Trang

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

Thiếu Nhi VHTK Lễ SUY TÔN THÁNH GIÁ - Hình tô màu

 


 

Thiếu Nhi VHTK Lễ SUY TÔN THÁNH GIÁ - Hình tô màu


Tô màu rất dễ. Chúc các em có những giây phút vui tươi thoải mái

VHTK Mê Cung Lễ SUY TÔN THÁNH GIÁ - Ga 3, 13-17​​​

 


VHTK Mê Cung Lễ SUY TÔN THÁNH GIÁ - Ga 3, 13-17​​​

Mê Cung rất dễ. Bạn hãy đi từ điểm khởi đầu đến điểm kết thúc. Rất dễ bạn ạ.
 Tags: vhtk mê cung

ĐTC Lêô: Tiếng kêu của niềm hy vọng không chịu buông xuôi

Đức Thánh Cha Lêô: Tiếng kêu của niềm hy vọng không chịu buông xuôi

Trong buổi Tiếp kiến chung ngày 10/9/2025, Đức Thánh Cha Lêô XIV nhấn mạnh rằng tiếng kêu cuối cùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá không phải là tiếng kêu của tuyệt vọng, nhưng là dấu chỉ mạnh mẽ của niềm hy vọng không chịu buông xuôi. Tiếng kêu ấy biểu lộ một niềm tin tưởng sâu xa, bền bỉ ngay cả khi mọi thứ đều im lặng, tiếng kêu của một tình yêu dâng hiến đến tận cùng. 

 

Đức Thánh Cha nói rằng tiếng kêu của Chúa Giêsu cũng là một hình thức cầu nguyện tột đỉnh. Chúa Giêsu kêu lên Chúa Cha vì Người tin vào Chúa Cha, vì Người yêu mến Chúa Cha và không mất hy vọng. Do đó, Người dạy chúng ta, trong những thời khắc đen tối, hãy dâng lên Chúa Cha những tiếng kêu đau khổ của mình. Những tiếng kêu hy vọng này sẽ giúp chúng ta tin tưởng và mở lòng đón nhận Thiên Chúa, Đấng cứu độ.

Tin Mừng Thánh Gioan (19,28-30):

Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Êlôi, Êlôi, lama xabácthani!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia”. Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không”. Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.

Bài giáo lý của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Tiếng kêu chân thành, tin tưởng và phó thác

Hôm nay chúng ta chiêm ngắm đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu trên thế gian này: Chúa chết trên Thánh giá. Các sách Tin Mừng chứng thực một chi tiết thật quý giá, đáng để suy ngắm bằng trí tuệ của đức tin. Trên Thánh giá, Chúa Giêsu không chết trong thinh lặng. Người không dần dần tắt lịm như một ánh sáng dần lụi tàn, nhưng từ giã sự sống qua một tiếng kêu lớn: “Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15,37). Tiếng kêu ấy gói trọn tất cả: nỗi đau, sự phó thác, đức tin, sự hiến dâng. Đó không chỉ là tiếng kêu của một thân xác đang gục chết, mà là dấu chỉ sau cùng của một đời sống được hiến trao trọn vẹn.

 

Tiếng kêu của Chúa Giêsu được đi trước bởi một câu hỏi – một trong những lời xé lòng nhất có thể thốt ra: “Lạy Thiên Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”. Đó là câu mở đầu Thánh vịnh 22, nhưng trên môi Chúa Giêsu, nó mang một ý nghĩa đặc biệt. Chúa Con, Đấng luôn sống trong sự hiệp thông mật thiết với Chúa Cha, giờ đây cảm nghiệm sự thinh lặng, sự vắng bóng, vực thẳm. Đây không phải là một cơn khủng hoảng đức tin, nhưng là chặng cuối cùng của tình yêu hiến trao đến tận cùng. Tiếng kêu của Chúa Giêsu không phải là sự tuyệt vọng, nhưng là sự chân thành, là sự thật tột đỉnh, là niềm tín thác vẫn còn đó ngay cả khi mọi sự đều im lặng.

Trên Thánh Giá, tình yêu cao cả nhất được tỏ bày

Ngay lúc ấy, bầu trời trở nên tối tăm và bức màn Đền Thờ bị xé ra (x. Mc 15, 33.38). Như thể chính thụ tạo cũng dự phần vào nỗi đau ấy, đồng thời tỏ lộ một điều mới mẻ: Thiên Chúa không còn ngự phía sau bức màn nữa, dung nhan Người nay hiển lộ trọn vẹn nơi Đấng chịu đóng đinh. Chính tại đó, nơi con người bị xé nát ấy, tình yêu cao cả nhất được tỏ bày. Chính tại đó, chúng ta có thể nhận ra một Thiên Chúa không đứng xa, nhưng đi xuyên qua tận cùng nỗi đau của chúng ta.

Tiếng kêu chạm đến trái tim

Viên đại đội trưởng, vốn là người ngoại giáo, đã hiểu được điều này. Không phải vì ông đã nghe một diễn văn, nhưng vì ông đã chứng kiến Chúa Giêsu chết theo cách ấy: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa!” (Mc 15,39). Đây là lời tuyên xưng đức tin đầu tiên sau cái chết của Chúa Giêsu. Đó là hoa trái của một tiếng kêu không tan biến trong gió, nhưng chạm đến trái tim. Nhiều khi, điều chúng ta không thể diễn đạt bằng lời, chúng ta lại diễn tả bằng tiếng kêu. Khi lòng tràn đầy, nó thốt lên. Và điều ấy không luôn là dấu chỉ yếu đuối, nhưng có thể là hành động sâu xa của nhân tính.

Tiếng kêu – hình thức tột cùng của lời cầu nguyện

Chúng ta thường quen nghĩ tiếng kêu là điều gì đó hỗn loạn, cần phải kìm nén. Nhưng Tin Mừng lại trao cho tiếng kêu của chúng ta một giá trị vô cùng, nhắc nhở chúng ta rằng nó có thể là lời khẩn cầu, là sự phản kháng, là khát vọng, là sự hiến dâng. Thậm chí, nó có thể trở thành hình thức tột cùng của lời cầu nguyện, khi chúng ta không còn ngôn từ nào. Trong tiếng kêu ấy, Chúa Giêsu đã đặt tất cả những gì còn lại nơi Người: toàn bộ tình yêu, toàn bộ hy vọng.

Tiếng kêu của hy vọng

Vâng, bởi vì trong tiếng kêu còn có một điều nữa: đó là niềm hy vọng không chịu buông xuôi. Người ta kêu lên khi còn tin rằng ai đó có thể nghe thấy. Người ta kêu lên không phải vì tuyệt vọng, mà vì khao khát. Chúa Giêsu đã không kêu lên chống lại Chúa Cha, nhưng là hướng về Người. Ngay cả trong thinh lặng, Người vẫn xác tín rằng Chúa Cha đang ở đó. Và như thế, Người cho chúng ta thấy rằng hy vọng của chúng ta vẫn có thể kêu lên, ngay cả khi mọi sự tưởng chừng đã mất.

 

Kêu lên là để nói rằng ta còn hiện diện, chúng ta không muốn lụi tắt trong thinh lặng, chúng ta vẫn còn điều gì đó để hiến dâng.

 

Kêu lên, vì thế, trở thành một cử chỉ thiêng liêng. Nó không chỉ là hành động đầu tiên của sự sống – khi chúng ta cất tiếng khóc chào đời – mà còn là một cách để tiếp tục sống. Người ta kêu lên khi đau khổ, nhưng cũng kêu lên khi yêu thương, khi kêu gọi, khi khẩn cầu. Kêu lên là để nói rằng ta còn hiện diện, chúng ta không muốn lụi tắt trong thinh lặng, chúng ta vẫn còn điều gì đó để hiến dâng.

Đừng sợ kêu lên Thiên Chúa

Trên hành trình cuộc đời, có những lúc việc giữ tất cả trong lòng sẽ dần dần bào mòn chúng ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng sợ tiếng kêu, miễn là nó chân thành, khiêm nhường và hướng về Chúa Cha. Một tiếng kêu không bao giờ vô ích, nếu phát xuất từ tình yêu. Và nó cũng không bao giờ bị bỏ qua, nếu được dâng lên Thiên Chúa. Đó là một con đường để chúng ta không rơi vào chủ nghĩa dửng dưng bất cần, để chúng ta vẫn tin rằng một thế giới khác là điều có thể.

Tiếng kêu khởi đầu của ơn cứu độ

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy học nơi Chúa Giêsu điều này nữa: học biết tiếng kêu của niềm hy vọng khi đến giờ thử thách cùng cực. Không phải để làm tổn thương, nhưng để tín thác. Không phải để la hét chống lại ai đó, nhưng để mở rộng trái tim. Nếu tiếng kêu của chúng ta là chân thật, nó có thể trở thành ngưỡng cửa của một ánh sáng mới, một sự khai sinh mới. Như đối với Chúa Giêsu: khi mọi sự tưởng chừng đã chấm dứt, thì thật ra ơn cứu độ đã khởi đầu. Nếu được cất lên với niềm tín thác và tự do của những người con Thiên Chúa, tiếng kêu đau thương của nhân loại chúng ta, hợp cùng tiếng kêu của Đức Kitô, có thể trở thành nguồn mạch hy vọng cho chính chúng ta và cho những ai ở bên cạnh chúng ta.

 

Nguồn: Vatican News 

LỜI KHUYÊN KHÔN NGOAN TỪ CÁC THÁNH VỀ LỐI SỐNG TOÀN DIỆN

 

LỜI KHUYÊN KHÔN NGOAN TỪ CÁC THÁNH VỀ LỐI SỐNG TOÀN DIỆN

avatarSamantha Worthing
WGPVL (12/9/2025) - Thiên Chúa đã ban cho chúng ta thân xác để chúng ta có thể chăm sóc chúng và phục vụ Người trong đó, cho đến lúc thời gian đã định khi Người cất chúng ta ra khỏi cuộc đời này. Chúng ta không thể dễ dàng biết được liệu mình có thể chịu đựng được bao nhiêu đau khổ về thể xác, và khi nào nó có thể gây hại cho thể xác hoặc thậm chí là linh hồn chúng ta... Vì vậy, chúng ta hãy chăm sóc thể xác mình tốt nhất có thể, và phó thác mức độ đau khổ cho Thiên Chúa...

Chúng ta đang sống trong một thế giới ngày càng ồn ào, và nhiều người nhận thấy điều đó đặc biệt đúng trong lĩnh vực sức khỏe thể chất và tinh thần. Đôi khi, với tư cách là một người Công giáo, việc định hướng lĩnh vực này có thể rất khó khăn - khi bạn muốn thận trọng và khôn ngoan trong những lựa chọn của mình, chăm sóc những gì Thiên Chúa đã ban cho bạn một cách chu đáo, nhưng cũng không coi sức khỏe là thần tượng. Có rất nhiều thông điệp mâu thuẫn ở khắp mọi nơi về việc nên ăn gì hay không nên ăn gì, cách tập thể dục tốt nhất, nên mua sắm những gì,... (chưa kể đến thế giới của những thực hành thuộc thời đại mới và sự thờ phượng thiên nhiên vô thần cần tránh!) Tất cả có thể hơi quá mức, đặc biệt là khi dường như có rất ít tiếng nói Công giáo nói về lối sống toàn diện.

May mắn thay, Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta nhiều sự bình an để phân định trong lĩnh vực này nếu chúng ta có tấm lòng chú tâm, và cũng có nhiều lời khuyên khôn ngoan được tìm thấy trong Kinh Thánh và trong tác phẩm của các thánh. Thánh Phaolô viết trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: “Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần ngự trong anh em, Đấng mà anh em đã nhận được từ Thiên Chúa, và anh em không còn thuộc về chính mình nữa sao? Vì anh em đã được chuộc bằng giá cao. Vậy, hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (6:19-20) và “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (10:31). Nuôi dưỡng thể xác, vận động để chúng phát triển và chăm sóc chúng giữa cuộc sống hối hả và bận rộn hiện đại tự nó đã là một lời cầu nguyện tạ ơn.

Đôi khi Thiên Chúa cho phép đau khổ dưới dạng bệnh tật thể xác, cùng với việc ăn chay và từ bỏ những ham muốn thể xác, những điều này có thể là cơ hội cho ân sủng và sự chuyển cầu. Thánh Thomas More viết về sự cân bằng giữa việc chăm sóc thể xác và việc đón nhận đau khổ trong cuốn sách Một Đối thoại đầy An ủi Chống lại Đau khổ của mình:

Thiên Chúa đã ban cho chúng ta thân xác để chúng ta có thể chăm sóc chúng và phục vụ Người trong đó, cho đến lúc thời gian đã định khi Người cất chúng ta ra khỏi cuộc đời này. Chúng ta không thể dễ dàng biết được liệu mình có thể chịu đựng được bao nhiêu đau khổ về thể xác, và khi nào nó có thể gây hại cho thể xác hoặc thậm chí là linh hồn chúng ta... Vì vậy, chúng ta hãy chăm sóc thể xác mình tốt nhất có thể, và phó thác mức độ đau khổ cho Thiên Chúa... Trong nhiều trường hợp khác cũng vậy: chúng ta kêu cầu Thiên Chúa khi ốm đau và được chữa lành, hoặc trong thời tiết khắc nghiệt và được cứu giúp. Chúng ta thường quên mất nhu cầu về Thiên Chúa giữa sự giàu có và hạnh phúc, và chúng ta ngừng cầu nguyện, và Thiên Chúa, với lòng nhân từ của Người, kéo chúng ta trở về với Người qua đau khổ để Người có thể ban ơn cho chúng ta.

Thiên Chúa đã ban cho chúng ta biết bao ân sủng nơi công trình tạo dựng như một món quà thuần khiết. Vô số cơ hội nuôi dưỡng thể xác thông qua nhịp điệu tuần hoàn của các mùa và sự phong phú mà chúng mang lại, các loại thảo mộc với nhiều công dụng, các khoáng chất phong phú trong đất giúp ích cho sức khỏe tế bào, sự kỳ diệu của mặt trời và những lợi ích của nó đối với cơ thể thông qua nhịp sinh học cũng như việc sản xuất vitamin D, danh sách này còn dài. Trong thế giới hiện đại, những điều này có thể không phải là điều chúng ta thường xuyên suy ngẫm. Công trình tạo dựng của Người xứng đáng được chúng ta quan tâm và trân trọng, và thân xác con người chúng ta cũng nằm trong số đó.

Thánh Hildegard thành Bingen là một Tiến sĩ Hội thánh. Ngài là một nữ tu viện trưởng Dòng Bênêđictô thời trung cổ, đồng thời là một nhà văn, nhà soạn nhạc, nhà thị kiến và nhà thảo dược học phong phú, người có kiến thức sâu sắc và lòng tôn trọng đối với thế giới tự nhiên. Ngài đã viết:

Hãy nhìn lên mặt trời.
Hãy nhìn ngắm mặt trăng và các vì sao.
Hãy chiêm ngưỡng vẻ đẹp của những thảm thực vật xanh tươi trên trái đất.
Giờ đây, hãy suy nghĩ.
Thiên Chúa ban cho nhân loại niềm vui biết bao
với tất cả những điều này...
Toàn bộ thiên nhiên đều nằm trong tầm tay con người.
Chúng ta phải cùng nhau làm việc.
Vì nếu không có thiên nhiên, chúng ta không thể tồn tại.

Làm thế nào chúng ta có thể có được một sức khỏe tốt thông qua việc nuôi dưỡng và chăm sóc thân xác, đồng thời tuân theo thánh ý Thiên Chúa? Trước tiên, hãy cầu nguyện, trên hết, để nhận thức rõ về tư duy và thái độ đúng đắn của mình. Tiếp theo, hãy chủ động đối với thực phẩm mà chúng ta chọn lựa để nuôi dưỡng gia đình và cố gắng ưu tiên chất lượng bất cứ khi nào có thể. Mua sắm nông sản và sản phẩm động vật địa phương là một cách tuyệt vời không chỉ để hỗ trợ nền kinh tế địa phương và các trang trại gia đình nhỏ mà còn để có được nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng hơn. Thường xuyên ra ngoài hít thở không khí trong lành, vận động cơ thể, cảm nhận những tia nắng mặt trời và không bao giờ quên lòng biết ơn đối với tất cả mọi thứ là một lời cầu nguyện tuyệt vời.

Bạn có thể mang theo tràng hạt khi đi bộ đường dài, đi bộ chặng đàng thánh giá cùng gia đình, chuẩn bị một bữa ăn bổ dưỡng cho ngày lễ về một vị thánh yêu thích của bạn, hoặc đơn giản là dành một phút trong ngày sống bận rộn để chủ động nuôi dưỡng thân xác bằng tình yêu dành cho Thiên Chúa nhân từ, Đấng đã ban tặng cho bạn. Đau khổ sẽ đến trong cuộc sống này, chúng ta có thể chắc chắn về điều đó, nhưng tất cả những gì chúng ta có thể làm là cố gắng hết sức để chăm sóc những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta hôm nay và cầu xin ân sủng để chịu đựng tất cả một cách tốt đẹp vì vinh quang của Người.

Hãy xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào: chúng không làm lụng, cũng không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một trong những bông hoa ấy. Vậy nếu Thiên Chúa còn mặc đẹp cho cỏ ngoài đồng, hôm nay còn sống, mai còn bị ném vào lò, thì Người lại chẳng lo cho anh em sao? Hỡi những kẻ kém đức tin!... Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những điều này sẽ được thêm vào cho anh em. (Mt 6:28-33)

Chuyển ngữ: Lm. Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên

Nguồn: Catholic Exchange (10/9/2025)

LINH HỒN VƯỢT LÊN TRÊN PHẦN MỀM - GIÁO HỘI ĐỐI DIỆN VỚI CUỘC CÁCH MẠNG AI

 

LINH HỒN VƯỢT LÊN TRÊN PHẦN MỀM - GIÁO HỘI ĐỐI DIỆN VỚI CUỘC CÁCH MẠNG AI

avatarThomas Banchoff
WHĐ (11/9/2025) - Trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người chắc chắn sẽ vẫn khác biệt về mặt bản chất. Nhưng chính sự giao thoa của chúng sẽ đề ra những thách đố mới cho Giáo hội và thế giới ngày nay.

Tuyên bố gần đây của Vatican về trí tuệ nhân tạo, Antiqua et nova, là một đóng góp mới quan trọng cho tư tưởng xã hội Công giáo. Văn kiện được công bố chung bởi Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa và Giáo dục, được phê chuẩn bởi Đức Giáo hoàng Phanxicô, mang tiêu đề "Lưu ý về Mối tương quan giữa Trí tuệ nhân tạo và Trí tuệ con người" Trong khi truyền thông toàn cầu tập trung vào lời kêu gọi của văn kiện về việc giám sát đạo đức và quản lý hiệu quả đối với AI trong nhiều lĩnh vực từ lao động, giáo dục đến đến chiến tranh, thì phần lớn Antiqua et nova là một suy tư sâu rộng về những hệ lụy mang tính nhân học và đạo đức của cuộc cách mạng AI. Với tiêu đề gợi lại thông điệp Rerum Novarum năm 1891 của Đức Lêô XIII, vốn khai mở học thuyết xã hội Công giáo hiện đại, Antiqua et nova đưa Giáo hội bước vào đối thoại toàn diện với công nghệ mang tính biến đổi của thời đại chúng ta.

Trong khi thông điệp của Đức Lêô XIII khởi đầu với “tinh thần của sự thay đổi mang tính cách mạng” và “sự bành trướng của công nghiệp cùng những phát minh kỳ diệu của khoa học” nhưng nó lại không bao gồm bất cứ suy tư gì về công nghệ. Thông điệp xã hội quan trọng tiếp theo, Quadragesimo anno năm 1931 của Đức Giáo hoàng Piô XI, cũng đã ghi nhận “sự lan rộng của nền công nghiệp hiện đại trên toàn thế giới” và ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với đời sống kinh tế và xã hội, nhưng vẫn chưa gắn kết công nghệ với giáo huấn Giáo hội. Đức Piô XII là vị giáo hoàng đầu tiên đã thực hiện điều này. Trong sứ điệp Giáng Sinh năm 1953, ngài cảnh báo về “sự đề cao quá mức, và đôi khi độc tôn, đối với cái gọi là ‘tiến bộ công nghệ’”, vốn tìm cách thay thế “mọi lý tưởng tôn giáo và tinh thần”. Tuy nhiên, ngài không chống công nghệ; trái lại, ngài nhấn mạnh: “Không thể phủ nhận rằng tiến bộ công nghệ đến từ Thiên Chúa, và do đó nó có thể và phải hướndẫn con người đến cùng Thiên Chúa”. Song ngài phê phán “tinh thần công nghệ” đang lan tràn trong nền kinh tế và xã hội, một tinh thần vốn “chỉ công nhận và coi là thực những gì có thể được diễn đạt bằng những công thức toán học và những tính toán thực dụng”.

Những cuộc tranh luận tại Công đồng Vatican II xoay quanh Gaudium et spes, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới ngày nay (1965), đã đề cập đến mối tương quan giữa công nghệ và những nguyên tắc cốt lõi của học thuyết xã hội Công giáo, bao gồm phẩm giá con người và công ích. Cuối cùng, một âm hưởng lạc quan đã chiếm ưu thế: bản văn cuối cùng của Hiến chế Gaudium et spes ca ngợi những tiến bộ trong khoa học, y học, giao thông và truyền thông như là một sự tiến bộ của nhân loại. Tuy nhiên, trong khi ca ngợi “sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng” được thúc đẩy bởi “những tiến bộ kỹ thuật hiện đại” mang lại, Công đồng cũng cảnh báo rằng công nghệ không được thay thế các kết nối mang tính nhân sinh “ở mức độ sâu sắc hơn của các mối tương quan liên vị”, vốn đòi hỏi “sự tôn trọng lẫn nhau đối với phẩm giá tinh thần trọn vẹn của con người”. Để bảo đảm xã hội công bằng trong tương lai, “văn hóa và đạo đức tôn giáo cần phải “sánh bước với tri thức khoa học và công nghệ không ngừng tiến triển”.

Trong nhiều thập niên sau Công đồng, Vatican chậm bước trước cuộc cách mạng máy tính. Trong khi Đức Phaolô VI, Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI thường xuyên cảnh báo về những nguy cơ của chủ nghĩa kỹ trị, lặp lại mối quan ngại của Đức Piô về “tinh thần công nghệ”, các ngài chưa đưa ra suy tư mang tính hệ thống về kỷ nguyên kỹ thuật số được mở ra bởi sự phát minh ra bộ vi xử lý, máy tính cá nhân và Internet. Thông điệp Caritas in veritate năm 2009 của Đức Bênêđictô XVI là một khai triển sâu sắc nhất. Với tư cách thần học gia tham dự Công đồng Vatican II, Joseph Ratzinger từng phê bình sự lạc quan công nghệ của Hiến chế Gaudium et spes. Trên cương vị giáo hoàng, ngài ghi nhận tiến bộ công nghệ “hoa trái sáng tạo của con người được sử dụng như một công cụ cho tự do cá nhân”. Đồng thời, ngài cảnh báo về những hệ quả phi nhân tính tiềm ẩn của nó. “Ngay cả khi chúng ta làm việc thông qua vệ tinh hoặc tín hiệu điện tử từ xa, thì hành động của chúng ta vẫn luôn là hành vi nhân loại, một biểu hiện cho tự do có trách nhiệm”. Cũng như Đức Piô XII, ngài khẳng định rằng sự say mê công nghệ không được làm sao lãng “các chiều kích phi vật chất và tinh thần của đời sống”.

Trong những năm trước Antiqua et nova, Đức Thánh cha Phanxicô thường xuyên đề cập đến những đột phá AI diễn ra trong suốt triều giáo hoàng của ngài. Chẳng hạn, năm 2020, ngài hoan nghênh Rome Call for AI Ethics (Lời kêu gọi của Roma về Đạo đức AI)do Học viện Giáo hoàng về Sự sống tổ chức. Ngài phát biểu tại hội nghị của Học viện rằng “Không đủ nếu đơn giản chỉ tin vào cảm thức đạo đức của các nhà nghiên cứu và phát triển thuật toán,” cần phải kiến tạo những cơ chế xã hội trung gian, có khả năng tích hợp và phản ánh cảm thức đạo đức của những người dùng và các nhà giáo dục”. Sau khi ChatGPT được phổ biến công khai vào mùa thu năm 2022 và sự bùng nổ của các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) sau đó, các can thiệp công khai của Đức Phanxicô ngày càng thường xuyên hơn. Ví dụ, trong sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình tháng 1/2024, ngài cảnh báo về những hệ lụy của AI đối với “nạn phân biệt đối xử, can thiệp vào tiến trình bầu cử, thiết lập xã hội giám sát, loại trừ kỹ thuật số và làm trầm trọng thêm tình trạng cá nhân ngày càng mất kết nối với xã hội”, cũng như những mối đe dọa đến hòa bình do các hệ thống vũ khí tự động gây ra. Lặp lại lời phê phán sâu rộng của ngài về “mô hình kỹ trị” trong thông điệp Laudato si’ (2015), Đức Phanxicô khẳng định rằng thước đo của AI phải là tác động của nó đối với phẩm giá con người và công ích, được hiểu là lợi ích của tất cả mọi người, nhất là những người ở bên lề xã hội.

Mệnh lệnh bảo vệ phẩm giá con người, nền tảng của học thuyết xã hội Công giáo, là cốt lõi của Antiqua et nova. Dù phần lớn bản văn đề cập đến các vấn đề chính sách—bao gồm những nguy cơ do thông tin sai lệch, dữ liệu thiên lệch và sự thiếu giám sát của con người đối với AI trong các lĩnh vực từ y tế, giáo dục đến kinh tế và an ninh—thì đóng góp trung tâm của văn kiện là sự phân biệt rõ ràng giữa trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người. Thông qua phân tích kỹ lưỡng về sự khác biệt giữa con người và máy móc, văn kiện nhằm xoa dịu cả niềm hy vọng lẫn nỗi sợ hãi về khả năng đạt tới trí tuệ nhân tạo tổng quát (AGI) ngang tầm con người trong tương lai có thể dự đoán. Văn kiện khẳng định rằng có một vực thẳm rất lớn giữa trí thông minh do Thiên Chúa ban cho con người, với tất cả sự phức tạp của nó, và ngay cả công nghệ AI tiên tiến nhất. Máy móc không bao giờ có thể trở thành những cộng sự thực sự, chứ đừng nói đến bạn đồng hành. Bất chấp mọi lời sự cường điệu, chúng vẫn chỉ là công cụ của con người.

Lập luận trong Antiqua et nova về sự phân biệt mạnh mẽ giữa trí tuệ con người và máy móc có ba thành phần chính, mỗi thành phần đều có nền tảng triết học và thần học. Thành phần thứ nhất là một định nghĩa rộng về trí tuệ, vượt lên trên sự tính toán để bao gồm “ý chí, tình yêu, sự lựa chọn và khát vọng”, những năng lực mà máy móc vô hồn, không có sự tự nhận thức, không và sẽ không bao giờ có được. Thành phần thứ hai là tính hiện thân của trí tuệ con người. Con người vừa là tinh thần vừa là vật chất, không phải “hai bản tính kết hợp lại” mà là một sự hợp nhất “tạo thành một bản tính duy nhất” - một bản tính khác biệt về chất so với sự kết hợp giữa phần mềm và phần cứng, ngay cả trong những robot tiên tiến nhất. Thành phần thứ ba, liên quan, là tính tương quan của trí tuệ con người. Thành phần này “không phải là một khả năng biệt lập” mà là khả năng “được thực thi trong các mối tương quan, tìm thấy sự biểu đạt đầy đủ nhất trong đối thoại, cộng tác và tình liên đới”. Tính tương quan đó mở rộng đến sự chăm sóc toàn thể tạo thành và khát vọng nhận biết Thiên Chúa. Trí tuệ con người—có khả năng tự phản tỉnh, hiện thân và mang tính tương quan - sau cùng được định hướng về Chân lý. AI, chỉ là cái bóng mờ nhạt, chỉ đơn thuần là những phép toán logic dựa trên dữ liệu.

Nhiều tài liệu tham khảo về triết học và thần học Công giáo trong Antiqua et nova rất phù hợp với đối tượng chính của bản ghi chú: những người "được giao phó truyền tải đức tin". Nhưng tham chiếu này cũng là một sự phản bác hữu hiệu với thế giới quan duy vật và giản lược vốn thống trị phần lớn các suy đoán về cuộc truy tìm trí tuệ nhân tạo tổng quát (AGI). Quan niệm cho rằng trí tuệ con người chỉ đơn thuần xuất phát từ các hoạt động vật lý của não bộ là một đề mục đức tin, một xác tín rằng kinh nghiệm con người, bao gồm cả những huyền nhiệm của ý chí tự do và ý thức, cuối cùng sẽ có thể được giải thích bằng các thuật ngữ vật chất. Niềm tin liên quan rằng máy tính có thể trở nên có ý thức - rằng số lượng, tốc độ và cấu hình vận hành của chúng có thể bằng cách nào đó tạo ra bước nhảy vọt về chất đến tự nhận thức - cũng là một đề mục đức tin mà không có bất kỳ nền tảng thực nghiệm vững chắc nào. Trong khi đó, như Antiqua et nova khẳng định, thật sai lầm khi gợi ý rằng máy móc vận hành tự do theo mô hình của con người. Tất cả những gì chúng làm là xử lý dữ liệu và tạo ra kết quả. Chúng là công cụ, không phải là những tác nhân độc lập. Nếu một ngày nào đó trải nghiệm về ý thức và ý chí tự do được quy giản thành các nguyên nhân vật chất và có thể tái tạo trong máy móc thì khoảng cách giữa trí tuệ con người và máy móc có thể sẽ thu hẹp lại. Nhưng trong khi chờ đợi, khẳng định của Kitô giáo rằng chúng ta vừa là hữu thể thiêng liêng vừa là hữu thể vật chất, khác biệt với máy móc nhờ ý thức và ý chí tự do, vẫn hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ khoa học tốt nhất.

Trong khi Antiqua et nova đặt ra nghi ngờ cách thuyết phục về triển vọng của AGI thực sự ở cấp độ ngang tầm con người, văn kiện chưa hoàn toàn giải quyết được khả năng ngày càng lớn của công nghệ trong việc mô phỏng trí tuệ con người trong toàn bộ sự phức tạp của nó. Từ khi bùng nổ, các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) đã trở nên ngày càng tốt hơn trong việc mô phỏng những giao tiếp của con người qua việc lựa chọn ngôn từ, nhịp điệu lời nói và giọng điệu cá nhân. Trong những năm tới, khi các tác nhân AI có quyền truy cập vào nhiều dữ liệu cá nhân hơn - từ tin nhắn và những bài đăng trực tuyến đến lựa chọn của người tiêu dùng và lịch sử vị trí -và trở nên thành thạo hơn trong việc đọc và phản hồi cảm xúc của con người, chúng có khả năng mang dáng dấp của những người thông minh, biết quan tâm. Khi LLMs tiên tiến được tích hợp vào robot được thiết kế mang hình dáng sinh vật sống, khuynh hướng nhân cách hóa cái phi nhân loại—điều đã được minh chứng rõ ràng trong trường hợp những thú cưng - có thể khiến chúng thành những người bạn đồng hành, và trong một số trường hợp, chúng là những người bạn đáng tin cậy. Một thế giới mới của sự thân mật giả tạo của AI có thể đang mở ra, với những hệ lụy sâu rộng đến xã hội.

Antiqua et nova thừa nhận viễn cảnh này nhưng không tỏ ra lo ngại. Trong phần “AI và các mối tương quan của con người”, văn kiện khẳng định “AI có thể mô phỏng sự đồng cảm, nhưng nhấn mạnh rằng “ không thể sao chép bản chất cá vị và tương quan sâu sắc của sự đồng cảm đích thực”. Tuyên bố này có vẻ đúng ở thời điểm hiện tại; nhưng liệu nó có đúng trong tương lai hay không thì vẫn còn là điều chưa chắc chắn. Các tác giả đã đúng khi nhắc nhở chúng ta rằng “AI chỉ là sự phản chiếu nhạt nhòa của nhân loại - nó được chế tác bởi trí óc con người, được huấn luyện trên dữ liệu do con người tạo ra, vận hành nhờ tác động của con người, và được duy trì thông qua lao động của con người”. Tuy nhiên, đồng thời, chính khả năng ngày càng phát triển của AI trong việc mô phỏng trí tuệ con người và xây dựng kết nối giống con người đánh dấu một bước ngoặt lịch sử. Kể từ thời Đức Piô XII, các đức giáo hoàng đã cảnh báo về khả năng công nghệ có thể phá vỡ và làm biến dạng các mối tương quan liên vị - từ radio, truyền hình đến internet và mạng xã hội. Với những bước tiến nhanh chóng của AI, nguy cơ tiềm ẩn ấy đã tăng đã tăng lên đáng kể.

Nhiệm vụ trước mắt sẽ vừa là duy trì sự toàn vẹn của các mối tương quan nhân sinh vừa là xây dựng các mối tương quan cộng tác giữa con người và AI vì công ích. Antiqua et nova nhắc nhở chúng ta rằng “thay vì rút lui vào những thế giới nhân tạo, chúng ta được mời gọi dấn thân cách ý thức và tận tụy với thực tại, đặc biệt qua việc liên đới với người nghèo và người đau khổ, an ủi những ai đang đau buồn, và kiến tạo mối dây hiệp thông với mọi người”. Một AI được giám sát về mặt đạo đức và quản lý đúng đắn có thể góp phần củng cố các nỗ lực bảo vệ phẩm giá con người và xây dựng những xã hội công bằng và bao dung hơn. Song song đó, những “thế giới nhân tạo” tất yếu nảy sinh từ tương tác giữa con người - máy móc cũng cần được kiểm soát, nhất là với tác động tâm lý và xã hội trên giới trẻ. Trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người chắc chắn sẽ vẫn khác biệt về mặt chất lượng. Trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người sẽ luôn khác biệt về bản chất. Nhưng chính sự giao thoa của chúng sẽ đề ra những thách đố mới cho Giáo hội và thế giới.

Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP

Nguồn: commonwealmagazine.org