Đức tin trong Cựu ước
Lm. Nicholas King, SJ
Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta biến Năm Đức Tin này thành
thời gian chuẩn bị để canh tân việc loan báo Tin Mừng. Vì thế, thật chính đáng
khi nhìn lại những gì Cựu Ước nói về đức tin, đồng thời xem lại hai hiểu nhầm
phổ biến.
Hiểu nhầm đầu tiên thường gặp là ý niệm cho rằng đức tin là
một số những định đề khó tin nhưng buộc phải tin, một số phán quyết kiểu “ra
ngô, ra khoai”, nếu bạn chấp nhận hết những điều ấy thì bạn mới là “người Công
giáo” chính cống. Tuy nhiên, đây không phải là ý nghĩa của đức tin trong Kinh
Thánh. Đức tin là mối tương quan với Đấng là Mầu nhiệm Tình yêu, Đấng Sáng Tạo
vũ trụ, Đấng mà chúng ta gọi cách đơn giản là “Chúa”, mặc dù đôi khi không dễ
sống mối tương quan này.
Hiểu nhầm thứ hai cho rằng Thiên Chúa trong Cựu Ước là một
vị thần bạo lực và hay nổi giận khiến những ai có lý trí khó chấp nhận tôn thờ.
Những ai hiểu sai như thế thì làm phiền ngồi xuống và đọc trọn Cựu Ước (khá dài
và nhiều chỗ khó hiểu).
Một điều khó khăn hơn nữa là trong Cựu Ước không có từ “đức
tin”. Từ cận nghĩa nhất của nó trong tiếng Do Thái là ‘aman’ (đây là từ gốc của
tiếng “Amen”), có nghĩa là “đáng tin cẩn” hay “xác thực”, do đó chúng ta có
danh từ ‘emeth’, nghĩa là “sự vững chắc” hay “sự bất biến”, “tính trung thành”
hay “chân lý”, và một loạt những ý nghĩa khác thuộc lãnh vực này. Đây chính là
nhưng đặc tính mà Tân Ước gọi là “đức tin”.
Những gương mẫu đức tin trong Cựu Ước
Vì thế, xem ra cách tốt nhất để tìm thấy đức tin trong Cựu
Ước là nhìn lại những hành vi đạo đức của những người mà chúng ta nghĩ rằng họ
có đức tin.
1. Abraham
Gương mẫu đầu tiên là hình ảnh ông Abraham, trong sách Sáng
Thế 12,1-3, lúc đã vào tuổi 75, đột nhiên nhận được lệnh của Thiên Chúa: “Hãy
rời bỏ quê hương xứ sở và họ hàng thân thuộc, cả nhà cha ngươi để đi đến miền
đất ta sẽ chỉ cho ngươi.” Rồi đột nhiên bản văn bỗng nhiên chuyển giọng ra như
một bài thơ, Thiên Chúa nói tiếp:
“Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho
ngươi.
Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một
mối phúc lành.
Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi;
Ai nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.”
Và ta thấy ngỡ ngàng khi nghe tiếp bản văn: “và ông Abram ra đi theo như lời Giavê nói”.
Rồi sau đó là hành loạt những cuộc phiêu lưu ít nhiều có tính giáo dục mà bạn
nên đọc trong sách Sáng Thế chương 12-24 để rồi sẽ thấy nguyên mẫu của “người
có đức tin” là gì. Ông Abram (hoặc Abraham như ông được gọi sau này) từ đây
phải chịu nhiều cuộc thử nghiệm mà ít nhiều ông đã vượt qua được. Tuy nhiên,
trong 3 chương sau đó, vẫn không có con nối dõi nên ông nêu vấn đề với Chúa
trong chương 15. Và câu trả lời của Thiên Chúa là: “Hãy nhìn lên trời và đếm
các vì sao. Dòng dõi ngươi sẽ đông đúc như vậy.” Rồi thì chúng ta nghe câu trả
lời của Abram mà sau này Thánh Phaolô diễn giải ra rằng: “Ông đã đặt trọn niềm
tin cẩn vào YHWH, và vì thế được kể là người công chính.” (Rm 4,3) Điều quan
trọng ở đây là dù gặp nhiều nghịch cảnh, Abraham (tên cuối cùng của ông trong
St 17,5) đã có được mối liên hệ đủ thâm sâu với Thiên Chúa để có thể tin tưởng
tất cả những điều Ngài nói. Chúng ta được mời gọi đọc, suy tư và rồi bắt chước
ông.
Đỉnh điểm hành trình đức tin của Abraham nằm ở chương 22
sách Sáng Thế, câu chuyện lạnh mình nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Lúc ấy ông
đã hơn trăm tuổi rồi (vì Isaac đã lớn mà người cha được trăm tuổi mới sinh ra
ông). Ấy vậy mà Thiên Chúa vẫn bảo ông (St 22,2): “Hãy đem đứa con trai Isaac
mà người yêu quý và ra đi [“ra đi” cũng chính là lệnh truyền bằng tiếng Do Thái
mà Thiên Chúa dùng trong chương 12 khi bảo ông lên đường] đến núi Moriah, dâng
nó làm hy lễ lên cho Ta.” Chúng ta thấy sự đau đớn và khó hiểu khi Abraham vâng
lời tối mặt. Ta nghe câu hỏi ngây thơ của Isaac: “Con chiên làm của lễ ở đâu
vậy bố?”. Câu trả lời của Abraham cũng không khiến ta bớt đi nỗi sợ: “Chúa sẽ
liệu con à!”. Với nghệ thuật điêu luyện, người kể chuyện đặt một câu hoá giải
vào cuộc chuyện trò đáng sợ này “và cả hai đi bên nhau”, tính trung lập của nó
làm tăng thêm xúc cảm cho câu chuyện. Cuối cùng, chúng ta nhận ra Abraham đã
đúng khi tin rằng Chúa “sẽ liệu” và sự sống của Isaac được miễn thứ; nhưng
Abraham đã đánh đổi bằng đức tin. Độc giả tinh ý sẽ nhận ra rằng mẹ đứa trẻ là
bà Sarah không được đề cập đến trong toàn bộ câu chuyện (thật sự, việc làm tiếp
theo của bà đó là chết - St 23,2), trong khi Isaac không bao giờ nói chuyện với
cha mình sau đó. Đức tin trong Cựu Ước không phải là chuyện dễ dàng.
2. Đavít
Rồi đến Đavít, một hình tượng phức tạp và mơ hồ, mà những
câu chuyện quá thật về ông đã được kể lại trong 1 Samuel 16 và 1 Vua 2. Đức tin
của ông hiện rõ trong những gì ông làm và những gì xảy đến với ông. Chẳng hạn,
khi những người hầu của vua Saul khuyên nhủ nhà vua nên dùng tài đánh đàn của
Đavít để chữa bệnh, họ khẳng định rằng: “Có Thiên Chúa ở với anh ta.” (1 Sm
16,18) Chúng ta còn lại được nghe chính miệng Đavít nói với Saul khi xin được
đấu tay đôi với Goliath: “Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu,
chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Philitinh này” (1 Sm 17,37); và cũng chỉ
vì Thiên Chúa ở với Đavít nên Saul căm ghét ông ra mặt (x. 1 Sm 18,28-29).
Thiên Chúa, thường được gọi là “YHWH” trong những câu chuyện
trên, và Đavít xem đó là chuyện dĩ nhiên khi luôn thỉnh ý Chúa trước khi ra
trận (1 Sm 23,4; x. 2 Sm 2,1; 5,19.23). Đavít có lòng đạo đức đến nỗi khi có cơ
hội cũng không ra tay hạ sát “Người được Chúa xức dầu” (1 Sm 24,7;
26,9-11,23-24; x. 2 Sm 1,14), và ông nhìn thấy quà tặng của Abigail là việc làm
của Thiên Chúa (x. 1 Sm 25,32). Khi trại quân Đavít bị quân Amalek tấn công,
bắt hết phụ nữ và trẻ em, người thuật chuyện kể rằng “Đavít lấy lại cam đảm
trong Thiên Chúa”, đôi khi được dịch là: “với lòng tin cậy mới mẻ vào Thiên Chúa”
(1 Sm 30,6). Hơn nữa, khi có người trong đội quân của Đavít không muốn chia
phần chiến lợi phẩm với những người không ra trận chiến đấu cùng quân Amalek,
thì ông kêu gọi lòng quảng đại của họ (1 Sm 30,23 - “Đó là những thứ mà Thiên
Chúa đã ban cho chúng ta”). Ông cũng ý thức rằng Thiên Chúa có sức mạnh cảnh
báo, chính vì thế mà sau cái chết kinh hãi của Uzzia khi chạm tay vào hòm bia,
ông không đem Hòm bia Giao Ước về Thành Đavít mà về nhà của ông Obed-Edom người
Hittit (x. 2 Sm 6,10); Khi thay đổi quyết định đem Hòm bia về Thành của mình,
Đavít đã nhảy múa trước hòm bia khiến bà vợ của ông tỏ lòng khinh dể (x. 2 Sm
6,14-22).
Tuy nhiên, Đavít cũng nhiều lần được Thiên Chúa sửa dạy khi
đã làm vua: đầu tiên là khi Đavít có sáng kiến xây Đền Thờ cho Chúa, như các
vua vùng Cận Đông khác thường làm cho thần thánh của mình. Ông được Chúa dạy
cho một bài học về ý nghĩa của “Nhà Chúa” và “Nhà Đavít” (2 Sm 7,1-28). Lần thứ
hai là khi ông làm điều đáng hổ thẹn với Bathshêba, vợ của Uria người Hittit,
khi Đavít không chu toàn trách nhiệm của người làm vua và dẫn quân ra ngoài
trận chiến. Thay vì thế, ông ở nhà, phạm tội ngoại tình và giết người, cho đến
khi ngôn sứ Nathan được sai đến nói với ông (x. 2 Sm 11,1-12,25). Và không
giống như các vua quan Cận Đông khác, Đavít thú nhận: “Tôi đã đắc tội với YHWH”
(2 Sm 12,13). Lần thứ ba, giống như các nhà lãnh đạo mắc bệnh hoang tưởng, mặc
cho lời khuyên của Joab, Đavít tổ chức điều tra dân số toàn dân Israel và
Giuđa, ngạo nghễ chống lại Thiên Chúa (x. 2 Sm 24,1-17); sự thống hối của ông
một lần nữa lại là tấm gương cho tất cả mọi người chúng ta.
Sự việc càng trở nên phức tạp hơn, sau cuộc tạo phản của
Absalom mà Đavít không phải là vô can, Đavít không cho phép Hòm Bia đến với
mình và nói lên lời tuyên xưng đức tin như thế này: “Hãy đưa Hòm Bia Thiên Chúa
về thành. Nếu ta được đẹp lòng YHWH, thì Người sẽ đưa ta trở về và cho ta thấy
Hòm Bia và nơi Người ngự. Nhưng nếu Người nói là Người không thương ta nữa, thì
này ta đây, Người cứ làm cho ta điều Người cho là tốt.” (2 Sm 15,25-26) Vấn đề
ở đây không phải là Đavít có thực sự nói những lời này hay không. Vấn đề là
gương mẫu đức tin của nhân vật phức tạp này: ông chấp nhận trước và vô điều
kiện bất cứ điều gì Thiên Chúa làm cho ông.
Cuối cùng, câu chuyện vua Đavít đến hồi kết thúc khi một bài
thánh ca tuyệt hay được đặt trên môi miệng Đavít, tạ ơn Thiên Chúa là Đấng đã
dìu dắt ông (mặc dầu tế nhị bỏ qua những lầm lỗi của ông). Bắt đầu sách Các
Vua, Đavít gần chết, Bathshêba và Nathan âm mưu để Solomon lên nối ngôi vua.
Lời cuối cùng của Đavít với bà vợ gồm cả một lời thề nhân danh Chúa: “Ta thề
nhân danh Chúa, Đấng đã giải thoát ta khỏi mọi cơn quẫn bách” (1 V 1,29). Ở chương 2, Đavít nói dài hơn,
nhắc lại cho Solomon về tất cả những điều đó: “Hãy tuân giữ các huấn lệnh của
YHWH, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là giữ các giới răn,
mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người”. Chúng ta được mời gọi nhìn lại cả
cuộc đời của của vị vua quá phàm nhân này để thấy rằng đức tin vào Thiên Chúa
đã len lỏi trong mọi khoảnh khắc của cuộc sống, ngay cả khi mắc sai lỗi. Chúng
ta cố gắng sống như ông, luôn hiện diện trước nhan Chúa.
3. Thánh vịnh gia
Rồi đến Thánh vịnh gia. Tiêu đề cho đoạn này là “Thánh vịnh
gia”, nhưng không có người nào như thế cả hay đúng ra có quá nhiều người. Theo
quy ước thì người ta gán tất cả các thánh vịnh cho vua Đavít: theo các sách
lịch sử ghi lại thì ông biết chơi đàn hạc (1 Sm 16,16-18), và nhiều thánh vịnh
có tiêu đề gợi ý rằng tác giả là Đavít; nhưng trong số này có vài thánh vịnh
chắc là được viết sau thời Đavít. Sách Các Thánh Vịnh được xếp đặt cẩn thận để
trình bày cho chúng ta thấy đức tin của dân Israel, được diễn tả trong các bài
thánh ca thuộc nhiều thời đại khác nhau; và nếu bạn muốn biết suy tư về Thiên
Chúa của cộng đoàn tụ họp chung quanh Đền thờ và cộng đoàn còn lại sau khi Đền
thờ do Solomon xây dựng bị phá hủy, thì hãy trầm tư lắng nghe các bài thánh ca
này.
Bạn nên biết rằng động từ thường gặp nhất trong các Thánh
Vịnh là “hát lên”, thường ở mệnh lệnh cách (imperative mood), và có hai hàm ý.
Trước tiên, hành động hát thường hướng về “phía bên trên”, nghĩa là hướng về
Thiên Chúa của dân Israel; nhưng thứ đến, nó cũng hướng về “phía bên cạnh”,
nghĩa là về phía cộng đoàn, một điều gì đó mà toàn dân Israel cùng làm với
nhau. Các bài thánh ca gồm nhiều thể loại và các học giả đã phân loại các thánh
vịnh ra thành: các bài than vãn của cá nhân hay toàn thể cộng đoàn; các bài ca
tạ ơn hay tin cậy (có lẽ bài nổi tiếng và đáng yêu nhất là Thánh vịnh 23, “Chúa
là Mục Tử chăn dắt con”. Rồi đến các bài thánh ca hay “thánh vịnh ngợi khen”,
các bài ca Sion, các bài ca về vương quyền của Thiên Chúa và “các thánh vịnh
vương giả” phản ánh mối tương quan giữa Thiên Chúa và vị vua là đại diện cho
toàn thể đất nước Israel. Có “các thánh vịnh khôn ngoan” (ví dụ Thánh vịnh 119,
Thánh vịnh dài nhất), và “các Thánh vịnh lịch sử” ngợi ca Thiên Chúa đã hành
động như thế nào trong lịch sử Israel ,
ví dụ Thánh vịnh 106. Còn nhiều loại khác nữa nhưng hy vọng rằng đã nói đủ ở
đây để xin mời bạn đọc chúng. Bạn sẽ tìm thấy trong bộ sưu tập các bài thánh ca
này điều gì đó rất thích hợp với tâm trạng mình, ngay cả khi tức giận với Thiên
Chúa như lời tác gia thi sĩ trong sách Gióp đôi lúc giận dữ vặn hỏi: “Lạy Chúa,
biết đến bao giờ?” (ông Gióp cũng là một mẫu đức tin khá thú vị trong Cựu Ước,
nhưng chúng ta không có chỗ để bàn đến ở đây. Vì thế, hãy đọc sách Gióp).
“Hineni”: Câu trả lời liều lĩnh của đức tin trong Cựu Ước
Cuối cùng, tôi muốn bạn chú ý đến một từ trong tiếng Do
Thái: hineni, nghĩa là “Này tôi (con) đây” hay “Xem này, ta (con) đây”, đôi khi
được dịch là “đã sẵn sàng!”, từ ngữ được tìm thấy trên môi miệng của các mẫu
gương đức tin trong Cựu Ước. Vì thế, bạn và tôi cũng được khích lệ nói lên
tiếng này khi được Thiên Chúa của đức tin mời gọi chúng ta. Trong Cựu Ước, hầu
như phần lớn từ này được đặt trên môi miệng Thiên Chúa, thường mang tính đe
doạ: “Hãy xem điều ta sắp làm với quân Amalek”. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cũng
được thốt ra từ miệng con người. Lần đầu tiên là trong sách Sáng Thế 22 mà ta
đã thấy trong câu chuyện của Abraham khi ông chấp nhận dâng Isaac làm của lễ.
Abraham nói “hineni” 3 lần trong suốt câu chuyện: lần đầu khi Thiên Chúa gọi
ông (St 22,1 - “Dạ, con đây!”); lần thứ hai đau nhói hơn khi Isaac gọi ông để
hỏi con chiên làm của lễ ở đâu (St 22,8 - “Cha đây con!”); và lần thứ ba là khi
sứ thần từ trời gọi ông để ngăn ông ra tay giết đứa trẻ (St 22,11 - “Dạ, con
đây!”).
Lần tiếp theo chúng ta được nghe từ này trên môi miệng con
người là khi Giacóp sai Giuse đi thăm các anh em mình đang chăn đàn gia súc của
gia đình tại Shikem (x. St 37,13), và Giuse (người đã làm cho các anh em khác
nổi giận vì giấc mơ của mình) đã bày tỏ sự sẵn sàng ra đi. Dĩ nhiên, kết cục là
họ bắt cóc Giuse nhưng không giết đi (nhờ sự can thiệp của Ruben và Giuđa). Cuối
cùng ông sang được đất Ai Cập và tình cờ được đoàn tụ với các anh em và cha
mình. Nhưng cái kết có hậu này chỉ xảy ra sau khi Thiên Chúa đưa dẫn ông qua
nhiều cuộc phiêu lưu. Rồi lần kế tiếp môi miệng con người phát ra từ này là
trong St 46,2, khi Thiên Chúa gọi ông già tội nghiệp Giacóp, khích lệ ông lên
đường đi Ai Cập để đoàn tụ với Giuse.
Môisen cũng thốt lên từ này khi ở trong tình trạng là tên
sát nhân chạy trốn (x. Xh 3,4). Ông đang chăn chiên cho nhạc phụ thì bổng nhiên
thấy bụi cây cháy bừng, ông nghe tiếng gọi và Môisen trả lời: “hineni”. Có thể
là sau này ông cảm thấy hối tiếc vì đã thốt lên lời đức tin ấy, vì nó bắt đầu
cho một ơn gọi nguy hiểm và cam go là làm người giải phóng dân Israel. Không
thể kể hết những cuộc phiêu lưu chẳng mấy hào hứng ra đây, cả những cáo buộc
tội diệt chủng do chính đám dân mà ông đã giải phóng. Bạn sẽ không phí thời
gian nếu đọc cả câu chuyện này trong sách Xuất hành cho đến cái chết của ông
Môisen, tận cuối sách Đệ Nhị Luật 34,5. Bạn có thể thấy mình cũng bồn chồn lo
lắng, nhưng rồi cũng sẽ an tâm vì không còn con đường nào khác để đi.
Rồi Samuel cũng ba lần phá giấc ngủ của cụ già Êli khi thốt
lên tiếng ‘hineni’, vì cứ ngỡ vị tư tế gọi mình (1 Sm 3,4.6-8). Eli dặn rằng
lần sau cứ nói: “Hãy nói, YHWH, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe.” Đây là câu
nói phải ở trên môi miệng chúng ta, dù cần phải suy nghĩ về sứ vụ cam go mà
Samuel vừa mới bắt đầu, đòi hỏi ông phải dấn thân vào công việc chính trị đầy
khó khăn, ngay cả khi đã về “bên kia chín suối” mà cũng chẳng được yên (xem câu
chuyện bà đồng bóng Endor gọi hồn Samuel, đặc biệt là câu 1 Sm 28,15 - “Tại sao
ngài (Saul) lại gọi tôi lên mà quấy rầy tôi?”). Đó phải là câu trả lời của
chúng ta trong đức tin, nhưng đồng thời nó cũng chẳng phải là con đường êm ả gì
đâu.
Người kế tiếp nói từ ‘hineni’ là vua Đavít đáp trả lời mời
gọi của Thiên Chúa (x. 2 Sm 15,26), nói rằng ông sẵn sàng nhận bất cứ hình phạt
nào của Thiên Chúa, sau vụ tạo phản của Absalom. Ông là gương mẫu cho chúng ta
theo nghĩa này.
Ngôn sứ Isaia cũng vậy, ông là người cuối cùng đủ khờ khạo
để thốt lên tiếng ‘hineni’. Chương 6 trong sách Isaia thuật lại cuộc thị kiến
trong Đền Thờ vào “năm Vua Uzzia băng hà”, ông thấy mình đứng trước nhan Chúa
và nghe thiên thần seraphim (“người đốt nóng”) hô vang “Thánh, Thánh, Thánh”.
Ông nhận ra mình thân phận thấp hèn và kêu lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất!
Vì tôi là một người môi miệng ô uế” (Is 6,5); Nhưng điều này kéo dài không lâu
vì các “người đốt nóng” ấy mang cục than đỏ rực chạm vào môi miệng ông. Lúc ấy
ông nghe tiếng Chúa hỏi: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” (Is 6,8).
Vị ngôn sứ lúc ấy nhảy cửng lên như cậu học sinh khích động và trái tim ta bổng
chùng xuống sau tiếng hét to của ông: “Hineni - hãy sai con đi!”. Sự nghiệp ngôn
sứ với cuộc phiêu lưu dai dẳng đầy gian khổ của ông bắt đầu như thế đấy.
Vì vậy chúng ta nên cẩn thận trước khi nói “hineni”. Khi bạn
nghe lời mời gọi của Thiên Chúa thì “hineni” là câu trả lời duy nhất. Nhưng báo
trước là sẽ khó chơi đấy!
Kết luận: Sự trung thành của Chúa
Cựu Ước muốn nói rằng đức tin không phải là một điều gì đó
ta có thể làm cho chính mình nhưng là một “hồng ân của Thiên Chúa”, như sách
Giáo lý đã dạy. Nền tảng của đức tin ấy không gì khác hơn là sự trung thành bất
tận và vô điều kiện của Thiên Chúa. “Tình yêu bền bỉ” của Ngài là điều mà từ
’emeth muốn nói, như ta đã đề cập đến ở đầu bài. Đây là điểm chính yếu trong
Xuất Hành 19,5, khi Thiên Chúa nói với Môisen rằng: “Nếu ngươi nghe và giữ giao
ước của Ta, thì ngươi sẽ là của riêng Ta trong mọi dân tộc.” Vai trò của Israel
(và vì thế cũng là vai trò của chúng ta) là nhớ lại những gì Thiên Chúa đã làm,
và dĩ nhiên đó là điều đã xảy ra trong nghi thức Seder vào ngày lễ Vượt Qua (x. Xh 13,3-16) và trong
nghi thức canh tân giao ước, khi dân Israel tuyên xưng trước mặt Thiên Chúa
rằng: “Một người Aram lang thang là cha ông chúng tôi” (Đnl 26,5). Đó là điều
mà dân Israel phải làm để
nhắc nhớ dân Chúa về hành động của Thiên Chúa (và hẳn nhiên là mối tương quan
tương xứng giữa YHWH với dân Israel ).
Đức tin trong Cựu Ước là như thế: đó là mối tương quan giữa Thiên Chúa và cộng
đoàn tụ họp chung quanh Thiên Chúa của mình. Mối liên hệ này làm nên căn tính
của dân Israel
cũng như đem lại cho Giáo Hội căn tính độc nhất của mình.
------------------
[1] Seder là nghi thức kể lại cuộc giải phóng ra khỏi đất Ai
Cập được cử hành trong cộng đồng hay cuộc tụ họp gồm nhiều thế hệ trong gia
đình. Câu chuyện này nằm trong sách Xuất Hành - hay Shemot trong Sách Thánh của
người Do Thái. Nghi thức Seder dựa vào câu trong sách Xuất Hành 13,8: “Trong
ngày ấy, ngươi sẽ kể lại cho con của ngươi rằng: sở dĩ như vậy là vì những gì
Đức Chúa đã làm cho cha khi cha ra khỏi Ai Cập” (NdT.)
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét