Trang

Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

Lời Chúa Mỗi Ngày Chúa Nhật 22 Thường Niên, Năm C



Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 22 Thường Niên, Năm C

Bài đọc: Sir 3:17-18, 20, 28-29; Heb 12:18-19, 22-24a; Lk 14:1, 7-14.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Khiêm nhường tự hạ để giúp đỡ kẻ yếu kém.

Kiêu ngạo là một khuynh hướng dường như có sẵn trong con người, chỉ chờ cơ hội để bộc phát. Tội nguyên tổ là một ví dụ điển hình, vì muốn bằng Thiên Chúa, nên bà Evà đã bất tuân lệnh của Ngài và ăn trái cấm. Hậu quả của tội kiêu ngạo làm cho con người xa cách Thiên Chúa, chịu biết bao đau khổ, và sau cùng phải chết. Từ đó đến nay, tội này càng ngày càng tác hại khốc liệt trong thế giới con người, làm cho con người xa cách Thiên Chúa, hận thù chồng chất, gia đình ly tán, và ngăn cản con người đạt tới đích điểm của cuộc đời.

Các bài đọc hôm nay cho chúng ta một phương thuốc hiệu nghiệm để chữa bệnh kiêu ngạo là luyện tập để có nhân đức khiêm nhường. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca dạy con phải có nhân đức khiêm nhường để được Thiên Chúa và tha nhân yêu mến. Càng làm lớn càng phải khiêm nhường để được Thiên Chúa chúc phúc và tha nhân cộng tác trong việc điều hành và học được những bài học quí giá trong cuộc đời. Trong bài đọc II, tác giả Thư Do-thái dạy các tín hữu phải có thái độ kính sợ Thiên Chúa và yêu thương Đức Kitô. Không có Đức Kitô, con người tội lỗi không thể đến gần Thiên Chúa; nhưng vì nhờ máu của Đức Kitô đổ ra, con người được thanh tẩy và hòa giải với Thiên Chúa, và họ có thể gọi Thiên Chúa là Cha. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy các môn đệ luôn có thái độ khiêm nhường trong cách cư xử và phục vụ, vì Thiên Chúa yêu thích và ban ơn cho những người như thế.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Những ích lợi đạt được do việc biết sống khiêm nhường.

1.1/ Thiên Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường.

Tác giả Sách Huấn Ca khuyên con: “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách khiêm nhu, thì con sẽ được mến yêu hơn những người rộng lượng cho đi. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.”

Người khiêm nhường là người biết con người thực của mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm nhường biết định giá đúng công ơn của Thiên Chúa đổ xuống trên họ; trong khi kẻ kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa làm của mình. Người khiêm nhường biết họ chỉ là loài thọ tạo do Thiên Chúa tạo dựng nên, họ biết khôn ngoan của họ không thể nào so sánh với Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khôn ngoan, họ biết uy quyền phát xuất từ Thiên Chúa và Ngài có thể lấy đi bất cứ lúc nào, họ biết mọi của cải là do Thiên Chúa ban cho nhân loại hưởng dùng. Vì thế, họ luôn vâng lời và giữ cẩn thận những điều Thiên Chúa truyền dạy, không lên mặt kiêu căng hay thực thi quyền hành với tha nhân, và không cậy dựa vào của cải của mình. Vì luôn biết đánh giá và sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa, người khiêm nhường sẽ được Thiên Chúa quí yêu, chúc lành, và bảo vệ trong suốt cuộc đời.

1.2/ Những lợi ích khác của người khiêm nhường

(1) Tha nhân yêu thích kẻ khiêm nhường: Người khiêm nhường càng ngày càng thêm bạn hữu; trong khi người kiêu ngạo càng ngày càng thêm kẻ thù. Trong việc lãnh đạo, họ được cấp trên thương mến và cấp dưới vâng lời, vì họ luôn đối xử với tha nhân xứng hợp với nhân phẩm và địa vị của họ.

(2) Khiêm nhường giúp một người nhìn thấy những khôn ngoan và cái hay của người khác để học hỏi và thăng tiến; trong khi người kiêu ngạo lấy mình làm thước đo người khác, khi đã cảm thấy quá đủ, họ sẽ không cần phải học nơi người khác.

(3) Người khiêm nhường nhìn thấy tất cả các tật xấu của họ cần sửa đổi, vì thế càng ngày càng tiến trên đường nhân đức; trong khi người kiêu ngạo không nhìn thấy mình có gì cần sửa, nên càng ngày càng lún sâu trong tội.

(4) Người khiêm nhường ưa thích lắng nghe, vì thế càng ngày họ càng có kiến thức hơn; trong khi kẻ kiêu ngạo vội vàng muốn phô trương. Nói mãi rồi cũng có cạn tàu ráo máng.

2/ Bài đọc II: Thái độ thích ứng của con người khi đứng trước Thiên Chúa.

2.1/ Con người không là gì cả trước mặt Thiên Chúa.

Tác giả Thư Do-thái nhắc lại cuộc thần hiện của Thiên Chúa trên núi Sinai, với mục đích nhắc nhở cho các tín hữu nhận ra sự khác biệt vô cùng lớn lao giữa Thiên Chúa và con người, để rồi con người phải biết kính sợ Thiên Chúa. Nếu Ngài không cho phép, không ai có thể nhìn thấy Ngài mà còn sống, không ai có thể nghe những lời Thiên Chúa phán ra.

“Anh em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và giông tố, có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa, vì họ không chịu nổi mệnh lệnh sau đây: Ngay cả thú vật đụng đến núi, cũng phải bị ném đá. Cảnh tượng hãi hùng đến mức ông Moses phải nói: Tôi kinh hoàng và run rẩy!”

Ông Moses là người đã từng có kinh nghiệm với Thiên Chúa, mà còn cảm thấy hãi hùng như thế, huống hồ gì một con người thường. Có lẽ điều gây thiệt hại nhất cho con người là thái độ khinh thường Thiên Chúa và những lời giáo huấn của Ngài. Khinh thường Thiên Chúa cũng dẫn tới thái độ tự mãn và kiêu ngạo: coi mình như ông trời mà không cần nghe và giữ những gì Thiên Chúa dạy.

2.2/ Con người chỉ có thể tới với Thiên Chúa qua Đức Kitô.

Tác giả Thư Do-thái không muốn các tín hữu coi Thiên Chúa như một hung thần để rồi phải sợ hãi Ngài; nhưng họ có thể đến với Thiên Chúa như một người Cha yêu thương, qua trung gian của Đức Kitô: “Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Abel.”

Đức Kitô đã rửa sạch tội cho con người nhờ máu của Người đã đổ ra trên Thập Giá. Ngài hòa giải con người với Thiên Chúa và mang lại ơn cứu độ cho con người.

Với Đức Kitô, con người không còn phải sợ hãi Thiên Chúa nữa; nhưng có thể gọi Thiên Chúa là Cha. Tuy nhiên, con người vẫn không được có thái độ “gần chùa gọi bụt bằng anh.” Với Đức Kitô, con người được mời gọi tới dự tiệc vui là núi Sion, nơi Thiên Chúa ngự trị, và thành Jerusalem trên trời.

3/ Phúc Âm: Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.

3.1/ Người khiêm nhường chọn chỗ rốt hết.

Khuynh hướng con người là muốn được người khác kính nể và cho là người quan trọng, một trong những cách thức tỏ mình ra là ngồi chỗ trên hết. Chúa Giêsu dạy các môn đệ đề phòng thói quen này bằng cách kể một câu truyện như sau: "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này.” Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho.” Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."

Có nhiều lý do đàng sau lời khuyên khôn ngoan của Chúa Giêsu:

(1) Con người không thể tự đánh giá mình hay đòi sự tôn trọng trong mối liên hệ với người khác; nhưng phải để cho tha nhân đánh giá và tỏ sự tôn trọng với mình. Khi tham dự tiệc cưới, chúng ta không biết người chủ mời những ai và mối liên hệ của chủ tiệc với họ. Tự động ngồi chỗ quan trọng nhất là ảo tưởng kiêu ngạo của chúng ta, nghị rằng mình có thế giá với gia chủ. Thái độ này sẽ bị mất mặt khi bị gia chủ mời xuống.

(2) Người khiêm nhường nhìn nhận mình không phải là trung tâm điểm mà người khác phải hướng về, vì trong thế gian còn biết bao người hơn mình về sự khôn ngoan, kiến thức, uy quyền và tài năng.

(3) Chỗ rốt hết là chỗ an toàn nhất, vì không ai có thể đẩy mình đi đâu được nữa. Khi đã chọn chỗ rốt hết, người khiêm nhường để cho tâm hồn được bình an vì không phải lo tranh giành chỗ và địa vị với người khác. Người kiêu ngạo sẽ cảm thấy bất an khi người khác được trọng vọng hơn mình.

3.2/ Khiêm nhường giúp đỡ kẻ khó nghèo.

Một thói quen khác nữa của con người là họ có khuynh hướng mở tiệc đãi gia đình, họ hàng và bạn bè. Khi mở tiệc, họ thường hay mời những người đồng vai vế hay còn tính chuyện để nhờ vả họ trong tương lai. Chúa Giêsu khuyên các môn đệ phải ý thức việc mở tiệc của mình. Dĩ nhiên, Chúa không cấm việc mở tiệc chung vui với gia đình; nhưng nếu chúng ta nhắm tới ích lợi, thì chúng ta đừng chỉ nhắm ích lợi đời này.

(1) Phần thưởng đời này: Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi.”

(2) Phần thưởng đời sau: “Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại."

Trong chương 25 của Tin Mừng Matthew, Chúa Giêsu xác định rõ: “những gì chúng ta làm cho những người bé mọn, chúng ta làm cho Ngài.” Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta về những gì chúng ta làm cho một trong những người bé mọn nhất.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta cần phải ý thức tất cả những gì chúng ta sở hữu là của Thiên Chúa ban. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn của Thiên Chúa và sống xa lánh Ngài.

- Chúng ta cần yêu thương và giúp đỡ những anh chị em yếu kém, vì họ cũng là con của Cha trên trời và là anh chị em của chúng ta.

- Người khiêm nhường sẽ dễ dàng sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ sẽ được Thiên Chúa và tha nhân quí mến, đồng thời sẽ gặt hái được rất nhiều kết quả cả đời này và đời sau. Họ sẽ sống bình an trong đời này và đạt tới Nước Trời mai sau.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXII Quanh Năm C ngày

(Phần II)


Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XXII Quanh Năm C ngày 1.9.2013
CHÚA NHẬT XXII QUANH NĂM, NĂM C
Sách Huấn Ca 3.17-20,28-29; Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Do Thái 12.18-19, 22-14
và Phúc Âm Thánh Luca 14. 1,7-14

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Giáo lý Phúc Âm dạy sống khiêm tốn:

Khiêm tốn là chọn chỗ thầp nhất trong đám tiệc: Chỗ ngồi không làm nên giá trị con người, nhưng con người có giá trị tự tại: được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và  được  Con Thiên Chúa khiêm tốn sinh làm con người và hy sinh mạng sống mình để mang ơn cứu độ cho con người.

Khiêm tốn là thi ơn mà không mong được đáp trả: Hãy làm bạn và ban ơn bố đức cho hết mọi người, nhất là những người thật sự cần và họ không có cơ hội đáp trả.

II.        Vấn nạn P.Â.    

Thói háo danh của người Do Thái, đặc biệt nơi những nhóm chính trị và tôn giáo thời bấy giờ.

Phúc Âm tường thuật rằng: “Đức Giêsu đến nhà một Ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa: họ cố ý dò xét Người….. Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Ngài nói với họ dụ ngôn nầy . . . ” Dò xét hay dòm ngó …. Tất cả diễn tả tà tâm và ác ý muốn hại người khác. Nuôi ác tâm hại người là bộc lộ tính ganh tị hay hiềm thù. Sự ganh tị nặng nề nhất nơi con người do háo danh và ích kỷ.  Người Do Thái, đặc biệt những phe nhóm chính trị và tôn giáo thời bấy giờ rất háo danh, rất chuộng tiếng khen. Họ dò xét và dòm ngó Chúa Giêsu với sự hiềm thù và ganh tị vì  Chúa Giêsu đang được dân chúng ngưỡng mộ và muốn suy tôn Ngài làm lãnh tụ.

Một vài phe nhóm chính trị và tôn giáo xôi thịt và háo danh thời Chúa Giêsu thường được đề cập:

Nhóm Sađốc:

Nguyên ngữ Do Thái là  tsaddiqim, có nghĩa những người công chính. Tên gọi Sađốc lấy từ tên thượng tế Zadok thời vua Davít (Sách các Vua quyển I, 1:26) lúc đó nhiều người trong nhóm Sađốc là tư tế. Thời Chúa Giêsu họ là những người giàu có và có thế lực cả chính trị cũng như tôn giáo. Hội đồng tôn giáo của đền thờ Giêrusalem cũng như Hội Đồng dân sự Do Thái đều bị chi phối bởi thế lực và tiền bạc của nhóm Sađốc. Điều nầy có th tìm thấy trong Tông Đồ Công Vụ 4:1; 5;17; 23:6.  Họ không tin có sự sống mai sau, không tin có thiên thần hay tinh thần như trong Phúc Âm Matcô 12,18-27; Luca 20:27 và Tông đồ Công Vụ 23,8 diễn tả. Họ và nhóm Pharisêu luôn rình rập để ám hại Chúa Giêsu, nhưng nhóm Sađốc cũng chấp nhận niềm tin truyền khẩu của bè Pharisêu và những mạc khải mới.

Nhóm Pharisêu

Nhóm Pharisêu xuất hiện vào thế kỷ thứ hai trước Chúa Giêsu. Pharisêu trong tiếng Do Thái có nghĩa “được tách biệt” để diễn tả chủ trương giữ luật Môsê thật nhiệm nhặt của nhóm, đặc biệt giữ ngày lễ nghỉ, giữ luật thanh tẩy, luật đóng thuế thập phân và luật kiêng cử những thức ăn mà họ cho là ô uế.

Đa số thành phần Pharisêu là thứ dân, nhưng cũng khi có cả thành viên Hội Đồng Công Nghi Do Thái như trong Tông Đồ Công Vụ 5:34. Họ không những giữ luật Môsê nhưng cả  truyền thống của tiền nhân như được nói trong Matcô 7,1-13 và Matthêô 15,1-20. Những nhà lãnh đạo nhóm được gọi là Rabbi hay sư phụ như trong trường hợp Nicôđêmô trong Gioan 3,1-10; 7:50: 19:39 và Gamalien trong Tông Đồ Công Vụ 5,34; 22.3

Họ hoàn toàn đối nghịch với Chúa Giêsu vì Chúa có ảnh hưởng lớn nơi dân chúng. Chúa vạch trần thói giả hình xấu xa của họ. Họ toa rập với nhóm Hêrôđê để tìm cách ám hại Chúa như trong Marcô 3:6. Nhóm Pharisêu tin sự sống lại sau khi chết như trong Tông Đồ Công Vụ 23,1-8. Bản thân Thánh Phaolô cũng là Pharisêu như Ngài tự nhận trong thư gửi Giáo Đoàn Philipphê 3,5 và trong Tông Đồ Công Vụ 23,6 và 26,5

Nhóm Ký lục hay luật sĩ

Đó là những người được học chuyên về luật và có ảnh hưởng trong việc giải thích luật và những nguyên tắc phải giữ trong đời sống. Thật sự họ không có khả năng tự lập mà phải lệ thuộc vào nhóm Pharisêu. Nên họ được coi như luật sĩ của nhóm Pharisêu như trong Phúc Âm Matcô 2,.16 hay Tông Đồ Công Vụ 23,9.

Phúc Âm Thánh Luca gọi nhóm người nầy là luật sĩ như trong Luca 7:30 và 10, 25 Còn Matcô và Matthêu gọi họ là ký lục. Cách chung, không quá đáng như Pharisêu, nhưng họ vẫn được xếp vào thành phần đố kỵ với Chúa Giêsu như trong Matcô 11,27

Nhóm thượng tế, tư tế và Lê vi.
Phát xuất từ chi tộc Lêvi chuyên đặc trách chuyện tế tự, phượng tự và bảo quản đền thờ. Phúc Âm diễn tả nhóm người nầy vào số những người ganh tỵ và tìm cách ám hại Chúa Giêsu. 

Nhóm Ái Quốc cực đoan:
Chống đối đế quốc Rôma thật mạnh mẽ và họ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến để tiêu diệt Rôma. Simon, một trong những môn đệ của Chúa Giêsu được gọi là Simon nhiệt thành, là người thuộc nhóm nầy.

Ngoài ra cũng có một vài nhóm khác như nhóm Hêrôđê, được thành lập để bảo vệ Herôđê Antipa, toàn quyền Galilê và Pêrê từ năm thứ 4 trước Công Nguyên cho đến năm 39 sau công nguyên.

Những nhóm vừa kể trên, nhất là nhóm Pharisêu rất nặng thói háo danh, giả hình và phô trương. Đang khi họ cố dò xét, lùng tìm những sai sót của Chúa để ám hại Chúa. Họ không thấy gì! Chúa lại thấy rõ những sai sót và thói hư tật xấu nơi họ, nhất là thói háo danh “Ai cũng muốn ngồi chỗ nhất!”Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn ? Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng đây là bàn cuối cùng mà ! Chủ nhà nhanh trí đáp : thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Như vậy, thực chất của con người không là chỗ nhất nơi bàn tiệc nhưng là con người đích thực của mình: Khiêm tốn nhìn nhận sự thấp hèn nơi mình để Chúa sẽ cất nhấc người đó lên chỗ nhất. Chỗ nhất được Chúa dành cho con người có giá trị đích thực mới làm cho con người được vinh dự trước mặt Chúa và người khác. Nên chỗ nhất không làm con người có giá trị. Tên ăn trộm hay người bất lương cũng có thể ngồi chỗ nhất trong đám tiệc. Nhưng chỗ đó không làm họ hết bất lương. Trái lại người công chính và đạo đức sẽ làm cho chỗ ngồi thấp hèn thành chỗ nhất trong bàn tiệc thiên quốc.

Khiêm Nhường trong Triết Lý Đông Phương và trong Kinh Thánh:

Kinh Dịch, quyển sách cơ bản của đạo học Đông phương, rất chú trọng đến đức Khiêm Quẻ thứ 15 trong Kinh Dịch là Địa Sơn Khiêm, nghĩa là núi tuy cao nhưng chịu nhún nhường nằm dưới đất, hoặc nói cách khác đất tuy thấp nhưng trong lòng lại có chứa núi, có ý nói về người có bản lãnh nhưng cư xử ôn nhu, khiêm tốn. Trong quẻ chứa những câu dạy dỗ rất hay về đức Khiêm. Xin trích một đoạn trong tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch, đạo của người quân tửKhiêm là đạo của trời, đất và người. Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở duới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm: Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người, thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm. Trong Địa Sơn Khiêm, chúng ta còn được nhắc dù gặp hoàn cảnh khó khăn cách mấy như vượt sông lớn, cứ cố giữ đức khiêm nhường rồi kết quả vẫn tốt: khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên, cát.

Kinh Thánh:
Khiêm nhường là nhìn nhận sự thấp bé, giới hạn và yếu hèn của mình. Khiêm nhường là coi trọng người khác, thấy ở bất cứ người nào cũng có những điều chúng ta có thể học hỏi được; biết nhìn nhận khuyết điểm hay lỗi lầm của mình. Khi nghe những lời phê bình về mình mà nóng mặt, hay sôi máu là coi chừng mình thiếu sự khiêm nhường. Đức Chúa Giêsu dạy môn đồ phải khiêm nhường như em bé trong Phúc Âm Matthêô 18:3-4

Khiêm nhường là hy sinh phục vụ: Chúa Giêsu kêu các môn đệ mình đến và dạy: “ai muốn làm đầu, thì phải làm rốt hết và làm tôi tớ mọi người” Matthêô 9:35 “Kẻ nào tôn mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống thì sẽ được tôn lên” trong Matthêô 23:12Chính Chúa đã đích thân rửa chân cho 12 môn đồ để dạy bài học khiêm nhường trong phục vụ.

Khiêm nhường là làm vui lòng Chúa, khiêm nhường sẽ nhận được sự dẫn dắt của Ngài. Người khiêm nhường sống trong hòa bình. Họ không tranh thắng, không cãi cọ với anh em mình để dành phần phải. Họ không tạo kẻ thù một cách vô ích. Khi biết làm mếch lòng ai, họ sẵn sàng hạ mình xin lỗi. Khi ai làm mếch lòng họ, họ không bận tâm và tha thứ ngay khi người đến xin lỗi. Vì “chúng ta thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm” Thư Thánh Giacôbê 3:2Thánh Phaolô khuyên: Trong vòng anh em phải ở cho hiệp ý nhau; đừng ao ước sự cao sang, nhưng phải ưa thích sự khiêm nhượng. Chớ cho mình là khôn ngoan trong Thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Rôma 12:16.

 Hãy nhớ lời dạy của người cha trong KinhThánh: “Hãy để cho kẻ khác khen ngợi con, miệng con chẳng nên làm; Để cho người ngoài tán mỹ con, môi con đừng làm” Sách Châm Ngôn 27:2Tục ngữ Việt cũng nói “Mèo khen mèo dài đuôi” hay câu ngạn ngữ của Âu châu: Con khỉ càng leo cao thì càng hở mông” ngụ ý chê người hay khoe mình, tự cao tự đại. Càng khoe khang tự đại, càng bộc bạch sự yếu kém và sai sót  của bản thân.

Khoe khoang là kiêu ngạo. Thánh Kinh cho rằng con người không có một cơ sở nào để hợm mình, khoe khoang về những gì mình có, hay những gì mình thực hiện được; vì tất cả là quà Thiên Chúa ban cho. Trong một bức thư gửi cho Giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô nhắc: “Ai bảo là anh chị em hơn người khác? Có gì anh chị em có mà không phải là quà tặng đâu? Và nếu là quà tặng thì tại sao anh chị em tự hào như thể quà đó do tay mình làm ra?” trong I Côrinh 4:7 Người kiêu ngạo chỉ thấy mình là tất cả, mình hay hơn, khôn hơn người khác, ý của mình luôn đúng, văn thơ mình luôn hay, họ không thấy trời cao đất rộng, như ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung. Thiên Chúa ghét người quyền thế, kiêu căng và cho họ về tay không. Chúa thương yêu và nâng cao người phận nhỏ yếu hèn trong Kinh Magnificat mà Đức Mẹ đã trả lời Bà Elisabeth khi được bà tôn vinh Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Thiên Chúa quở trách những người kiêu căng “Bọn kiêu căng, Chúa tởm kinh, căm ghét” trong sáchChâm Ngôn 16:5. Người kiêu ngạo là tự dối mình: “Nếu người nào tưởng mình quan trọng lắm, mà thật ra chẳng là gì cả, thì người ấy đã tự lừa dối lấy mình” như trong thư Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Galata 6:3Thánh Kinh cũng phân biệt rõ: “Sự kiêu ngạo của người sẽ làm hạ người xuống; nhưng ai có lòng khiêm nhượng sẽ được tôn vinh” như trong sách Châm Ngôn 29:23.


III.   Thực hành P.Â.:

Khiêm nhường (trích bài giảng của Đức Cha GB. Bùi Tuần)

“Sống đạo đòi nhiều nhân đức. Bởi vì sống đạo thì phải sống đức. Một trong những nhân đức cần để sống đạo là đức khiêm nhường. Khiêm nhường ví như một thứ muối thiêng. Nếu các nhân dức ví được như những món ăn nuôi dưỡng tâm hồn, thì nhân đức nào cũng cần có chút muối thiêng đó. Trái lại, kiêu ngạo là một thứ thuốc độc. Việc lành nào bất cứ, nếu bị pha một chút thuốc độc kiêu ngạo vào, tất sẽ ra hư.

Có thứ khiêm nhường thật. Có thứ khiêm nhường giả.




Khiêm nhường giả. Khiêm nhường giả thường là một hình ảnh mơ tưởng tự tạo. Coi khiêm nhường như một vinh quang, kết quả của những cố gắng tự sức. Để rồi có cớ nảy sinh tự đắc, lợi dụng trên đường danh lợi. Thỉnh thoảng người ta soi mình vào hình ảnh tự tạo đó, để tìm thích thú và thèm muốn được khen. Nếu không cảnh giác, thì thứ khiêm nhường giả như thế sẽ rất nguy hiểm. Vì nó sẽ dễ trở thành thứ nọc độc có thể pha trộn vào mọi ý hướng đạo đức. Để rồi, sau cùng họ dùng việc đạo để tìm vinh quang ảo cho mình, từ những việc nhỏ đến cả những việc lớn bề ngoài mặc vẻ đạo đức. Hành trình của nó thường mang nhiều giả dối và mưu lược.
Khiêm nhường thật. Trái lại, khiêm nhường thật thường phải trải qua những hành trình có nhiều phấn đấu. Phấn đấu với chính mình. Phấn đấu với lối sống cạnh tranh xấu của thế gian. Nhất là phấn đấu với ma quỉ, loại kẻ thù có nhiều xảo quyệt. Satan vốn bị Kinh Thánh coi là cha của kiêu ngạo, luôn tìm cách phá đức khiêm nhường. Chính Chúa Thánh Thần tác động, làm nên sự khiêm nhường thật. Có thể nhận ra bằng những dấu chỉ này: Con người cảm nhận sâu sắc mình yếu kém, hèn hạ. Họ rất thành thực nhận mình tội lỗi. Họ xem mình như người thu thuế cúi đầu cầu nguyện. Thực sự nghèo nàn. Thực sự khốn khó. Thực sự khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).

Sự cầu nguyện cậy trông Chúa phát xuất từ ơn Chúa cùng với sự cảm nhận sức mình yếu đuối. Ơn cậy trông đến dần dần một cách lặng lẽ, và kéo linh hồn về với Chúa một cách rất tế nhị. Nó làm cho linh hồn cảm thấy mình không ngừng cần phải đổi mới, để đón nhận được ơn cậy trông lôi kéo đó thường xuyên. Từ sự cậy trông lôi kéo đó, linh hồn khát khao tìm kiếm chính Chúa. Sự gặp gỡ Chúa sẽ đem lại cho họ sự sám hối, tâm tình cảm tạ và thờ phượng. Đồng thời, khi gần gũi Chúa, họ cảm thấy mình gần gũi mọi người. Có một tâm tình đồng cảm linh thiêng. Họ thấy mình chẳng có gì đáng gọi là đạo đức. Họ thấy mọi người đều là những người yếu đuối, nhưng được Chúa xót thương đỡ nâng tha thứ. Với cảm nghiệm đó, họ nhận ra mình có bổn phận phục vụ mọi người, người công chính cũng như người tội lỗi yếu đuối, theo gương Cha trên trời, là “Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Vài hoa trái của khiêm nhường.

Như vậy, sự khiêm nhường thật sẽ đem lại cho người sám hối sự bình an và hoan lạc. Sự khiêm nhường, khi đúng là hoa quả của ơn Chúa Thánh Thần, sẽ không gây nên những ray rứt dằn vặt cho ta, dù ta có một quá khứ đầy lỗi lầm. Những dằn vặt bối rối này nhiều khi do ma quỉ khuấy lên, để ta không nhận ra được dung mạo đầy tình yêu thương xót của Cha nhân lành, Đấng vui mừng sung sướng, khi có dịp tha thứ cho những đứa con biết trở về. Sự khiêm nhường thật cũng đem lại cho con người tâm tình vâng phục Lời Chúa một cách đơn sơ tin tưởng, cho dù dư luận muốn kéo họ về hướng khác. Thí dụ: về việc bố thí, làm việc từ thiện, cầu nguyện và ăn chay, Chúa Giêsu dạy hãy làm kín đáo. Vì Cha trên trời, Đấng hiện diện nơi kín đáo thấu suốt mọi sự kín đáo sẽ trả công cho họ (Mt 6,16-18). Họ vâng lời Chúa, cho dù nhiều cám dỗ giục làm khác đi. Sự khiêm nhường thật cũng thường gây cho chúng ta được ý thức tự trọng chính đáng, và nhận thức được bổn phận tìm cách khéo léo giúp các người thuộc về mình sống trong sự thực một cách khiêm nhường.

Thú thực là riêng tôi cũng đang phải phấn đấu từng giờ với nhiều khó khăn tinh thần và thể xác, để có thể nói như thánh vương David: “Chúng xô đẩy tôi, mong tôi té ngã. Nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118,13-14). Tôi mong rằng: Những gì tôi vừa chia sẻ sẽ được coi là những hạt giống nhỏ về Tin Mừng mùa chay. Tôi xin phép được gieo rắc chúng trong một thời điểm đang có những chân trời chinh chiến đau buồn, mang nhiều đe doạ khủng khiếp cho cả phần hồn phần xác. Ta hãy nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá. Hãy xem Người khiêm nhường thế nào và khiêm nhường đến mức nào. Người đang dạy chúng ta: “Hãy học với Thầy, vì Thầy có lòng hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chúng ta cũng tin vào Lời Chúa phán xưa: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Sau cùng, chúng ta đừng quên lời thánh Phêrô: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Vì Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5).”
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên 

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Một chút suy tư .

Mt chút suy tư .
Thất thập cổ lai hy"
Ngô Phan Lưu
 
Nhà tôi treo một “lốc” lịch to nơi phòng khách, mỗi sáng thức dậy, tôi gỡ một tờ quăng đi… Khi ló tờ mới, tôi xem k câu danh ngôn nếu có, coi đấy như li dạy dỗ đầu ngày của các bc tiền bối ! Không biết ai sao, riêng tôi thấy tâm đắc việc này lắm !

Ví như, sáng thứ 2 tuần trước, ngủ dậy liền đến bóc tờ lịch, tờ mới có ghi câu danh ngôn của Turenne: 

Tôi có ý kiến này muốn tặng quý vị: Đó là, mỗi khi bạn muốn nói, bạn hãy làm thinh”.

 Xem câu ấy xong, tôi ngẫm nghĩ… và thấy có lý, hay lắm. Quá hay đi chứ! Li khuyên răn này rất xác đáng, đã đúc kết một kinh nghiệm quí báu trong cuộc sống đầy nhng chuyện khôn lường của lòng dạ con người! Và, ngày hôm đó tôi cẩn ngôn hơn! Tôi chỉ thực hành nửa câu nói ấy mà cũng thấy mình khá rồi! Còn thực hành nguyên câu dĩ nhiên là không nổi! Xin cảm ơn ông hay bà Turenne người nước nào tôi không rõ, đã cho tôi một chút của báu giắt lưng phòng thân trên đường đời gian truân! Tôi không muốn coi tiếp câu danh ngôn của ngày kế tiếp… Ừ, cứ giữ bí mật để đó, vội gì!

Đến sáng ngày thứ 3, ngủ dậy, tôi lại gỡ lịch, gặp câu nói của Swift:

 
Nổi giận là tự gánh giùm lỗi của người khác!”.

 Chí lý ! Dại gì mà nổi giận cơ chứ! Quả nhiên, câu ấy tác động nơi từng sâu thm tâm hồn, ngày hôm đó nhiều việc bực mình, mà tôi đâu có thèm giận! Ngu gì gánh lỗi kẻ khác! Lại phải cảm ơn cái ông Swift hay bà Swift gì đó nữa!…

Rạng đông ngày thứ 4, lại ló tờ lịch ghi câu của Montesquieu: 

Phải khóc con người lúc sinh ra, chứ đâu phải lúc chết”.

 Chết rồi có phải làm gì nữa đâu mà cực với nhọc! Thế thì cũng chả nên khóc lóc mà làm chi!  nhỉ! Lạ thật! Cái chết đột nhiên giảm bộ mặt khủng khiếp trong tâm tưởng tôi, nói chí tình cũng phi có chút ít tác dụng của Montesquieu mới ra thế! Và, ngày hôm đó tôi nghị lc hơn, yêu đời hơn! Lại cảm thy mình cứng cáp lên!

Sang ngày thứ 5, tờ lịch hiện lên câu ngạn ngữ Ba Tư:

 
Lưỡi dài thu ngắn đời sống”.

 Ôi, quá chất lượng! Dân Ba Tư kinh nghiệm quá dày dặn! Nói lắm chỉ được cái “nguy to”, chỉ được cái “rước họa vào thân”! Còn nhớ trong ngày ấy, lúc nhậu cùng bạn bè, vậy mà tôi cũng ráng tịnh khẩu! Cứ sợ sa vào cái vạ mồm”!

Đến ngày thứ 6, tờ lịch lấp lánh câu danh ngôn khác, thật cao siêu của Villier de l’Isle Adam:

 “Người nhục mạ bạn, họ chỉ nhục mạ ý nghĩ của họ có về bạn, tức là họ nhục mạ chính họ!”. 

Câu này trong tầng sâu là đúng, nhưng thưc hiện quả là thiên nan vạn nan! Lên hàng thánh mới xàđược! Tâm đắc lắm nhưng cứ cất yên đấy! Công lực chưa đủ, chờ thời gian nữa hẵng hay!
Sáng ngày thứ 7, lại ló câu của Cervantes:

 
Ăn to thì di chúc nhỏ”.

 Úi cha! Cũng có lý quá! Tôi coi tiếp luôn ngày Chủ nhật xem sao… Đó là câu ca G. Herbert: “Ai cũng có một thằng điên trong ống tay áo”.

 Trời đất ! Lại cũng quá đúng! Những lúc bưng ly bia, cốc rượu chỗ đông người, trong ống tay áo tôi thường rớt ra thằng điên, thậm chí đôi lúc rớt ra hai thằng ! Say quá, có khi rớt tới ba thằng!

Ôi chao! Riêng về phần danh ngôn, tờ lịch vậy mà hay! Một lần nữa xin cảm ơn, cảm ơn… tờ lịch gỡ mỗi ngày! Việc gì phải đi thư viện đọc sách hao thời gian, cứ lịch đấy mà học mãn đời không hết!…

Thứ Bảy Tuần XXI Thường Niên Năm 1



SUY NIỆM : Trách Nhiệm Của Các Bậc Cha Mẹ

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến việc một ông chủ trước khi đi xa, đã trao cho đầy tớ, mỗi người một số nén bạc để làm lợi thêm, và khi trở về, ông chủ đã gọi các đầy tớ đến tính sổ. Ðã có nhiều lối giải thích suy tư về các nén bạc; ở đây chúng ta lồng dụ ngôn trong khung cảnh: ông chủ là Thiên Chúa, đầy tớ là các bậc cha mẹ, nén bạc là con cái.

Ðiều răn thứ tư dạy con cái phải thảo kính cha mẹ; điều này có nghĩa là nếu con cái lỗi phạm giới răn này thì sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt. Bổn phận của con cái là tôn kính, yêu mến và đền đáp công ơn cha mẹ: đó là bài học cơ bản của các kẻ làm con. Tuy nhiên, Thiên Chúa sẽ không phải là vị thẩm phán chí công, nếu không xét xử những bậc cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình. Nếu con cái phải thảo kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng yêu thương con cái. Mỗi người con là một nén bạc Chúa trao, cha mẹ là những đầy tớ có nghĩa vụ canh giữ và làm lợi nén bạc này. Dĩ nhiên, chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ duy nhất và tuyệt đối trên mỗi người con: bổn phận của cha mẹ là cộng tác dưỡng nuôi thân xác, hướng dẫn tinh thần và thiêng liêng, để con cái lớn lên trong sự thật và trong niềm kính sợ yêu mến Thiên Chúa.
Nếu con cái là hình ảnh của cha mẹ tiếp liền sau hình ảnh của Thiên Chúa, thì điều này nhắc nhớ cha mẹ phải là những người sinh con hai lần: một lần cho trần gian, và một lần cho Thiên Chúa. Ðịnh mệnh vĩnh cửu của con người không phải ở trần gian này, nhưng là trời cao. Do đó, cha mẹ phải luôn hướng dẫn tâm hồn con cái hướng về trời cao khi chúng còn thơ bé, và cả khi chúng đã lớn khôn nữa.

Trách nhiệm của các bậc cha mẹ thật nặng nề, nhưng cũng vô cùng cao cả. Nếu cha mẹ chu toàn bổn phận Chúa trao, chắc chắn trong ngày Chúa đến, họ sẽ được nghe lời này: "Hỡi tôi tớ tốt lành và trung tín, hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi". Và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho các bậc làm cha mẹ.
(Veritas Asia)

CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II VÀ NỖ LỰC CANH TÂN VIỆC DẠY GIÁO LÝ



CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II VÀ NỖ LỰC CANH TÂN VIỆC DẠY GIÁO LÝ

I.    MỞ

1.  Nỗ lực canh tân việc dạy giáo lý đã có trước Công Đồng: khởi đầu từ Munich - Đức (1925) và lớn mạnh trong thập niên 50:

-     Từ việc dạy giáo lý cho dự tòng nhằm dạy đạo lý căn bản (khai tâm) dựa trên tín biểu của thời các giáo phụ (tk 2-5) đến việc dạy giáo lý cho người lớn nhằm đào sâu đức tin (thường xuyên) dựa trên thủ bản giáo lý của thời trung cổ (tk 6-15) và cho trẻ em (tin lành) hoặc giáo dân (công giáo) đào sâu đức tin và chuẩn bị lãnh bt Thánh Thể dưới hình thức vấn đáp (hỏi thưa) mang tính hộ giáo (biện luận và thần học) của thời cận đại (tk 16-18).

-     Trong thời cận đại, Công đồng Trentô (1545-1563) ra quy định dạy giáo lý cho các tín hữu và truyền soạn thảo cuốn sách giáo lý chung làm mẫu để các giáo phận soạn sách giáo lý riêng. Catechismus Romanus phát hành vào năm 1566, gồm bốn phần (tin kính, bí tích, mười điều răn và cầu nguyện): hai phần đầu (fides quae tức sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ), hai phần sau (fides qua tức sự đáp trả của con người). Cũng trong thời này, cha Petrus Canisius dòng Tên, người Đức, soạn ba thủ bản giáo lý (1555: cho hs sắp tốt nghiệp trung học,1556: cho người thất học,1559: cho h strung học); cha Roberto Bellarminô soạn hai thủ bản giáo lý (1597: ngắn, 1598: dài)*. 

-      Sang thời hiện đại (tk 19-20), Công đồng Vat.I do ĐGH Piô IX triệu tập (1869-1870) đã có lược đồ soạn thảo cuốn giáo lý chung cho cả Hội Thánh nhưng không thành vì công đồng bị gián đoạn. ĐGH Piô X với TĐ Acerbo nimis (1905) tái lập việc dạy giáo lý cho người lớn vào Chúa Nhật và cho trẻ em để chuẩn bị rước lễ & thêm sức, với phương pháp học thuộc lòng và giải thích bản văn. Ngài cũng soạn sách giáo lý cho giáo phận Rô-ma (1905). Nhờ việc nghiên cứu lịch sử thời các giáo phụ và sự khảo cứu của các khoa xã hội nhân văn, phong trào Canh tân việc dạy giáo lý từ Munich (Đức) chớm nở (1925) và lớn mạnh (thập niên 50) muốn mở rộng việc dạy giáo lý cho toàn thể Dân Chúa nhằm giúp họ đào sâu đức tin, với phương pháp tâm lý (quy nạp) và hoạt động (chủ động) .  

2.  Công Đồng không trực tiếp đề cập đến chủ đề giáo lý, nhưng đường hướng của Vatican II đã tác động sâu xa trongnỗ lực canh tân việc dạy giáo lý.

3.  Trong bài này, tôi bàn về 4 điểm: 1/ Tình trạng thúc đẩy ĐGH Gioan 23 triệu tập Công Đồng, 2/ Đường hướng chính của Công Đồng: canh tân và hòa giải, 3/ Sự hiện diện của hai khuynh hướng khác biệt nhưng bổ túc cho nhau tại Công Đồng: khái niệm và hiện sinh, 4/ Tác động của Công Đồng trong nỗ lực canh tân việc dạy giáo lý.

II.  THÂN

1.   TÌNH TRẠNG THẾ GIỚI VÀ GIÁO HỘI THÚC ĐẨY TRIỆU TẬP CÔNG ĐỒNG

1.1  Tình trạng thế giới: a/ cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật tác động trên cách suy tư (thực tế, trước mắt) và lối sống (tự thể hiện) của con người, b/ phong trào cổ vũ cho độc lập, tự do, dân chủ, giải phóng và thăng tiến, c/ chủ nghĩa tục hóa, duy vật, vô thần.
1.2 Tình trạng giáo hội: a/ khép kín như một pháo đài, b/ độc tôn về nhân bản, chân lý và tôn giáo, c/ chia rẽ giữa các giáo hội Kitô, d/ khác biệt trong quan điểm thần học và trong việc dạy giáo lý.

1.3 Tình trạng dạy giáo lý: a/ đối tượng (từ dự tòng đến người lớn, trẻ em và các tín hữu), b/ mục đích (từ đạo lý căn bản đến đào sâu đức tin), c/ phương pháp (từ phương pháp học thuộc lòng và giải thích đến phương pháp tâm lý và hoạt động), d/ nội dung (từ dạy kiến thức hay luân lý đến loan báo sứ điệp Kitô giáo), e/ phương tiện (ngoài thủ bản còn có kinh thánh, phụng vụ, chứng tá…).
(*) Phan Tấn Thành: “Thời sự thần học”, s.59, Trung Tâm Học Vấn Đa Minh XB, 2/2013, tr. 11-45.

2.  ĐƯỜNG HƯỚNG CHÍNH CỦA CÔNG ĐỒNG

2.1   Canh tân & hòa giải với nhau trong Giáo Hội: để ý thức và canh tân bản thân.
2.2   Canh tân & hòa giải với các Giáo Hội tách biệt: tìm cách hiểu nhau và đại kết.
2.3   Canh tân & hòa giải với trần gian: tìm cách hiện diện để loan báo Tin Mừng.

3.  SỰ HIỆN DIỆN CỦA HAI KHUYNH HƯỚNG KHÁC BIỆT TẠI CÔNG ĐỒNG

3.1   Lối nhìn theo khái niệm luận: muốn duy trì và khẳng định giáo lý,
3.2   Lối nhìn theo hiện sinh : muốn tìm kiếm những cách thức thích hợp và hữu hiệu nhất để trình bày giáo lý.

4.   TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG ĐỒNG TRONG NỖ LỰC CANH TÂN VIỆC DẠY GIÁO LÝ

4.1 Qua các văn kiện Công Đồng: Trong Sắc lệnh về Truyền giáo (s.14), CĐ tái lập chế độ dự tòng (catechumenatus đã biến khỏi châu Âu từ thời Trung Cổ). Trong Tuyên Ngôn về Giáo dục (s.3 &4), CĐ coi việc dạy giáo lý là cách thức để Giáo Hội thực hiện việc giáo dục con người. Việc dạy giáo lý soi sáng và kiện cường đức tin cho học sinh.

4.2  Qua các văn kiện của Giáo Hội:

a/ Hướng dẫn việc Dạy Giáo lý (1971) của Bộ Giáo Sĩ theo đề nghị của Công Đồng nhằm hướng dẫn các HĐGM soạn thảo sách giáo lý riêng,  
b/ TH. Loan Báo Tin Mừng (1975) của ĐGH Phaolô VI xét việc dạy giáo lý trong toàn bộ sứ mạng của Giáo Hội là Loan Báo Tin Mừng,
c/ TH. Catechesi Tradendae (1979) là kết quả của THĐGM 1977 về huấn giáo: nhằm hiểu biết đạo lý và tham gia vào đời sống Kitô giáo, nhằm trí tuệ hơn tâm tình người nghe, và nhằm các đối tượng,
d/ Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (1992) kết quả của THĐGM 1974 về việc Loan Báo Tin Mừng & 1985 cử hành 20 năm bế mạc công đồng,
e/ Hướng dẫn dành cho Giáo lý viên (1993) của Bộ Loan báo Tin Mừng bàn về ơn gọi, căn tính, linh đạo của giáo lý viên, việc tuyển chọn, đào tạo và trợ cấp cho giáo lý viên. Giáo lý viên được xem là chứng tá của đức tin cũng như chứng tá của cộng đoàn đức tin là Hội Thánh.

f/ Hướng dẫn Tổng quát việc Dạy Giáo lý (1997) của Bộ Giáo Sĩ nhằm cập nhất hóa HDTQ 1971: đặt việc dạy giáo lý trong viễn tượng Loan báo Tin Mừng, chứ không chỉ là dạy đạo lý đức tin, việc dạy giáo lý được xác định là thời điểm chính yếu trong tiến trình loan báo Tin Mừng, việc dạy giáo lý là loan báo sứ điệp Tin Mừng, là tác vụ Lời Chúa, là giáo dục đức tin và hoạt động của cộng đoàn. Giáo lý viên trước và trên hết là chứng nhân, kế đến mới là thầy dạy và là nhà giáo dục.

III. KẾT

Hàng loạt các văn kiện hướng dẫn việc dạy giáo lý và đào tạo giáo lý viên sau Vaticanô II cho thấy ảnh hưởng lớn lao của Công Đồng trong nỗ lực canh tân việc dạy giáo lý và đem lại cho nó một khuôn mặt mới với những nét sau: 1/ Một định hướng căn bản mới: trong viễn tượng LBTM, 2/ Một nhận định mới về chủ thể và chủ đích của việc dạy giáo lý, 3/ Một cái nhìn mới về nội dung giáo lý, 4/ Một viễn tượng mới về sư phạm giáo lý, 5/ Sự quan tâm đến nơi chốn và môi trường cho việc dạy giáo lý, 6/ Một dung mạo mới cho giáo lý viên và đào tạo giáo lý viên, và 7/ Một ý nghĩa mới về việc dạy giáo lý trong Giáo Hội và xã hội (x. EMILIO ALBERICH, La catechesi oggi. Manuale di Catechetica fondamentale, Elledici (TO), 2001, 307-310).

Lm Pr Nguyễn Văn Hiền