Youcat - Kinh
Tin Kính - Phần II: Kitô hữu tuyên xưng đức tin
YOUCAT
YOUTH CATECHISM
SÁCH GIÁO LÝ
CHO NGƯỜI TRẺ
***
PHẦN I: KINH TIN KÍNH
PHẦN II: KITÔ HỮU TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
Chương
3: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần
113. "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh
Thần" nghĩa là gì?
- “Tin kính Đức
Chúa Thánh Thần” có nghĩa là thờ phượng Người là Thiên Chúa như thờ Chúa Cha và
Chúa Con, vì Ngài là một trong Ba ngôi, đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con.
Và cũng có nghĩa là tin rằng Chúa Thánh Thần đến trong lòng ta, để đưa dẫn ta
là con cái Thiên Chúa nhận biết Thiên Chúa là Cha trên trời. Được Chúa Thánh
Thần thúc đẩy, chúng ta có thể thay đổi bộ mặt thế giới. [683-686]
- Trước khi
chết, Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ sẽ sai Đấng Bảo trợ khác (Ga 14,16) khi
Người không còn ở với các ông. Khi Chúa Thánh Thần được đổ tràn xuống trên các
môn đệ của Hội thánh sơ khởi, họ hiểu Chúa Giêsu nói ám chỉ ai. Lòng họ đầy cảm
giác an toàn sâu xa và vui sướng, và họ lãnh nhận các Đặc sủng, có nghĩa là họ
có thể nói tiên tri, chữa lành và làm các phép lạ. Ngày nay, trong Hội thánh
vẫn có những người được những đặc sủng và làm được các việc như vậy. → 35 – 38,
310 – 311
? Đặc sủng được
gọi là ân sủng của Chúa Thánh Thần được tả lại trong thư thứ nhất gửi Côrintô
12,6; chẳng hạn ngoài ơn có thể chữa lành là các ơn làm phép lạ, ơn nói tiên
tri, ơn nói tiếng lạ và ơn chú giải, ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn đức tin.
Thuộc thành phần các ơn kể trên là bảy ơn Chúa Thánh Thần (xem câu 310). Đó là
các ơn đặc biệt để hướng dẫn hoặc quản trị một cộng đồng, ơn yêu thương người
thân cận và loan truyền đức tin.
114.
Chúa Thánh Thần có vai trò nào trong đời sống Chúa Kitô?
- Tất cả công
việc của Chúa Giêsu chỉ có thể hiểu được là do Chúa Thánh Thần tác động. Sự
hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng ta gọi là Thánh Thần được biểu lộ
cách hoàn toàn trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu. [689-691, 702-731]
- Chúa Thánh
Thần làm cho Chúa Giêsu thành thai trong lòng Đức Maria (Mt 1,18),xác nhận
Người là Con yêu dấu khi Chúa chịu phép Rửa (Lc 4,16-19), dẫn Chúa vào hoang
địa (Mc 1,12) tác động cho đến lúc Chúa tắt thở (Ga 19,30). Trên thập giá Chúa
Giêsu trút linh hồn. Sau khi sống lại Chúa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ
(Ga 20,22). Thánh Thần Chúa Giêsu được truyền sang cho Hội Thánh như vậy: Như
Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em (Ga 20,21).
115. Chúa Thánh Thần được biết đến qua
tên gọi và dưới những hình dạng nào?
- Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Chúa Giêsu
với hình chim câu. Các Kitô hữu ban đầu biết đến Chúa Thánh Thần như là dầu
chữa bệnh, nước ban sự sống, cơn gió mạnh, những lưỡi lửa. Chính Chúa Giêsu nói
về Chúa Thánh Thần như Đấng Cố vấn, Đấng An ủi, Thầy dạy, Thần Chân lý. Trong
các Bí tích của Hội Thánh, Chúa Thánh Thần được ban xuống qua việc đặt tay và
xức dầu. [691-693]
- Hoà bình mà
Thiên Chúa ký kết với loài người được diễn nghĩa bằng việc chim bồ câu hiện đến
với ông Nôê. Thời cổ ngoại giáo cũng coi chim bồ câu là tượng trưng tình yêu.
Nên các Kitô hữu đầu tiên đều hiểu ngay rằng Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên
Chúa hóa thành ngôi vị, đã xuống trên Chúa Giêsu như chim bồ câu khi Chúa chịu
phép rửa ở sông Jorđanô. Ngày nay chim bồ câu là dấu chỉ hòa bình, được thế
giới công nhận, và là một trong những tượng trưng lớn về sự hòa giải giữa Thiên
Chúa và nhân loại (St 8,10-11).
“Ai cầu nguyện
“Xin Chúa Thánh Thần đến” cũng phải sẵn sàng cầu nguyện “Xin đến và thúc bách
con bởi con cần được thúc bách.” - Wilheim Stahlin (1883–1975, thần học gia Tin
Lành Đức)
“Thánh Thần
thúc đẩy ta đến với người khác, đốt lên trong ta lửa bác ái, làm cho ta nên
người được sai đi loan truyền tình yêu Chúa.” - Đức Bênêđictô XVI, về Chúa
Thánh Thần, 20-7-2007
116.
Chúa Thánh Thần đã "nói qua các tiên tri" nghĩa là gì?
- Trong Kinh Thánh Cựu ước, Thiên Chúa đã ban
Thánh Thần cho một số người nam và nữ để họ nhân Danh Chúa, nói ra lời Chúa
dạy, và sửa soạn lòng dân Chúa đón Đức Mêssia (Đấng Cứu thế). [683-688,
702-720]
- Trong Cựu
Ước, Thiên Chúa chọn những người nam và nữ để họ an ủi, hướng dẫn và khuyên bảo
dân chúng. Thánh Thần Thiên Chúa cũng nói qua miệng tiên tri Isaia, Jêrêmia, và
Êdêkien và các tiên tri khác. Thánh Gioan Tẩy giả, tiên tri cuối cùng không
những báo trước Chúa Giêsu đến, mà còn gặp gỡ và loan báo rằng Người là Đấng
giải thoát ta khỏi quyền lực tội lỗi.
Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã
phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri, nhưng vào thời sau hết này, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. - Dt 1,1-2
“Thiên Chúa đã
đích thân làm người nơi Chúa Giêsu Kitô và ban cho ta có thể nhìn thấy được nội
tâm của chính Thiên Chúa. Và ta thấy một việc không ngờ: Thiên Chúa mầu nhiệm
không cô đơn vô hạn. Người là một biến cố tình yêu. Người có Chúa Con nói năng
với Người là Cha. Và cả hai chỉ là một trong Chúa Thánh Thần là một bầu khí
hiến dâng và yêu thương làm cho tất cả ba chỉ là Một Thiên Chúa độc nhất.” -
Đức Bênêđictô XVI, vọng Lễ Hiện Xuống 2006
117.
Chúa Thánh Thần đã hành động trong, với, và qua Đức Mẹ Maria thế nào?
- Đức Mẹ Maria đã hoàn toàn đáp ứng và cởi mở
tâm hồn cho Thiên Chúa (Lc 1, 38). Do đó, qua tác động của Chúa Thánh Thần,
Người đã trở nên Mẹ Thiên Chúa, và vì là Mẹ Chúa Kitô, Người cũng trở nên Mẹ
các Kitô hữu, và là Mẹ của loài người nữa. [721-726]
- Đức Maria đã
để cho Chúa Thánh Thần thực hiện một phép lạ tuyệt vời: Thiên Chúa làm người.
Đức Maria thưa vâng với Chúa: “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Được Chúa Thánh Thần nâng đỡ, Đức Maria đã đi
theo Chúa Giêsu trong những vui buồn của Chúa cho đến chân thập giá. Chính ở đó
Chúa Giêsu đã ban Đức Maria làm Mẹ chúng ta (Ga 19, 25-27) → 80-85, 479
Thánh Thần Chúa sẽ đến trên Bà, và quyền phép
Đấng Tối cao sẽ phủ bóng trên Bà. - Lc 1,35
118. Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống
đã xảy ra chuyện gì?
- 50 ngày sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã gởi
Chúa Thánh Thần từ trời xuống trên các tông đồ. Từ đây là bắt đầu thời của Hội
Thánh. [731-733]
- Chúa Thánh Thần biến đổi các tông đồ đang co
cụm vì sợ hãi trở thành chứng nhân can đảm cho Chúa Kitô. Chỉ ít lâu sau, hằng
ngàn người xin chịu phép Rửa tội. Hội Thánh lớn mạnh từ đó. Phép lạ nói nhiều
thứ tiếng chứng tỏ rằng ngay từ đầu Hội Thánh được thiết lập cho mọi người, Hội
Thánh là phổ quát, là công giáo, là truyền giáo. Hội Thánh nói với mọi người
vượt qua hàng rào chủng tộc và ngôn ngữ và mọi người có thể hiểu được. Cho đến
ngày nay, Chúa Thánh Thần như là rượu ngon quí giá của Hội Thánh.
Ai nấy đều được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần,
họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho… ai nấy
đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. - Cv 2,4-6
? Ngũ tuần. Lúc
khởi đầu đây chỉ là lễ mà người Do Thái mừng việc ký kết Giao ước với Giavê ở
núi Sinai. Vì có các biến cố xảy ra ở Giêrusalem vào lễ Ngũ Tuần, nên lễ này
trở nên cho Kitô hữu Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
119.
Chúa Thánh Thần hoạt động trong Hội Thánh như thế nào?
- Chúa Thánh
Thần xây dựng Hội Thánh. Người thúc đẩy Hội Thánh và nhắc nhớ Hội Thánh về sứ
mạng của Hội Thánh. Người kêu gọi nhiều người phục vụ Hội Thánh, và ban cho họ
nhiều ơn cần thiết. Người hướng dẫn chúng ta đi sâu vào sự thông hiệp với Thiên
Chúa Ba Ngôi. [733-741, 747]
- Cả những lúc
trong suốt dọc lịch sử, Hội thánh nhiều khi tỏ ra “không biết rõ mình phải làm
gì”, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động dù biết bao lỗi lầm và thiếu sót của
con người. Hơn hai ngàn năm Hội thánh vẫn đứng vững và vô số các thánh ở mọi
thời, thuộc mọi nền văn hóa, chỉ ngần ấy thôi cũng là những bằng chứng cho biết
Chúa Thánh Thần vẫn luôn hiện diện. Chính Người duy trì toàn thể Hội thánh
trong sự thật, và dẫn dắt Hội thánh hiểu biết Thiên Chúa sâu sắc hơn. Chính
Chúa Thánh Thần hoạt động trong các Bí tích và làm cho Kinh thánh trở nên sống
động với ta. Ngày nay Người vẫn ban cho những ai mở rộng lòng với Người những
ân huệ của Người (→ Đặc sủng). → 203-206
Thánh Thần Chân lý sẽ dẫn chúng con đến sự
thật hoàn toàn. - Ga 16,12-13
Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng
bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến Người sẽ dẫn
anh em đến sự thật toàn vẹn. - Ga 16,12-13
120. Chúa Thánh Thần hoạt động thế nào
trong đời tôi?
- Chúa Thánh
Thần mở lòng tôi đón nhận Thiên Chúa. Người dạy tôi cầu nguyện, và giúp tôi
thực hành bác ái với tha nhân. [738-741]
- Theo thánh
Augustinô, Chúa Thánh Thần là vị khách thầm lặng của hồn tôi. Muốn cảm nghiệm
được Người có mặt, cần phải thinh lặng. Vị khách này thường tỏ mình ra một cách
rất êm đềm trong ta và với ta, qua tiếng lương tâm hoặc qua tiếng thúc giục bên
trong hay bên ngoài. Là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” có nghĩa là luôn có mặt
sẵn sàng cả hồn xác để tiếp đón vị khách là Thiên Chúa trong ta. Xác ta là như
nhà ở của Chúa. Ta càng mở rộng lòng cho Chúa Thánh Thần, Người càng trở nên
Thầy dạy ta sống và càng mau mắn ban các đặc sủng để xây dựng Hội Thánh. Nhờ đó
thay cho các công việc của xác thịt, các hoa quả của Thần Khí sẽ tăng trưởng. →
290-291, 293-297, 310-311
Các hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc,
bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. - Ga 5,22
Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng
rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa,
ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, rượu
chè, và những điều khác giống như vậy. - Ga 5,19-21
Chương 4:
"Tôi tin Hội thánh Công giáo"
121.
Hội Thánh nghĩa là gì?
- Từ “Hội
Thánh”, theo tiếng Hy lạp “ekklesia”, có nghĩa
là “cuộc tập họp của tất cả những người được triệu tập”. Những người đã
lãnh nhận bí tích Rửa tội và tin vào Thiên Chúa đều được Thiên Chúa triệu tập,
để cùng nhau chúng ta là Hội Thánh. Thánh Phao-lô đã nói, Chúa Kitô là Đầu của
Hội Thánh, còn chúng ta là thân thể của Người. [748-757]
- Khi ta lãnh
nhận các Bí tích và nghe Lời Chúa, Chúa Kitô ở trong ta và ta ở trong Chúa, đó
là Hội Thánh. Kinh Thánh không ngừng gợi lên cuộc sống cộng đồng thân mật giữa
các người được rửa tội với Chúa Giêsu bằng rất nhiều hình ảnh: khi thì Hội
thánh là mẹ, khi thì là gia đình của Chúa, Hội Thánh cũng được so sánh như
những khách dự tiệc cuới… Nhưng không được hiểu Hội Thánh như một thể chế thuần
tuý, “một Hội Thánh chức năng” để ta có thể lìa bỏ. Ta có thể bực mình vì những
lỗi lầm và những vết nhơ, nhưng không được bao giờ lìa bỏ Hội Thánh. Bởi vì
Chúa yêu thương Hội thánh không thể nào bỏ được và không bao giờ xa cách Hội
thánh mặc dầu có nhiều tội lỗi. Hội Thánh là sự có mặt của Chúa giữa loài
người. Đó là lý do ta phải yêu mến Hội Thánh.
Chúa Kitô là Đầu của Thân Thể, nghĩa là Đầu của
Hội Thánh. - Cl 1,18
Hội Thánh có nghĩa là “triệu tập”. - Cl 1,18
“Hội Thánh là
một bà già đầy những nhăn nheo. Nhưng Hội Thánh là mẹ tôi. Và người ta không
bao giờ đánh mẹ.” - Thần học gia Karl Rahner, SJ, khi nghe những chỉ trích
không thích hợp về Hội Thánh.
“Khả năng hiểu
biết của ta có hạn: vì thế sứ mệnh của Thánh Thần là dẫn dưa Hội Thánh một cách
luôn mới mẻ, từ thế hệ này qua thế hệ sau, vào tầm mức cao trọng của mầu nhiệm
Chúa Kitô.” - Đức Bênêđictô XVI, 7-5-2005
122. Tại sao Thiên Chúa muốn có Hội
Thánh?
- Bởi vì Thiên
Chúa không muốn cứu rỗi chúng ta cách riêng rẽ nhưng là tập thể. Người muốn tập
họp toàn thể nhân loại vào một dân duy nhất, đó là Hội Thánh. [758-781,
802-804]
- Không ai có
thể lên trời mà không cần người khác, Người chỉ nghĩ đến mình, chỉ lo cứu rỗi
riêng mình sẽ sống không cần người khác. Điều này không thể có được cả ở trên
trời cũng như dưới đất. Chính Thiên Chúa cũng cần người khác. Thiên Chúa không
sống cô độc, tự coi là đủ cho mình. Chính Thiên Chúa là Ba Ngôi, là một cộng
đồng, nên theo gương mẫu của Thiên Chúa, con người cũng được mời gọi để sống
tương quan, trao đổi, tham gia và yêu thương lẫn nhau. Chúng ta đều có trách
nhiệm đối với nhau.
Thiên Chúa nói với Cain: Abel em ngươi ở đâu?
Cain trả lời: Con không biết. Con có phải là người coi giữ em con đâu? - St 4,9
“Ta phải trở
nên thánh chung với nhau. Ta phải đến với Thiên Chúa chung với nhau, trình diện
trước Thiên Chúa chung với nhau. Ta không được gặp Thiên Chúa tốt lành người
này sau người kia. Thiên Chúa có thể nói tốt lành sao được nếu ta lại ra đi
người này không có người kia?” - Charles Péguy (1873–1914, thi sĩ Pháp)
123. Nhiệm vụ của Hội Thánh là gì?
- Nhiệm vụ của
Hội Thánh như Chúa Giêsu đã bắt đầu là mang hạt giống Nước Thiên Chúa gieo
trồng và làm sao cho hạt giống ấy được lớn lên phát triển trong mọi dân tộc.
[763-769, 774-776, 780]
- Ở đâu Chúa
Giêsu đi qua thì trời chạm tới đất: Nước Thiên Chúa tràn vào, một nước hòa bình
và công chính. Hội Thánh phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Hội Thánh không có cùng
đích là chính mình, mà phải theo đuổi những gì Chúa Giêsu đã bắt đầu. Hội Thánh
phải làm việc của mình. Hội Thánh nối dài các dấu hiệu thánh của Chúa Giêsu
(các bí tích). Hội Thánh thông truyền những Lời của Chúa Giêsu. Vì thế Hội
Thánh với các yếu đuối của mình là một mảnh trời ở trên trần gian.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh
em. - Ga 20,21
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho anh em. Và đây Thầy ở
cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. - Mt 28,19-20
124.
Tại sao Hội Thánh còn hơn là một tổ chức?
- Hội Thánh còn
hơn là một tổ chức bởi vì Hội Thánh là một mầu nhiệm, vừa nhân loại hữu hình,
vừa thần linh vô hình. [770-773, 779]
- Tình yêu chân
thật không làm ta mù quáng, nhưng sáng suốt. Cái nhìn của ta về Hội Thánh cũng
như vậy. Nhìn bên ngoài Hội thánh chỉ là một xã hội trong lịch sử, có những hậu
quả trong lịch sử như những lầm lạc, cả những tội ác nữa, một Hội thánh gồm các
tội nhân. Nhưng mà nhìn sâu xa hơn, Chúa Kitô lại tín nhiệm chúng ta là những
kẻ tội lỗi đến nỗi không bao giờ Chúa bỏ rơi Hội thánh, mặc dầu hàng ngày chúng
ta có thể phản bội Chúa. Sự hiệp nhất không thể tách rời giữa thần linh và nhân
loại, giữa tội lỗi và ân sủng, đó chính là bí nhiệm của Hội thánh. Theo con mắt
đức tin, chính ở chỗ đó mà Hội thánh bất diệt. → 132
“Hội Thánh
không thể xử sự như một xí nghiệp, thay đổi “cung” khi “cầu” xuống thấp.” -
Hồng y Karl Lehmann (1936, Giám mục Mayence)
125.
Dân Thiên Chúa có những đặc tính nào?
- Dân Thiên
Chúa có Chúa Cha là Đấng sáng lập, Chúa Giêsu Kitô là Đấng lãnh đạo và Chúa
Thánh Thần là nguồn sức mạnh. Bí tích Rửa Tội là cửa dẫn vào Dân Chúa. Phẩm
chất của Dân này là sự tự do của con cái Thiên Chúa. Luật của Dân Chúa là tình
yêu. Khi Dân Chúa trung thành với Người và ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa, họ
thay đổi được thế giới. [781-786]
- Trong các dân
tộc trên trái đất, có một dân mà không có dân nào khác giống họ. Dân ấy không
thần phục ai trừ một mình Thiên Chúa. Dân ấy như muối làm cho có vị ngon; như
men thấm nhuần vào tất cả; như ánh sáng xóa tan bóng tôi. Ai thuộc về Dân Chúa
phải biết rằng họ có thể phải công khai chống lại với những người từ chối là
không có Chúa và khinh rẻ điều răn của Chúa. Nhưng trong tự do của con cái
Chúa, họ không sợ gì hết, dù là chết đi nữa.
Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay
phản kháng. Như thế anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều
gì, và sẽ trở nên những con người vẹn
toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em
phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời. - Pl 2,14-15
“Họ không thể
làm gì hơn là giết tôi.” - Robert d’Arenberg (1898–1972, thành viên của nhóm
mưu sát chống Hitler, 20-7-1944)
126.
Nói Hội Thánh là "Thân thể của Chúa Kitô" nghĩa là gì?
- Nghĩa là khi
chúng ta hiệp nhất với Chúa Kitô nhờ các Bí tích Rửa Tội và Thánh Thể, chúng ta
được liên kết với Người không thể chia lìa. Sự liên kết này mạnh mẽ bền chặt
như thể đầu nối liền với các chi thể trong một thân thể vậy. [787-795] → 146,
175, 200, 208, 217
127.
Nói Hội Thánh là "Hiền thê Chúa Kitô" nghĩa là gì?
- Chúa Giêsu
Kitô yêu Hội Thánh như chàng rể yêu cô dâu. Người liên kết với Hội Thánh bằng
một giao ước vĩnh cửu, hiến mình cho Hội Thánh và không ngừng chăm sóc Hội
Thánh như chính Thân Thể mình (x. Ep 5,29). [796]
- Ai có kinh
nghiệm về yêu đương thì hiểu yêu là gì. Chúa Giêsu biết và tự coi mình như
chàng rể yêu cô dâu bằng tình yêu cháy bỏng và ước muốn cử hành lễ hội tình yêu
với Hội thánh là hiền thê của Người. Hiền thê của Người là chúng ta → Hội
Thánh. Ngay trong Cựu Ước tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người đã được so
sánh như tình yêu nam nữ. Nếu Chúa Giêsu ước muốn tình yêu của chúng ta thì
nhiều khi Người lại phải sống trong một tình yêu khốn khổ, vì có những người
không muốn điếm xỉa gì tới tình yêu của Người và không muốn đáp lại nữa.
“Yêu mến Chúa
Kitô và yêu mến Hội Thánh chỉ là một.” - Frère Roger Schutz
“Bạn nghĩ rằng
những yếu đuối của Hội Thánh khiến Chúa Kitô từ bỏ Hội Thánh sao? Từ bỏ Hội
Thánh sẽ là như từ bỏ chính thân thể mình vậy.” - Dom Helder Camara (1909–1999,
người Brazil ,
Giám mục của người nghèo)
128.
Nói Hội Thánh là "Đền thờ của Chúa Thánh Thần" nghĩa là gì?
- Trong lòng thế giới, Hội Thánh là nơi Chúa
Thánh Thần hiện diện. [797-801, 809]
- Dân Israel
thờ Thiên Chúa trong Đền thờ Giêrusalem. Đền thờ này không còn nữa. Hội Thánh
đã đến: Hội Thánh không bị trói buộc vào nơi nào rõ rệt. Quả thật, hễ hai hay
ba người tập họp nhân danh Thầy thì Thầy ở giữa họ (Mt 18,20). Hội Thánh có sự
sống là do Thánh Thần của Chúa Kitô ban cho: Người sống trong Lời Chúa, và có
mặt trong các dấu hiệu thánh là các Bí tích. Người sống trong lòng những người
tin và Người tự tỏ mình bằng lời cầu nguyện của họ. Người hướng dẫn họ và đổ
tràn đầy ân huệ của Người, ân huệ bình thường cũng như khác thường (Đặc sủng).
Cả ngày nay nữa, ai tin cậy vào Chúa Thánh Thần có thể thực hiện được các phép
lạ. → 113-120, 203-205, 310-311
Vì chính chúng ta là Đền thờ của Thiên Chúa
hằng sống, như lời Người phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ
là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Ta. - 2 Cr 6,16
“Có nhiều người
không nghĩ về việc Thiên Chúa sẽ dùng đến mình nếu mình sẵn sàng để cho Người
sử dụng.” - Thánh Inhaxiô Loyola (1491–1556, sáng lập Dòng Tên)
Tôi tin Hội
Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền
129.
Tại sao Hội Thánh có đặc tính là duy nhất?
- Cũng như chỉ có một Chúa Kitô, thì chỉ có thể
có một Thân Thể Chúa Kitô, có một Hiền Thê Chúa Kitô, và do đó, chỉ có một Hội
Thánh Chúa Kitô. Chúa Kitô là Đầu, Hội Thánh là Thân Thể. Tất cả hiệp thành
“Chúa Kitô toàn thể” (Thánh Augustinô). Giống như thân mình có nhiều chi thể,
nhưng chỉ là một. Cũng thế, Hội Thánh là duy nhất trong nhiều Hội Thánh địa
phương khác nhau. Nhưng tất cả hợp thành Chúa Kitô toàn thể. [811-816, 866,
870]
- Chúa Giêsu đã thiết lập Hội Thánh Người trên
các Tông đồ. Ngày nay cũng vậy, Hội Thánh cho đến bây giờ vẫn dựa trên nên móng
này. Dưới sự hướng dẫn của sứ vụ Thánh Phêrô “làm chủ theo tình yêu” (Thánh
Inhaxiô Antiôkia), đức tin của các Tông đồ được truyền lại trong Hội Thánh từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Cả các Bí tích mà Chúa Giêsu đã trao phó cho tập
đoàn các tông đồ, các bí tích đó tiếp tục tác động với sức mạnh có từ ban đầu.
Chỉ có một Thân Thể, một Thần Khí, cũng như
anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một
niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên
mọi người và trong mọi người. - Ep 4,4-6
“Với Hội Thánh
này [giáo đoàn ở Rôma] do có nguồn gốc tuyệt hảo hơn, nên toàn Hội Thánh nhất
thiết phải hòa hợp với nhau nghĩa là các tín hữu khắp nơi trong thế giới, vì
nơi Hội Thánh đó có duy trì truyền thống của các Tông đồ để lại.” - Thánh Irênê
ở Lyon
130.
Các Kitô hữu "không Công giáo" có là anh chị em với chúng ta
không?
- Tất cả những ai đã được Rửa tội đều thuộc về
Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô. Vì thế, những người đã được rửa tội, dù không
hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh Công giáo, họ cũng được gọi cách chính đáng
là Kitô hữu, và do đó họ là anh chị em với chúng ta. [817-819]
- Những đổ vỡ
trong Hội Thánh duy nhất của Chúa Kitô đều xuất phát từ những bóp méo giáo huấn
của Chúa Kitô, từ những lầm lỗi của con người và từ những thiếu sót trong ý
muốn hòa giải, nhất là nơi các vị hữu trách trong Hội Thánh. Ki tô hữu ngày nay
không chịu trách nhiệm về những chia rẽ trong lịch sử Hội Thánh. Tuy nhiên, vì
muốn cả nhân loại được cứu rỗi, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong các Hội
thánh và các cộng đồng đã ly khai khỏi Hội Thánh công giáo. Tất cả những ân
sủng sẵn có, như Kinh Thánh, các bí tích, đức tin, cậy, mến, và các đặc sủng
khác đều do Chúa Kitô mà đến. Ở đâu có Thánh Thần Chúa Kitô, ở đó có một năng
lực nội tại thúc đẩy phải “khôi phục lại sự hiệp nhất”, bởi vì ai thuộc về
Thánh Thần đều khao khát tập họp lại với nhau.
? Các Hội Thánh
và các cộng đồng Hội Thánh. Nhiều cộng đồng Kitô hữu khắp thế giới lấy tên là
Hội Thánh. Đối với người Công giáo, chỉ là Hội Thánh khi trong cộng đồng đó các
bí tích của Chúa Giêsu Kitô được duy trì nguyên vẹn. Điều này đúng với các cộng
đồng Chính thống và các Hội thánh Đông phương trước hết. Trong những cộng đồng
Hội Thánh phát xuất từ cuộc cải cách của Tin lành, các bí tích không được duy
trì nguyên vẹn.
131. Chúng ta phải làm gì cho việc hợp
nhất Kitô hữu?
- Trong lời nói và trong việc làm, chúng ta
phải theo ước muốn của Chúa Kitô được thể hiện rõ qua lời cầu xin của Người:
“Xin cho chúng nên một” (Ga 17, 21). [820-822]
- Dù trẻ hay
già, sự hiệp nhất của các Kitô hữu là công việc thuộc phận sự của tất cả các
Kitô hữu. Sự hiệp nhất là một trong những ước muốn nóng hổi nhất của Chúa
Giêsu. Người đã cầu nguyện Chúa Cha: Ước chi tất cả nên một… để thế giới tin
rằng Cha đã sai Con (Ga 17,21). Sự chia rẽ giống như những vết thương trong
thân thể Chúa Kitô, dẫn đưa đến chỗ thù nghịch nhau, làm suy yếu đức tin và suy
yếu lòng tin cậy của Ki tô hữu. Muốn loại bỏ gương xấu chia rẽ này mỗi người
phải sám hối, phải tìm hiểu sâu hơn đức tin của cộng đồng mình và những khác
biệt của cộng đồng khác. Và trên hết Ki tô hữu phải chung nhau cầu nguyện và
cùng cộng tác với nhau để phục vụ nhân loại. Còn các vị hữu trách của Hội thánh
thì không được ngừng nghỉ các cuộc đối thoại thần học.
Nói thế xong Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và
nói rằng: Lạy Cha giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha…
để tất cả nên một, như lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở
trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con. - Ga 17,1.21
? Đại kết là
những cố gắng tập họp tất cả các Hội Thánh Kitô giáo nên một.
132. Tại sao Hội Thánh có đặc tính là
Thánh Thiện?
- Hội Thánh là Thánh, không phải là tất cả các
thành phần của Hội Thánh đều thánh, nhưng vì Thiên Chúa chí thánh là nguồn gốc
của Hội Thánh, và Người hành động trong Hội Thánh. Mọi phần tử của Hội Thánh
được thánh hóa nhờ phép Rửa tội. [823-829]
- Mỗi khi ta để
cho Thiên Chúa Ba Ngôi hành động trong ta, tình yêu ta lớn lên, ta được thánh
hóa và chữa lành. Các thánh là những “người yêu”, không phải vì họ biết yêu hơn
những người khác, nhưng vì Thiên Chúa đã cảm hóa các ngài. Các ngài truyền lại
cho mọi người tình yêu các ngài đã nhận
từ Thiên Chúa; nhưng theo cách riêng của mình mà thường là độc đáo. Vì được
tiến tới gần Thiên Chúa, chính các ngài cũng thánh hóa Hội Thánh bởi vì các
ngài “sống trên trời” để nâng đỡ ta trên đường thánh thiện.
? Thánh thiện.
Đây là đặc tính cổ xưa nhất của Thiên Chúa, có nghĩa là thần thiêng, trong
trắng, xa cách trần tục, xa cách chuyện thường ngày. Thiên Chúa là Đấng “khác
tất cả”, là Đấng thánh của Israel
(Is 30,15). Chúa Giêsu đến thế gian như “ Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69).
Nhờ Người ta có thể thấy “thánh” nghĩa là: yêu bằng tình yêu vô bờ bến và đầy
thương xót, vừa nâng đỡ vừa cứu giúp vừa tìm cách nên hoàn thiện trong thập giá
và sống lại.
133. Tại sao Hội Thánh có đặc tính là
công giáo?
- Thuật ngữ
“công giáo” (tiếng Hy Lạp là Katholon) có nghĩa là mở ra cho tất cả. Hội Thánh
là Công giáo, vì Chúa Kitô kêu gọi Hội Thánh tuyên xưng toàn bộ đức tin, gìn
giữ đầy đủ các Bí tích để ban phát, và loan báo Tin Mừng cho mọi người. Chúa
Kitô sai Hội Thánh đi đến với mọi dân tộc ở mọi thời đại và thuộc mọi nền văn
hóa. [830-831, 849-856]
134. Ai thuộc về Hội Thánh Công giáo?
- Người hoàn
toàn thuộc về Hội thánh Công giáo là người: hợp nhất với Đức Giáo hoàng và các
Đức Giám mục; hợp nhất với Chúa Kitô qua việc tuyên xưng đức tin Công giáo và
lãnh nhận các Bí tích. [836-838]
- Thiên Chúa đã
muốn chỉ có Một Hội Thánh cho mọi người. Rủi thay Kitô hữu chúng ta lại không
trung thành tôn trọng ước mong đó của Chúa Kitô. Dẫu vậy, ta vẫn còn liên kết
sâu xa với nhau bởi đức tin và phép rửa tội chung.
Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Chúa Kitô
và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn
của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn. - Ep 1,22-23
135. Hội Thánh Công giáo có quan hệ nào
với dân Do Thái?
- Dân Do Thái là dân tộc được Thiên Chúa tuyển
chọn mà các ân huệ cũng như lời mời gọi của Thiên Chúa không thể bị hủy bỏ,
Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái không thể qua đi. Do đó, người Do Thái
là “anh cả” của Kitô hữu, vì Thiên Chúa đã yêu thương họ trước, và ngỏ lời với
họ trước. Chúa Giêsu, xét theo loài người, là người Do Thái, như thế Người gần
gũi với chúng ta. Và Hội Thánh tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa hằng
sống, như thế Người phân biệt với chúng ta. Nhưng cả hai bên cùng chờ đợi lần
đến cuối cùng của Đấng Mêssia, điều này làm cho ta với họ giống nhau. [839-840]
- Đức tin của
ta được ghép vào đức tin của Do thái. Kinh Thánh của Do Thái mà ta gọi là Cựu
Ước là phần thứ nhất của Kinh Thánh của chúng ta. Hình ảnh Do Thái và Kitô giáo
về con người mà luân lý được nặn đúc bởi mười điều răn là nền móng cho các thứ
dân chủ của Tây phương. Thật đáng tiếc là trong nhiều thế kỷ Kitô hữu đã không
muốn nhận là bà con gần với Do Thái giáo, và với những biện bạch giả tạo, họ đã
để lòng thù ghét đôi khi dữ dội với Do Thái giáo. Vì thế, Đức Gioan Phaolô II
đã công khai xin lỗi vào dịp Năm Thánh 2000. Công đồng Vatican II nói rõ ràng
là dân tộc Do Thái không phải chịu trách nhiệm tập thể về cái chết của Chúa
Giê-su trên thập giá. → 96-97, 335
Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ lề luật
Môsê hoặc lời các ngôn sứ: Thầy đến không phải là để bãi bỏ nhưng là để kiện
toàn. - Mt 5,17
“Đạo Do Thái
đối với ta không phải cái gì ở ngoài, nhưng một cách nào đó thuộc về trung tâm
của tôn giáo ta. Ta có với Do thái giáo những quan hệ mà ta không có chút nào
với các tôn giáo khác. Các bạn Do thái là anh cả của chúng ta một cách nào đó.”
- Đức Gioan Phaolô II thăm Hội đường Do Thái ở Rôma, 1986
136. Hội Thánh nhìn thế nào về những tôn
giáo khác?
- Hội Thánh tôn trọng tất cả những gì là tốt
lành và chân thật trong các tôn giáo khác. Hội Thánh thừa nhận mọi giá trị và
bênh vực cho quyền tự do tôn giáo được coi như quyền cơ bản của con người. Tuy
nhiên, Hội Thánh biết rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của cả nhân
loại. Chỉ mình Người "là con đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga
14,6). [841-845, 846-848]
- Người đang
kiếm tìm Thiên Chúa là bạn gần gũi với Kitô hữu; Các người Hồi giáo còn đặc
biệt hơn vì là thành phần trong nhóm bà con họ hàng, giống như Do thái giáo và
Kitô giáo, là một tôn giáo thờ một thần. Những người Hồi giáo thờ Thiên Chúa
tạo hóa và coi ông Abraham là tổ phụ của họ trong đức tin. Theo sách Coran,
Chúa Giêsu là một tiên tri lớn và đức Maria Mẹ Người là mẹ của tiên tri. Hội
thánh dạy rằng mọi người, không do lỗi của họ, mà đã không biết Chúa Kitô và
Hội thánh, nhưng thành thực tìm Chúa và
sống theo tiếng lương tâm, đều được cứu rỗi đời đời.Trái lại, ai đã biết Chúa
Giêsu Kitô là con đường, là sự thật và là sự sống mà không đi theo Người, người
đó sẽ không tìm được ơn cứu độ bởi các con đường nào khác. Câu nói “Ở ngoài Hội
thánh không có ơn cứu độ” có nghĩa như vậy.
? Tự do tôn
giáo là quyền của mọi người được theo lương tâm mình đã chọn hoặc thực hành tôn
giáo của mình, Thừa nhận tự do tôn giáo không có nghĩa là thừa nhận mọi tôn
giáo đều giống như nhau cũng như đều chân thật như nhau.
137.
Tại sao Hội Thánh có đặc tính là tông truyền?
- Hội Thánh là tông truyền vì Hội Thánh được
xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ. Hội Thánh nắm vững Truyền thống do các
ngài truyền lại, và Hội Thánh được cai quản bởi các đấng kế vị các Tông Đồ.
[857-860, 869, 877]
- Chúa Giêsu đã
kêu gọi các Tông đồ để làm cộng tác viên thân cận nhất của Người; các ông trở
thành những chứng nhân thấy tận mắt của Người. Sau khi Người sống lại, Người đã
hiện ra rất nhiều lần với các ông. Người đã ban Chúa Thánh Thần và sai các ông
đi như những người loan tin có đầy đủ quyền năng đến toàn thế giới. Trong Hội
thánh thời trẻ trung các ông là những người bảo đảm cho sự hiệp nhất. Các ông
dùng việc đặt tay để truyền lại sứ mệnh và quyền bính cho những người kế vị là
các giám mục. Điều mà các giám mục ngày nay thực hiện theo như các Tông đồ đã
làm, được gọi là sự nối tiếp các Tông đồ.
? Tông đồ có ý
chỉ người được sai đi, người loan tin. Tên của 12 Tông đồ là: Simon cũng gọi là
Phêrô người đứng đầu, Anrê anh của ông, Giuse con ông Dêbêđê và Gioan em của
ông; Philiphê và Batôlômêô, ông Tôma và ông Mathêu người thu thuế, ông Giacôbê
con ông Anphê và ông Tađêô; ông Simon thuộc nhóm quá khích và ông Giuđa
Itcariốt, chính là kẻ nộp Người (Mt 10,2-4).
? Sự nối tiếp
các tông đồ. Đi từ các tông đồ có các giám mục nối tiếp không ngừng trong sứ vụ
giám mục. Chúa Giêsu đã trao ban đầy đủ quyền năng cho các tông đồ. Việc này
được tiếp tục từ giám mục này sang giám mục khác bằng việc đặt tay và cầu
nguyện cho đến khi Chúa trở lại.
“Hội Thánh
không bao giờ bằng lòng với nhóm những người mà Hội Thánh đã thành công đạt
được vào một thời điểm, và nói rằng các nhóm khác rồi sẽ cũng như thế: Hồi
giáo, Ấn giáo và cứ như thế. Hội Thánh không thể nào rút lại cách dễ dàng vào
trong giới hạn lãnh vực riêng của mình. Hội Thánh có trách nhiệm quan tâm cách
phổ quát, Hội thánh phải lo lắng cho mọi người và về mọi sự.” - Đức Bênêđictô
XVI, 7-5-2006
138. Hội Thánh tổ chức thế nào để có 4
đặc tính: duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền?
- Trong Hội Thánh có sự phân biệt giữa các giáo
dân và giáo sĩ. Nhưng tất cả đều là con cái Thiên Chúa như nhau và có cùng một
phẩm giá. Tuy giáo sĩ và giáo dân có khác nhau, nhưng nhiệm vụ của họ có giá
trị như nhau. Nhiệm vụ của giáo dân là hướng dẫn cả thế giới tiến về Nước Thiên
Chúa. Cộng tác với họ là các thừa tác viên lãnh chức thánh, họ có nhiệm vụ cai
quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh. Trong hai bậc sống kể trên, còn có
những Kitô hữu được thánh hiến cách đặc biệt cho Thiên Chúa qua việc khấn giữ
các lời khuyên Phúc Âm: độc thân, nghèo khó, vâng phục, như trong các dòng tu.
[871-876, 934, 935]
- Mọi Kitô hữu
có bổn phận làm chứng cho Tin Mừng bằng đời sống riêng của mình. Nhưng mỗi
người bước đi với Chúa theo cách của mình. Có người Chúa trao sứ vụ làm giáo
dân để xây dựng Nước Thiên Chúa giữa thế giới bằng đời sống gia đình và nghề
nghiệp của mình : Người ban cho họ qua bí tích rửa tội và thêm sức tất cả các
ơn huệ của Chúa Thánh Thần mà họ cần đến. Có những người đã được thêm sức, Người
trao cho nhiệm vụ làm chủ chăn: họ phải điều khiển dân Chúa, giảng dạy và thánh
hóa dân Chúa. Không ai được mạnh dạn tự gán cho mình nhiệm vụ đó: Chính Chúa sẽ
ban cho họ nhờ bí tích truyền chức thánh, để thông truyền cho họ sức mạnh thần
linh giúp họ hành động nhân danh Chúa Kitô và cử hành các Bí tích.
? Giáo dân là
tình trạng chung của Kitô hữu trong Hội Thánh là thành phần của Dân Chúa do bí
tích rửa tội, nhưng không chịu chức thánh.
? Giáo sĩ là
tình trạng trong Hội Thánh của những người đã được chịu chức thánh.
139.
Ơn gọi của giáo dân là gì?
- Xuất phát từ
Bí tích Rửa Tội, người giáo dân có ơn gọi sống dấn thân trong đời sống xã hội
để làm cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh nơi trần thế. [877-913, 940-943]
- Giáo dân
không phải Kitô hữu hạng hai, vì cùng được tham dự chức tư tế của Chúa Kitô
(chức tư tế chung của người đã được rửa tội). Họ lo giúp những người chung
quanh mình (trường học, gia đình, nghề nghiệp) học biết Tin Mừng và yêu mến
Chúa Kitô. Họ làm cho xã hội, kinh tế, chính trị, được thấm nhuần đức tin. Họ
tham gia đời sống Hội thánh bằng thi hành chức vụ “cầm nến” và đọc sách, bằng
sinh hoạt nhóm, tham gia các ủy ban và tổ chức của Hội thánh, như Hội đồng giáo
xứ, Hội đồng mục vụ… Đặc biệt người trẻ phải nghiêm chỉnh suy nghĩ đến địa vị
mà Thiên Chúa muốn họ phải đảm nhiệm trong Hội thánh.
“Tôi được định
mệnh cho làm một người hoặc sự gì mà không ai khác được gọi để làm, tôi có một
chỗ trong chương trình của Thiên Chúa và trên trái đất của Người mà không ai
khác có được.” - Chân phước John Henry Newman
140.
Tại sao Hội Thánh của Chúa Kitô không là một tổ chức dân chủ?
- Dân chủ được
điều hành dựa trên nguyên tắc: "Mọi quyền lực từ người dân mà đến".
Trái lại trong Hội Thánh quyền bính xuất phát từ Chúa Kitô. Do đó, Hội Thánh có
một cơ cấu phẩm trật hoạt động theo văn hoá tập đoàn. [874-879]
- Yếu tố phẩm
trật trong Hội thánh có nghĩa là Chúa Giêsu là Đầu, Người hoạt động trong Hội
thánh, khi các thừa tác viên có chức thánh cử hành các bí tích nhân danh Người
và giáo huấn với quyền năng Người ban cho. Còn yếu tố tập đoàn trong Hội thánh
có nghĩa là Chúa Kitô đã trao phó toàn bộ đức tin cho cộng đồng các Tông đồ và
những đấng kế vị các Tông đồ quản trị, dưới quyền chủ trì của Đấng thi hành
chức vụ Người đã trao cho Thánh Phêrô. Theo phương thức tập đoàn này, các công
đồng chiếm địa vị hiển nhiên không bàn cãi trong Hội thánh. Tuy nhiên, các ơn
rất đa dạng của Thánh Thần và tính phổ quát của Hội thánh vẫn có thể sinh hoa
kết quả trong những hội đồng của Hội thánh, hoặc hội nghị và các hội họp khác.
? Phẩm trật là
cơ cấu hình kim tự tháp mà Chúa Kitô ban cho Hội Thánh, từ Chúa Kitô phát xuất
ra mọi quyền năng và uy thế.
141.
Nhiệm vụ của Đức Giáo hoàng là gì?
- Vì là đấng kế vị thánh Phêrô và đứng đầu Giám
mục đoàn, nên nhiệm vụ của Đức Giáo hoàng là bảo đảm cho sự hợp nhất của Hội
thánh. Ngài có quyền tối cao trong các vấn đề mục vụ của Hội thánh, và đối với
tất cả những quyết định liên quan đến tín lý và kỉ luật. [880-882, 936, 937]
- Chúa Giêsu
ban cho Thánh Phêrô quyền tối cao trên các Tông đồ, làm cho ngài cũng có quyền
bên trên Hội Thánh sơ khởi - Hội Thánh địa phương này do Phêrô cai quản, là nơi
mà ngài chịu tử đạo, và nơi mà sau khi ngài chết Hội thánh trẻ phải tham khảo:
tất cả các công đoàn phải đồng thuận với Rôma. Đó là tiêu chuẩn đúng của một
đức tin tông truyền, nguyên vẹn và đích thực. Đến ngày nay, tất cả giám mục ở
Rôma đều là chủ chăn tối cao của Hội thánh như thánh Phêrô, có Chúa Kitô là
đầu. Chỉ khi thi hành nhiệm vụ này mà Đức Giáo hoàng là “đại diện Chúa Kitô
trên trần gian”. Dựa vào uy quyền tối cao trong nhiệm vụ chăm sóc các linh hồn
và giáo lý, ngài phải lo thông truyền cách chính xác đức tin. Nếu cần ngài phải
rút lại những giáo huấn hoặc cất chức các thừa tác viên nào có lỗi nặng phạm
đến đức tin và luân lý. Sức mạnh và sự tỏa sáng của Hội thánh công giáo tùy
thuộc rất lớn vào sự hiệp nhất trong những vấn đề đức tin và luân lý, sự hiệp
nhất được đảm bảo nhờ huấn quyền mà Đức Giáo hoàng là thủ lĩnh. (Huấn quyền là
quyền giáo huấn trong Hội Thánh)
? Đức Giáo hoàng
là người kế vị Tông đồ Phêrô, làm giám mục ở Rôma. Vì Thánh Phêrô đã là người
đầu tiên trong các tông đồ, mà Đức Giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô, nên
có quyền chủ tọa tập đoàn các giám mục. Vì là thay mặt Chúa Kitô, Đức Giáo
hoàng là chủ chăn tối cao của Hội Thánh.
? Rôma. Cộng
đồng Hội Thánh ở Rôma ngay từ thời đầu đã được coi là Hội Thánh “rất lớn, rất
cổ, được mọi người biết đến, được hai vị tông đồ rất vinh hiển là thánh Phêrô
và Phaolô vừa thiết lập vừa cư ngụ ở Rôma... Rôma có nguồn gốc tuyệt hảo hơn,
nên tất cả Hội thánh nghĩa là các tín hữu khắp nơi phải nhất thiết đồng thuận
với Hội thánh Rôma, bởi vì nơi Hội Thánh này có gìn giữ truyền thống từ đời các
Tông đồ” Thánh Irênê ở Lyon (135-202). Việc hai vị Tông đồ còn chịu tử đạo ở
Rôma càng tăng thêm tầm quan trọng của cộng đồng Rôma.
142. Các Giám mục có thể hành động và
dạy dỗ những điều ngược với Giáo hoàng, còn Giáo hoàng có thể làm như vậy với
các Giám mục không?
- Các Giám mục chỉ có thể hành động và dạy dỗ
trong sự hiệp nhất với Đức Giáo hoàng, chứ không trái ngược. Về phần Đức Giáo
hoàng, trong một số trường hợp cụ thể, có thể đưa ra những quyết định không có
sự đồng ý của các Giám mục. [880-890]
- Tuy nhiên,
Đức Giáo hoàng bị ràng buộc trong các quyết định về đức tin của Hội Thánh:
“Những gì mà ở mọi thời, mọi nơi, và luôn được mọi người tin” (Thánh Vincent
Lérins) đều là cảm thức chung của Hội thánh bởi vì trong phạm vi đức tin, sự
xác tín của các Kitô hữu đều được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần.
? Giám mục -
người kế vị các Tông đồ. Ngài điều khiển một giáo phận (Hội Thánh địa phương).
Vì là thành viên của Giám mục đoàn và ở dưới quyền trách nhiệm của Đức Giáo
hoàng, ngài mang trách nhiệm với tất cả Hội Thánh.
? Linh mục cộng
tác viên của Giám mục để loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích. Linh mục thi
hành nhiệm vụ trong Hội thánh trong hiệp nhất với các linh mục khác, dưới sự
điều khiển của Giám mục.
143. Đức Giáo hoàng có ơn vô ngộ (không
thể sai lầm) thực không?
- Có. Nhưng
ngài chỉ bất khả ngộ khi ngài tuyên bố một điểm giáo thuyết về đức tin và luân
lý một cách long trọng từ ngai tòa (ex cathedra). Ơn bất khả ngộ của Đức Giáo
hoàng còn được thể hiện trong những quyết định của Giám mục đoàn hợp nhất với
Đức Giáo hoàng, nhất là khi các ngài họp Công đồng Chung, công bố một điểm giáo
lý có liên quan đến đức tin hoặc luân lý bằng một hành động dứt khoát.
[888-892]
- Ơn bất khả
ngộ của Đức Giáo hoàng không tuỳ thuộc vào luân lý toàn vẹn hoặc trí tuệ của
ngài. Thực ra Hội Thánh thì không sai lầm: Chúa Giêsu đã hứa ban Thánh Thần Đấng
gìn giữ và hướng dẫn Hội Thánh để Hội thánh càng ngày càng thấu hiểu sự thật.
Khi một chân lý đức tin hiển nhiên bỗng dưng bị chối bỏ hoặc giải nghĩa không
đúng, Hội Thánh phải dùng phương sách cuối cùng là nhờ một tiếng nói quả quyết
một cách dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Tiếng nói này là của Đức Giáo hoàng.
Vì là đấng kế vị Thánh Phêrô, và đứng đầu các Giám mục, chỉ mình ngài có quyền
xác quyết về chân lý bị tranh cãi là có phù hợp với truyền thống đức tin của
Hội Thánh, để chân lý đó được trình bày cho các tín hữu được “tin tưởng một
cách chắc chắn” trong mọi lúc. Người ta gọi là “Đức Giáo hoàng công bố tín
điều”. Nội dung một tín điều không bao giờ được trình bày điều gì “mới lạ”. Rất
ít khi có công bố tín điều: tín điều được công bố sau cùng là vào năm 1950, do
Đức Giáo hoàng Piô XII về việc Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác.
Chúa Thánh Thần sẽ dẫn các con tới sự thật
hoàn toàn. - Ga 16,13
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết anh là Phêrô
nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền
lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới
đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy, dưới đất anh tháo
cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. - Mt 16,18-19
? Cộng đồng
chung là cuộc họp của toàn thể các Giám mục công giáo trong Hội thánh toàn cầu.
Không nên lẫn lộn với “phong trào đại kết” là về việc hiệp nhất các Kitô hữu.
? Ex cathedra
có ý chỉ việc tuyên bố giáo lý không thể sai lầm của Đức Giáo hoàng.
? Tín điều một
điều buộc phải tin, chứa trong Kinh thánh và Thánh truyền, được công bố ex
cathedra như là mặc khải của Chúa.
“Cầu nguyên cho
tôi, để tôi học biết yêu mến luôn luôn đoàn chiên của Chúa là Hội thánh ngày
càng tốt hơn, yêu mỗi người và yêu tất cả anh em. Cầu nguyện cho tôi để tôi
không trốn chạy trước sói rừng. Xin hãy cầu nguyện cho nhau để Chúa mang vác
chúng ta và để nhờ Người chúng ta mang vác cho nhau.” - Đức Bênêđictô XVI,
24-7-2005
144. Nhiệm vụ của giám mục là gì?
- Các giám mục
có trách nhiệm tại Hội Thánh địa phương đã trao phó cho các ngài (địa phận), và
cùng chia sẻ trách nhiệm chung với toàn Hội thánh Công giáo. Giám mục thi hành
quyền bính của mình trong sự hiệp thông với các Giám mục khác, và cho lợi ích
của toàn Hội Thánh, dưới sự lãnh đạo của Đức Giáo hoàng. [886-887, 893-896,
938-939]
- Các giám mục
trước hết phải là các Tông đồ, các chứng nhân trung tín mà Chúa Giêsu đã đích
thân chọn để ở với Người và được Người sai đi. Như vậy các ngài đem Chúa Kitô
cho mọi người và đem mọi người đến với Chúa Kitô. Các Ngài thực hiện bằng giảng
dạy, cử hành các bí tích và quản trị Hội Thánh. Vì là đấng kế vị các Tông đồ,
Đức Giám mục thi hành phận sự dựa theo quyền tông truyền riêng của ngài; ngài
không phải người được ủy quyền hay phụ tá của Đức Giáo hoàng. Dẫu vậy, ngài
hành động trong hiệp thông với Đức Giáo hoàng và dưới quyền của Đức Giáo hoàng.
Người lập nhóm Mười Hai để các ông ở với Người
và để Người sai các ông đi rao giảng với quyền trừ quỷ. - Mc 3,14-15
Ai nghe anh em là nghe Thầy và ai khước từ anh
em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy. - Lc
10,16
145. Tại sao Chúa Giêsu muốn có những
Kitô hữu cam kết sống trọn đời trong bậc tu trì qua các lời khấn độc thân,
nghèo khó, vâng phục?
- Thiên Chúa là
Tình Yêu. Người cũng muốn chúng ta yêu Người, bằng cách dâng hiến trọn vẹn đời
sống và tình yêu cho Thiên Chúa như Chúa Giêsu, nghĩa là sống: độc thân, nghèo
khó, vâng phục. Những ai chọn lối sống này phải có trí óc, trái tim và đôi tay
tự do để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. [914-933, 944-945]
- Có những bạn
nam và nữ đã để Chúa Kitô hoàn toàn chinh phục mình, đến nỗi họ bỏ mọi sự vì
Chúa, và Nước Trời (Mt 19,12) - bỏ cả những quà tặng rất tốt đẹp như tài sản,
như quyền tự chủ, và tình yêu hôn nhân. Cuộc sống theo các Lời khuyên Phúc Âm
trong khó nghèo, trinh khiết và vâng phục chứng tỏ cho mọi Kitô hữu rằng thế
giới không phải là tất cả. Chỉ có sự “mặt đối mặt” với Chúa là hôn phu mới làm
con người hạnh phúc thật sự.
Chúa Giêsu đưa mắt nhìn người thanh niên và
đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, hãy đi bán
những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy
đến theo tôi." - Mc 10,21
? Lời khuyên
Phúc Âm: Sống khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục là những lời khuyên mà Tin Mừng
nêu lên để theo Chúa Kitô.
“Theo Chúa Kitô
luôn đòi hỏi phải can đảm lội ngược dòng.” - Đức Bênêđictô 17-5-2008
146.
Khi nói "Các thánh thông công" nghĩa là gì?
- Tất cả mọi
người, dù nam hay nữ, đặt trọn vẹn niềm hy vọng vào Chúa Kitô, và thuộc về
Người qua bí tích Rửa Tội, dù họ còn sống hay đã qua đời, đều được tham dự vào
“các thánh thông công”. Bởi vì, chúng ta chỉ là một thân thể trong Chúa Kitô,
chúng ta sống trong sự hiệp thông bao trùm cả trời và đất. [946-962]
- Các thánh
thông công nghĩa là mọi thành phần trong Hội thánh đều được cùng chia sẻ những
thực tại thánh như đức tin, các bí tích, các đặc sủng và ơn thiêng, kể cả những
của cải vật chất (Cv 4,32). Một ý nghĩa nữa đó là “sự hiệp thông giữa các người
thánh: một số đang lữ hành trên trần gian; một số khác đã từ giã cõi đời này
nhưng còn đang được thanh luyện và hưởng sự trợ giúp của những người khác; ý
nghĩa sau cùng là một số đang hưởng vinh quang trên trời và đang chuyển cầu cho
tất cả. Hội Thánh còn lớn hơn và sống động hơn là nghĩ tưởng. Thuộc về Hội
Thánh có những người đang sống hoặc đã chết - những người này hoặc đang chịu
thanh luyện hoặc đã hưởng vinh quang với Chúa - những người mà ta biết hoặc ta
không biết, những thánh lớn và những người bình thường. Vượt qua sự chết ta vẫn
có thể giúp ích cho nhau. Ta có thể kêu cầu vị thánh mà ta mang tên ngài, hoặc
vị thánh nào ta yêu thích hơn, nhưng cũng có thể người thân cận nào đã qua đời
mà ta tin rằng các ngài đã được về với Chúa. Và ngược lại, ta có thể cứu giúp
những người đã qua đời còn đang phải chịu thanh luyện bằng cách cầu nguyện cho
họ. Như vậy, những gì chúng ta làm hoặc phải chịu đựng vì và trong Chúa Kitô
đều đem lại lợi ích cho tất cả. Nhưng thông công còn có nghĩa khác là mỗi tội
lỗi đều gây tổn thương cho tất cả cộng đồng, tiếc thay. → 126
Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng
đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. - 1 Cr
12,26
“Đừng khóc, tôi
sẽ giúp ích cho anh em hơn sau khi tôi chết, tôi sẽ giúp đỡ anh em hiệu quả hơn
là khi tôi còn sống.” - Thánh Đaminh
147.
Tại sao Đức Maria lại có một chỗ cao vượt trong mầu nhiệm "Các
Thánh thông công"?
- Đức Maria là
Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu khi còn ở dưới thế và khi
lên trời, sự liên kết mật thiết này vẫn không ngừng. Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng,
và trong tình mẫu tử, Mẹ chắc chắn rất gần gũi với chúng ta. Mẹ đã được đón
tiếp về Trời cả hồn lẫn xác. [972]
- Bởi vì Đức
Maria đã dấn thân cả xác hồn trong một cuộc phiêu lưu liều lĩnh và nguy hiểm,
dù là có tính cách thần linh, Mẹ đã được đón nhận về trời cả xác lẫn hồn. Ai
sống và tin giống như Đức Maria thì được về trời.
“Chúng ta có
một Mẹ ở trên trời. Được sống trong Chúa và với Chúa, Mẹ gần gũi mỗi chúng ta,
hiểu biết nỗi lòng chúng ta, nghe lời cầu nguyện, giúp đỡ chúng ta như Mẹ nhân
lành, và như lời Chúa Giêsu nói, Mẹ được trao ban là Mẹ thật của chúng ta mà
chúng ta có thể nói với Mẹ mọi lúc.” - Đức Bênêđictô XVI 15-8-2005
“Thiên Chúa
không ban cho loài người một người tớ gái nhưng là một người mẹ.” - B. Adolf
Kolfring (1813-1865, linh mục Đức, tông đồ giới thợ và thủ công)
148.
Đức Mẹ có thực sự cứu giúp chúng ta không?
- Có. Từ thời
sơ khai, Hội Thánh đã có kinh nghiệm về sự trợ giúp của Đức Mẹ. Và trong suốt
dọc lịch sử của Hội Thánh, hàng triệu tín hữu đã làm chứng về sự cứu giúp của
Mẹ Maria. [967-970]
- Vì là Mẹ Chúa
Giêsu, Đức Maria cũng là Mẹ chúng ta. Một người mẹ tốt lành luôn bảo vệ con
mình. Đức Maria, Mẹ chúng ta còn hơn thế nữa. Ngay ở trần gian, Mẹ đã can thiệp
với Chúa Giêsu trong tiệc cưới Cana để đôi tân
hôn khỏi mất mặt. Mẹ đã ở với các môn đệ Chúa trong Nhà Tiệc Ly, dịp Lễ Ngũ
Tuần, để cùng chung cầu nguyện với họ. Vì tình yêu của Mẹ bao la, ta có thể tin
chắc Mẹ sẽ giúp ta trong hai lúc quan trọng nhất của cuộc đời ta; đó là “khi
nay và trong giờ lâm tử”. → 85
Khi thấy thiếu rượu, Mẹ Chúa Giêsu nói với
Người, "Họ hết rượu rồi". Chúa Giêsu đáp: "Thưa bà, chuyện đó
can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến. Mẹ Người nói với gia nhân,
"Người bảo gì, các anh cứ làm theo". - Ga 2,3-5
149.
Ta có được thờ kính Đức Maria không?
- Không. Chúng ta chỉ thờ một mình Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta có thể tôn kính Đức Maria cách đặc biệt, vì Người là Mẹ Đấng Cứu
Thế. [971]
- Thờ kính có
nghĩa là nhìn nhận cách khiêm tốn vô điều kiện quyền tối cao tuyệt đối của
Thiên Chúa trên mọi thụ tạo. Đức Maria
là một thụ tạo như ta. Người là Mẹ ta theo đức tin. Và ta phải thảo kính
cha mẹ, đó là Kinh thánh dạy. Và Đức Maria đã nói về mình rằng: Vâng từ nay mọi
thế hệ sẽ khen tôi có phước (Lc 1,48). Trong Hội thánh, việc tôn kính này được
diễn ra một cách độc đáo trong các trung tâm hành hương kính Đức Mẹ, trong các
lễ phụng vụ kính Mẹ Thiên Chúa và trong các kinh nguyện tôn kính Đức Mẹ, như
kinh Mân Côi, được xem là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng. → 353, 485
Chương
5: Tôi tin phép tha tội
150.
Hội Thánh Công giáo có thực sự tha tội được không?
- Có. Bởi vì không chỉ một mình Chúa Giêsu có
quyền tha tội, mà Người còn trao cho Hội thánh nhiệm vụ và quyền giải thoát con
người khỏi tội lỗi của họ. Chúa Giêsu đã cho linh mục tham gia vào quyền tha
tội của Người, nên linh mục có thể tha tội. [981-983, 986-987]
- Qua tác vụ
của linh mục, Thiên Chúa ban cho loài người ơn tha thứ và xóa bỏ mọi tội dường
như tội lỗi không có bao giờ. Một linh mục chỉ có thể thực hiện được việc đó vì
Chúa Giêsu đã cho tham dự vào quyền thần linh riêng tư của Chúa để tha tội. →
252, 239
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha;
anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ. - Ga 20,23
“Linh mục đã
nhận được nơi Thiên Chúa một quyền năng đầy đủ mà Thiên Chúa đã không ban cho
các thiên thần hay các tổng lãnh thiên thần. Thiên Chúa ở trên trời cao xác
nhận điều linh mục làm ở dưới thế.” -
Thánh Gioan Chrysostom
151.
Hội Thánh tha thứ tội lỗi như thế nào?
- Bí tích đầu
tiên và chính yếu để tha tội là Bí tích Rửa Tội. Sau khi lãnh Bí tích Rửa Tội,
đối với các tội nặng đã phạm, điều cần thiết để được tha thứ là phải chạy đến
với Bí tích Hoà Giải (Bí tích Thống Hối, Giải Tội). Đối với các tội nhẹ thì chỉ
khuyên xưng tội thôi. Việc đền tội phải tương xứng với tính chất trầm trọng của
tội đã phạm. Có thể đền tội bằng cách đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, ăn chay, và
làm các việc lành khác. [976-980, 984-987]
→ 226-239
“Tôi sẽ phải
bối rối nếu không có phép giải tội trong kín đáo.” - Martin Luther (1483–1546,
nhà cải cách Tin Lành Đức)
Tôi
tin xác loài người ngày sau sống lại
152.
Tại sao chúng ta tin người chết sẽ sống lại?
- Chúng ta tin kẻ chết sẽ sống lại vì Chúa
Giêsu đã phục sinh từ trong kẻ chết, Người sống luôn mãi, và Người làm cho
chúng ta tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Người. [988-991]
- Khi có ai qua đời, xác họ được chôn hoặc
thiêu. Nhưng ta tin rằng họ có một đời sống sau khi chết. Chúa Giêsu phục sinh
đã tỏ mình ra như Chúa của sự sống. Lời của Người đáng tin cậy: Tôi là sự sống
lại. Ai tin Tôi dù có chết vẫn sẽ sống (Ga 11,25b). → 103-108
Sao trong anh em có người lại nói: không có
chuyện kẻ chết sống lại? Nếu kẻ chết không sống lại thì Đức Kitô đã không chỗi
dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy thì lời rao giảng của chúng tôi trống
rỗng và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức
Kitô vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi
người. Nhưng không phải thế! Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho
những ai đã an giấc ngàn thu. - 1 Cr 15,12-14.19-20
153.
Tại sao ta tin "xác sẽ sống lại"?
- Thánh Kinh
khi nói về “thân xác” là muốn nhắm đến con người trong tình trạng mỏng giòn và
phải chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng không coi “thân xác” con người là thấp
hèn kém giá trị. Trong Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm, để
cứu chuộc loài người. Thiên Chúa cũng không chỉ cứu linh hồn con người, nhưng
Người cứu toàn bộ con người có hồn và xác. [988-991, 997-1001, 1015]
- Thiên Chúa đã
dựng nên con người có xác và hồn. Đến Tận thế Người sẽ không để cho “xác” nghĩa
là toàn thể thụ tạo vật chất rớt xuống như một đồ chơi cũ kỹ. Đến “ngày sau
hết” Người sẽ làm cho ta chỗi dậy như những vật có xác thịt – nghĩa là ta sẽ
được biến đổi, nhưng ta sẽ vẫn cảm thấy mình ở trong yếu tố của mình. Đối với
Chúa Giêsu cũng vậy, việc ở trong điều kiện có xác không phải chỉ trong một
giai đoạn. Khi Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, các môn đệ trông thấy các
vết thương ở xác Người.
Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm (có xác) và
cư ngụ giữa chúng ta. Ga 1,14
154.
Khi ta chết, xảy ra điều gì?
- Khi ta chết, hồn lìa xác, xác thối rữa, hồn
đến gặp Thiên Chúa, và chờ hợp nhất lại với xác vào ngày tận thế. [992-1004,
1016-1018]
- Xác ta sẽ
sống lại thế nào, đó là một mầu nhiệm. Một hình ảnh có thể giúp ta hiểu: khi ta
xem thấy củ của cây hoa tulip, ta không biết nó sẽ phát triển thành hoa rực rỡ
thế nào trong đất. Đối với ta cũng thế, ta cũng không biết gì về vẻ bề ngoài
tương lai của thân xác mới của ta. Thánh Phaolô quả quyết chắc chắn rằng: người
ta được gieo trong hèn hạ mà chỗi dậy thì vinh quang (1 Cr 15,43a)
Nhưng có người
sẽ nói, kẻ chết trỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? Đồ ngốc! Ngươi
gieo cái gì, cái ấy phải chết rồi mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là
hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một
thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý ngài muốn: giống nào
hình thể ấy. - 1 Cr 15,35
“Ngay thân xác
cũng có một chỗ nơi Thiên Chúa.” - Đức Bênêđictô XVI, 15-8-2005
“Tôi muốn thấy
Thiên Chúa và để thấy Thiên Chúa, tôi phải chết.” - Thánh Têrêsa Avila
155. Nếu ta trông cậy vào Chúa Kitô,
Người sẽ giúp ta thế nào vào lúc ta chết?
- Chúa Kitô sẽ tới gặp ta và đưa ta vào cuộc
sống đời đời. Thánh Têrêsa Hài đồng nói: "Không phải cái chết sẽ đến đón
tôi mà là chính Thiên Chúa". [1005-1014, 1016, 1019]
- Khi chiêm ngắm những đau khổ và cái chết của
Chúa Giêsu, đoạn nói về cái chết của Chúa có thể dễ hiểu hơn. Trong hành vi tin
cậy và yêu mến Chúa Cha, ta có thể “xin vâng” như Chúa Giêsu đã làm trong vườn
cây dầu. Loại thái độ này được gọi là “hiến dâng linh thiêng”. Người đang chết
kết hợp với cuộc hiến dâng của Chúa Kitô trên thập giá. Chết như vậy trong niềm
tin cậy nơi Chúa và trong bình an với mọi người, thì không có tội nặng, đó là
lên đường đi tới cộng đồng của Chúa Kitô phục sinh. Cái chết của ta làm ta rớt
xuống, nhưng ta rớt trong tay Chúa. Người chết không hành trình tới hư vô,
nhưng trở về nhà trong tình yêu của Đấng đã tạo dựng họ.
Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết
cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa. - Rm
14,8
“Tôi không
chết, tôi đi vào sự sống.” - Thánh Têrêsa Hài đồng (1873-1897, nhà thần bí và
tiến sĩ Hội Thánh)
Chương 6:
"Tôi tin hằng sống vậy"
156. Sự sống vĩnh hằng là gì?
- Sự Sống vĩnh
hằng đã khởi đầu khi ta lãnh Bí tích Rửa Tội. Nó tiếp tục sau khi chết và nó sẽ
vô cùng tận. [1020]
- Những người
yêu nhau có kinh nghiệm rằng: họ muốn cho chuyện tình của họ không ngừng lại
bao giờ. Thiên Chúa là tình yêu, thư thứ nhất của Thánh Gioan nói thế (1 Ga
4,16). Thư thứ nhất gửi Côrintô nói đức ái không bao giờ mất được (1 Cr 13,8).
Thiên Chúa thì vĩnh hằng vì Người là tình yêu và tình yêu thì vĩnh hằng bởi vì
tình yêu là thần thiêng. Khi ta sống trong tình yêu, là ta đi vào hiện tại vĩnh
viễn của Thiên Chúa.
Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em
đừng quên, đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày.
- 2 Pr 3,8
“Thời gian để
tìm Chúa, đó là sống. Thời gian để tìm được Chúa, đó là chết. Thời gian để có
được Chúa là đời đời.” - Thánh Phanxicô Salêsiô
157.
Chúng ta có phải chịu xét xử sau khi chết không?
- Có. Sau khi
chết, mỗi người tức khắc sẽ chịu cuộc xét xử. Cuộc xét xử này được gọi là cuộc
xét xử riêng. Còn đến ngày sau hết, sẽ xảy ra một cuộc xét xử được gọi là cuộc
xét xử chung, khi Chúa Kitô trở lại trong vinh quang của Người.
- Khi chết, mỗi
người đi tới giờ của sự thật. Lúc đó không gì có thể bị gạt đi và che giấu nữa.
Ta phải đối mặt với cuộc xét xử của Chúa, Đấng công nhận sự công chính của ta,
vì Thiên Chúa gần gũi ta, ta chỉ có thể hoặc là công chính như Chúa muốn khi
Người tạo dựng ta. Hoặc có thể ta cần phải qua một tiến trình thanh luyện
chăng, hoặc có thể ta được đón ngay vào vòng tay của Chúa chăng? Nhưng cũng có
thể ta đầy tội ác, hận thù, từ chối tất cả; ta sẽ từ chối vĩnh viễn bộ mặt của
Tình yêu, bộ mặt của Thiên Chúa.
? Xét xử. Việc
xét xử riêng hay cá nhân sẽ xảy ra lúc mỗi người chết. Việc xét xử chung tất cả
cũng gọi là xét xử sau cùng sẽ xảy ra khi tận thế lúc Chúa trở lại.
“Khi đời đã về
chiều, ta sẽ chịu xét xử về tình yêu của ta.” - Thánh Gioan Thánh giá
(1542-1591, nhà thần bí Tây ban nha, tiến sĩ Hội Thánh và thi sĩ)
158.
Trời là gì?
- Trời là thời
gian vô tận của tình yêu không bao giờ còn xa cách nữa giữa Thiên Chúa và lình
hồn đã yêu mến và tìm kiếm Người suốt đời. Được hiệp nhất với tất cả các thiên
thần và tất cả các thánh, linh hồn được vui hưởng hạnh phúc luôn luôn ở gần
Chúa và với Chúa. Trời là Thiên đường (xem câu 52, 109). [1023-1026, 1053]
- Đôi bạn trẻ
nhìn nhau với đôi mắt tình tứ, một em bé đang bú mẹ tìm đến cái nhìn của mẹ nó,
như muốn giữ gìn mỗi nụ cười đó mãi mãi… đó là những thí dụ có thể cho ta một ý
niệm nhỏ về trời hay thiên đường. Được nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt là như
thời gian độc nhất của tình yêu kéo dài đến vô tận. → 52
Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm
gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai
sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. - 1 Cr 13,12
“Một người có
thể mất hết của cải đời này trái với ý muốn của mình, nhưng không bao giờ họ
mất của cải đời đời nếu không hoàn toàn do ý muốn của mình.” - Thánh Augustinô
159.
Luyện ngục là gì?
- Luyên ngục thường được coi là một nơi, nhưng
đúng ra là một tình trạng của những người chết trong ơn nghĩa Chúa, đã được cứu
độ, nhưng còn cần thanh luyện trước khi họ có thể được xem thấy Thiên Chúa mặt
đối mặt. Đó chính là luyện ngục. [1030-1031]
- Khi Thánh
Phêrô chối Chúa Giêsu, Người quay lại và nhìn ông: “Và Phêrô đi ra khóc lóc một
cách cay đắng”, việc thánh Phêrô bày tỏ một tình cảm ăn năn như thế có thể có ở
luyện ngục. Một luyện ngục như thế chắc sẽ chờ đợi đa số chúng ta lúc chúng ta
chết: Chúa nhìn ta với cái nhìn yêu thương, và ta cảm thấy một tình cảm hổ thẹn
cháy bỏng và một hối hận đớn đau đối với việc ta đã làm điều ác hoặc đã có
những hành động chỉ “ thiếu” có tình yêu thôi. Chỉ sau khi chịu đau khổ để
thanh luyện như vậy ta mới có thể gặp được cái nhìn yêu thương trong niềm vui
vĩnh hằng mà không gì làm xáo trộn được.
Những công việc của mỗi người sẽ được phơi bày
ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Thiên Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy
tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người.
- 1 Cr 3,13
Vì thế, ông Giuđa Macabê đã làm việc đền tội
cho người đã chết, để họ được tha thứ tội lỗi. - 2 Mcb 12,45
160.
Ta có thể giúp được các linh hồn ở Luyện ngục không?
- Có, vì tất cả những ai đã được rửa tội trong
Chúa Kitô đều được tham dự vào việc “các thánh thông công” và họ liên đới với
nhau. Những người còn sống có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục. [1032]
- Bởi vì khi chết rồi con người không thể làm
gì cho chính mình nữa, thời gian thử luyện đã qua rồi. Nhưng khi ta còn sống,
ta có thể làm được việc gì đó giúp họ, vì tình yêu của ta vẫn hoạt động vươn
tới cả đời sau, chẳng hạn ăn chay, cầu nguyện, làm các việc lành, nhất là dâng
thánh lễ để xin ơn cho họ. → 146
“Bạn đừng ngại
ngùng cứu giúp những người đã ra đi và dâng lời cầu nguyện cho họ.” - Thánh
Gioan Kim Khẩu
161.
Hoả ngục là gì?
- Hoả ngục là tình trạng xa lìa đời đời với
Thiên Chúa, thiếu vắng tình yêu cách tuyệt đối. [1033-1037]
- Ai chết trong tình trạng đã phạm tội nặng do
biết rõ và cố tình mà không ăn năn hối cải, ai từ bỏ đến muôn đời tình yêu hay
thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, người đó tự loại bỏ mình ra khỏi sự hiệp
thông với Thiên Chúa và các Thánh. Có thể có ai lúc chết được nhìn ngắm tình
yêu tuyệt đối ở trước mặt mà cứ nhất định bỏ không? Ta không biết. Nhưng vì ta
có tự do, nên có thể có. Chúa Giêsu luôn ngăn ngừa chúng ta đừng có dứt khoát
chia ly với Chúa bằng cách không quan tâm gì đến những khốn khổ của anh chị em
chúng ta. Chúa nói với mọi người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi
đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời… vì xưa Ta đói các ngươi đã không cho
ăn… Ta bảo thật mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người
bé mọn nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 41.45). →
53
Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó
đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa
hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. -
Mc 9,43
Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết.
Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết không kẻ sát nhân
nào có sự sống đời đời ở lại trong mình nó. - Ga 3,14-15
“Tôi tự hỏi:
“Hoả ngục là gì?”. Tôi quả quyết rằng: là không thể yêu thương được.” - Fedor
Dostoievski, 1821–1881, văn sĩ Nga)
162.
Nếu Thiên Chúa là Tình Yêu thì sao lại có Hoả ngục?
- Không phải
Thiên Chúa kết án con người vào hỏa ngục mà chính con người là kẻ tự kết án
mình khi gạt bỏ tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Họ tự tước mất cuộc sống
vĩnh cửu khi chính họ tự ý loại mình ra khỏi sự thông hiệp với Thiên Chúa.
[1036-1037]
- Thiên Chúa
ước ao sống hiệp thông ngay cả với tội nhân cuối cùng. Người muốn mọi người ăn
năn trở lại và được cứu rỗi. Nhưng Thiên Chúa đã dựng nên con người được tự do,
và Người tôn trọng quyết định của họ. Chính Thiên Chúa không thể ép buộc ai yêu
mến. Thiên Chúa không kết án con người. Thiên Chúa là tình yêu phải chịu đầu
hàng “những ai chọn hỏa ngục hơn là Thiên đàng”. → 51, 53
Thiên Chúa không chậm trễ thực hiện lời hứa,
như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với anh em, vì
Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn
năn hối cải. - 2 Pr 3,9
Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và
nhận biết chân lý. - 1 Tm 2,4
“Thiên Chúa
nhân lành vô cùng sẽ không bao giờ loại bỏ những ai không muốn loại bỏ Người.”
- Thánh Phanxicô Salêsiô
163.
Sự xét xử cuối cùng (phán xét chung) là gì?
- Phán xét cuối
cùng sẽ diễn ra vào lúc tận thế, lúc Chúa Kitô đến lần thứ hai. "Mọi kẻ ở
trong mồ sẽ nghe tiếng Người và bước ra. Những kẻ đã làm việc lành, sẽ sống lại
để hưởng Sự Sống đời đời. Những kẻ đã
làm ác, sẽ sống lại để chịu phán xét" (Ga 5, 29). [1038-1041, 1058-1059]
- Khi Chúa Kitô
trở lại trong vinh quang, Người sẽ tỏa sáng trên ta; chân lý sẽ xuất hiện sáng
trưng: Tư tưởng, hành động, mối quan hệ giữa ta với Thiên Chúa, với người khác,
sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Lúc đó ta sẽ biết rõ ý nghĩa cuối cùng của cuộc
sáng tạo trời đất muôn vật, và hiểu rõ những phương thế tuyệt vời Thiên Chúa đã
dùng để cứu ta. Sau hết lúc đó ta sẽ trả lời được câu hỏi hằng được lặp đi lặp
lại rằng: quả thực Thiên Chúa là toàn năng thế mà sao sự dữ lại có sức mạnh quá
lẽ như vậy? Phán xét chung thực sự là phán xét cuối cùng đối với ta. Chính lúc
này sẽ định đoạt cho ta hoặc sẽ sống lại để sống vĩnh hằng hoặc phải lìa xa
Chúa muôn đời. Đối với những ai đã chọn sự sống, Thiên Chúa sẽ lại dẫn đưa họ
như Đấng tạo hóa: trong “một thân xác mới” (2 Cr 5,1), họ sẽ sống muôn đời
trong vinh quang của Chúa và ca tụng Người với cả xác hồn. → 110-112, 157
Khi con người đến trong vinh quang của Người,
có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của
Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập họp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt
họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê… Thế là họ ra đi để chịu cực
hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời. -
Mt 25,31-32,46
164.
Thế giới sẽ tận cùng thế nào?
- Khi tận thế,
Thiên Chúa sẽ tạo dựng một trời mới đất mới. Sự dữ sẽ không còn quyền lực hay
quyến rũ nữa. Những ai được cứu rỗi sẽ chiêm ngưỡng Thiên Chúa mặt đối mặt như
bạn hữu của Người. Niềm ước mong hòa bình và công lý của họ sẽ được thỏa mãn.
Hạnh phúc của họ là được chiêm ngắm Chúa. Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ ở giữa họ, sẽ
lau khô mọi giọt lệ trên mắt họ: sự chết sẽ không còn nữa, và cũng không còn
tang chế, khóc lóc, và đau khổ nữa. [1042-1050, 1060] → 110-112
Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không
còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ
đã biến mất. Đấng ngự trên ngai phán: Này đây Ta đổi mới mọi sự. Rồi Người
phán: Ngươi hãy viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật. - Kh 21.4-5
165.
Tại sao chúng ta đọc "Amen" vào cuối Kinh Tin Kính?
- Chúng ta kết thúc kinh Tin Kính bằng từ Amen.
Từ này theo tiếng Do Thái có nghĩa là “thưa vâng”, bởi vì Thiên Chúa mời gọi
chúng ta trở thành nhân chứng đức tin. Ai nói Amen là vui sướng và tự do tán
thành công việc tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa, Amen cũng là tin tưởng
chắc chắn, trông cậy và trung thành. [1061-1065]
- Theo tiếng Hipri, từ Amen có ý nghĩa vừa là
“tin” vừa là “tin chắc, tin cậy và trung thành”. “Ai nói Amen là ký tên xác
nhận” (Thánh Augustinô). Ta chỉ có thể công bố Amen không chút nghi ngại chỉ vì
Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho ta biết bằng cái chết và sự sống lại của Người rằng:
Người là đấng trung thành, và đáng tin cậy. Người là “Amen” của loài người đối
với tất cả những lời Thiên Chúa hứa, Người cũng là “Amen” dứt khoát của Thiên
Chúa với mọi người chúng ta. → 527
Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là
“có” nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn vinh
Thiên Chúa. - 2 Cr 1,20
? Amen được
dùng trong Cựu Ước với ý nghĩa chính là “mong được như vậy”, để làm cho mong
ước hoạt động của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn, hoặc để liên kết với lời ca tụng
Thiên Chúa. Trong Tân Ước, Amen được dùng để tăng cường cho kết luận của lời
cầu nguyện. Thường Chúa Giêsu dùng Amen cách đặc biệt để dẫn vào một lời nói
quan trọng. Amen ở đây làm nổi uy thế của lời nói.
Lm. Antôn Nguyễn Mạnh Đồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét