“Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”. Thánh Vịnh 37,4
NVMN 1.12.2021
Năm Thánh Giuse, Ta Đã Làm Gì?
Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Thứ tư, ngày 1.12.2021 là ngày thứ tư áp cuối kính thánh Giuse theo truyền thống Công giáo La mã để lãnh nhận ơn toàn xá trong Năm Thánh Giuse.
Ngày 8.12.2020, nhân kỷ niệm 150 năm Đức Giáo hoàng Piô IX chọn thánh Giuse làm Đấng Bảo trợ Giáo Hội Công giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông thư “Patris corde” – Trái tim của người Cha – và công bố “Năm đặc biệt về thánh Giuse” từ ngày 8.12.2020 đến ngày 8.12.2021.
Khi mở Năm Thánh Giuse, Đức Thánh Cha giúp chúng ta hướng lòng về Thánh Cả, cầu xin ngài bầu cử, che chở, hộ phù cho chúng ta đang sống cuộc đời lữ hành đầy bất trắc, và hơn nữa, đang giữa cơn đại dịch Covid-19 hoành hành khắp thế giới, để chúng ta có thể cùng nhau vượt qua đại dịch trong tin yêu và hy vọng.
Cùng với việc Đức Thánh Cha ban hành Tông thư “Patris corde” công bố Năm đặc biệt về thánh Giuse, Tòa Ân giải Tối cao đã công bố sắc lệnh ban các ơn toàn xá đặc biệt nhân dịp Năm đặc biệt này.
Sắc lệnh nói rằng với Năm đặc biệt về thánh Giuse (từ ngày 8.12.2020 đến ngày 8.12.2021), “tất cả các tín hữu sẽ có cơ hội dấn thân, bằng những lời cầu nguyện và những việc lành, để với sự giúp đỡ của thánh Giuse, người đứng đầu Gia đình Nadarét trên trời, được an ủi và xoa dịu khỏi những đau khổ trong xã hội và của con người, đang gây ra cho thế giới của chúng ta ngày nay ”.
Ơn Toàn xá được ban với các điều kiện thông thường (xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh Cha) cho các tín hữu có lòng xa tránh mọi tội lỗi, sẽ tham dự Năm đặc biệt về thánh Giuse trong những dịp và theo cách thức được Tòa Ân giải Tối cao chỉ định.
Chỉ còn một tuần nữa là kết thúc Năm đặc biệt về thánh Giuse, chúng ta thử nhìn lại mình đã làm được gì trong Năm Thánh Giuse này?
Những ngày trong năm 2021, quê hương bị đại dịch hoành hành. Nhiều lúc thành phố bị lockdown. Hạn chế đi lại. Hạn chế tiếp xúc. Công việc ít ỏi. Có thể nói, chúng ta có rất nhiều thời gian. “Tỉ phú thời gian”.
Có rất nhiều cách để lãnh nhận Ơn Toàn Xá:
Ơn Toàn xá được ban cho những người suy niệm ít nhất là 30 phút kinh Lạy Cha. Noi gương thánh Giuse, chúng ta khám phá lại mối tương quan với Cha trên trời, lắng nghe ý Chúa và thực hành những điều Ngài dạy bảo. Còn tôi thì sao?
Ơn Toàn xá được ban cho những người tham dự một cuộc tĩnh tâm ít nhất là một ngày với một bài suy niệm về thánh Giuse. Tôi có dành thời gian để tham gia không?
Ơn Toàn xá được ban cho những người theo gương thánh Giuse, thực hiện một việc thương xót về thể lý như: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, cho kẻ vô gia cư có nơi ở, thăm tù nhân, thăm bệnh nhân, chôn cất người chết… (Thương người có mười bốn mối: Thương xác 7 mối); hay thiêng liêng như: an ủi kẻ đau buồn, an ủi cho kẻ hoang mang, hướng dẫn kẻ ngu dốt, khuyên bảo kẻ tội lỗi, tha thứ cho kẻ xúc phạm mình, cầu nguyện cho người sống và người chết… (Thương người có mười bốn mối: Thương linh hồn 7 mối). Tôi đã thực hành thế nào?
Ơn Toàn xá được ban cho những người đọc kinh Mân Côi trong gia đình và giữa những người đính hôn. Như gia đình Thánh Gia gương mẫu, gia đình tôi đã làm gì để có thể tạo bầu không khí cầu nguyện, hiệp nhất và yêu thương nhau?
Ơn Toàn xá được ban cho bất cứ ai hàng ngày phó thác công việc của mình cho sự bảo vệ của Thánh Giuse và bất kỳ tín hữu nào cầu nguyện, xin sự chuyển cầu của Người Thợ thành Nadarét, để những người đang tìm công việc có thể tìm được việc làm và để công việc của mọi người được xứng đáng hơn. Tôi đã làm được gì?
Ơn Toàn xá được ban cho những tín hữu đọc kinh cầu thánh Giuse hoặc một kinh thánh Giuse khác, phù hợp với các truyền thống phụng vụ, để cầu nguyện cho Giáo hội bị bách hại bên trong và bên ngoài, và cho tất cả các Kitô hữu đang chịu mọi hình thức bách hại được cứu giúp. Tôi đã làm ra sao?
Ơn Tòan xá cho các tín hữu đọc bất kỳ lời cầu nguyện đã được phê chuẩn hợp pháp hoặc làm một việc đạo đức để tôn vinh thánh Giuse, đặc biệt là vào các ngày 19 tháng 3 và 1 tháng 5, vào Lễ Thánh Gia Thất Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, vào ngày 19 hàng tháng và mỗi thứ Tư, ngày theo truyền thống Latinh được dành riêng kính nhớ thánh Giuse. Tôi đã chú tâm thực hành thế nào?
Năm thánh Giuse sẽ kết thúc ngày 8.12.2021, những ngày khởi đầu Năm Phụng vụ mới giúp ta chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa đến. Như Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen nói: “Việc kiểm tâm không bao giờ khiến bạn tuyệt vọng, nhưng hãy luôn hy vọng”.
Lạy thánh Cả Giuse, xin thương che chở, hộ trì chúng con.
Gioan Tẩy Giả có thể được mệnh danh là “Nhà rao giảng của Mùa Vọng”. Ngài là người dọn đường cho sự xuất hiện của Đức Giêsu; Ngài đến trước để giới thiệu về Đức Giêsu và triều đại Nước Thiên Chúa. Mỗi năm, Phụng vụ lại giới thiệu sứ điệp của ngài cho chúng ta. Gioan Tẩy Giả, một ngôn sứ đầy tràn ơn Thánh Linh. Ngài làm Tiền Hô và là một nhà giảng thuyết di động, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối cầu ơn tha tội.
Thánh sử Luca kể về Gioan con ông Dacaria trong khung cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy giờ cách uy nghiêm và trang trọng. Ơn gọi và hoạt động loan báo sứ điệp của thánh Gioan xảy ra vào năm thứ 15, dưới thời hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế lên ngôi năm thứ 14. Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô. Palestine hồi ấy cũng gồm 3 châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa, Philipphê và Lysania. Hai thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ 6 đến năm 14 sau công nguyên) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau công nguyên).
Qua các sự kiện lịch sử chính trị và xã hội ấy, Thánh sử Luca cố ý nêu lên ý nghĩa thần học của lịch sử. Ngài muốn khẳng định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và giới lãnh đạo trần gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể làm người để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn được ơn cứu độ, con người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm lòng, thay đổi lối sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi vì Đấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.
Gioan là cầu nối giữa hai giai đoạn của lịch sử cứu độ. Ngài vừa thuộc nhóm những ngôn sứ của giai đoạn trước,vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau. Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa,và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này. Chúa Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau.Nhưng Người cần Gioan để làm người tiền hô, dọn đường.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống đời sám hối và đền tạ tội lỗi trong nơi hoang vắng cho đến khi đủ khả năng để rao giảng.Trước khi là một người rao giảng, làm tiền hô, Gioan Tẩy Giả là một chứng nhân. Ngài sống tách biệt cách nhiệm nhặt trong hoang địa để cầu nguyện, ăn năn sám hối. Chính nhờ cuộc sống như vậy mà lời rao giảng của Gioan thực sự có sức hút. Ảnh hưởng của Gioan thật rộng lớn: từ khắp Giêrusalem, Giuđêa và tất cả miền Giođan đều tuôn đến xin ngài làm phép rửa, đồng thời lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Gioan rao giảng điều mình đã thực hiện, đã kinh nghiệm chứ không phải là một lý thuyết suông nào đó xa vời với chính bản thân ngài. Gioan Tẩy Giả thành công trong sứ mạng dọn đường cho Chúa cũng chính vì ngài vừa là chứng nhân vừa là một thầy giảng.
Con đường Gioan mời gọi tu sửa là đường trong lòng người. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo, hãy san cho thẳng. Những gì gò cao cần phải bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp; đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Khi Đức Giáo Hoàng hay vị nguyên thủ quốc gia đất nước nào muốn đến thăm viếng đất nước khác, vị Đại sứ hay đoàn Sứ giả được cử đến nơi đó hội đàm dọn đường, sắp đặt chương trình cho cuộc viếng thăm, có thể cả hằng năm trước đó.
Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua; như căn nhà cho Chúa ngự tới; Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nỗi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu.
Sửa đường là sám hối, không nói suông, không chỉ là đấm ngực, xé áo. Sám hối là nhận ra cái sai của mình và quyết tâm sửa đổi. Sám hối sẽ không là nô lệ cho của cải, tiền bạc, quyền lực; sám hối là sống công bằng, không tham lam nhũng lạm, không dùng quyền để cưỡng đoạt, áp bức người khác. Đường vào tâm hồn có những khúc quanh co: lén lút sống trong vòng tội lỗi, dối lừa. Sách Cách Ngôn có dạy “Thiên Chúa ghê tởm tâm địa quanh co” (Cn 11,20). Cứu cánh của kẻ quanh co là gian ác, cho nên cần phải uốn nắn lòng mình thẳng ngay như sách Cách Ngôn nói: “Đường lối của kẻ gian ác thì quanh co, hành động của người trong sạch thì ngay thẳng” (Cn 21,28). Uốn những quanh co là sống chính trực công minh ngay thẳng ví như tác giả thư Do thái nhấn mạnh: “Thiên Chúa ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Dt 1,9); Nếu lòng còn mãi quanh co, gập ghềnh, đầy những dối lừa biện minh cho những sai trái của mình… thì làm sao mà sửa đổi được!. Nếu không nhìn nhận mình sai lỗi thì làm sao có lòng thật tâm sửa lỗi. Sám hối đích thực là hoán cải. Hoán cải đòi hỏi phải hành động, phải trả giá, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh, mất mát liên quan đến sự an toàn và tiện nghi của bản thân. Chỉ có sám hối và hoán cải cách đích thực thì mới dọn đường tâm hồn xứng đáng để đón Chúa.
Sửa đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén bạc cho chủ. Như người lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường được làm bằng đất đá, nhựa bê tông.Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển, trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi. Chính vì thế, Giáo hội muốn chúng ta sống 4 tuần lễ Mùa Vọng này như sống trong sa mạc: bình tâm hơn, ăn uống đạm bạc hơn, cầu nguyện nhiều hơn để biết rõ ý Chúa.
Sứ vụ của Gioan có hiệu quả chủ yếu bởi vì cuộc đời ngài là sứ điệp của ngài: sống những gì đã rao giảng. Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép rửa, sửa đường nội tâm. Ngài dọn lòng mình và lòng người khác để Chúa đến. Nếp sống giản dị của Gioan mang tâm tình sám hối, sửa đường. Gioan kêu gọi mọi người dọn tâm hồn để đón Đấng Cứu Thế, và chính Gioan đã sống như con đường thẳng. Gioan mời gọi người ta sám hối, và chính đời ngài đã mang nét sửa chữa bằng tâm tình sám hối tâm thành.
Mùa Vọng cách đặc biệt mời gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối, thay đổi tâm can, thay đổi nội tâm và tin vào Chúa Giêsu. “Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối”, lòng sám hối đích thực của Mùa Vọng chính là tích cực đổi mới ngay trong đời sống cụ thể. Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức.
Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Thánh Gioan, vị ngôn sứ luôn sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Êlisabét, mẹ của Thánh Gioan Tẩy Giả - Niềm vui và nỗi đau
ÊLISABÉT, MẸ CỦA THÁNH GIOAN TẨY GIẢ - NIỀM VUI VÀ NỖI ĐAU
WGPQN (29.11.2021) - Thánh sử Luca cung cấp nhiều chi tiết về Mẹ Maria và thời niên thiếu của Chúa Giêsu, nhưng người nữ xuất hiện đầu tiên trong Tin Mừng của ngài lại là Êlisabét, vợ của Zacaria và là mẹ của thánh Gioan Tẩy Giả. Câu chuyện sinh con muộn của bà Êlisabét cũng giống như các chuyện các bà son sẻ sinh con trong Cựu Ước. Nhưng nhìn xa hơn các câu chuyện này, sẽ thấy vai trò quan trọng của phụ nữ trong lịch sử cứu độ. Trong nhãn quan đó, chúng ta cùng tìm hiểu về cuộc đời bà Êlisabét, cũng gọi là Isave. Cả hai tên Isave hay Êlisabét được dịch từ tên gốc tiếng Hy Lạp “Ελισάβετ” và tiếng Do Thái (Hebrew) Elisheva, אֱלִישֶׁבַעcó nghĩa là “Thiên Chúa Đã Thề”.[1][8]
Bà Êlisabét có họ thế nào với Mẹ Maria?
Theo Phúc Âm thánh Luca (1, 36) Êlisabét thuộc dòng tộc tư tế Aaron và có họ với Mẹ Maria, nhưng không nói rõ liên hệ họ hàng ra sao: “Kìa Êlisabét trong hàng thân thích của người” (bản dịch nhóm CGKPV) / “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà…” (bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn). Nhiều người đặt câu hỏi, sao hai người có liên quan họ hàng với nhau được vì Êlisabét thuộc nhà Aaron (dòng tộc Lê-vi) và mẹ Maria thuộc nhà Đavít (dòng tộc Giu-đa). Theo nhà chú giải Kinh thánh Matthew Henry thì chuyện đó có thể xảy ra: “vì Êlisabét là con cái nhà Aaron theo họ cha, nhưng cũng là con cái nhà Đavít theo họ mẹ”. Thế nên, Êlisabeth có thể là chị em họ với mẹ Maria.[2][5][6] Nên biết rằng hôn nhân giữa những người khác bộ tộc là điều bình thường ở Israel thời đó. Thánh Hippolytus đã viết rằng bà Sobe, mẹ của bà Êlisabét và bà Anna, mẹ của đức Maria là hai chị em và bà Sobe lấy chồng thuộc dòng dõi tư tế Lê-vi. Có lẽ thánh Hippolytus đã lấy lối cắt nghĩa này từ các sách ngoài quy điển.[3]
Thân Phận Bà Êlisabét
Thánh Luca kể tiếp rằng “Cả hai (bà Êlisabét và ông Zacaria) đều là công chính trước mặt Thiên Chúa, đi đứng rập theo mọi điều răn giới luật của Chúa, vô phương trách cứ. Nhưng ông bà lại không con, vì Êlisabét là người son sẻ hiếm hoi; vả chăng hai ông bà lại đã cao niên cả rồi.”(Lc 1,5-7). Nói gì thì nói, cả hai chắc là khổ tâm và thất vọng lắm vì theo văn hóa dân Do Thái thời đó, vợ chồng không con là vì họ không được Chúa sủng ái. Nói cách khác, gia đình có đông con là vì họ được Chúa thương yêu (Tv 127,3-6). Ở các xứ Phi Châu, người không có con bị coi là người bị nguyền rủa. Và người ta thường đổ lỗi cho người vợ đã gây nên cớ sự này. [4] Chuyện xảy ra khi ông Zacaria đến phiên dâng hương trong đền thờ, Thiên Thần Gabriel hiện ra báo cho ông biết: “và Êlisabét, vợ ngươi sẽ sinh cho một người con, và ngươi sẽ đặt tên nó là Gioan”. Nhưng ông Zacaria không tin, chất vấn rằng: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi." Vì không tin, ông Zacaria bị phạt phải câm cho tới khi Gioan Tẩy Giả được sinh ra.
Nghe tin chị họ Êlisabét mang thai, mẹ Maria vội vã đến thăm. Vừa nghe tiếng Mẹ Maria ngoài cửa, hài nhi Gioan đã quẫy đạp trong lòng mẹ. Tiếp đến bà Êlisabét được đầy Thánh Thần, nói lớn: "Trong nữ giới, có người là diễm phúc! Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng người! (Lc 1, 42). Êlisabét được linh ứng cho biết hài nhi trong bụng mẹ Maria là “Chúa”, vì thế bà nói trong sung sướng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” Mẹ Maria đáp lại với một bài ca mà sau này gọi là bài “Magnificat”. Bài ca này có cùng ý tưởng với bài ca của bà Hanna trong Cựu Ước khi bà này hát tạ ơn Thiên Chúa cho mình, một người hiếm muộn, được sinh con (1 Sm 2,1-10).[5]
Tám ngày sau khi Gioan Tẩy Giả sinh ra, con trẻ được đưa đi chịu phép cắt bì. Có cả họ hàng láng giềng tham dự. Họ định lấy tên cha là Zacaria đặt cho con trẻ như thông lệ thời đó. Nhưng bà Êlisabét nhất quyết tên con trẻ phải là Gioan. Họ hàng láng giềng mới “làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gio-an." Ai nấy đều bỡ ngỡ. Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 1,62-64). Theo các nhà chú giải Kinh Thánh, ông Zacaria không những bị phạt phải câm, nhưng còn phải điếc nữa vì họ hàng láng giềng đã phải “làm hiệu” khi muốn đối thoại với ông.[6] Ông Zacaria chắc đã học được bài học về việc vâng theo lời Sứ Thần truyền. Đây cũng là một chủ đề mà Luca hay nhắc đến; "Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành."(Lc 8,21).
Thiên Thần là những sứ giả của Thiên Chúa và Thánh Luca đã dùng chữ Sứ Giả/ Thiên Sứ / Thiên Thần tổng cộng 25 lần trong Phúc Âm của Ngài, hơn phân nửa nằm ở hai chương đầu. Phúc Âm của thánh Mát-thêu cũng kể chuyện Sứ Thần hiện ra cùng thánh Giuse, nhưng vị thiên thần này không có danh tánh. Trái lại, trong Phúc Âm Luca, vị thiên thần báo tin cho ông Zacaria và Mẹ Maria tên là Gabriel (có nghĩa là Dũng Sĩ của Thiên Chúa). Trong Cựu Ước, cũng chính thiên thần Gabriel này đã giải thích thị kiến cho tiên tri Daniel.[7] Câu chuyện kể việc bà Êlisabét và ông Zacaria sinh ra Gioan Tẩy Giả khi cả hai quá tuổi sinh con cũng giống các câu chuyện loại này trong Cựu Ước: Abraham và Sarah (18,1-5), Manoah và vợ (Tl 13,2-25), và Elkanah và Hannah (11,1-23).[7]
Phải chăng Sứ Thần cũng hiện ra báo tin cho bà Êlisabét như đã làm với mẹ Maria?
Cả bốn Phúc Âm không đề cập gì đến chuyện này, nhưng có những chỉ dấu về một khả năng chuyện đó có thể xảy ra.
1/ Ngay khi gặp mẹ Maria là em họ mình đến thăm, bà Êlisabét đã cất lời chào đầu tiên: "Trong nữ giới, có người là diễm phúc! Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng người! Và bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi?” (Lc 1,42). Ai đã nói cho bà Êlisabét biết Maria là Mẹ Chúa, nếu không phải là Sứ Thần Chúa đã cho bà biết điều đó?
2/ Khi cử hành phép cắt bì và đặt tên cho con trẻ, họ hàng láng giềng “muốn lấy tên cha là Zacaria mà gọi em. Nhưng mẹ em lên tiếng nói: "Không! Song nó sẽ được gọi là Yoan!"(Lc 1, 59-60). Cha Dennis Hamm, S.J., một nhà chú giải Kinh Thánh, viết rằng ông Zacaria đã bằng cách nào đó báo cho bà Êlisabeth biết về lệnh truyền từ Sứ Thần về việc đặt tên con trẻ là Gioan.[6] Thế nhưng, việc này cũng có thể xảy ra nếu như bà Êlisabét được Sứ Thần Gabriel truyền tin trực tiếp với cùng nội dung như với ông Zacaria. Sứ Thần không chỉ truyền tin cho các ông chồng nhưng cũng đã đối thoại với các bà vợ chịu cảnh son sẻ, như bà Sarah, và vợ ông Manoah trong Cựu Ước, và Sứ Thần đã nói chuyện trực tiếp với Mẹ Maria: “Và này, nơi lòng dạ, người sẽ thụ thai, và sinh con, và người sẽ gọi tên Ngài là Yêsu.”(Lc 1, 31).
Hai trình thuật về việc Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu sinh ra đi song song bên nhau trong Phúc Âm Luca, và sẽ là một điều khó hiểu nếu Sứ Thần chỉ truyền tin cho Mẹ Maria mà không truyền tin cho bà Êlisabét.
Lời bà Êlisabét chào Mẹ Maria cùng với lời Sứ Thần Gabriel truyền tin đã trở nên phần đầu của kinh Kính Mừng. Một lời kinh vang vọng mọi ngày khắp cùng trái đất để tôn vinh Mẹ Maria và cũng để gợi nhớ một nữ tì cũng là một bà mẹ khiêm hạ, công chính, người đã dưỡng nuôi Gioan Tẩy Giả, Đấng Tiền Hô của Chúa Cứu Thế.
Ở phía nam Giê-ru-sa-lem, gần với Ein Karem, nơi bà Êlisabét và ông Zacaria sinh sống, cũng là nơi sinh của Gioan Tẩy Giả, có một tu viện dòng thánh Phanxicô tên là Tu Viện Thánh Gioan Trong Hoang Mạc. Trong tu viện này có một ngôi mộ, tương truyền là của bà Êlisabét.[8] Người ta không biết ông Zacaria được chôn ở đâu. Nhưng theo Tiền Phúc Âm Giacôbê được viết vào thế kỷ thứ 2, khi Hêrôđê tìm giết các hài nhi từ 2 tuổi trở xuống, ông Zacaria đã bị quân lính vua Hêrôđê giết chết khi không khai ra nơi ông đã giấu hài nhi Gioan.[9]
Bà Êlisabét ắt đã phải chịu nhiều khổ đau để nuôi dưỡng Gioan Tẩy Giả nên người. Người ta không biết bà Êlisabét chết lúc nào, nhưng giả như bà còn sống khi nghe tin đứa con Gioan thân yêu bị chặt đầu, thì nỗi đau của bà có khác chi nỗi đau của mẹ Maria ôm xác con trên đồi Golgotha. Quả thật bà Êlisabét có vai trò không nhỏ trong lịch sử cứu độ.
Câu hỏi: Nơi môi trường đại học, nhiều lần con nghe giảng viên nói tôn giáo chỉ là trò bịa đặt. Thiên Chúa cũng chỉ là sản phẩm phóng chiếu của con người. Thú thật, để giải thích hoặc đối thoại với các giảng viên ấy, hay chứng minh cho chúng bạn về sự hiện diện của Thiên Chúa, thật thách đố với con. Xin giúp con vài cách để chia sẻ về sự hiện diện của Thiên Chúa cho người khác!
Trả lời:
Bạn thân mến,
“Có Thiên Chúa thật không?” là câu hỏi không biết bao nhiêu người đã từng đặt ra. Đây là một câu hỏi lớn của nhân loại và cũng chính là một lời mời gọi để mỗi người chúng ta khởi đầu hành trình kiếm tìm chân lý.
Trước hết, bạn hãy hỏi vũ trụ vạn vật...
Bạn hãy dành thời gian quan sát mà xem: biết bao nhiêu vẻ đẹp lạ lùng của thiên nhiên: những rực rỡ lung linh của bầu trời trăng sao, sự hùng vĩ của núi sông, biển cả, sự huy hoàng của ánh bình minh chiếu sáng hay khi hoàng hôn buông nhẹ bóng xế tà, nét kiều diễm của từng bông hoa cùng hương thơm dịu dàng của chúng, tiếng suối reo róc rách, tiếng chim hót véo von, tiếng gió rì rào qua kẽ lá… Rồi bạn hãy hỏi: “Ai đã làm nên những vẻ đẹp này?” Thánh Augustinô xưa cũng đã từng hỏi như vậy, và ngài nhận được câu trả lời: “Còn ai nữa, nếu không phải là Đấng Toàn Mỹ không bao giờ thay đổi!” Phần bạn, nếu bạn nghiệm ra rằng: những vẻ đẹp ấy không phải do ngẫu nhiên hay tình cờ, nhất định phải có một nguyên nhân rất tinh tế, phải có một tác giả rất tài tình của những vẻ đẹp ấy, là bạn đã bắt đầu tìm thấy câu trả lời rồi đó.
Ngày nay, với các phương tiện khoa học kỹ thuật, bạn có thể khám phá thế giới bao la, vũ trụ rộng lớn. Và bạn sẽ thấy rằng: hằng hà sa số những vì sao trên bầu trời kia không phải là một mớ hỗn độn khổng lồ đâu, mà tất cả đều vận hành theo một trật tự ngăn nắp. Chúng tuân theo những định luật cực kỳ chính xác.
Chẳng hạn, Trái Đất của chúng ta tự quay chung quanh mình mỗi ngày một vòng, đang khi nó vẫn chạy theo quỹ đạo chung quanh Mặt Trời mỗi năm một vòng với vận tốc 30km/giây (108 ngàn km/giờ). Tương tự, các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời: sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ... cùng vận hành xoay quanh Mặt Trời. Các quỹ đạo của chúng gần như tạo thành một mặt phẳng gọi là mặt phẳng hoàng đạo. Cũng thế, mỗi ngôi sao, hệ sao, quần tinh và các thiên hà đều vận hành theo những quy trình nhất định. Thật tuyệt diệu phải không bạn?
Nhà bác học Newton sau khi khám phá vũ trụ đã khẳng định: “Nhờ dùng kính viễn vọng để tìm đến nơi tận cùng, tôi đã nhìn thấy dấu vết của Thiên Chúa”. Sự hiện hữu của các định luật vật lý chính là bằng chứng rõ rệt nhất của Đấng Sáng Tạo là Thiên Chúa.
Bây giờ bạn hãy thôi quan sát vũ trụ để tìm hiểu các nguyên tử rất nhỏ bé và bạn cũng sẽ phát hiện ra những điều kỳ thú. Mỗi nguyên tử vật chất là cả một Thái dương hệ thu nhỏ, gồm có một nhân ở trung tâm giống như Mặt Trời. Chung quanh nhân là chi chít những electron chuyển động xoay tròn quanh hạt nhân với vận tốc 297.000 km/giây, thật không khác gì các hành tinh xoay lượn chung quanh Mặt Trời.
Những điều trên cho ta thấy tính trật tự và tính quy luật của toàn thể vũ trụ vật chất, từ cái cực lớn đến cái cực nhỏ. Liệu tất cả những điều vi diệu đó chỉ là do ngẫu nhiên và tình cờ mà thôi sao? Tình cờ và ngẫu nhiên có thể tạo nên những cấu trúc, những hệ thống được không hay chỉ là hỗn độn, bừa bãi, thậm chí là hư vô trống rỗng? Chiếc đồng hồ với hệ thống kim chỉ giờ, chỉ phút, chỉ giây chạy nhịp nhàng là do ngẫu nhiên mà có, hay là đãcó người thợ chế tạo ra nó?
Vật chất vô tri đã thế, các loài sinh vật còn kỳ diệu hơn nhiều. Từng quan năng, từng tế bào, từng phân tử trong tế bào đều được cấu tạo cách cực kỳ phức tạp tinh tế và thông minh. Bác sĩ Alexis Carrel (1837–1944) nhà sinh vật học người Pháp, người đã được trao giải Nobel năm 1912, đã diễn tả về sự tăng triển kỳ diệu của sự sống từ một tế bào như sau:
Con vật được cấu tạo bởi những tế bào, cũng giống như cái nhà được xây dựng bằng những viên gạch. Nhưng con vật xuất phát từ chỉ một tế bào duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt nguồn từ một viên gạch vậy. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy những viên gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối hòa tan trong nước và khí trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc sư vẽ kiểu, không cần đến bàn tay của thợ xây, đã tự động kết hợp thành những bức tường. Các viên gạch cũng tự động biến thành các tấm kính để làm cửa, ngói để lợp mái… Lạ không?
Trái Đất này tràn đầy sự kỳ diệu như thế. Dưới lòng đất, trên núi cao, giữa biển sâu, trong rừng vắng, chỗ nào cũng đầy sự kỳ diệu, đến nỗi bạn không còn để ý đến. Còn những ai để ý sẽ không thể không kinh ngạc thán phục. Như nhà bác học Pasteur chẳng hạn, ông tuyên bố: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin có Thiên Chúa”. Còn bạn thì sao?
Gần đây, khám phá về phân tử ADN trong nhân tế bào càng làm các nhà khoa học kinh ngạc. Việc giải mã bộ gen người vô cùng tinh vi càng làm các nhà khoa học kinh ngạc hơn. Tiến sĩ Francis Collins, giám đốc chương trình Bản đồ gen người này, đã quả quyết rằng mã ADN chính là “ngôn ngữ của Chúa” – những chỉ thị để sự sống hình thành và phát triển. Qua đó ông biết được bí mật của sự sống mà Chúa đã cài đặt trong ADN. Từ một người vô thần, ông đã trở thành người có đức tin và nói: “Đạo Thiên Chúa đã đem lại cho tôi chuỗi chân lý vĩnh hằng đặc biệt.” Còn bạn thì sao?
Bạn hãy hỏi tiếng Lương tâm:
Bây giờ bạn hãy nhìn vào ngay trong nội tâm mình để khám phá ra rằng trong đó có một thứ lề luật mà chính bạn không đặt ra, luật đó vẫn luôn nhắc nhở bạn phải làm điều thiện và tránh điều ác. Luật đó chính là lương tâm.
Lương tâm luôn luôn theo cùng mỗi người mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Ta có thể phớt lờ tiếng lương tâm để mà ăn gian nói dối, trộm cắp, giết người… nhưng ta vẫn biết, vẫn cảm thấy việc mình làm là sai trái, là không tốt. Cho dù việc ta làm chỉ một mình ta biết, nhưng ta vẫn thấy day dứt không nguôi. Chính vì sự day dứt này mà có nhiều thủ phạm giết người, dù đã rửa sạch mọi dấu vết và không bị phát giác, nhưng nhiều năm sau, kẻ ấy bỗng nhiên đi đầu thú để được đền bù lẽ công bằng. Nguyên do là vì kẻ ấy không chịu nổi sự dày vò trách cứ của lương tâm.
Hẳn nhiên, lương tâm không phải do mỗi người tự đặt ra cho chính mình. Bởi vì nếu mỗi người tự đặt ra cho mình thì chúng ta sẽ phải đặt ra những gì dễ dãi và có lợi cho bản thân. Còn lương tâm thì khác hẳn, chúng không luôn phù hợp với khuynh hướng xấu của con người. Mặt khác, nếu mỗi người tự đặt ra lề luật cho mình thì luật ấy sẽ muôn hình vạn vẻ. Nhưng lương tâm luôn có sự thống nhất và mang tính phổ quát cho toàn thể nhân loại.
Lương tâm cũng không phải do môi trường xã hội đặt ra, bởi vì có khi nó còn cao hơn những đòi hỏi của xã hội và đôi khi đi ngược lại với những bó buộc sai trái của xã hội. Cho nên lương tâm là bẩm sinh. Cha mẹ, thầy cô hay xã hội chỉ là đóng vai trò phụ thuộc, giúp cho luật ấy phát triển và sáng tỏ hơn hoặc cũng có thể làm cho nó bị bóp méo lệch lạc mà thôi. Vậy lề luật này ở đâu ra khi chính chúng ta không tự đặt ra lề luật ấy cho mình? Nhờ phán quyết của lương tâm này mà nhiều người đã ý thức và nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa. Bạn thấy sao?
Bạn hãy hỏi những tấm lòng vị tha:
Vượt lên trên cả tiếng lương tâm, trong mỗi người còn có một sức mạnh khác, một sự thôi thúc của lòng vị tha. Lòng vị tha là sự trao tặng không vụ lợi của một người dành cho người khác mà không hề có động cơ vị kỷ; hy sinh cho người mà không cần được người đền đáp. Rất nhiều người đã bất chấp sự nguy hiểm của bản thân để giúp đỡ người khác.
Một gương mặt tiêu biểu mà có lẽ bạn đã từng thấy trên các phương tiện truyền thông là thánh Têrêsa Calcutta. Thánh nhân được cả thế giới kính cẩn gọi là mẹ vì sự giúp đỡ không chút vị kỷ của mẹ đối với những người nghèo khổ nhất trong những người nghèo khổ tại Calcutta và nhiều nơi trên thế giới. Tuy đang sống yên ổn tại dòng Loreto với công việc giảng dạy, mẹ Têrêsa quyết định rời tu viện để giúp đỡ người nghèo và sống chung với họ.
Từ hai bàn tay trắng, mẹ khởi đầu một dòng tu với mục đích chăm sóc người đói khát, trần truồng, kẻ không nhà, người tàn tật, người mù, bệnh nhân phong, bất cứ ai đang cảm thấy thừa thãi, bị căm ghét, ruồng bỏ trong xã hội, những người đang là gánh nặng của xã hội và bị mọi người xa lánh, người tị nạn, người khuyết tật, già lão, nghiện rượu, người nghèo và người vô gia cư, nạn nhân lũ lụt, dịch bệnh, và nạn đói… Những người vô gia cư sắp chết cũng được mẹ và các nữ tu mang về chăm sóc để họ được chết “một cái chết đẹp” như những thiên thần.
Vào thời điểm mẹ Têrêsa từ trần (1997), dòng tu của mẹ có hơn 4.000 nữ tu, với sự hỗ trợ của 300 tu sĩ, và hơn 100.000 người tình nguyện. Họ điều hành 610 cơ sở từ thiện tại 123 nước trên thế giới. Thật là một điều phi thường. Mẹ Têrêsa và dòng tu của mẹ là tiêu biểu trong vô số những người có lòng vị tha trong xã hội. Hành động của các vị ấy trái ngược hoàn toàn với lối sống thực dụng và ích kỷ của bản tính con người.
Thậm chí trong một số trường hợp, lòng vị tha có thể lớn tới mức hy sinh cả tính mạng mình để cứu giúp người khác, tiêu biểu như thánh Maximilianô Maria Kolbê. Ngài là một linh mục trong trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã, đã tình nguyện chịu chết thay cho một người bạn tù vì anh này còn có vợ con.
Không phải ai trong chúng ta cũng có thể dám hy sinh thân mình để cứu giúp người khác như thế. Nhưng chắc chắn là hầu hết chúng ta đều từng cảm thấy có một sự thúc gọi bên trong là hãy giúp đỡ một người lạ đang gặp khó khăn, dù biết bản thân mình chẳng được lợi lộc gì. Và nếu chúng ta đã từng làm như vậy thì phần thưởng dành cho chúng ta thường là một cảm giác vô cùng ấm áp vì đã làm được một điều gì đó đúng đắn và hữu ích cho người khác.
Đạo diễn Trần Văn Thủy và đoàn làm phim tài liệu Việt Nam trong tác phẩm nổi tiếng “Chuyện tử tế” sản xuất năm 1985, đã phỏng vấn các thầy thuốc làm việc lâu năm tại trại phong Quy Hòa:
– Ai là người tận tâm chăm sóc cho các bệnh nhân phong?
Mọi người đều trả lời:
– Các bà sơ, chuyện đó phải kể đến các bà sơ.
Khi đoàn làm phim hỏi các bà sơ:
– Đâu là nơi bắt đầu để các sơ yên tâm tận tụy phục vụ các người phong?
Các sơ trả lời:
– Chỗ bắt đầu của chúng tôi là Niềm Tin.
Câu trả lời đã gây một ấn tượng sâu sắc cho người nghe.
Còn bạn, khi chiêm ngưỡng những tấm lòng vị tha, nhất là gương các thánh, bạn có nhận ra thấp thoáng hình ảnh Thiên Chúa chưa?
Bạn hãy hỏi Chúa:
Cuối cùng, bạn hãy hỏi chính Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ có câu trả lời cho bạn. Thực ra, Ngài đã trả lời cho bạn rồi. Bạn hãy đọc Kinh Thánh, đó chính là Lời Chúa nói với loài người và cũng là nói với bạn.
Bề ngoài, Kinh Thánh là bộ sách đứng đầu mọi thời đại và là bộ sách gây ảnh hưởng nhiều nhất trong lịch sử loài người. Ước tính mỗi năm có thêm hàng trăm triệu bản được in ấn và phát hành. Đây cũng là bộ sách được dịch nhiều lần nhất, sang hơn 2.508 ngôn ngữ của hơn 90% dân số thế giới (năm 2009). Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng. Chẳng những hơn hai tỉ người thuộc các giáo hội Kitô giáo vẫn thường đọc hay nghe Kinh Thánh hàng ngày, mà Kinh Thánh còn ảnh hưởng tới hàng tỉ người ngoài Kitô giáo.
Nhưng tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ sách này được in nhiều nhất, số lượng người đọc và trích dẫn là nhiều nhất, nhưng ở chỗ: Nhờ Kinh Thánh mà con người nhận biết chương trình và hành động cứu độ của Thiên Chúa. Nhờ Kinh Thánh con người cũng biết được Thiên Chúa là ai và Người muốn con người phải sống thế nào cho phải đạo. Nhờ Kinh Thánh mà con người biết rằng Thiên Chúa không phải là “Ông Trời” xa tít, nhưng là một “chủ thể” vừa siêu việt vừa gần gũi với mình.
Kinh Thánh sẽ nói với bạn rằng:
“Ngay cả khi đồi núi chưa được dựng nên,
địa cầu và vũ trụ chưa được tạo thành,
Ngài vẫn là Thiên Chúa,
từ muôn thuở cho đến muôn đời.” (Tv 90,2)
Tuy Kinh Thánh đã được viết từ rất lâu và cũ kỹ, nhưng nó lại chứa đựng nội dung, sứ điệp không hề thay đổi theo thời gian. Không có một bộ sách nào vừa cổ kính vừa mới mẻ, vừa cao xa vừa hiện thực như Kinh Thánh. Trong thời đại chúng ta, thời đại bùng nổ thông tin, nhưng chẳng có thông tin nào đem lại cho chúng ta niềm tin yêu, hy vọng. Tất cả đều tỏ ra là phù du. Cũng như mọi thứ tài sản, lạc thú và quyền lực cũng sẽ chẳng đáp ứng được các nguyện vọng sâu xa nhất của trái tim con người. Cho nên, để xây dựng cuộc đời, để khám phá nguồn vui, để kiếm tìm chân lý, chúng ta cần đến những nền tảng chắc chắn, và nền tảng ấy chính là Kinh Thánh. Kinh Thánh thánh đã đem lại niềm tin và sức mạnh cho hàng tỉ người, bao gồm cả những vĩ nhân trên thế giới. Bạn đừng thờ ơ hay xem thường nhé.
Đến đây, không biết bạn đã tìm ra câu trả lời chưa? Dù rồi hay chưa thì mình cũng giới thiệu bạn hãy đến với người này: Đức Giêsu Kitô, hiện thân của Thiên Chúa. Đấng đã từ nơi Thiên Chúa mà đến để giới thiệu và loan báo cho chúng ta biết dung nhan đích thực của Thiên Chúa tình yêu. Chính Người đã nói về mình rằng: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6). Nếu bạn thực sự muốn tiếp cận chân lý, hãy đến với Đức Giêsu, Đấng vẫn hằng hiện hữu cách thiêng liêng giữa Hội Thánh của Người.