Trang

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2025

CN 5 MC C - Chú giải của Noel Quesson

 Chú giải của Noel Quesson

Còn Đức Giêsu thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ

Ngài có thói quen, nhất là trong tuần lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.

Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.

Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm thành vòng tròn. “Người ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông… Chị ta phản bội chồng mình… Chị ta đáng chết… luật lệ đã rõ ràng” (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.

Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó

Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển mà không gặp thương tổn sao?

Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?

Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã có tội rồi: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.

Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người

Những người pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du với người tội lỗi. “Ông ấy ăn uống với người tội lỗi”. Thực sự, vụ xét xử người đàn bà ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là “vụ xử án của Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.

Vụ án biểu tượng:

Bị cáo: Một người phụ nữ.

Người tố cáo: Kinh sư và những người pharisêu

Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật Môsê.

Bản án: Tử hình

Vụ án thực sự:

Bị cáo: Đức Giêsu

Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và Pharisêu

Tội phạm: Phạm thượng

Bản án: Tử hình

Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất

Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính Người.

Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị sao? Người không ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ. Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên những phân tích của con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi, tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không? Quá khứ của người đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau khổ…Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này không? Những câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì. Người đang viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến “lãnh vực khác”.

Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ

Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên. Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…

Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi

Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát những người Galilê” hay trong tai hoạ do “tháp Silôa” đổ xuống.

Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân hậu thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim biết thương xót.

Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động “điếm đàng”. Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!

Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi

Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai, Chúa đã cho phép họ “lần lượt” âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.

Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị. Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương của Thiên Chúa, “không lên án” chị, sẽ phút chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc… Chị ta đã thoát chết… Chị không còn là người “ngoại tình” nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.

Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa

Sự “khốn khổ” đối với “lòng xót thương”, Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là một hình tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.

Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”

Tất cả những người tội lỗi khác, các kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường nói: “Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả” (Ga 8,l5). “Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ ” (Ga 3,17).

Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây: “Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.

“Đừng phạm tội nữa”. Tạ ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà chúng con thường nói tới. “Không thể làm gì cho hắn được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu thôi… ” Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!

25. Chú giải của Fiches Dominicales

Đức Giêsu mở ra một con đường hướng về tương lai cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình; trong khi những kẻ tố cáo lại muốn giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi.

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Trước bẫy giăng của đối thủ

Câu chuyện quí giá này tự nó có thể là một Tin Mừng nhỏ mà cốt lõi là: Đức Giêsu từ nơi Thiên chúa đến, không phải để tố cáo tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ, và nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người dâng tặng họ chính sự sống của Thiên Chúa. Một văn bảo, nhưng sự có mặt của nó trong các bản văn Tin Mừng bị nghi ngờ. Các thủ bản đầu tiên của thánh Gioan không có. Với những lý do tương cận về văn thể và từ ngữ, các thủ bản của thánh Luca lại đặt câu chuyện sau Lc 21, 38.

Tại sao có sự do dự này? A. Marchadour giải thích: “Câu chuyện thì xác thực nhưng, các vị lãnh đạo Giáo Hội sơ khai ngại sự phóng túng. Ngoại tình bị coi như một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Đức Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, một số vị chức trách cho là quá dễ dãi quá. (Họ quên mất câu “Hãy về và đừng phạm tội nữa”). Dễ dãi thế đe doạ sự trung tín trong hôn nhân” (“L’Eavngile de Jean”, Centurion 1992. trg 121).

Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Đức Giêsu lên núi Ôliu. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.

“Các kinh sư và những người Pharisêu thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Đức Giêsu làm đảo lộn tất cả, nên họ quyết định trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.

Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ “bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình”. Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào “giữa” đám đông đang tụ họp và nói với Đức Giêsu: “Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”

Bẫy đã giăng, thoát thế nào được! Tha, Đức Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Đức Giêsu.

Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Đức Giêsu. Tệ thật! Đây không còn là một vấn nạn nơi lớp học, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người thiếu phụ cũng như đối với chính Đức Giêsu.

Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Đức Giêsu “cúi xuống” và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.

Các nhà chú giải rất quan tâm tìm hiểu xem Đức Giêsu viết gì trên đất? Thánh Hiêrônimô nghĩ: Người vạch tội những kẻ tố cáo. Nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia (17,l3): “tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất “. A. Marchadour cho rằng: “Tốt nhất nên trung thành với sự mơ hồ của bản văn. Đức Giêsu vạch trên đất để kéo dài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng”. (sđd; trg 124).

Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Đức Giêsu “cúi xuống”, rồi “ngước lên”. X. Léon-Dufour thắc mắc: “Sao lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy?” Rồi trả lời: “Tên núi Ôliu được nhắc đến ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Đức Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đến sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Đức Giêsu sẽ hoà giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa” (“Lecture de l’evangile selon Jean”, Cerf, tập 2, trg 313).

2. Trước hết, câu trả lời của Đức Giêsu là sự thinh lặng.

Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Đức Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: “Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi”. (Dnl 13,9-10 và 11,7: “Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước). Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.

Các kinh sư và những người Pharisêu đinh ninh mình công chính, nấp sau luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Đức Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan toà phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như “người phụ nữ kia”, người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.

Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất”.

3. Rồi lời giải thoát đến:

Khi Đức Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”.

Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là “hạng đàn bà đó” một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: “Này chị”. Hơn bất cứ ai khác, Đức Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa “.

Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Đức Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện “độc giả cũng thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc, nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa” (x. Léon-Dufour, Sđd, trg 332).

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Một mạc khải sâu xa về bản chất của tội lỗi

Câu chuyện là hạt ngọc quí của Tin Mừng. Chúa Giêsu rời núi ôliu, trở lại đền thờ để cứu vớt một phụ nữ ngoại tình, một kẻ tội lỗi. Đừng hạ thấp giá trị của trang Tin Mừng tuyệt vời này khi cho nó chỉ là bài học về sự khoan dung đối với những yếu đuối nhân loại, sự khoan dung mà các bậc hiền triết thời nào cũng mến chuộng.

Thật ra, trang Tin Mừng hôm nay là một mạc khải rất sâu xa về bản chất của tội lỗi, và bản chất của sự tha thứ… theo cái nhìn của Thiên Chúa.

Tội lỗi, trước tiên là một thực tại loài người, rồi là một thực tại của lòng tin. Khi nghiên cứu cách cư xử của con người, các nhà xã hội học khám phá ra sự phạm pháp: Xã hội bao gồm nam, nữ, gia đình, cộng đồng… không thể vận hành nếu như không có một số luật lệ, cấm đoán. Không trộm cắp. Không nói dối. Tôn trọng đời sống lứa đôi. Không ngoại tình. Đừng hiểu ý nghĩa của trang Tin Mừng này cách trái ngược: Đức Giêsu kết án tội ngoại tình là điều rất rõ. ” Đừng phạm tội nữa”.

– Ý niệm về lỗi phạm… Nếu trẻ em thường sai lỗi trong những điều cấm -đáng tin cũng có cả một số người lớn còn ấu trĩ như vậy-, thanh thiếu niên chưa trưởng thành trong nhận thức về điều cấm, điều được phép. Họ khám phá ra rằng: những điều người ta cấm họ tác hại đến cá nhân họ: khi tôi nói dối, trộm cướp, ngoại tình, tôi huỷ hoại một điều gì đó về nhân tính nơi tôi. Lỗi phạm như một con sâu gặm nhấm một trái cây, một thiếu sót nơi bản thân, nơi ý chí tôi. Ý niệm về tội lỗi: ở một mức cao hơn, theo nghĩa đúng nhất, tội lỗi làm gián đoạn “mối tương quan với Thiên Chúa”. Chúa nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu gợi ý, tội lỗi chính là sự đứt đoạn tình yêu với Cha: người ta cắt đứt mối tương quan và bỏ đi xa. Hôm nay, Tin Mừng nêu lên một quan hệ khác: toàn bộ Kinh Thánh ví tội của Israel như hành vi ngoại tình, phản bội giao ước giữa Chúa và dân yêu dấu của Ngài. Các ngôn sứ thì ví loài người như một người vợ bất trung đối với chồng. Cắt đứt giao ước tình thương. Xúc phạm một ngươi luôn yêu mình. Đó là mạc khải xác thực và sâu xa về tội lỗi.

Như vậy, đối với Đức Giêsu, người ta chỉ hiểu ý nghĩa của tội lỗi, khi hiểu ý nghĩa về Thiên Chúa. Rốt cục, các thánh là những người sáng suốt nhất, vì các ngài nhận ra hành vi phạm pháp và lỗi lầm làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và yêu thương ta vô cùng. Chính chúng ta làm tổn thương “khuôn mặt” của Người… nơi chúng ta, chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.

2. Một lời nói và một ánh mắt giải phóng và cứu độ.

Những người Pharisêu tốt lành và trung thành có một cơ hội tuyệt vời để tố cáo Đức Giêsu. Người bị dồn vào chân tường. Hy sinh người phụ nữ để giữ Lề Luật hay hy sinh Lề Luật để cứu người phụ nữ. Người bị kẹt giữa cả hai phía. Kết án người phụ nữ tội lỗi này thì mâu thuẫn với những lời giảng về lòng thương xót và ơn tha thứ. Tha cho chị thì phạm pháp vì bất tuân luật Môsê. Bị cáo sẽ chính là Đức Giêsu.

Sẽ không có sự kết án, cũng không có viên đá nào được ném ra (hình phạt ném đá đến chết). Bẫy sẽ sập xuống trên chính những kẻ gài nó. Chỉ vài lời thôi, Đức Giêsu đã hoán đổi vị trí, nguyên cáo biến thành bị cáo. Chị ta đã phạm tội. Đúng vậy. Còn các ông? Chị không đến nỗi hư hỏng và tội lỗi như các ông nghĩ và các ông cũng không công chính và trung tín như các ông tự phụ.

Một bài học thật là nặng nề, khó chịu nhưng cũng tuyệt vời Đó là bài học về chân lý, về cách Chúa dạy dỗ, về sự công chính theo Tin Mừng và về lòng thương xót rất phù hợp với truyền thống mà các ngôn sứ bênh đỡ và duy trì trước những trận gió và cơn sóng khắc nghiệt xuất phát từ lòng hẹp hòi của con người. “Đừng nghĩ tới chuyện xa xưa nữa. Hãy quên đi quá khứ. Này ta đang tạo lập một thế giới mới: Nó đang hình thành. Các ngươi có thấy không? “

Phán quyết của Chúa là lời tha thứ. Sự tha thứ không giam cầm người khác trong lỗi lầm và trong quá khứ. Anh mắt và lời nói của Đức Giêsu giải thoát và cứu rỗi. Khác hẳn với những cái răng sắc nhọn, những lời nói như đá ném vào mặt, những cái nhìn kết án như viên đạn xuyên tim. Cơn giận giả dối của “những người công chính” cho rằng mình chẳng có điều chi đáng phiền trách nhưng lại luôn sẵn sàng trừng phạt tội người khác.

3. Một vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta.

(“Célébrer”, tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 217, trg 26).

Ai cũng khát vọng một thế giới mới. Ai cũng nói về đổi đời Đồng thời, đều cảm thấy bị giam hãm trong những cơ chế gò bó (trong Xã hội cũng như Giáo Hội). Làm sao thoát ra? Theo các bài đọc hôm nay, gặp gỡ Đức Kitô và Tin Mừng của Người sẽ phá tung ngục tù của thất vọng (bài đọc I), làm tan vỡ khối rắn chắc của một lương tâm sơ cứng vì lợi lộc tư riêng (bài đọc 2), bẻ gầy gọng kìm bạo lực của những lời kết án (Tin Mừng).

Trong hoang mạc của chủ nghĩa pháp chế khô cằn, lời kêu gọi biết dùng tự do có trách nhiệm vọt lên như một dòng suối trong mát. Ngay đối với những người Pharisêu khô cằn về luân lý, Chúa Giêsu vẫn có thể cấy trồng sự sống khi làm cho họ hết phương chống đỡ, khi làm cho họ nhận ra rằng họ liên đới với nhau cả trong sự dữ, qua đó, cho thấy có hy vọng vào một lối thoát ra khỏi mọi hệ thống độc đoán và hay kết tội người khác.

Người mở trước mắt ta cái nhìn nhận ái đích thực về mọi lời: cái nhìn không đóng kín chúng ta vào thất bại và tuyệt vọng của quá khứ, cái nhìn tái tạo cuộc sống khi mời gọi chúng ta tiến bước. Tóm lại, đó là một tình yêu loan báo tương lai.

Vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta cùng cái nhìn tái tạo này không phải là điều chúng ta cảm nhận và ” sống trong bí tích hoà giải đó sao? Không phải là cơ hội cảm nghiệm quyền năng của sự phục sinh đó sao. Bàn tiệc Thánh Thể loan báo thế giới mới. Dân được cứu rỗi hát mừng những kỳ công của Đấng mở lối vào tương lai.

Luật yêu thương đòi hỏi thông cảm và tha thứ - CN 5 MC C

 Luật yêu thương đòi hỏi thông cảm và tha thứ

(Suy niệm của JKN)

Câu hỏi gợi ý:

1. Luật Môsê – cũng là luật của Thiên Chúa – buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân theo luật ấy không? Tại sao?

2. Luật mới của Đức Giêsu – luật yêu thương – đòi hỏi những gì? Nếu không biết thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử và kết án, ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?

Suy tư gợi ý:

1. Các kinh sư Do Thái gài bẫy Đức Giêsu

Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ nữ này, thì Ngài đã không tuân luật Môsê. Môsê viết: «Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã không tuân luật Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân chúng buộc phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật Môsê hơn. – Nếu Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật Rôma. Theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (x. Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy này một cách tài tình, mà còn làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.

2. Tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật Môsê?

Luật Môsê là luật của Thiên Chúa (x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do Thái ai nấy đều tin rằng đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật vĩnh viễn cho con người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv 6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v…), là luật chung cho cả địa cầu (x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân giữ luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên Chúa (Đnl 17,19; Gs 22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì được hạnh phúc, được sống đời đời (Tv 119,1.165; Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả con cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa, trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7; Er 7,26; Gr 19,15).

Vậy, luật Môsê buộc phải xử tử hình những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại tìm cách tha cho người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải vì Ngài không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm cách nào thoát khỏi cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?

3. Đức Giêsu đến lập luật mới là luật yêu thương và tha thứ

Nhiều người tưởng rằng hễ đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn đời không thay đổi theo không gian và thời gian, nghĩa là luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên Chúa lập luật cho con người chứ không phải cho Ngài. Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người. Mà con người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh và sự hiểu biết của con người luôn luôn tiến triển. Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải thay đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật cũ của Môsê đã được thay thế bằng luật mới của Đức Giêsu: «Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã chính thức tuyên bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).

Con người thời Cựu ước giống như nhân loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta giữ. Nếu ta không giữ thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động cơ giữ luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng khi lớn lên, ta không còn giữ những luật đơn sơ ngày xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động cơ khiến ta giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên Chúa, với chân, thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng thành, ta biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù hợp với tình yêu, và ta biết ta phải hành động thế nào.

Thời Đức Giêsu, nhân loại đã trưởng thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã khai mạc một kỷ nguyên mới, với luật mới của Ngài. Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Vì thế, Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn hành xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy của tình yêu.

4. Luật yêu thương đòi hỏi sự thông cảm và tha thứ

Tình yêu đòi hỏi phải thông cảm và tha thứ… Thông cảm vì bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu đuối và bị lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết cuộc, con người «ai cũng phạm tội» (Rm 5,12): «Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10; x.1Ga 1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại kết án người khác, thì quả thật có chút gì «vô liêm sỉ» ở trong đó.

Đức Giêsu tuy không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu hết những tình huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thoả mãn niềm kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.

Đức Giêsu thấy ác tâm của họ, Ngài kêu gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ trong lòng họ. Ngài bảo họ: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi». Ngài biết đã là con người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên giúp, họ không thể nào tránh được tội lỗi. Lời nói của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một khi đã tự xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình. Ngài đã cho họ một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi của kẻ khác, vì chính bản thân mình cũng có tội.

Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con cảm thấy mình rất yếu đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng phải xấu hổ vì tội của con. Nhưng lạ thay, khi thấy tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại mạnh mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn Cha và tha nhân thông cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi người khác phạm tội, con lại không muốn thông cảm và tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con là như vậy sao? Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng thịt thật sự, biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của mọi người, và sẵn sàng tha thứ tất cả.

Quizizz CN 5 Mùa Chay C Ga 8,1-11

 


 
Quizizz CN 5 Mùa Chay C Ga 8,1-11

Quizizz CN 5 Mùa Chay C Ga 8,1-11

Quizizz Rất dễ! Mời các bạn cùng chơi.



https://quizizz.com/join?gc=21412484

GIÊRUSALEM: DẤU VẾT MỘT KHU VƯỜN ĐƯỢC PHÁT HIỆN BÊN DƯỚI ĐỀN THỜ MỘ THÁNH

 

GIÊRUSALEM: DẤU VẾT MỘT KHU VƯỜN ĐƯỢC PHÁT HIỆN BÊN DƯỚI ĐỀN THỜ MỘ THÁNH

avatarDaniel Esparza - Cécile Séveirac
 
WHĐ (29/3/2025) - Theo tờ Times of Israel ngày 22/3/2025, những nhà khảo cổ đã phát lộ những dấu tích của một khu vườn cổ, bên dưới thánh đường Mộ Thánh tại Giêrusalem. Việc phát hiện này là tiếng vọng của một câu chuyện trong Thánh kinh ấn định vị trí của cuộc đóng đinh và an táng Chúa Giêsu là trong một khu vườn. Một bước tiến lớn trong việc hiểu biết về lịch sử của địa điểm thánh này.

Những nhà khảo cổ học đã phát hiện những dấu vết của một khu vườn cổ gồm có những cây ôliu và cây nho, bên dưới nhà thờ Mộ Thánh, trong khu phố cổ ở Giêrusalem. Công cuộc phát hiện vô giá này có vẻ như là tiếng vọng cho câu chuyện trong Thánh kinh theo Thánh Gioan; ngài đã định vị cuộc đóng đinh (vào thập giá) và việc an táng Chúa Giêsu là trong một khu vườn: “Nơi Đức Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do Thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó” (Ga 19, 41-42).

Shutterstock I sashk0 / Mộ Thánh ở Giêrusalem.

Toán khảo cổ học, dưới quyền nữ giáo sư Francesca Romana Stasola của trường đại học Sapienza ở Rôma, đã tiến hành khai quật bên dưới vương cung thánh đường. Nhờ những phân tích cổ thực vật và phấn hoa học, họ đã nhận dạng được những bằng chứng về việc canh tác cây ôliu và cây nho có tuổi khoảng 2.000 năm. Những tầng địa chất này, cũ hơn kỷ nguyên Kitô giáo, cho thấy vùng này trước kia là đất nông nghiệp trước khi thành nơi thánh thiêng. Nữ giáo sư Stasola đã nhấn mạnh với báo The Times of Israel rằng khu vực này, vào thời Chúa Giêsu sống, vẫn còn nằm ngoài vòng thành Giêrusalem. Nó chỉ được nhập vào Aelia Capitolina  (thành Giêrusalem) thuộc La Mã, vài thập kỷ sau. “Chúng ta biết rằng khu vực này là một phần của thành phố vào thời Hoàng đế Hadrien (khoảng năm 130 sau Công Nguyên - ghi chú của tác giả) khi người La Mã xây dựng Aelia Capitolina. Tuy nhiên, vào thời Chúa Giêsu, khu vực này chưa thuộc về thành phố”. Niên đại này chứng thực cho câu chuyện Thánh kinh về một khu vườn yên bình, có những mộ huyệt đào sẵn tại một mỏ đá chuyển công năng, ngay bên kia tường thành Giêrusalem. Mặc dù những kết quả thử nghiệm đo niên đại bằng carbon vô tuyến vẫn đang chờ, những phát lộ đó vẫn đem đến một ánh sáng mới cho câu chuyện về cuộc Thương khó.

Địa điểm quan trọng của Kitô giáo

Công việc sửa chữa vương cung thánh đường Mộ Thánh đã bắt đầu từ năm 2022 trong khuôn khổ một dự án trùng tu rộng lớn nhằm làm mới mặt nền của địa điểm, can thiệp vào những hệ thống điện hay giải quyết bài toán ẩm ướt định kỳ của nó. Một thoả ước đã được ký giữa ba tôn giáo cùng gìn giữ vương cung thánh đường Mộ Thánh – Công giáo La Tinh, Chính Thống Hy Lạp và Chính Thống Tông Đồ Ácmêni. Công cuộc trùng tu được đính kèm quyết định cho tiến hành những cuộc khai quật khảo cổ học. Dưới những tấm đan đá thời hiện đại, trong đó có một số có từ những năm 1800, toán khảo cổ học đã phát hiện những tầng khảo cổ học có tuổi tới tận thời kỳ đồ sắt. Những món đồ gốm, những cây đèn dầu và những nơi chôn cất cho thấy sự biến đổi dài hơi của địa điểm: từ mỏ đá tới nghĩa địa và vườn cây, sau đó là Thánh địa thiêng liêng nhất của Kitô giáo. Nhà thờ Mộ Thánh theo truyền thống đánh dấu những địa điểm của đồi Gôngôta – nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh lên thập giá – và mộ huyệt nơi Ngài được đặt vào. Hàng năm, nơi này thu hút hàng triệu người thăm viếng và người hành hương từ khắp thế giới đến để chiêm bái.

Lê Hưng

Chuyển ngữ từ: fr.aleteia.org (25/3/2025)

HY VỌNG PHÁT SINH TỪ TÌNH YÊU

 

HY VỌNG PHÁT SINH TỪ TÌNH YÊU

avatarLm. Giuse Trương Đình Hiền
 
“Niềm hy vọng này phát sinh từ tình yêu và dựa trên tình yêu tuôn chảy từ trái tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu trên thập giá” (Spes non confundit, số 3).

WHĐ (29/3/2025) - Đây là bài chia sẻ giúp tĩnh tâm tháng 4/2025 cho một cộng đoàn Phaolô Qui Nhơn với chủ đề: “Hy vọng phát sinh từ tình yêu”.

Dẫn nhập: Một câu chuyện của đời thường

I. MỘT THOÁNG THÁNH KINH

1. Hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa

2. Tình yêu dưới ánh sáng Lời Chúa

3. Thập giá dưới ánh sáng Lời Chúa

II. VÀI ĐỀ NGHỊ THỰC HÀNH (cho đời thánh hiến)

1. Xây dựng và thanh tẩy niềm hy vọng

2. Tình yêu dành cho Đức Kitô của đời thánh hiến

3. Hy vọng và tình yêu phải đi ngang qua thập giá

Kết luận: Đời tu - Niềm hy vọng khi “đập bể bình dầu quý”


Dẫn nhập: Một câu chuyện của đời thường

Cộng đoàn chúng ta đang họp nhau để tĩnh tâm. Đây là dịp tĩnh tâm dành cho tháng 4 mà chủ đề sống được Hội Dòng lựa chọn đó là: Hy vọng phát sinh từ tình yêu.

Ai cũng biết, và được chính tài liệu “Hướng dẫn tĩnh tâm hàng tháng” nêu rõ, chủ đề trên được trích xuất từ văn kiện Tự sắc của Đức Giáo Hoàng Phanxicô “Spes non confundit”, văn kiện khai mở Năm Thánh thường lệ 2025: “Niềm hy vọng này phát sinh từ tình yêu và dựa trên tình yêu tuôn chảy từ trái tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu trên thập giá” (Spes non confundit 3).

Đọc kỷ lời giáo huấn trên, chúng ta có thể nhận ra ba từ quan trọng làm nên nội dung sâu xa và phong phú mang chiều kích Thánh kinh, thần học và tu đức. Ba từ đó là: hy vọng, tình yêu, thập giá.

Vâng, hy vọng của chúng ta, những người Kitô hữu nói chung (hay những ai đang dấn thân trong ơn gọi thánh hiến nói riêng) phải được “neo” vững chắc hay được thiết dựng trên nền tảng tình yêu (được Chúa yêu, yêu Chúa và yêu nhau); và tình yêu đó là tình yêu mang dáng đứng thập giá hay được thể hiện ngang qua con đường thập giá.

Để minh họa cho nội dung ý nghĩa trên, xin được kể một câu chuyện có thật giữa đời thường cuộc sống được hai tác giả Chí Nhân và Nguyễn Thành kể lại trên trang báo mạng Tiền Phong - Thứ Sáu, 3/9/2010: “Mình cưới nhau liền đi”…

Anh T.V.P sau một thời bươn chải phóng túng ở Sài Gòn, đã vướng vào xì ke và mang lấy căn bệnh thế kỷ HIV. Khi biết được thông tin buồn bã nầy từ giấy xét nghiệm của người yêu, chi N.T.Đ đã bình tĩnh và quyết định: “Mình cưới nhau liền đi”, để, theo chị, chỉ có tình yêu gắn bó nầy mới hy vọng cứu anh. Sau bao nhiêu cay đắng, nhọc nhằn, hy sinh và khổ ải, vượt qua bao nhiêu chống đối dèm pha của những người thân và bạn bè, tình yêu của chị dành cho anh đã vực anh từ nổi thất vọng lênh láng với cái chết cận kề, trở thành con người đầy hy vọng và sống có ý nghĩa…

Theo chị NTĐ: “Nếu chia tay, cũng giống như đặt dấu chấm hết cho cuộc đời anh. Tôi rất yêu anh nên không thể làm anh đau khổ thêm được. Nên chỉ biết đơn giản là chấp nhận sự thật đau lòng ấy và nắm tay anh cùng nhau vượt qua nó”. Chị đang thắp lên trong anh TVP một “niềm hy vọng”, hy vọng sống, hy vọng chữa lành, hy vọng hạnh phúc…

Đặc biệt, chị đã trực giác bằng trái tim rằng: chỉ qua con đường tình yêu hôn nhân, mới có thể hy vọng. Thật vậy, với tình trạng của anh TVP như thế, nếu chị có ném cho anh vài tỷ bạc rồi mắng chữi bỏ đi, thì chắc chắn không bao giờ anh hy vọng được chữa lành.

Và khi chấp nhận tình yêu đôi lứa qua cam kết hôn nhân, chị NTĐ và anh TVP đã đi qua nẻo đường thập giá:

Vậy là đám cưới của họ được tổ chức trong sự phản đối quyết liệt của gia đình nhà gái và sự gièm pha của những người biết chuyện. Họ đều cho rằng cô mù quáng, rằng cô biết “bệnh” mà vẫn cố ôm vào thân... Nhưng cô gái chỉ nghĩ đơn giản rằng mình đang sống hết lòng với tình yêu của chính mình!...

Không được sự chấp thuận của gia đình, một mình cô phải bươn chải cho gánh mưu sinh. Ai thuê gì cũng làm, miễn là không làm điều gì phạm pháp để có tiền bồi dưỡng cho chồng. Cô nhận hàng về nhà may ngày, may đêm để vừa có thể kiếm tiền vừa được gần gũi chăm sóc chồng. Lúc chồng lên cơn nghiện, cô lại tất tả chạy theo và cùng chồng ngâm mình dưới sông cho đến khi anh qua cơn. Ngày nào cũng thế, ba bốn lần P. ngâm mình dưới sông, là từng ấy lần cô trầm mình cùng anh.

Và niềm hy vọng đó đã trở thành hiện thực:

Nhờ đó, trong vòng khoảng 3 năm trở lại đây sức khỏe anh đã bình phục gần như bình thường, trong lượng cơ thể hiện đã trên 60 kg. Các bác sĩ từng theo dõi bệnh của anh đều rất ngạc nhiên bảo: “Với sức đề kháng của P. thời điểm thấp nhất, khó ai nghĩ rằng anh có thể sống và bình phục được như ngày hôm nay. Rất hiếm thấy trường hợp nào như vậy. Có lẽ nhờ tình yêu”...

Hiện nay, ngoài cuộc mưu sinh hằng ngày, hai vợ chồng còn tham gia vào công tác phòng chống HIV/AIDS ở địa phương. Anh thành lập được nhóm Bạn Giúp Bạn gồm những người có “H” để chia sẻ kinh nghiệm và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Sức khỏe đã phục hồi là lúc tinh thần sảng khoái nhất, anh ao ước có được căn nhà lành lặn để đón nhận những đứa trẻ có “H” mồ côi, nghèo khổ về nuôi. “Tôi đã rất hạnh phúc và muốn chia sẻ hạnh phúc này với những người bất hạnh. Vợ chồng tôi không thể có con chung, được chăm sóc và dạy dỗ những đứa trẻ có “H” mồ côi là niềm vui của vợ chồng tôi. Nhìn những đứa trẻ côi cút cha mẹ chết vì AIDS, chúng tôi rất đau xót và nguyện đem hết sức mình để làm một điều gì đó như một sự chia sẻ làm giảm đi nỗi đau của các cháu”...

Đây, đúng như lời thánh Phaolô xác quyết: “Niềm hy vọng đã không làm thất vọng” (Rm 5,5).

Câu chuyện trên phần nào minh họa cho chủ đề mà chúng ta cùng học hỏi hôm nay: Hy vọng phát sinh từ tình yêu. Vâng, niềm hy vọng chữa lành căn bệnh HIV, niềm hy vọng có được một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc, đôi bạn trẻ TVP và NTĐ đã quyết định lựa chọn con đường tình yêu đôi lứa; và họ đã thể hiện tình yêu đó qua một hành trình vượt qua mang dáng đứng thập giá.

I. MỘT THOÁNG THÁNH KINH

Chúng ta vừa dùng một câu chuyện đời thường để minh họa cách giản đơn và cụ thể cho một “mệnh đề đức tin”: “Niềm hy vọng này phát sinh từ tình yêu và dựa trên tình yêu tuôn chảy từ trái tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu trên thập giá” (Spes non confundit 3). Tuy nhiên, để thật sự cảm nhận và hiểu sâu sắc “sứ điệp tâm linh” của mệnh đề trên, chúng ta cần được Lời Chúa soi dẫn.

1. Hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa

1.1. Một viễn tượng thuộc tương lai

“Nói đến hy vọng là đề cập đến vị thế của tương lai trong đời sống tôn giáo của Dân Chúa, một tương lai hạnh phúc mà mọi người được mời gọi đạt tới”[1]. Nhưng đây là “tương lai của niềm tin” chứ không là “tương lai của thế tục”. Lời Chúa cho thấy các chiều kích đặc trưng của tương lai hay niềm hy vọng này:

- Tương lai đó là được ơn cứu độ và nhận biết chân lý: “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).

- Tương lai đó là “quê hương Nước Trời”: “Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.” (Dt 11,16).

- Tương lai đó là cuộc sống vĩnh hằng: “Và đây là điều mà chính Đức Kitô đã hứa ban cho chúng ta: sự sống đời đời” (1 Ga 2,25)

- Tương lai đó là nên giống Đức Kitô: “Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2).

1.2. Thiên Chúa giáo dục Dân Chúa về niềm hy vọng

Đây là một cuộc “giáo dục tiệm tiến”.

- Khởi đi từ niềm hy vọng mang tính trần tục dành cho Ápraham: đất đai và con cháu:

“Đức Chúa phán với ông Ápraham: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành” (St 12,1-2).

- Thiên Chúa dẫn tới nền tảng của hy vọng chính là “Lời hứa”, là “Giao ước”: Nếu Chúa đòi hỏi, phải hy sinh tất cả để chỉ còn đặt hy vọng trên chính “Lời hứa” hay “Giao ước của Chúa:

Sau các việc đó, Thiên Chúa thử lòng ông Ápraham. Người gọi ông: "Ápraham! "Ông thưa: "Dạ, con đây!" Người phán: "Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho…” (St 22,1-18).

- Lời Chúa cũng cho ta thấy rằng: đích điểm của niềm HY VỌNG là chính Thiên Chúa; chỉ có Chúa mà thôi:

“Đến muôn đời, hãy tin vào Đức Chúa: chính Đức Chúa là Núi Đá bền vững ngàn năm (…). Vâng, lạy Đức Chúa, trên con đường thánh ý vạch ra, chúng con chờ đợi Chúa. Hồn chúng con khát vọng Thánh Danh và ước mong tưởng nhớ đến Ngài.” (Is 26,4.8); “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn. Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến” (Tv 62,6tt)…

- Chúa cảnh giác Dân Chúa trước những cám dỗ tìm kiếm những niềm hy vọng hão huyền khi quay lưng lại với Thiên Chúa:

“Lạy Đức Chúa, niềm hy vọng của Israel là Ngài, hết những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải xấu hổ, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ bị bứng khỏi đất, vì họ đã lìa bỏ Đức Chúa là mạch nước trường sinh” (Gr 17,13)…

- Thanh tẩy niềm hy vọng sai lạc khi tôn thờ ngẫu tượng, dị đoan hoặc bám trụ trên giá trị vật chất:

“Họ lập đàn thờ quấy mà trêu giận Chúa Trời, lại tôn sùng ngẫu tượng khiến Chúa phải ghen tương…” (78,58-64) “Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa, chớ hoài công cậy ngón bóc lột người! Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở, lòng chẳng nên gắn bó làm chi” (Tv 62,11).

- Niềm hy vọng được các ngôn sứ khơi dậy, giáo dục: bất chấp mọi sự, kể cả tội lỗi, bất trung, đoán phạt… vẫn hy vọng vào một Thiên Chúa khoan dung, giàu lòng thương xót:

“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ…” (Is 49,15)…

- Niềm hy vọng được tiên báo, chuẩn bị như một “tin vui về Đấng Thiên Sai” sẽ đến:

“Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.” (Gr 33, 15); “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen.” (Is 7,14); “Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm" (Is 42,6-7)…

1.3. Niềm hy vọng được hoàn tất nhờ Đức Kitô

- Niềm hy vọng được chuẩn bị và tiên báo của thời Cựu ước đã đến lúc được hiện thực vào thời Chúa Giêsu, thời của Nước Trời đang đến: Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 4,17).

- Nhưng cái “hiện thực Nước Trời” mà Đức Kitô công bố chỉ dành cho những ai chấp nhận con đường “Bát phúc” (Mt 5,1-12); chấp nhận dấn thân theo Chúa Kitô trên nẻo đường thập giá:

“Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy…” (Mt 16,24tt)…

- Niềm hy vọng chính là được phục sinh cùng với Đức Kitô:

“Mà nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. (…). Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu…” (1 Cr 15,17-20).

- Niềm hy vọng do Đức Kitô mang đến, thực hiện không giới hạn nơi mỗi cá nhân nhưng là dành cho một “đoàn Dân mới”, cho Hội thánh tiếp tục tỉnh thức đợi chờ ngày tái lâm của Đức Kitô:

"Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời" (Cv 1,11).

- Sống niềm hy vọng Kitô chính là dấn thân cho công cuộc cứu độ, loan báo Tin Mừng:

“Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa. Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô. Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi” (Cl 1,24-29).

2. Tình yêu dưới ánh sáng Lời Chúa

2.1. Kinh thánh và danh từ hay khái niệm “tình yêu”

- Một “danh từ” hay “khái niệm” mang một “nội hàm” phức tạp: “Danh từ ‘tình yêu’ diễn tả nhiều thực tại khác biệt, thuộc nhục thể hay tinh thần, do đam mê hoặc có suy xét chín chắn, nghiêm trang hay hời hợt, có tính xây dựng hay phá hoại. (…). Con người trong Thánh Kinh biết tất cả những cái đó”: Tình yêu là sự luyến ái và kết hợp hai con người nam nữ (St 2,23tt); tình yêu từ sắc đẹp của bà Sara (St 12,10-19); tình yêu của Đavít dành cho con trai Apsalôm (2 Sm 19,1-5); sách “Diễm tình ca” diễn tả mọi cung bậc và sắc thái[2]

- Thánh kinh: Cuộc “đối thoại tình yêu” giữa Thiên Chúa và con người: Chúa thôi thúc con người nhập cuộc và dạy họ cách thương yêu[3].

2.2. Mô hình mẫu Cựu ước trong cuộc “đối thoại tình yêu”

- Abraham: Mối tình “bạn hữu tâm phúc” với Thiên Chúa:

Đức Chúa phán với ông Ápram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi (…). Ông Áp-ram ra đi, như Đức Chúa đã phán với ông. (St 12,1.4).

Tuyệt đối vâng phục và đặt niềm tin vững vàng nơi Chúa:

Người phán: "Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho." (…). Ông Ápraham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai Ixaác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. (…). Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Ápraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình” (St 22, 2.6.9-10)[4].

- Môisen: Bạn tâm giao “mặt giáp mặt” với Thiên Chúa, “Đức Chúa đàm đạo với ông Môsê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau” (Xh 33,11); Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Thiên Chúa: thánh thiện và nhân từ:

Đức Chúa đi qua trước mặt ông và xướng: "Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín, giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông.” (Xh 34,6-7)[5].

2.3. Các ngôn sứ và  “tình yêu liên vị” Chúa với Israel:

- Hình tượng “tình yêu vợ chồng” trong ngôn ngữ biểu tượng của các ngôn sứ Hôsê, Giêrêmia, Êzêkiel:

“Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình. (…). Vào ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa – ngươi sẽ gọi Ta: "Mình ơi", chứ không còn gọi "Ông chủ ơi" nữa. (…) Hỡi Épraim, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Israel, Ta trao nộp ngươi sao đành! Làm sao Ta xử với ngươi như với Átma, để ngươi nên giống như Xơvôgim được? Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 2,16.18; 11,8)[6].

- Thiên Chúa không ngừng thanh tẩy, canh tân mối tương quan tình yêu đó, “cắt bì tâm hồn”:

“Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cắt bì tâm hồn anh (em) và tâm hồn dòng dõi anh (em), để anh (em) yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, ngõ hầu anh (em) được sống” (Đnl 30,6)[7].

2.4. Tình yêu Thiên Chúa còn được thể hiện

- Cho những người công chính:

Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung. (Tv 37,28).

- Cho những kẻ nghèo hèn:

Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người. (Tv 113,7-8).

- Cho cả dân ngoại:

“Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ninivê, thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?" (Gn 4,11)[8].

2.5. Đức Kitô: mạc khải hoàn hảo về tình yêu

- Tình yêu dành cho Thiên Chúa: Hoàn toàn vâng phục thánh ý Cha:

“Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.” (Dt 10,5).

- Tình yêu dành cho con người:

“Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10,45).

- Mến Chúa – Yêu người không tách rời:

Đức Giêsu trả lời: "Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó." (Mc 12,29-31).

- Tình yêu đích thực: Chọn Đức Kitô:

“Ông Simôn Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68); yêu là giữ điều răn: Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người (1 Ga 5,3); giữ Lời Chúa, từ bỏ mình, vác thập giá…: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14,26-27)…

3. Thập giá dưới ánh sáng Lời Chúa

3.1. Thập giá - một sự tủi hổ:

“Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,22-23).

3.2. Thập giá - đối tượng của sự sĩ nhục:

Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!" Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Israel! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: "Ta là Con Thiên Chúa! " Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế. (Mt 27,39-44).

3.3. Con người tự nhiên khó mà chấp nhận thập giá:

Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! " Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: "Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." (Mt 16,22-23).

3.4. Chúa Giêsu chịu đau khổ: tình yêu được mạc khải cách trọn hảo:

“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy." (Lc 9,22); “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,8); “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13)…

3.5. Tình yêu thập giá của Đức Kitô tôn vinh Chúa Cha: Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm (Ga 17,4) và hiệp nhất toàn nhân loại trong Thiên Chúa:

“Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.” (Ga 17,22-23).

II. VÀI ĐỀ NGHỊ THỰC HÀNH (cho đời thánh hiến)

1. Xây dựng và thanh tẩy niềm hy vọng

1.1. Đời tu: Phải xây dựng một niềm hy vọng cho chính cuộc đời mình

Một quan niệm khá phổ biến của những người chọn lựa đời tu đó là “tìm kiếm một cuộc sống đỡ phức tạp, được tư do và thanh thản khỏi mọi thứ ràng buộc rắc rối…”. Vì quan niệm như thế, nên đời tu cứ diễn ra “ta tà”, qua ngày, sao cũng được…, mà không thấy có một “niềm hy vọng” độc sáng nào lóe lên ở phía trước, ở tương lai. Vì thế, dễ dàng hụt hẫng, thất bại… khi đối diện với những thực trạng không đáp ứng…

1.2. Niềm hy vọng cần phải có đó chính là: dứt khoát chọn lựa Đức Kitô, như một điều cao quý nhất, đẹp nhất, giá trị và cần thiết nhất. Vì thế, cần phải thanh tẩy “niềm hy vọng” mỗi ngày theo như đề nghị của Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong tông huấn “Đời sống thánh hiến”:

Đời sống thánh hiến có bổn phận cho thấy Con Thiên Chúa làm người là đích điểm cánh chung của hết mọi sự, là ánh huy hoàng làm mờ nhạt mọi ánh sáng khác, là vẻ đẹp vô biên duy nhất có thể lấp đầy trái tim con người. Trong đời sống thánh hiến, vấn đề không phải chỉ là theo Chúa Kitô với cả con tim, bằng cách yêu mến Người hơn cha mẹ mình, hơn con trai hay con gái mình" (x. Mt 10,37), như mỗi môn đệ đều phải làm, nhưng còn là sống và diễn tả điều đó bằng việc biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, bằng một cuộc gắn bó triệt để, báo trước sự hoàn thiện cánh chung, tuỳ theo các đoàn sủng khác nhau và trong mức độ có thể đạt được trong thời gian.” (ĐSTH số 16).

2. Tình yêu dành cho Đức Kitô của đời thánh hiến

2.1. Đức Kitô không như một “lý tưởng để chiêm ngưỡng” mà là mẫu hình để “họa lại bằng chính cuộc sống” qua việc tuân giữ lời Khấn:

“Quả thế, qua việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, người được thánh hiến không chỉ bằng lòng với việc đã chọn Đức Kitô làm ý nghĩa đời mình, nhưng còn tìm cách diễn lại nơi chính mình, trong mức độ có thể, "nếp sống Con Thiên Chúa đã sống khi Người xuống thế". Khi ôm ấp sự trinh khiết, họ nhận tình yêu khiết trinh của Đức Kitô làm của mình và tuyên xưng với thế giới rằng Người là Con Một, đồng nhất với Chúa Cha (x. Ga 10,30 ; 14,11); khi bắt chước sự nghèo khó của Người, họ tuyên xưng rằng Người Con đón nhận mọi sự từ Chúa Cha và dâng mọi sự lại cho Chúa Cha vì yêu thương (x. Ga 17,7.10); khi gắn bó với mầu nhiệm vâng phục hiếu thảo của Người bằng lễ hy sinh tự do của mình, họ tuyên xưng Người là Đấng được yêu thương và Đấng yêu thương vô biên, là Đấng chỉ vui thoả khi ở trong ý muốn của Chúa Cha (x. Ga 4,34), vì Người hoàn toàn kết hợp với Chúa Cha và tuỳ thuộc Chúa Cha trong mọi sự.” (ĐSTH số 16).

2.2. Tình yêu đúng nghĩa

- Theo Chúa Kitô:

“Là con đường dẫn đến Chúa Cha (x. Ga 14,6), Chúa Con kêu gọi tất cả những ai Chúa Cha ban cho Người (x. Ga 17,9) hãy lấy việc đi theo Người làm mục tiêu của cuộc đời. Nhưng đối với một số người, cụ thể là những người được thánh hiến, Người yêu cầu một cuộc dấn thân trọn vẹn gồm việc từ bỏ mọi sự (x. Mt 19,27) để sống thân tình với Người và theo Người đến bất cứ nơi nào Người đi (x. Kh 14,4).” (ĐSTH số 18).

- Sống như Chúa Kitô đang “thấp thoáng” qua cuộc sống:

“Đời sống thánh hiến thật sự là một ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, trong tương quan với Cha và với anh em Người. Đời sống thánh hiến là truyền thống sống động về cuộc sống và sứ điệp của Đấng Cứu Thế.” (ĐSTH số 22).

3. Hy vọng và tình yêu phải đi ngang qua thập giá

3.1. Vẽ đẹp của đời tu mang “dáng đứng thập giá”:

“Qua những dạng thức sinh sống khác nhau do Thánh Thần gợi lên theo dòng lịch sử, người tận hiến khám phá ra rằng họ càng gần thập giá Đức Kitô thì càng nghiệm được chân lý Thiên Chúa là Tình Yêu một cách trực tiếp và sâu xa. Trên thập giá, Đấng khi chết đã bị tan nát mặt mày, không còn gì là đẹp đẽ trước mắt người đời, đến nỗi những người trông thấy phải che mặt đi (x. Is 53,2-3), lại biểu lộ trọn vẹn vẻ tuyệt đẹp và quyền năng của tình yêu Thiên Chúa. (…). Đời sống thánh hiến phản ánh vẻ rực rỡ của tình yêu đó, bởi vì do lòng trung thành với mầu nhiệm Núi Sọ, họ tuyên xưng rằng họ tin và sống cho tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Như thế, họ giúp Giáo Hội ý thức mạnh mẽ rằng: Thập giá là tình yêu vô cùng dồi dào phong phú của Thiên Chúa được đổ chan hoà trên thế giới. Thập giá là dấu chỉ lớn lao cho thấy sự hiện diện cứu độ của Đức Kitô, nhất là trong các khó khăn và thử thách.” (ĐSTH số 24).

3.2. Tình yêu thập giá hiện thực qua cuộc sống:

“Lòng trung thành của họ đối với Tình Yêu duy nhất được biểu lộ và củng cố qua một nếp sống ẩn mình khiêm tốn, qua việc chấp nhận những đau khổ để bổ túc nơi chính thân xác họ "những gì còn thiếu nơi những gian nan thử thách Đức Kitô phải chịu" (Cl 1,24), qua hy sinh thầm lặng, qua sự ký thác cho thánh ý của Thiên Chúa, qua sự trung thành thanh thản ngay cả khi sức lực và ảnh hưởng cá nhân đang suy giảm. Lòng trung thành với Thiên Chúa cũng đưa đến lòng tận tuỵ đối với tha nhân; những người tận hiến chấp nhận hy sinh khi thường xuyên chuyển cầu cho những nhu cầu của anh em họ, khi phục vụ quảng đại những người nghèo khổ và những người đau ốm, khi chia sẻ những khó khăn của những người khác, khi tích cực tham dự vào các mối bận tâm và những thử thách của Giáo hội.” (ĐSTH số 24).

Kết luận: Đời tu - Niềm hy vọng khi “đập bể bình dầu quý”

Không phải là “một câu chuyện đã rồi” hay một “chọn lựa bất đắc dĩ” kiểu đã “lỡ phóng lao thì phải theo lao”… mà đời tu của tôi hôm nay luôn tỏa sáng một niềm “hy vọng”: Một chọn lựa tuyệt vời, một ân ban cao quý, một cuộc sống đầy giá trị, hạnh phúc và thú vị, một cộng đoàn, một dòng tu đẹp đẽ, lý tưởng…

Điều đó, hiện thực đó không bao giờ là một ảo tưởng, một đánh lừa tình cảm, một thứ “tâm lý hay mặc cảm bù trừ” mà là một “sự thật” được thiết đặt trên chính “tình yêu” của Thiên Chúa, qua Đức Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Đó là là tình yêu được đóng ấn, chứng minh, hiện thực hóa bằng thập giá; thập giá của những hy sinh thầm lặng, của những “chi tiết nhỏ” trong nhịp sống đời thường và trong những nghĩa cử, hành động phục vụ khiêm tốn.

Niềm hy vọng cứu sống một tù nhân bằng sự hy sinh chính mạng sống mình của thánh linh mục Maximilien Kolbe nếu không vì tình yêu mà chỉ để phô trương bản thân thì chỉ là một hành động đáng tủi hỗ. Cũng vậy, như câu chuyện kể từ đầu, nếu chị NTĐ cố hết sức để hy vọng cứu anh TVP khỏi bịnh HIV hoàn toàn với ý đồ vụ lợi đen tối mà không hề có chút tình yêu nào, cho dù phải chịu thương chịu khó, thì niềm hy vọng đó của chị cũng sẽ làm anh TVP và nhiều người thất vọng. Nhưng không, tình yêu đích thực và được trả giá bằng hy sinh đau khổ… nên niềm hy vọng của chị đã được đền bù xứng đáng.

Đặc biệt, với những người sống thánh hiến, niềm hy vọng có được một cuộc đời mang vẽ đẹp rạng ngời, khi chấp nhận chọn lựa con đường tình yêu ngang qua thập giá sẽ không bao giờ dẫn tới sự tủi nhục hay thất vọng não nề. Đó chính là niềm hy vọng được thánh Phaolô khẳng quyết: “Niềm hy vọng đó sẽ không làm chúng ta phải thất vọng” (Rm 5,5). Cụ thể hơn, đó là niềm hy vọng của cô Maria Bêtania khi chấp nhận “đập bể bình dầu cam tùng quý giá để xức chân Chúa Giêsu”; một niềm hy vọng mà dưới con mắt trần tục và tham lam của Giuđa Iscariốt là một lãng phí, nhưng trong ánh nhìn của Đức Kitô, đó lại là một nghĩa cử tình yêu đáng trân trọng, như cách chú giải của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Đời sống thánh hiến:

“Ai đã được ban hồng ân vô giá là theo Chúa Giêsu sát hơn tất nhiên hiểu rằng Người phải được yêu mến với một trái tim không chia sẻ, và mình phải dâng hiến cho Người tất cả cuộc sống chứ không phải chỉ vài cử chỉ, vài mảnh thời gian hay vài công việc. Xức dầu thơm quý giá là một hành động yêu thương nguyên tuyền, hoàn toàn ngoài mục đích cầu lợi, là dấu chỉ của sự quảng đại cho đi không tính toán; điều này được diễn tả qua một cuộc sống dành riêng để yêu mến và phụng sự Chúa, dâng hiến cho chính Chúa và cho Nhiệm Thể của Người. Một cuộc sống "được cho đi" mà không tính toán khiến cho cả nhà sực mùi thơm. Ngày hôm nay, không thua kém gì ngày hôm qua, nhà Thiên Chúa là Giáo hội vẫn được trang điểm và thêm phong phú nhờ sự hiện diện của đời thánh hiến.” (ĐSTH số 104).

Ước mong quý chị luôn mang niềm hy vọng như thế trong từng ngày cuộc sống, nhất là trong Năm Thánh này!

---------

[1] GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN PIÔ X, Điển ngữ thần học Thánh Kinh, Tập II, Đà Lạt 1974, mục từ “HY VỌNG” tr. 279.

[2] GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN PIÔ X, Điển ngữ thần học Thánh Kinh, sđd, Tập IV, tr. 496.

[3] SĐD, tr. 497.

[4] SĐD, tr. 498.

[5] SĐD, tr. 498.

[6] SĐD, tr. 499.

[7] SĐD, tr. 499.

SSĐD, tr. 500.