án ở bất cứ nơi nào nó xảy ra. Điều đó bộc lộ một kiểu coi thường người khác vốn gây nguy hại cho các nguyên tắc cơ bản nhất của một xã hội lành mạnh. Phẩm giá nội tại của mỗi người luôn phải được tôn trọng trong lời nói, hành vi và luật pháp.
Nhưng phản ứng đúng đắn đối với tội ác xúc phạm tới người đồng tính không nên là việc tuyên bố rằng tình trạng đồng tính không lệch lạc. Khi một tuyên bố như thế được đưa ra và khi hành vi đồng tính luyến ái được dung dưỡng, hay khi mà luật dân sự được giới thiệu để bảo vệ những hành vi đồng tính đến mức không ai có quyền can thiệp, thì Hội thánh nói riêng cũng như xã hội nói chung sẽ không ngạc nhiên khi những quan niệm và thực hành sai lạc chiếm được chỗ đứng; đồng thời các phản ứng vô lý cũng như bạo lực sẽ gia tăng” (số 10).
8. “Điều cần tránh bằng mọi giá là sự giả định vô căn cứ và mất nhân phẩm cho rằng hành vi tình dục của những người đồng tính luôn luôn và hoàn toàn bị thúc bách và vì vậy không có tội gì. Điều chính yếu là sự tự do nền tảng, thứ tạo nên tính cách con người và đem lại cho người ta phẩm giá, phải được nhìn nhận như điều cũng thuộc về người đồng tính luyến ái” (số 11).
9. “Trong việc đánh giá luật được đề xuất, các giám mục nên đặt mối quan tâm hàng đầu của mình vào trách nhiệm bảo vệ và quảng bá đời sống gia đình” (số 17).
II. CÁC ÁP DỤNG
10. Xét ở khía cạnh tránh phân biệt đối xử, “khuynh hướng tình dục” không tạo nên một phẩm chất có thể so sánh với chủng tộc, sắc tộc. Không giống những điều này, khuynh hướng đồng tính luyến ái là một lệch lạc có tính khách quan (xem Thư, số 3) và gợi lên mối liên hệ luân lý.
11. Có những lãnh vực trong đó không có sự phân biệt đối xử cách bất công khi xem xét đến khuynh hướng tình dục, chẳng hạn như trong việc nhận con nuôi hay chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, việc nhận giáo viên cũng như huấn luyện viên thể thao, và trong việc tuyển binh.
12. Những người đồng tính, với tư cách là con người, có quyền như mọi người, bao gồm cả quyền không bị đối xử theo cách làm mất phẩm giá cá nhân (xem số 10). Trong số các quyền khác, tất cả mọi người đều có quyền làm việc, quyền có chỗ ở, v.v. Tuy nhiên, những quyền này không tuyệt đối hoàn toàn. Chúng có thể bị hạn chế theo đúng luật vì hành vi bên ngoài biểu hiện sự lệch lạc mang tính khách quan. Điều này đôi khi không chỉ là hợp pháp nhưng còn mang tính đòi buộc nữa. Điều này rõ hơn không chỉ với trường hợp hành vi phạm tội mà thậm chí còn ngay cả trong trường hợp các hành vi biểu hiện bệnh về thể lý hay thần kinh. Vì thế, người ta chấp nhận rằng nhà nước có thể hạn chế việc thực thi các quyền để bảo vệ lợi ích chung, chẳng hạn như trong trường hợp những người bị bệnh truyền nhiễm hoặc bệnh tâm thần.
13. Gộp chung cả “khuynh hướng đồng tính luyến ái” vào trong số những khoản được xem là cấm phân biệt đối xử có thể dễ dàng đưa đến việc xem đồng tính luyến ái là một nguồn tích cực của nhân quyền, chẳng hạn như đối với hành vi khẳng định hay đối xử ưu đãi trong thực hành tuyển dụng. Điều này càng thêm nguy hại vì chẳng hề có quyền nào gắn với đồng tính (xem số 10) nên không có cơ sở nào cho việc hình thành các tuyên bố mang tính pháp lý. Việc thừa nhận đồng tính như một yếu tố mà trên cơ sở đó hình thành việc cấm phân biệt đối xử có thể dễ, nếu không muốn nói là tự động, dẫn đến việc bảo vệ và cổ võ về phương diện pháp lý đồng tính luyến ái. Việc đồng tính của một người sẽ được viện dẫn để chống lại việc phân biệt đối xử bị cáo buộc, và như thế việc thực hiện các quyền lợi sẽ hoàn toàn được bảo vệ qua việc xác nhận tình trạng đồng tính thay vì được bảo vệ qua vấn đề vi phạm các quyền con người.
14. “Khuynh hướng tình dục” của một người không thể đem so sánh với chủng tộc, giới tính, tuổi tác, v.v., cũng vì một lý do khác nữa nằm ngoài những gì đáng lưu ý đã nói ở trên. Khuynh hướng tình dục của một người cách chung thường không bị người khác biết trừ khi người ấy công khai nhận mình như thế hay khi một số hành vi bên ngoài chứng tỏ điều ấy. Thông thường, đa số những người có khuynh hướng đồng tính mà tìm cách sống khiết tịnh sẽ không công khai khuynh hướng tình dục của họ. Do vậy, vấn đề phân biệt đối xử trong lãnh vực công việc, nhà cửa, v.v. thường không xảy ra.
Những người đồng tính khẳng định xu hướng đồng tính của mình thường chính là những người đánh giá hành vi hay lối sống đồng tính là “hoàn toàn vô hại, nếu không nói là hoàn toàn tốt lành” (xem số 3), và vì vậy đáng được cộng đồng chấp nhận. Chính trong nhóm người này người ta dễ tìm thấy những người tìm cách “thao túng Hội thánh bằng cách giành lấy sự ủng hộ với chủ ý tốt của các mục tử nhằm thay đổi quy chế dân sự và luật pháp” (xem số 5), và tìm thấy những người sử dụng chiến thuật để phản đối rằng “bất kỳ hay mọi lời chỉ trích, sự e dè dành cho người đồng tính, hoạt động và lối sống của họ đều là các hình thức khác nhau của sự phân biệt đối xử cách bất công” (xem số 9).
Thêm vào đó, có một nguy cơ là đạo luật đặt đồng tính luyến ái làm cơ sở cho các quyền lợi có thể thực sự khuyến khích một người có khuynh hướng đồng tính luyến ái công khai hóa việc mình đồng tính hoặc thậm chí còn tìm đối tác để khai thác các quy định của khoản luật.
15. Vì trong việc đánh giá các dự luật được đề xuất cần chú ý nhiều nhất đến trách nhiệm bảo vệ và quảng bá đời sống gia đình (xem số 17), cần chú ý chặt chẽ đến các điều khoản mang tính dự phòng liên quan tới các biện pháp được đề xuất. Các điều khoản đó sẽ ảnh hưởng đến việc nhận con nuôi hoặc quan tâm chăm sóc trẻ thế nào? Liệu chúng có bảo vệ các hành vi đồng tính luyến ái cách công khai hay riêng tư không? Liệu chúng có đánh đồng các đôi đồng tính với gia đình, ví dụ như đối với vấn đề nhà ở công cộng hay bằng cách cho phép đối tượng đồng tính luyến ái hưởng các ưu đãi về việc làm mà gồm cả những điều như quyền tham gia của “gia đình” vào phúc lợi y tế dành cho nhân viên không (xem số 9)?
16. Cuối cùng, khi liên quan đến lợi ích chung, Giáo quyền không được ủng hộ hoặc giữ thái độ trung lập đối với các đạo luật gây hại ngay cả khi nó cho phép những ngoại lệ dành riêng cho các tổ chức và thể chế của Hội thánh. Hội thánh có trách nhiệm thăng tiến đời sống gia đình và luân lý chung cho toàn xã hội dân sự dựa trên những giá trị luân lý nền tảng, không chỉ đơn thuần bảo vệ mình khỏi việc thực hành những khoản luật có hại (xem số 17).
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 102 (tháng 9 & 10 năm 2017)

Chỉ nam mới về Huấn giáo: làm cho Tin Mừng luôn phù hợp thời đại, với văn hóa gặp gỡ

Chỉ nam mới về Huấn giáo: làm cho Tin Mừng luôn phù hợp thời đại, với văn hóa gặp gỡ

 
  •  
  •  
 
Chỉ nam mới về Huấn giáo: làm cho Tin Mừng luôn phù hợp thời đại, với văn hóa gặp gỡ
 Ngọc Yến
Vatican News – Sau hai cuốn“Chỉ nam Huấn giáo” được ban hành trong năm 1971 và 1997, hôm thứ Năm 25/6/2020 “Chỉ nam Huấn giáo” mới được Hội đồng Tòa Thánh tái truyền giảng Tin mừng công bố. Tài liệu được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn ngày 23/3/2020, ngày lễ nhớ thánh Turibio Mogrovejo, ở thế kỷ XVI, vị thánh đã thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc loan báo Tin Mừng và giảng dạy giáo lý.
Nét đặc thù của Chỉ nam mới về Huấn giáo là mối liên hệ chặt chẽ giữa việc loan báo Tin Mừng và huấn giáo, nhấn mạnh việc kết hợp giữa lời loan báo đầu tiên và trưởng thành của đức tin, dưới ánh sáng của nền văn hóa gặp gỡ.
Nét đặc thù này rất cần thiết khi Giáo hội phải đối diện với hai thánh đố trong thời đại ngày này: văn hóa kỹ thuật số và toàn cầu hóa văn hóa. Trong hơn 300 trang, được chia thành 3 phần với 12 chương, bản văn nhắc nhở mỗi người được rửa tội là môn đệ truyền giáo và kêu gọi sự dấn thân và trách nhiệm để tìm ra những ngôn ngữ mới trong việc thông truyền đức tin.
Có ba nguyên tắc cơ bản được tài liệu đề cập trong hoạt động huấn giáo: Trước hết chứng tá, bởi vì “Giáo hội không phát triển bằng chiêu dụ tín đồ, nhưng bằng sự thu hút”. Tiếp đến là lòng thương xót, là huấn giáo chân chính làm cho việc loan báo đức tin trở nên đáng tin cậy. Ngoài ra, là việc đối thoại, tự do và nhưng không, không ép buộc, nhưng đi từ tình thương, góp phần xây dựng hòa bình. Nhờ đó, việc huấn giáo các tín hữu Kitô mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của mình.
Đào tạo các giáo lý viên
Trong phần đầu tiên, tựa đề "Giáo lý trong sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo hội", bản văn đặc biệt tập trung vào việc đào tạo giáo lý viên: để trở thành những chứng nhân đáng tin cậy của đức tin, họ phải "là giáo lý viên trước khi dạy giáo" và do đó họ phải hoạt động cách nhưng không, trao ban, nhất quán, theo một linh đạo truyền giáo, giúp tránh xa "lo lắng hoạt động mục vụ không đem lại kết quả" và chủ nghĩa cá nhân.
Các giáo viên, nhà giáo dục, chứng nhân, giáo lý viên phải đồng hành bằng sự khiêm nhường và tôn trọng tự do của người khác. Đồng thời, cần phải "cảnh giác với quyết tâm trong việc đảm bảo cho mọi người, đặc biệt trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương được bảo vệ tuyệt đối khỏi mọi hình thức lạm dụng". Giáo lý viên cũng được mời áp dụng một "phong cách hiệp thông" và là những người sáng tạo trong việc sử dụng các công cụ và ngôn ngữ.
Ngôn ngữ của huấn giáo: kể chuyện, nghệ thuật, âm nhạc
Trong phần thứ hai với tựa đề "Tiến trình giáo lý", Chỉ nam nói đến thánh đố của ngôn ngữ. Có nhiều phương thức diễn cảm được trích dẫn.
Trước hết là kể chuyện, được định nghĩa là "một mô hình giao tiếp sâu sắc và hiệu quả" bởi vì chúng có thể đan xen câu chuyện về Chúa Giêsu, đức tin và cuộc sống của con người.
Tiếp đến là nghệ thuật, qua việc chiêm ngắm vẻ đẹp, cho phép con người trải nghiệm cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.
Cuối cùng là âm nhạc, đặc biệt thánh nhạc, là ngôn ngữ làm thấm nhuần trong con người tinh thần ước muốn vô tận.
Huấn giáo trong đời sống con người: tầm quan trọng của gia đình
Khi giáo lý đi vào đời sống cụ thể của con người, vai trò của gia đình rất quan trọng: gia đình là chủ thể tích cực của việc loan báo Tin Mừng và nơi tự nhiên để sống đức tin một cách đơn giản và tự phát. Trong thực tế, gia đình cung cấp một nền giáo dục Kitô giáo "được làm chứng ​​nhiều hơn là dạy", qua một cách thức khiêm tốn và lòng trắc ẩn. Trước những tình huống bất thường và những bối cảnh gia đình mới xuất hiện trong xã hội đương đại, trong đó có một sự trống rỗng về ý nghĩa siêu việt của gia đình, Giáo hội kêu gọi đồng hành đức tin với sự gần gũi, lắng nghe và thấu hiểu, quan tâm, tôn trọng và ân cần, để khôi phục niềm tin và hy vọng cho tất cả và giúp vượt qua sự cô độc và phân biệt đối xử.
Tài liệu còn nhắc đến việc dạy giáo lý phải được thực hiện theo các nhóm tuổi: trẻ em, người trẻ, người trưởng thành, người già. Mặc dù đa dạng về ngôn ngữ, việc dạy giáo lý phải có một phong cách duy nhất, đó là đồng hành, làm cho các chứng tá của các giáo lý viên đáng tin cậy, thuyết phục và lôi cuốn. Truyền đạt giáo lý cách kín đáo nhưng hiện diện, có thể nâng cao phẩm chất của mỗi tín hữu và khiến họ cảm thấy được đón tiếp và nhìn nhận trong cộng đồng Kitô giáo.
"Văn hóa hòa nhập" và tiếp nhận người khuyết tật, người di cư
Tài liệu không quên đến việc dạy giáo lý cho người khuyết tật và người di cư. Tài liệu khẳng định, đón tiếp và nhìn nhận là những từ khóa phải đồng hành trong huấn giáo dành cho người khuyết tật. Khi đối diện với sự bối rối và sợ hại, điều quan trọng là phải đáp lại bằng một "văn hóa hòa nhập" vượt qua "sự loại bỏ". Thực tế, người khuyết tật là nhân chứng của sự thật thiết yếu của cuộc sống con người: dễ bị tổn thương và mong manh, và do đó họ phải được đón nhận như một món quà lớn, trong khi gia đình họ xứng đáng được "tôn trọng và cảm phục".
Một thành phần đặc biệt khác được Chỉ nam đề cập là những người di cư, xa quê hương, họ có thể gặp khủng hoảng đức tin: đối với họ, giáo lý phải tập trung vào lòng hiếu khách, tin tưởng và liên đới, để họ được hỗ trợ trong cuộc chiến chống lại định kiến ​​và những nguy hiểm nghiêm trọng mà họ có thể phải gánh chịu, chẳng hạn như nạn buôn người.
Nhà tù, vùng đất đích thực cho việc loan báo Tin Mừng, lựa chọn ưu tiên người nghèo
Và một lần nữa, tài liệu chú ý đến các nhà tù, như là “một vùng đất đích thực cho sứ vụ loan báo Tin Mừng”: đối với các tù nhân, huấn giáo sẽ là một loan báo ơn cứu độ trong Đức Kitô, tha thứ và giải thoát, cùng với việc lắng nghe cách ân cần cho thấy khuôn mặt người mẹ của Giáo hội. Giữa các hình thức bị loại trừ, Giáo hội không quên người nghèo.
Chỉ nam yêu cầu “lựa chọn ưu tiên dành cho các tù nhân cũng phải chú ý đến đời sống tâm linh của họ”. Bác ái và tầm quan trọng của sự năng động truyền giáo trong khi gặp gỡ với người nghèo, hiện thực hóa cuộc gặp gỡ với Đức Kitô.
Bản văn khuyến nghị “Giáo hội cũng được kêu gọi sống khó nghèo như một sự phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, không quá cậy dựa vào các phương tiện thế gian”. Trong lãnh vực này, huấn giáo phải giáo dục về khó nghèo Tin Mừng, thúc đẩy văn hóa huynh đệ và khuyến khích các tín hữu biết “phẫn nộ” trước những hoàn cảnh khốn cùng và bất công.
Giáo xứ, hiệp hội và trường học Công giáo
Trong phần thứ ba, tài liệu dành riêng cho “Huấn giáo trong các Giáo hội địa phương”, nhấn mạnh trước hết vai trò của giáo xứ, hiệp hội và phong trào Giáo hội và trường Công giáo. Trước đây, các tổ chức này được định nghĩa là "mẫu gương về hoạt động tông đồ cộng đoàn", nhấn mạnh "tính mềm dẻo", làm cho các tổ chức này có khả năng sáng tạo trong huấn giáo, "lắng nghe" và "đi ra ngoài".
Mặt khác, đối với các hiệp hội và phong trào, Chỉ nam nhắc rằng các tổ chức này “có khả năng lớn trong việc loan báo Tin Mừng, làm cho Giáo hội phong phú”, miễn là các tổ chức này chăm sóc việc đào tạo và phải hiệp thông với Giáo hội.
Đối với các trường Công giáo, tài liệu khuyến khích chuyển từ các trường học-tổ chức sang trường học-cộng đoàn, hoặc cộng đoàn đức tin với một dự án giáo dục đặt nền tảng trên các giá trị Tin Mừng.
Giảng dạy các tôn giáo và huấn giáo: khác biệt, nhưng bổ sung
Trong bối cảnh này, một đoạn dành riêng cho việc giảng dạy tôn giáo được nhấn mạnh: khác biệt, nhưng bổ sung cho huấn giáo, có hai khía cạnh: bước vào các mối quan hệ với các tri thức khác và biết cách biến kiến ​​thức thành sự khôn ngoan. Chỉ nam khẳng định: "Tôn giáo là một chiều kích của tồn tại và không được bỏ qua. Vì thế, "đó là quyền của cha mẹ và học sinh" được nhận một sự huấn luyện toàn diện. Điều quan trọng là điều này luôn được thực hiện qua một cuộc đối thoại cởi mở và tôn trọng, không vấp phải ý thức hệ.
Đa nguyên văn hóa và đa nguyên tôn giáo: mối quan hệ với Do Thái giáo và Hồi giáo
Sau đó, một chương lớn tập trung vào các bối cảnh đương đại khác mà giáo lý phải đối diện: đa nguyên văn hóa dẫn đến đối xử hời hợt đối với các vấn đề đạo đức; bối cảnh đô thị thường vô nhân đạo, bạo lực và cô lập; đối với người bản địa đòi hỏi kiến ​​thức đầy đủ để vượt qua định kiến; lòng đạo đức bình dân và sự hiện hữu của nó, một mặt là "nơi thần học" và "vùng dành cho đức tin", nhưng mặt khác nó có nguy cơ mở ra cho các mê tín và giáo phái. Trong tất cả các lĩnh vực này, huấn giáo được kêu gọi mang lại hy vọng và phẩm giá, thúc đẩy bảo vệ môi trường.
Tiếp đến, lĩnh vực đại kết và đối thoại liên tôn với Do Thái giáo và Hồi giáo: Đối với Do Thái Giáo, Chỉ nam nhấn mạnh làm thế nào huấn giáo phải "khơi dậy mong muốn hiệp nhất" giữa các Kitô hữu, để trở thành "một công cụ đáng tin cậy của công cuộc truyền giáo". Đối với Do Thái giáo, Chỉ nam mời gọi một cuộc đối thoại, đấu tranh chủ nghĩa bài Do Thái và thúc đẩy hòa bình và công lý. Bên cạnh đó, trong khi phải đối phó với khuynh hướng cực đoan bạo lực đôi khi có trong Hồi giáo, Giáo hội kêu gọi tránh những khái quát hời hợt, thúc đẩy hiểu biết và gặp gỡ với người Hồi giáo. Trong mọi trường hợp, trong bối cảnh đa nguyên tôn giáo, giáo lý phải "đào sâu và củng cố căn tính của các tín hữu", giúp họ phân định và thúc đẩy truyền giáo qua chứng tá, hợp tác và đối thoại "nhã nhặn và thân tình".
Thế giới kỹ thuật số: ánh sáng và bóng tối
Tiếp theo, Chỉ nam chuyển sang chủ đề kỹ thuật số: trước hết, tầm quan trọng của việc đảm bảo sự hiện diện các chứng nhân cho các giá trị của Tin Mừng trong "mạng lưới" được nhắc lại. Do đó, các giáo lý viên được khuyến khích giáo dục mọi người sử dụng tốt kỹ thuật số: đặc biệt, những người trẻ phải được đồng hành, bởi vì thế giới ảo có thể có những tác động sâu sắc đến việc quản lý cảm xúc và xây dựng căn tính.
Tài liệu tiếp tục: “Ngày nay, văn hóa kỹ thuật số được coi là "tự nhiên", đến mức nó đã thay đổi ngôn ngữ và thứ bậc các giá trị trên phạm vi toàn cầu. Giàu về mặt tích cực (ví dụ, nó làm phong phú các kỹ năng nhận thức và thúc đẩy thông tin độc lập để bảo vệ những người dễ bị tổn thương), đồng thời thế giới kỹ thuật số cũng có một "mặt tối": nó có thể mang lại sự cô đơn, thao túng, bạo lực, đe doạ trực tuyến, định kiến, thù hận. Không chỉ vậy: kể chuyện kỹ thuật số là cảm xúc, trực quan và luôi cuốn, nhưng thiếu phân tích quan trọng, cuối cùng làm cho người nhận đơn giản là người dùng, thay vì là người giải mã một thông điệp.
Chống lại văn hóa tức thời
Vậy giáo lý có thể làm gì trong lĩnh vực này? Đầu tiên là giáo dục để chống lại “văn hóa tức thời”, không có phân cấp các giá trị và quan điểm, yếu kém về ký ức và không thể phân biệt sự thật và chất lượng. Trước hết, những người trẻ sẽ được đồng hành trong việc tìm kiếm tự do nội tâm giúp họ khác biệt với "đám đông xã hội". Chỉ Nam khẳng định: "Thách đố của công cuộc loan báo Tin Mừng đòi hỏi cần phải hòa nhập vào đại lục kỹ thuật số. Tầm quan trọng của việc cung cấp không gian kinh nghiệm đức tin đích thực, có khả năng cung cấp các bí quyết diễn giải cho các chủ đề mạnh mẽ, như tính cụ thể, ảnh hưởng, công lý và hòa bình.
Khoa học và đức tin: làm sáng tỏ những xung đột, tăng giá trị chứng tá của các nhà khoa học Kitô giáo
Sau đó, Tài liệu tập trung vào khoa học và công nghệ, khẳng định khoa học và công nghệ phải được định hướng theo hướng cải thiện điều kiện sống và sự tiến bộ của gia đình nhân loại, phục vụ của con người. Đồng thời, Chỉ nam khuyến nghị một giáo lý được chuẩn bị kỹ lưỡng và chuyên sâu biết cách chống lại sự phổ biến khoa học và công nghệ thường không chính xác. Vì thế, tài liệu khuyến khích loại bỏ những định kiến​​và ý thức hệ và làm rõ những xung đột rõ ràng giữa khoa học và đức tin, cũng như tăng giá trị chứng từ của các nhà khoa học Kitô giáo, thí dụ về sự hòa hợp và tổng hợp giữa hai. Trên thực tế, nhà khoa học tìm kiếm sự thật bằng sự chân thành, thiên về giao tiếp và đối thoại, yêu thích sự trung thực trí tuệ và do đó có thể khuyến khích hội nhập văn hóa của niềm tin vào khoa học.
Đạo đức sinh học: không phải mọi thứ khả thi về mặt kỹ thuật đều được cho phép về mặt đạo đức
Trái lại, một suy tư riêng biệt phải được thực hiện cho đạo đức sinh học, khởi đi từ giả định rằng "không phải mọi thứ khả thi về mặt kỹ thuật đều được cho phép về mặt đạo đức". Do đó, cần phải phân biệt giữa các can thiệp điều trị và thao tác trị liệu, và chú ý đến ưu sinh học và sự phân biệt đối xử mà nó đòi hỏi. Về việc đặt tên cho "giới tính", tài liệu nhắc lại rằng Giáo hội “luôn đồng hành và trong mọi hoàn cảnh", không phán xét, những người sống trong những tình cảnh phức tạp và đôi khi xung đột. Tuy nhiên, "trong một quan điểm của đức tin, phái tính không chỉ là một dữ liệu thể lý, mà nó còn là một thực tế cá nhân, một giá trị được giao phó cho trách nhiệm của con người", "một đáp trả với tiếng gọi ban đầu của Thiên Chúa". Do đó, trong lĩnh vực đạo đức sinh học, các giáo lý viên cần được đào tạo cụ thể bắt đầu từ nguyên tắc thánh thiêng và bất khả xâm phạm của cuộc sống con người và trái ngược với văn hóa sự chết. Về vấn đề này, Chỉ Nam lên án án tử hình, được định nghĩa là "một biện pháp vô nhân đạo làm nhục nhân phẩm con người".
Hoán cải sinh thái, dấn thân xã hội và bảo vệ việc làm
Trong số các vấn đề khác được tài liệu đề cập, đó là một "hoán cải sinh thái sâu xa" được thúc đẩy thông qua một huấn giáo chú ý đến việc bảo vệ Tạo dựng và truyền cảm hứng cho một cuộc sống đạo đức, tránh xa lối sống duy tiêu thụ, bởi vì "sinh thái toàn diện là một phần không thể thiếu của đời sống Kitô giáo". Ngoài ra còn có sự khuyến khích mạnh mẽ cho dấn thân xã hội tích cực của người Công giáo hành động vì lợi ích chung, trái ngược các cấu trúc tội lỗi với đạo đức ngay thẳng và cởi mở đối thoại.
Đối với thế giới công việc, tài liệu khuyến khích truyền giáo theo Học thuyết xã hội của Giáo hội, đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ quyền của những người yếu nhất.
Cuối cùng, hai chương cuối, Chỉ nam tập trung vào các bài giáo lý địa phương, với các chỉ dẫn liên quan để được Tòa thánh thông qua, và về các cơ quan phục vụ giáo lý, bao gồm Thượng Hội đồng Giám mục và các Hội đồng Giám mục.
 Nguồn: vaticannews.va/vi

TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN – TRƯỞNG THÀNH KITÔ HỮU

Trưởng thành nhân bản – Trưởng thành Kitô hữu

 
  •  
  •  

Antonio Avila Blanco
Tác giả: Antonio Avila Blanco là giám đốc và giáo sư của Học viện Mục vụ Huấn giáo Madrid. 
NguồnMadurez humana. Madurez Cristiana, in: Nuevo Diccionario de Catequética, dirigido por V. Ma Pedrosa – Ma Navarro – R. Lázaro – J. Sastre, ed. San Pablo Madrid 1999, vol. II., 1390-1398.
Viết tắt. TLH = Tâm lý học. Các chú thích và phụ thêm của người dịch.
Nội dung.
I. Nguồn gốc của từ ngữ “trưởng thành”.
II. Quan niệm hiện nay về trưởng thành nhân bản:
1. Những đóng góp của tâm phân học.
2. Những đóng góp của tâm lý học phát triển.
3. Những đóng góp của tâm lý học nhân văn.
4. Trưởng thành như là tích hợp của nhân cách.
III. Trưởng thành nhân bản và trưởng thành tôn giáo.
IV. Trưởng thành tôn giáo (gặp gỡ Thiên Chúa).
V. Trưởng thành Kitô hữu.
Phụ thêm.
1/ Các chặng của đức tin.
2/ Sự trưởng thành trong các văn kiện Tòa thánh về đào tạo linh mục và tu sĩ.

I. Nguồn gốc của từ “trưởng thành”
Trong các ngôn ngữ Âu châu, “trưởng thành” được gọi là “chín muồi”: maturité (Pháp), maturity (Anh), madurez (Tây-ban-nha). Từ ngữ này không do TLH tạo ra, nhưng lấy từ nông nghiệp, khi nói đến hoa quả đã phát triển đến mức tối đa. Từ đó, trong ngôn ngữ bình dân, trưởng thành (chín chắn) được áp dụng cho con người ở lứa tuổi thứ hai trong đời (thành niên) [1]. Quan niệm bình dân cho rằng sự trưởng thành được thủ đắc nhờ kinh nghiệm và sự học hỏi của lứa tuổi thứ nhất (thiếu niên), và đã đạt đến một mức sung mãn tương tự như hoa trái của loài thực vật. Do đó, quan niệm về trưởng thành được đồng hóa với một lứa tuổi trong đời, tuổi trưởng thành. Đây là một kết quả đạt được do dòng thời gian và học tập, và một khi đã thủ đắc thì sẽ chiếm hữu vĩnh viễn. Do đó, ta thấy rằng nó là một quan niệm tĩnh: đó là một món đồ sở hữu.
Việc đồng hóa sự trưởng thành với một hạng tuổi như thế quả là bất cập. Quan điểm này đã bị xét lại trong tư tưởng bình dân cũng như trong ngành TLH: phải chăng tất cả những người ở tuổi trưởng thành đều thực sự trưởng thành? Nơi người lớn, vẫn còn xuất hiện những phản ứng “trẻ con”, bất ổn về tình cảm, lạc mất ý hướng. Mặt khác, quan điểm về sự trưởng thành đã tiến triển dọc theo lịch sử TLH, và dần dần một quan niệm về trưởng thành đã được du nhập, trong đó ý tưởng trưởng thành được tách rời khỏi lứa tuổi, và sự trưởng thành được hiểu như là đạt được sự tích hợp nhân cách (integración personal), như là quân bình tâm lý, như là khả năng đương đầu với những thách đố của cuộc sống. Như vậy, sự trưởng thành không còn được nhìn dưới hình thức tĩnh nhưng dưới hình thức năng động; cuộc đời được quan niệm như một tiến trình trưởng thành liên lỉ. Sự trưởng thành được hiểu như sự quân bình cá nhân cần phải đạt đến vào mỗi lúc, chứ không phải như cái gì đã sở hữu một lần mãi mãi. Nó là một tình trạng cá nhân mà ta luôn phải hướng đến và không bao giờ có thể sở hữu hoàn toàn. Vì thế, ta có thể nói cách chính xác rằng một thiếu nhi đã trưởng thành, hoặc những người lớn tuổi mà chưa trưởng thành.
II. Quan niệm hiện nay về sự trưởng thành nhân bản
Quan niệm năng động về trưởng thành đặt ra nhiều câu hỏi mới: thế nào là trưởng thành và không trưởng thành? Phải hiểu như thế nào về sự trưởng thành vào mỗi thời điểm của cuộc đời? Có những đặc trưng nào cho phép nhận ra cấp độ trưởng thành vào mỗi thời điểm không? Đâu là những động lực giúp cho con người đạt đến sự trưởng thành, và những động lực làm ngăn cản hoặc gây khó khăn cho nó? Khi bước sang lãnh vực tôn giáo, thử hỏi: thế nào là sự trưởng thành về đức tin? Đâu là những đặc tính của sự trưởng thành đức tin? Đâu là tương quan giữa trưởng thành nhân bản và trưởng thành Kitô hữu?
Trải qua dòng lịch sử, những câu hỏi vừa nêu đã được đề cập nhiều cách, và gần đây do các trường phái TLH khác nhau. Chúng tôi xin tóm tắt những sự đóng góp ấy.
1. Sự đóng góp của tâm phân học
Đối với tâm phân học, quan niệm về trưởng thành được gắn liền với sự quân bình cá nhân, mà căn bản là sự hài hòa giữa những chiều kích sâu thẳm nhất của nhân cách. Trong một câu tuyên bố thời danh, Sigmund Freud đồng hóa sự trưởng thành với khả năng yêu thương và làm việc cách tự do, hoặc khả năng giải quyết những cuộc giằng co nội tâm, cách riêng những giằng co vô thức làm ngăn trở yêu thương và làm tê liệt hoặc làm cản trở cho khả năng sinh sản.
Trong cùng một chiều hướng ấy, Carl Gustav Jung mô tả tiến trình trưởng thành như là tiến trình đương đầu với vô thức cá nhân và với vô thức tập thể, nhằm đạt được sự tích hợp nhân cách, mang lại căn tính và hài hòa sâu xa cho cá nhân. Jung mang đến một chiều kích mới cho sự quân bình nhân cách, khi đặt nó trong tương quan không chỉ với những năng lực vô thức của cá nhân mà còn với những năng lực vô thức của chủng loại.
Những cảm nghiệm về sự mất gốc xã hội và văn hóa; những khó khăn trong cách diễn tả cuộc sống chung với những người cùng chung một nền văn hóa; sự thiếu thốn những cử chỉ và nghi thức biểu tượng cho phép hội nhập các phần tử vào một cộng đồng nhân loại: đó là những đối tượng nghiên cứu của Jung khi đề cập đến sự quân bình nhân cách, sức khỏe và trưởng thành nhân bản, rất có liên quan với quan điểm cổ truyền về đức khôn ngoan.
Erich Fromm bàn về sự trưởng thành bằng cách kết hợp các khía cạnh tâm lý với triết học và xã hội. Đối với ông, những đề tài quan trọng là khả năng biết yêu thương, biết sống tự do, có một bậc thang các giá trị, một nền luân lý; nói khác đi, đó là đặt nặng cái bản tính (to be) hơn là cái sở hữu (to have), khả năng đảm nhận rủi ro hơn là tìm kiếm an toàn bằng mọi giá. Fromm suy tư những chủ đề này trong bối cảnh của xã hội hiện nay. Chúng ta có thể nói được rằng sự đóng góp quan trọng của Fromm là móc nối khái niệm về quân bình (lấy từ Freud) với sự cần thiết của ý nghĩa (lấy từ triết học hiện sinh) và chiều kích xã hội của con người.
Tóm lại, sự đóng góp của các khuynh hướng tâm-phân-học cho quan niệm về trưởng thành nằm ở chỗ coi sự trưởng thành như một tiến trình hội nhập những chiều kích khác nhau có ý thức hoặc vô thức của nhân cách, trong một sự quân bình không bao giờ đạt được cách hoàn toàn. Bên cạnh điểm chung đó, mỗi tác giả đào sâu vài khía cạnh riêng biệt.
2. Sự đóng góp của TLH phát triển
Một nguồn thứ hai của TLH để hiểu biết sự trưởng thành là những nghiên cứu về sự phát triển của con người. Một sự hiểu biết về sự phát triển của con người, một sự mô tả chính xác hơn về mỗi giai đoạn mà con người phải trải qua trong suốt cuộc đời, những động lực nội tại hỗ trợ cho sự phát triển: tất cả những điều ấy giúp chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là trưởng thành hoặc thiếu trưởng thành ở mỗi giai đoạn của cuộc đời. Theo TLH phát triển, sự trưởng thành được hiểu như khả năng đối diện với những thách đố xảy đến trong suốt cuộc đời, theo một cách thức tương xứng với tuổi tác và tình trạng của cá nhân. Vì thế cần phải xác định từng cấp độ mà con người phải đạt tới trong sự phát triển bản thân, tức là mô tả cần hiểu thế nào “cách tương xứng” với mỗi lứa tuổi, đâu là khả năng mà chủ thể thường đạt được, và những khả năng vận dụng để đáp ứng với mỗi thứ thách đố.
Vào lúc mới ra đời, khoa TLH phát triển đã dồn hết sức lực để mô tả chi tiết các lứa tuổi của sự phát triển tổng quát, đặc biệt là tuổi thiếu niên và thanh niên. Trong hướng đi này, công trình của Arnold Gesell thật là căn bản. Sau đó, TLH phát triển không chỉ lo diễn tả mà còn giải thích cái gì làm động lực, cái gì gây ra sự phát triển ở mỗi giai đoạn. Các tác phẩm của Jean Piaget hoặc Lev Vygotski về trí tuệ đã trở thành mẫu mực đáng kể cho việc nghiên cứu. Tuy nhiên, sự đóng góp quan trọng nhất cho sự trưởng thành có lẽ là của ông Erik Erikson.
Erik Erikson mang lại sự tiến triển cho phân tâm học ở chỗ quan niệm rằng cuộc sống là cái gì năng động, Theo ông, trong suốt cuộc đời, khi va chạm với thực tại, con người phải đối diện với tám thách đố lớn hoặc tám cuộc khủng hoảng tăng trưởng. Các thách đố này chính là tám giai đoạn của sự tiến triển; đặc trưng của mỗi giai đoạn là sự phát triển đặc thù của cuộc khủng hoảng tâm lý – xã hội, mà con người cần phải giải quyết đúng lúc để có thể chuyển sang giai đoạn kế tiếp. Giải quyết thành công sẽ tăng thêm sự trưởng thành. Sự giải thích mỗi giai đoạn cùng với những căng thẳng của nó đã được Erikson mô tả trong cuốn sách “Tuổi thơ và xã hội” (Childhood and society, xuất bản lần đầu tại New York năm 1950).
a) Tin tưởng căn bản / Thiếu tin tưởng căn bản. Trong giai đoạn này (vào những tháng đầu tiên của cuộc đời), phát triển sự khoan khoái, và cách riêng, nơi môi miệng, qua đó em bé cảm nghiệm sự khoan khoái của sự nuôi dưỡng hằng ngày, và những cảm giác hạnh phúc. Dần dần, phát triển cảm tưởng là thế giới chung quanh em là tốt đẹp, đáng sống. Hậu quả, em dần dần thủ đắc sự tin tưởng vào chính bản thân; điều này sẽ là nguồn gốc nâng đỡ cho sự tăng trưởng. Ngược lại, nếu không gặp thấy cánh tay bồng ẵm, một người để trao đổi tình cảm, một nguồn mạch khoan khoái và an toàn, thì em sẽ cảm thấy thế giới chung quanh mình là xấu xa, và mất sự an toàn, dần dần sẽ mất tin tưởng vào bản thân.
b) Tự lập / Hổ thẹn và nghi ngờ. Giai đoạn hai kéo dài cho đến khoảng hai hay ba tuổi. Đây là thời gian mà em bé dần dần đạt được sự tự lập về hành động và di chuyển. Ở giai đoạn này, hậu môn là nơi diễn ra sự giao tranh giữa hai hình thái hoạt động: giữ lại và tống đi. Hai hình thái cũng được diễn đạt qua sự phát triển cơ bắp, qua những hành vi như nắm giữ đồ vật và kéo giật chúng. Em bé thường tỏ ra phân vân giữa hai thái cực, đôi khi dữ dội khiến em không thể kiểm soát được. Tuy vậy, em phải học cách kiểm soát hai xung năng ấy để có thể đạt được sự tự lập. Nếu bị ngăn chặn quá đáng bởi người cha, em bé sẽ rơi vào sự nghi ngờ và hổ thẹn. Trong giai đoạn này, em bé phải đối diện với hai thực trạng: cảm thấy tự lập, tự tín, có khả năng kiểm soát thân thể và tính tình; hoặc là bất ổn đối với bản thân, sợ hãi những cái chung quanh mình.
c) Chủ động / Tội lỗi. Giai đoạn này kéo dài cho tới 5 hoặc 6 tuổi, được Freud đặt tên là dương vật, và gắn liền với mặc cảm Edipe cùng với những cảm xúc, ước muốn và sợ sệt. Erikson liên kết giai đoạn với những khả năng mới của em bé: độc lập và những cử động mạnh mẽ, hiểu được ngôn ngữ, óc tưởng tượng dồi dào và lắm lúc gây kinh hãi. Ở giai đoạn này, em bé bắt đầu chú ý đến ý hướng của các hành động và tình cảm của mình, bởi vì là thời gian bắt đầu có ý thức luân lý và cảm giác tội lỗi. Điểm tích cực là những điều vừa nói có thể điều khiển tính tò mò và năng lực của em vượt ra khỏi gia đình, để hướng đến thế giới của các sự kiện, các lý tưởng, các mục tiêu thực tiễn. Tuy nhiên, nguy cơ của giai đoạn này là sự xuất hiện tâm tình tội lỗi trước những ước muốn bị ngăn cấm và những mối ghen tương, đôi khi được biểu lộ qua sự sợ hãi không thể kiềm chế, làm cho sự tăng trưởng của em bé bị bế tắc.
d) Tài năng / Tự ti. Giai đoạn này được Erikson đặc tên là “tiềm ẩn” hiểu theo một nghĩa đặc biệt. Giai đoạn này kéo dài cho đến tuổi thiếu niên và thanh niên. Đây là thời kỳ của việc học hành quy củ, dưới sự hướng dẫn của người lớn. Em bé ra khỏi khung cảnh gia đình, và khám phá ra những cách thức và khả năng sống tương quan với các em bé khác và với người lớn. Trong giai đoạn này, em học cách sử dụng những dụng cụ và kỹ năng của thế giới người lớn, do đó phát triển tâm trạng chủ động. Khi nỗ lực của mình không đạt được kết quả hoặc thấy xung khắc với các mục tiêu mà người lớn đề ra thì sẽ phát sinh mặc cảm tự ti.
e) Căn tính / Hỗn độn căn tính. Sự đối đầu này xảy trong tuổi dậy thì và thanh niên. Vào thời kỳ thân thể biến đổi nhanh chóng, các cơ quan sinh dục nảy nở, thì một câu hỏi được đặt ra liên quan tới sự đồng nhất và liên tục với những năm trước đây. Tuổi trẻ thành niên phải đối diện với sự móc nối các đặc tính của bản ngã thuở niên thiếu với các vai trò thành niên mà mình đang hướng đến. Người bạn trẻ sẽ cấu trúc căn tính của mình cách tiệm tiến, khởi đi từ ý thức từ thâm tâm của mình, những vai trò mà mình nắm giữ, cách thức người khác đánh giá mình, những năng khiếu của cá nhân. Chuyện thường xảy ra là trong tiến trình này, người bạn trẻ sẽ đi tìm một căn tính tạm thời bằng cách đồng hóa mình với một người anh hùng bình dân nào đó, hoặc gia nhập một đám nào đó để thủ đắc một căn tính cho mình. Việc gia nhập các nhóm này tránh cho người bạn trẻ khỏi cảm giác bị hỗn độn căn tính, và tạo cơ hội chứng tỏ khả năng trung thành; tuy nhiên, đây chỉ là bước đầu để đạt được một căn tính cá nhân, khác hẳn với các đồng bạn, ngõ hầu trở thành chủ động cho cuộc đời của mình. Ngược lại, anh ta sẽ để cho mình bị lôi cuốn bởi môi trường hoặc bởi những người khác mà không biết rõ ý nghĩa của cuộc sống, thậm chí rơi vào những bệnh hoạn trầm trọng về hỗn loạn căn tính.
f) Thân mật / Lạc lõng. Sau khi đã đạt được căn tính của mình, bạn trẻ đã sẵn sàng chia sẻ căn tính của mình với căn tính của người khác, trong một mối tương quan thân mật. Mặc dù Erikson chỉ khai triển đề tài này dưới khía cạnh tương quan hỗ tương bền bỉ giữa hai người khác giới tính, nhưng ta có thể nghĩ đến những hoàn cảnh khác, tựa như tình bạn, tình đồng đội. Ngược lại, nếu thiếu căn tính vững bền và sợ mất bản ngã, đương sự tránh những tương quan ấy, và chỉ có những mối liên hệ hời hợt, với hệ quả là tâm tình xa cách, cô đơn.
g) Sinh sản / Trì trệ. Đây là thách đố của tuổi trưởng thành đúng nghĩa. Xét vì việc học tập và truyền đạt văn hóa giữ tầm quan trọng trong đời sống con người, tính sáng tạo giữ một vai trò căn bản. Để cho cuộc đời của mình có ý nghĩa đối với người khác, người trưởng thành cần cảm thấy mình quan trọng. Nơi thực hiện tiến trình này là sự truyền đạt nó cho các thế hệ mới. Còn những ai bị thu hút vào những toan tính khác và sống khép kín, thì có thể sẽ có cảm giác mệt mỏi.
h) Viên mãn / Thất vọng. Một khi đã thành công trong việc đạt được mục tiêu của bảy giai đoạn trên đây, nghĩa là sự trưởng thành trong mỗi giai đoạn của cuộc đời, sự thu hoạch của tuổi già sẽ là cảm giác viên mãn, và nhân cách của họ được trang điểm với nhiều đức tính. Đặc tính viên mãn của con người “chín chắn” là tính nhất quán và toàn bộ. Giai đoạn viên mãn này cũng bao gồm tâm tình thông hiệp với thế giới, với xã hội và với cuộc sống cũng như cảm thức tâm linh. Họ mang trong mình một hình thức mới của tình yêu dành cho cha mẹ và cho những người đã gây ảnh hưởng cho cuộc đời. Họ cảm thấy liên đới với những dân tộc xa xôi và với những người đã dấn thân phụng sự nhân phẩm và tình thương. Sự viên mãn cũng đưa đến sự chấp nhận cái chết trong một chu kỳ duy nhất của cuộc sống. Khi nào điều này không xảy ra, thì người ta cảm thấy cuộc sống kết liễu và mất mát. Sự thiếu tích hợp của bản ngã được biểu lộ qua sự thất vọng, không chấp nhận thời gian trôi qua nhanh chóng và không tài nào khởi đầu lại nữa.
3. Những đóng góp của TLH nhân bản
Một sự đóng góp thứ ba cho quan điểm về sự trưởng thành là TLH nhân bản, muốn đúc kết những đóng góp của tâm-phân học và TLH thực nghiệm. TLH tiếp cận vấn đề trưởng thành từ góc độ của sự tăng trưởng cá nhân, động lực (motivaciones) và sự tự trọng . Trong học thuyết về các động lực, ông Abraham Maslow ghi nhận rằng bên trên các động lực cơ bản (mà đặc tính là có thể được mãn nguyện) còn có các động lực cao cấp, là đặc trưng của loài người, với đặc tính là khả năng phản hồi: càng bồi dưỡng chúng thì càng thấy nhu cầu phải thực hành. Trong số này, có các nhu cầu luân lý và thẩm mỹ và nhất là nhu cầu ý nghĩa.
Như vậy, theo Maslow, con người là một hữu thể mà, – ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu cơ bản như ăn uống, giao hợp, kết hội, vv và sự phát triển sinh học để trở thành người lớn- , còn có nhu cầu thành tựu cá nhân, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống ở giữa một khung cảnh, nhờ thế họ cảm thấy lành mạnh, chín chắn và hạnh phúc.
Cũng trong chiều hướng này, ta có thể xếp các nhà TLH thuộc cùng một phong trào, tựa như E. Fromm y Rollo May, cách riêng Carl Rogers với lý thuyết về đối thoại, đồng hành cá nhân và nhóm.
4. Sự trưởng thành như là sự tích hợp của nhân vị
Chúng ta có thể rút được những kết luận gì từ những đóng góp của các trường phái TLH khác nhau? Một cách tổng hợp, thiết tưởng có thể mô tả sự trưởng thành và những điều kiện cần thiết để đạt được sự trưởng thành như sau:
1) Thứ nhất, cần phải nhắc lại rằng sự trưởng thành là một ý niệm năng động: nó không phải là một cấp độ đạt được vào một lứa tuổi nào đó (quen gọi là tuổi trưởng thành), nhưng là một tiến trình hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau dọc theo mỗi lứa tuổi.
2) Như vậy, sự trưởng thành được hiểu như là sự quân bình đạt được vào mỗi giai đoạn của cuộc đời, giữa những chiều kích khác nhau của nhân cách (ý thức và vô ý thức, tình cảm, lý trí, ý chí, xã hội). Sự quân bình này luôn luôn mang tính tạm thời và bấp bênh.
3) Sự quân bình này không chỉ diễn ra giữa các chiều kích khác nhau của cá vị, nhưng còn phát sinh qua cuộc đối thoại và thông chia với tha nhân, qua việc đảm nhận những vai trò và chức vụ khác nhau mà đương sự đảm nhận, qua việc vượt qua những thách đố do khung cảnh và xã hội đặt ra mà đương sự phải giải quyết.
4) Những thách đố xã hội không giống y như nhau trong mỗi lứa tuổi của cuộc đời, nhưng có một sự tiến triển, một đàng do các khả năng của lứa tuổi, đàng khác do khung cảnh xã hội ở nơi đương sự sinh sống (giai cấp xã hội, văn hóa, vv).
5) Việc đạt tới sự trưởng thành không chỉ giới hạn vào việc đánh giá về chính bản thân (điều sẽ được củng cố dần dần dọc theo cuộc sống), nhưng còn tùy thuộc vào nhãn quan của đương sự về thế giới và về xã hội chung quanh. Nói cách khác, sự trưởng thành đi đôi với sức khỏe tâm lý.
6) Sau cùng, việc đạt đến mức trưởng thành ở mỗi giai đoạn cũng có tính năng động, bởi vì trở thành động cơ cho sự tăng trưởng và sự thay đổi nhân cách của đương sự, khiến cho họ có khả năng đương đầu với những thách đố mới được đặt ra trong cuộc đời.
III. Trưởng thành nhân bản và trưởng thành tôn giáo
Một câu hỏi căn bản được đặt ra cho chúng ta là: có mối tương quan giữa trưởng thành nhân bản và trưởng thành tôn giáo không? Liệu chúng ta có thể áp dụng những học thuyết về sự trưởng thành nhân bản cho tiến trình tăng trưởng đức tin được không, ngõ hầu có thể xử lý trong phạm vi tôn giáo, chẳng hạn như trong việc phân định ơn gọi, trong việc tiến cử vào chức vụ, vv? Đây là một câu hỏi then chốt được đặt ra cho TLH tôn giáo nói chung, hoặc cho thần học tâm linh, và thần học huấn giáo, ngõ hầu có một khái niệm về sự tăng trưởng trong đức tin. Những câu hỏi liên quan sự trưởng thành tôn giáo mang theo nhiều hệ luận không những về lý thuyết mà còn về thực hành nữa.
Trước hết, để khởi hành, thiết tưởng nên nhắc lại câu tục ngữ cổ điển trong nhân luận thần học: “Ân sủng không thay thế tự nhiên”. Vinh quang Thiên Chúa là muốn cho con người được sống, và sống nhân bản cách sung mãn qua việc phát triển đầy đủ tất cả những tiềm lực của mình, giúp cho nó trở nên hình ảnh của Đấng Tạo hóa (St 1,27), con người mới theo hình ảnh của Đức Kitô (Rm 8,29). Tuy nhiên sự tăng trưởng nhân bản này cũng kèm theo ý thức về sự hữu hạn của con người, mở ra cho nó cuộc tìm kiếm cõi siêu việt, được diễn tả qua câu nói của thánh Augustino : “Con sẽ không tìm Ngài nếu như con không gặp Ngài”,
Thế nhưng, trong thế giới đa nguyên mà chúng ta đang sống, không thiếu những người tố cáo tôn giáo, và cụ thể là Kitô giáo, vì đã làm cho con người bị tha hóa, làm cho cuộc đời mất tính nhân bản; từ đó, họ chủ trương rằng để cho con người được trưởng thành thì cần phải loại bỏ Thiên Chúa. Đối lại, cũng không thiếu những Kitô hữu tố cáo rằng những kẻ vô thần là những con người khiếm khuyết, thiếu trưởng thành. Vì thế, đối với thần học, cần phải mở ra những con đường đối thoại, như công đồng Vaticanô II đã vạch ra, cho phép chúng ta nhìn nhận nơi mỗi con người những dấu vết của sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, và đồng thời, cũng biết chấp nhận rằng trong bất cứ con người nào, cũng có những vùng tối tăm, non nớt, bất cập. Dù sao đi nữa, sứ điệp Kitô giáo góp phần vào việc hiểu biết sự trưởng thành nhân bản, và những dữ kiện của TLH về sự trưởng thành nhân bản giúp khám phá một vài dấu vết bất cập trong hình thức sống đức tin.
IV. Sự trưởng thành tôn giáo (cuộc gặp gỡ Thiên Chúa)
Một loại cảm nghiệm nhân bản như là ý thức về sự hữu hạn của mình, cuộc gặp gỡ liên bản vị của tình yêu, cảm nhận về việc cưu mang sự sống và niềm vui được làm cha mẹ, cảm nghiệm về đau khổ và thất vọng, nỗi bất bình và chống cự cảnh bất công, khả năng ngây ngất trước cái thiện và vẻ đẹp của cuộc sống, có lẽ đó là những cảm nghiệm, dưới một hình thức nào đó, mở ra đến việc tìm kiếm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời và gặp gỡ Thiên Chúa.
Tuy nhiên không phải hết mọi cảm nghiệm đều chín chắn như nhau. Chúng ta thường phóng dọi lên Thiên Chúa, (cũng tương tự như chúng ta vốn quen làm đối với các tương quan với tha nhân), những ước mong được sống an toàn, những nỗi lo sợ, những thất bại, những mơ ước của mình. Tất cả những điều này mở ra một tiến trình phê phán về hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa, thanh luyện khỏi những ngẫu tượng mà chúng ta tạo ra mỗi ngày. Một trong những dấu hiệu của sự trưởng thành tôn giáo là thái độ cởi mở đứng trước Mầu nhiệm, biết hồ nghi về nguy cơ ngẫu tượng hóa mối tương quan của ta đối với Thiên Chúa; một lối sống tín thác và ngoan ngoãn thi hành ý muốn của Chúa, mang lại kết quả là sự an bình sâu xa, thái độ tự do và can đảm đối diện với những gì vây quanh ta. “Đừng sợ”, “không chi có thể làm nao núng”.
V. Sự trưởng thành Kitô hữu
Những điều vừa rồi có thể áp dụng cho tất cả mọi tôn giáo, với những nét đặc thù của mỗi tôn giáo. Đối với Kitô giáo, đặc trưng của nó là mối tương quan với chính bản thân Chúa Giêsu.
Kể từ mầu nhiệm nhập thể, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, bản thân Chúa Giêsu, đối với các tín hữu, trở nên điểm quy chiếu tối hậu của loài người. Người là khuôn mẫu, điểm đến, và thầy dạy của nhân loại. Nhờ Người, suối nguồn ân sủng đã đổ tràn xuống nhân loại, giúp cho chúng ta không những giao hoà với Thiên Chúa, mà còn với chính nhân tính của chúng ta. Người là con người mới, đã biến đổi mỗi người chúng ta thành những con người mới, được tái sinh nhờ bí tích thánh tẩy.
Chúng ta đừng nên coi cuộc tái tạo nhân tính của chúng ta như là một hành vi ảo thuật, nhưng như là một bổn phận phải tăng trưởng không ngừng. Giống như một tiến trình (Ep 4,13) trong đó có vai trò của ân sủng do Chúa Kitô đổ xuống, và có vai trò của hành động tự do và tự nguyện về phía con người. Vì thế thánh Phaolô mời gọi các Kitô hữu hãy đón nhận ân sủng (Ep 4,17 tt) và mỗi người hãy làm tăng trưởng trong mình những tâm tình của Đức Kitô Giêsu (Pl 2,5).
Tất cả những điều đó đã được thực hành và ghi lại trong Tân ước dưới các phạm trù “đi theo Chúa Giêsu”, “trở thành môn đệ”, giả thiết một tiến trình trong đó các chặng của tiếng gọi, đi theo và sai đi đã nêu bật những giai đoạn của sự trưởng thành Kitô hữu. Tiến trình này với những chặng của nó cho phép ghi nhận như là những khía cạnh của sự trưởng thành Kitô hữu:
a) Ý thức về bản thân của mình, về những giá trị và giới hạn của mỗi người, về khung cảnh xã hội của mình (“Người kêu gọi họ đích danh”). Khả năng mở rộng và lắng nghe vượt quá thực tại cụ thể, và khả năng vươn lên để gặp gỡ Đấng kêu gọi mỗi người trong những biến cố, những hoàn cảnh và những con người mà ta gặp thường ngày.
b) Sự tiến triển và thanh luyện trong lãnh vực tình cảm và thái độ, tìm cách uốn nắn chúng phù hợp với những tâm tình của Chúa Giêsu. Xếp đặt sứ điệp Kitô giáo cách hệ thống để đối thoại với thế giới chung quanh (“Trình bày lý do của niềm hy vọng của anh em”). Hiệp thông với những người họp thành cộng đoàn các môn đệ, trải qua một tiến trình thanh luyện và chữa trị tất cả những gì nhem nhuốc trong các mối tương quan (ghen ghét, đố kị, cạnh tranh.. ). Lòng say mê dành cho hết mọi người như là biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo nàn nhất, như là biểu lộ lòng yêu thương ưu ái của Chúa Giêsu.
c) Ý thức rằng mình đã lãnh nhận một nhiệm vụ, một sứ mạng trong việc xây dựng thế giới, trong việc loan báo Tin mừng tỏa rạng như một ân sủng mang lại tình huynh đệ và ơn cứu độ. Ý thức về tự do như là một liều lĩnh khi dám đưa ra quyết định, khi mở ra những con đường mới, khi tạo ra những hoàn cảnh mới để cho Chúa có thể hiện diện. Sự quyết tâm dấn thân vào sứ mạng, bao gồm kể cả những người không cùng tín ngưỡng hoặc ý thức hệ. Niềm xác tín rằng mọi sự, kể cả cuộc sống của mình, đều có một ý nghĩa.

——————————–
Thư mục
ERIKSON E. H., Identity and the Life Cycle: Selected Papers, International Universities Press, Nueva York 1959; The Life Cycle Completed: A Review, W. W. Norton, Nueva York 1982; Infancia y sociedad, Paidós-Hormé, Buenos Aires 19839.
FOWLER J. W., Stages of Faith; The Psychology of Human Development and the Quest for Meaning, Harper & Row, San Francisco 1981; Becoming Adult, Becoming Christian; Adult Development and Christian Faith, Harper & Row, San Francisco 1984.
GARRIDO J., Adulto y cristiano. Crisis de realismo y madurez cristiana, Sal Terrae, Santander 1989.
GUIGUÉRE P. A., Una fe adulta. El proceso de maduración en la fe, Sal Terrae, Santander 1995.
MASLOW A. H., El hombre autorrealizado, Kairós, Barcelona 1983.
ZAVALLONI R., “Madurez espiritual”, in: DE FLORES S.-GOFFI T. (dirs.), Nuevo diccionario de espiritualidad, San Pablo, Madrid 19912, 1123-1138.

——————–
Phụ thêm
I. Những chặng tiến triển của đức tin: James Fowler
Trong chiều hướng nghiên cứu của TLH phát triển, ông James Fowler (một giáo sư và mục sư của Giáo hội Methodist) cũng áp dụng vào việc nghiên cứu những chặng tiến triển của đức tin, trong quyển sách xuất bản năm 1981, Stages of Faith: The Psychology of Human Development and the Quest for Meaning (Những chặng đức tin. Tâm lý của sự phát triển nhân bản và việc đi tìm ý nghĩa). Tác giả quan niệm rằng sự trưởng thành đức tin cần được lồng trong cái nhìn toàn diện của con người: suốt đời, con người xây đắp những tương quan với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân. Những tương quan này chịu chi phối bởi nhiều nhân tố: đường lối tư duy và phán đoán các hành vi luân lý, cách thức đối xử với nhà cầm quyền, vũ trụ quan. Riêng trong lãnh vực tôn giáo, ông Fowler để ý đến cách thức định hướng cuộc sống dựa theo niềm tin của mình. Ông chia làm sáu chặng như sau:
 – Giai đoạn 0 (khởi đầu): trẻ sơ sinh chưa có đức tin. Tuy nhiên, em bé bắt đầu phát triển niềm tín thác vào kẻ chăm sóc mình; đây là nền tảng của đức tin về sau.
 – Giai đoạn 1 (khoảng 2-6/8 tuổi): đức tin trực giác và phóng dọi. Em bé bắt đầu biết nói và bắt đầu biết chơi. Óc tưởng tượng được thành hình. Em bé nhận thức về Thiên Chúa cách trực giác, và phóng dọi lên Thiên Chúa những cảm nghiệm của mình về thế giới (hình dung Thiên Chúa giống như các nhân vật mà mình quen biết).
 – Giai đoạn 2 (khoảng 6/8 tuổi cho đến 11/13 tuổi): đức tin huyền thoại. Em bé chịu ấn tượng bởi những chuyện kể, và hiểu câu chuyện theo nghĩa đen. Thiên Chúa được nhìn như là Đấng ban thưởng hay trừng phạt.
 – Giai đoạn 3 (khoảng từ 11/13 tuổi cho đến lúc trưởng thành; có những người trì trệ trong giai đoạn này đến suốt đời): đức tin quy ước. Thiếu nhi bắt đầu suy tư về những tình cảm của mình cũng như nắm bắt những hình ảnh của bạn bè nghĩ về mình. Thiếu nhi coi trọng các mối dây tương quan xã hội, và dễ dàng chấp nhận ý kiến của nhóm, với tính cách triệt để.
 – Giai đoạn 4 (từ 17 tuổi, nhưng có khi muộn hơn): đức tin cá nhân. Người thanh niên xét lại các điều đã được truyền thụ trước đây. Họ ý thức trách nhiệm của mình, chứ không chỉ dựa vào nhóm, và muốn tạo cho mình một lối suy tư riêng biệt. Điều này đôi khi có thể dẫn tới việc không tham gia các buổi cử hành của cộng đồng nữa.
 – Giai đoạn 5 (tuổi trung niên, khoảng tứ tuần): đức tin hài hòa. Họ tìm cách dung hòa những lãnh vực xem ra đối chọi nhau: Thiên Chúa vừa siêu việt vừa nội tại, Ngài toàn năng nhưng đã tự ý hạn chế mình. Họ trở nên khiêm tốn hơn khi nói về Thiên Chúa. Họ cũng sẵn sàng đối thoại với những người không cùng tín ngưỡng. Nên ghi nhận là không phải tất cả các người trung niên đều đạt tới trình độ này.
 – Giai đoạn 6: đức tin phổ quát. Rất ít người đạt đến. Tác giả trưng dẫn một vài nhân vật tiêu biểu: Gandhi, Martin Luther King, Mẹ Teresa Calcutta. Họ hoàn toàn dựa vào Thiên Chúa, ra khỏi bản ngã của mình, và muốn cải tạo xã hội hầu chuẩn bị cho Vương quốc Thiên Chúa.
 Nên ghi nhận là tác giả không chỉ giới hạn lãnh vực nghiên cứu vào các tín hữu Kitô giáo. Đức tin trưởng thành vượt lên biên cương của các tôn giáo lịch sử và đạt đến Thực tại huyền nhiệm.
II. Đề tài trưởng thành trong các văn kiện của Giáo hội về đào tạo
Kể từ công đồng Vaticanô II, các văn kiện của Giáo hội về đào tạo thường nói đến sự trưởng thành dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Chúng ta có thể lấy khởi điểm là sắc lệnh Optatam totius về việc đào tạo linh mục (các số 11;12) và sắc lệnh Perfectae caritatis về việc canh tâm dòng tu (các số 12; 14). Trong những văn kiện sau công đồng, chúng ta có thể quy chiếu về hai tông huấn Pastores dabo vobis (về việc đào tạo linh mục) và Vita consecrata (Về đời sống thánh hiến) làm điển hình.
A. Pastores dabo vobis
Tông Huấn bàn về những chiều kích khác biệt trong nền đào tạo nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ.
1/ Trước hết, đối với chiều kích nhân bản (số 43), tông huấn viết: “Không có đào tạo nhân bản thỏa đáng, thì việc đào tạo linh mục trong toàn bộ sẽ bị thiếu hụt mất nền tảng cần thiết” (…). Được mời gọi trở nên “hình ảnh sống động” của Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử, linh mục cần phải phản ánh nơi chính mình, trong mức độ có thể, sự thành toàn nhân bản như được rạng chiếu nơi Con Thiên Chúa làm người và như được nhìn xuyên thấu qua các thái độ đầy hiệu năng của Ngài đối với tha nhân, đúng như lời diễn tả của các tác giả Tin Mừng. (…) Như thế, không phải chỉ vì để đạt được một sự triển nở cần thiết và chính đáng và để tự thể hiện chính mình, nhưng còn vì để thi hành thừa tác vụ linh mục mà các linh mục tương lai cần phải vun trồng một tập hợp những đức tính nhân bản, cần thiết cho sự kiến tạo những nhân cách quân bình, mạnh mẽ và tự do: chính vì để có khả năng chịu đựng sức nặng của các trách nhiệm mục vụ. Bởi đó có nhu cầu phải được giáo dục về lòng yêu mến chân lý, về sự chân thành, về sự tôn trọng nhân vị đối với mọi người, về ý thức công bằng, về chữ tín trong lời nói, về lòng trắc ẩn thực thụ, về tính nhất quán, cách riêng về sự quân bình trong phán đoán và trong cách cư xử. Trong lãnh vực đào tạo nhân bản, văn kiện (số 44) lưu ý cách riêng đến trưởng thành về tình cảm và về tự do.
2/ Bốn chiều kích đào tạo vẫn còn cần thiết trong giai đoạn “thường xuyên” (số 71-72). Một khía cạnh đầu tiên của công việc trau dồi nói trên liên quan đến chiều kích nhân bản của nền đào tạo linh mục. Linh mục cần phải lớn lên trong việc tiếp xúc thường ngày với người khác và trong việc chia sẻ cuộc sống với họ mỗi ngày ; linh mục cần phải trau dồi tính nhạy bén nhân bản để nhờ đó có thể hiểu được những nhu cầu và đón nhận những lời kêu cứu, có thể trực giác những yêu cầu không được phát biểu thành lời, có thể chia sẻ những mối hy vọng và những nỗi mong chờ, có đủ khả năng gặp gỡ từng người và đối thoại với mọi người . Trên tất cả, trong khi am hiểu và chia sẻ, nghĩa là trong khi biến thành của mình kinh nghiệm khổ đau của con người dưới mọi hình thức, từ cơ bần đến bệnh tật, từ lạc loài đến ngu dốt, từ cô đơn đến đủ loại nghèo đói vật chất hoặc tinh thần, linh mục làm cho kinh nghiệm nhân bản của mình được nên phong phú, biến nó thành chính hiệu hơn và xuyên thấu hơn trong một tình yêu ngày càng gia tăng và nồng nhiệt với con người... Hành trình lần bước tiến tới sự trưởng thành chẳng những đòi linh mục phải không ngừng trau dồi tất cả mọi chiều kích ấy của nền đào tạo, nhưng còn là và nhất là đòi linh mục phải biết làm cho chúng thấm nhập trọn vẹn một cách hoà điệu, đến độ dần dà đạt tới sự thống nhất nội tâm mà đức ái mục vụ sẽ làm cho thêm kiên vững. Quả vậy, đức ái mục vụ chẳng những phối hợp và thống nhất các phương diện khác biệt của nền đào tạo với nhau nhưng còn chuyển ban cho các phương diện ấy phẩm chất đặc loại của nền đào tạo linh mục xét như là linh mục, nghĩa là như hình ảnh xuyên thấu và sống động, như bí tích của Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành”.
B. Vita consecrata
1/ Việc đào tạo mang tính cách toàn diện: bao trùm tất cả mọi chiều kích của con người và kéo dài suốt đời: “Mục tiêu chính của tiến trình đào tạo là chuẩn bị một người dâng trót mình cho Thiên Chúa trong việc theo Chúa Ki-tô, để phục vụ sứ mạng của Giáo Hội. Trả lời ‘xin vâng’ đáp lại tiếng Chúa gọi bằng cách chính mình dấn thân làm cho ơn gọi của mình ngày một trưởng thành thêm (…) Do đó, việc đào tạo phải thấm nhập sâu xa chính con người, sao cho toàn bộ cách ăn ở, trong những lúc quan trọng và trong những lúc bình thường của cuộc sống, cho thấy người đó vui sướng thuộc về Chúa cách trọn vẹn. Do cứu cánh của đời thánh hiến là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su trong lễ dâng trọn vẹn của Người, việc đào tạo phải hướng về đó. Đây là một lộ trình giúp từ từ có được những tâm tình của Đức Ki-tô đối với Chúa Cha. Nếu mục đích của đời thánh hiến là vậy, thì quy trình đưa tới đó cần phải có và cho thấy tính toàn diện: việc đào tạo phải bao trùm toàn diện con người trong mọi khía cạnh nhân cách người đó, trong cách ăn ở cũng như trong các ý hướng. Vì nó nhằm biến cải toàn bộ con người, nên nhiệm vụ đào tạo không bao giờ chấm dứt” (…) Việc đào tạo toàn diện phải bao gồm mọi lãnh vực của đời sống Ki-tô hữu và đời sống thánh hiến. Do đó phải tiên liệu việc chuẩn bị nhân bản, văn hoá, thiêng liêng, mục vụ, sao cho các yếu tố đó được hội nhập hài hoà với nhau. Phải dành cho việc đào tạo sơ khởi một thời gian khá dài, vì đây là một tiến trình tiệm tiến, trải qua tất cả các giai đoạn trưởng thành của con người, – từ trưởng thành tâm lý và thiêng liêng đến trưởng thành thần học và mục vụ” (số 65).
2/ Số 70 nhắc nhở rằng tiến trình đào tạo cần tiếp tục suốt đời, bởi vì hành trình cuộc đời thánh hiến không trơn tru thẳng băng, nhưng gặp nhiều khủng hoảng, hầu như định kỳ (Những năm đầu mới ra trường, lứa tuổi trung niên, lúc về già hoặc bệnh tật, vv). Vì thế, số 71 nói tiếp: “Nếu trong mọi giai đoạn của cuộc sống, con người phải chủ động trong việc đào tạo mình, thì cứu cánh của việc đào tạo phải nhắm tới toàn thể con người, được mời gọi tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực” (Đnl 6,5) và yêu tha nhân như chính mình (x. Lv 19,18; Mt 22,37-39). Tình yêu Thiên Chúa và anh em là một sức mạnh năng động, luôn luôn có thể làm nguồn cảm hứng cho tiến trình tăng trưởng và trung tín. Đời sống trong Thần Khí hiển nhiên phải được đặt lên hàng đầu. Sống trong Thần Khí, người tận hiến tìm lại được căn tính của mình và một sự thanh thản sâu xa, quan tâm nhiều hơn tới những lời mời gọi thường nhật của Lời Thiên Chúa, và để cho trực giác nguyên thuỷ của tu hội hướng dẫn. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các buổi nguyện gẫm, thinh lặng và cô tịch phải được kiên trì bảo toàn, khẩn khoản nài xin Đấng Tối Cao ơn khôn ngoan trong công việc mỗi ngày (x. Kn 9,10). Chiều kích nhân bản và huynh đệ bao hàm sự biết mình và biết giới hạn của mình, để được khích lệ và nâng đỡ trên đường giải phóng hoàn toàn. Trong bối cảnh ngày nay, phải đặc biệt quan tâm đến tự do nội tâm của người tận hiến, sự trưởng thành tình cảm, khả năng thông đạt với mọi người, đặc biệt trong chính cộng đoàn của mình, sự thanh thản của tinh thần, sự thông cảm với những người đau khổ, lòng yêu mến sự thật và sự hoà hợp giữa lời nói và việc làm.”
——————
[1] Trong các ngôn ngữ châu Âu, có hai danh từ tương đương với “trưởng thành” trong tiếng Việt: madurez (maturité: chín chắn) và adulto (adulte: tráng niên). Người tráng niên được đồng hóa với người trưởng thành (hoặc: sự trưởng thành được đồng hóa với tuổi đời, tuổi thành niên). Tâm Lý Học cho thấy giá thiết này không đúng.
Nguồn: catechesis.net