Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

GLPÂ CN XXVII TN. A CHÚA NHẬT XXVII QUANH NĂM, NĂM A

Chúa Nhật 27 Quanh Năm Năm A
(Phần II)


GLPÂ CN XXVII TN. A
CHÚA NHẬT XXVII QUANH NĂM, NĂM A
Sách Tiên Tri Isaia 5.1-7; Thư Thánh Phaolô Tông Đồ gửi Philipphê 4.6-9
và Phúc Âm Thánh Matthêu 21.33 - 43

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc vườn nho Chúa. Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc dân Chúa chọn. Vườn nho Chúa vừa là chính Dân Thiên chúa và cũng vừa là vương quốc Chúa được trao phó cho dân Do Thái để mang hoa trái cho nước Chúa.
Hoa trái cần thu hoạch. Nhưng tá điền, những người đang hưởng lợi tức của vườn nho lại đang tâm phản bội muốn chiếm lấy vườn nho và khai thác cho tư lợi riêng mình.
Tá điền bất trung nhận lãnh hậu quả xấu: Chủ vườn thu hồi vườn nho, trao lại cho những tá điền mới, những người mang lợi cho vườn nho nước Chúa.
Dân Do Thái là những tá điền bất trung. Vườn nho Chúa bị thu hồi và giao cho tá điền mới là chúng ta.
II.        Vấn nạn P.Â.                                                              
Vườn nho trong Kinh Thánh có ý nghĩa gì?
            Dân Do Thái, dân Chúa chọn là chính vườn nho Chúa. Được Chúa yêu thương, chăm sóc và dành cho mọi cơ hội để phát triển. Bài đọc I hôm nay, sách tiên tri Isaia là một mô tả rõ ràng về tình yêu thương Chúa dành cho Dân Do Thái cũng như sự phản bội mà Dân Do Thái đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vườn nho trong Kinh Thánh là chính Chúa.  Phúc Âm của Thánh Matthêu trong hai Chúa Nhật vừa qua đều ví “Nước trời giống như… chủ nhà từ sáng sớm ra đi mướn thợ làm vườn nho mình trong chúa Nhật 25 quanh năm. Hay “Nước trời giống như người Cha nhờ hai con trai đi làm vườn nho,  người trả lời không làm thì đi làm. Người trả lời sẵn sang đi làm thì lại không làm..”

Nước trởi là chính Chúa, là chính Ông Trời. Giáo Hội là hiện thân của chính Chúa. Chúa được so sánh như vườn nho. Có nho mới có rượu. Rượu được coi như thức uống ban sinh lực. Chúa chính là sinh lực của con người. Trong Tân Ước Chúa cũng so sánh Ngài chính là rượu nho mới trong Nước Thiên Chúa, như trong Matthêu 26.29. Vườn nho chính là Giáo Hội, là cộng đoàn Dân Chúa mà mỗi Kitô hữu có bổn phận phải là thành viên tích cực và làm cho vườn nho mình phát triển. Bài Phúc Âm Chúa Nhật 25 nói về lời mời gọi gia nhập Giáo Hội Chúa, mỗi người được mời gọi vào những thời điểm khác nhau, nhưng rồi cũng sẽ được Nước Chúa làm phần gia nghiệp.

Vườn nho Giáo Hội có nhiều thay đổi
Nếu so sánh Giáo Hội Chúa Giêsu thiết lập như một vườn nho, chúng ta thấy có nhiều yếu tố thay đổi đáng suy nghĩ:

Vườn nho Giáo Hội Chúa mỗi ngày thêm lớn rộng và sinh hoa kết trái thật sum xuê. Giáo Hội Chúa bắt đầu với 12 tông đồ nghèo nàn và thất học. Nhưng họ được trao trách nhiệm phải thành những cây nho sai trái. Nhiều cây nho sai trái sẽ làm thành một Giáo Hội phát triển không ngừng. Vườn nho Giáo Hội Chúa tăng sức lớn vượt bực. Tuy nhiên nó cũng bị thử thách và bị thanh lọc và cắt tỉa qua nhiều cuộc bách hại thật khủng khiếp trong lịch sử Giáo Hội. Ngay chính Giáo Hội Việt Nam nhỏ bé cũng phải đương đầu với nhiều thử thách và hàng trăm ngàn người chết vì đạo.

Vườn nho Giáo Hội phát triển, bị thức thách không chỉ do những thế lực chính trị bách hại nhưng còn do chính nội bộ của Giáo Hội phân rẽ và làm cho thân thể Chúa Kitô, cho vườn nho Giáo Hội bị chia cắt và phân hoá ra nhiều hệ phái. Vườn nho Giáo Hội Chúa được chuyển đổi từ mạnh sang yếu hay ngược lại từ yếu sang mạnh tuỳ theo hoàn cảnh sinh hoạt của xã hội trần thế. Ngày xưa, Âu Châu được kể như thế giới Kitô giáo. Người ta thấy nhà thờ khắp nơi. Người ta thấy trường học công giáo mọi chỗ. Người ta thấy giáo sĩ, tu sĩ trên khắp các đường phố và khu xóm và người ta cũng thấy ảnh hưởng lớn lao của Giáo Hội trên từng cá nhân và từng xã hội. Ai sinh ra cũng phải được rửa tội.

Nhưng ngày nay, bóng thánh giá không còn nhan nhãn. Những tháp giáo đường cao không còn nhiều. Những ngôi thánh đường đồ sộ vắng bóng người tham dự thánh lễ… Nhiều và còn nhiều nữa những thứ mà người ta gọi là đang đi xuống. Tuy nhiên sự phồn thịnh Kitô giáo ở Âu Châu giờ đây nhường chỗ cho Á Châu và Phi Châu. Ở Việt Nam dường khư không cần kêu gọi đi tu làm linh mục hay tu sĩ, vì có quá nhiều ơn gọi tu trì. Một địa phận trung bình thôi, cũng có thể có 200 nữ tu Mến Thánh Giá địa phận. Chủng sinh phải đợi nhiều năm mới có thể được nhận vào chủng viện…

Vườn nho Giáo Hội luôn được chính Chúa là chủ vườn nho xây rào giậu chung quanh và gìn giữ cẩn thật. Nhiều người thấy có quá nhiều cơ cấu tổ chức trong Giáo Hội. Có nhiều người hoang mang về những lập trường không Công Giáo trong Giáo Hội. Có nhiều người lo ngại về những chủ trương “quốc doanh” Giáo Hội hay Giáo Hội tự trị… Khó khăn không ít. Nhưng vườn nho Giáo Hội luôn có tháp canh và Chúa chính là người gìn giữ vườn nho của Ngài.

Hãy yêu vườn nho Giáo Hội và tích cực xây dựng nó.
Những tá điền bất trung trong dụ ngôn vườn nho ám chỉ người Do Thái, những người giữ đạo Cựu Ước. Họ được may mắn sống trong Vườn Nho Chúa. Họ được Chúa gìn giữ và chăm sóc. Nhưng họ lại muốn chiếm đoạt vườn nho của Ông chủ. Họ nghĩ rằng: Họ có thể tự lãnh đạo và phát triển vườn nho theo lợi ích cá nhân của họ. Tuy nhiên, Chủ vườn luôn theo dõi từ tháp canh. Nếu tá điền bất trung. Vườn nho sẽ bị lấy lại và giao cho người khác.

Lịch sử Kitô giáo đã chứng minh điều đó. Người da trắng Âu Châu ngày nay càng ngày càng lệ thuộc vào sự làm việc và truyền giáo của các giáo sĩ người da màu đến từ Á Châu hay Phi Châu. Cách nào đó, họ đả quên bổn phận vun trồng vườn nho Chúa. Cách nào đó, họ phản bội tỉnh yêu thương chăm sóc của Chúa. Chúa là chủ vườn nho. Chúa thành lập Giáo Hội. Chắc chắn Chúa phải yêu Giáo Hội. Chắc chắn Chúa không để người ta làm hại vườn nho Giáo Hội Chúa.Hãy yêu Giáo Hội và tìm cách làm Giáo Hội phát triển dưới sự hướng dẫn của Chúa.

III.      Thực hành P.Â.:
Chúa lo cho Giáo Hội của Ngài qua những mục tử biết sống chết vì vườn nho Chúa: Gương Cha Phanxicô Trương bửu Diệp.

Nhân chứng sống:
Đôminicô Nguyễn văn Đức và Mẹ Ông, Bà Huỳnh thị Tú.
            Chủ Chí: Cách nay nhiều chục năm, vùng đất nầy thuộc ông Cả Chí, từ đó có địa danh Chủ Chí. Chủ Chí năm cách Hộ Phòng về phía Ngã Năm Thạnh Trị chừng 15 cây số đường xe. Nhà thờ cũ đã bị phá sập. Nền nhà thờ cũ bây giờ không còn dấu vết, dân cư đã xây cất nhà trên đó. Nhà thờ mới đang trong chương rình xây dựng trên phần đất mới.

Phỏng vấn Ông Đôminicô Nguyễn văn Đức:
            Sinh năm 1936 và Ông cho biết “được Cha Diệp Rửa Tội năm 1945” Tuy nhiên, không tìm thấy bút tích Rửa Tội trong số 1643 người do Cha Phanxicô rửa tội trong 16 năm ở Tắc Sậy. Ông Đức kể rằng: Cha Diệp vô nhà thờ Chủ Chí làm lễ hàng tháng hay đôi ba tuần một lần. Cha đến ăn uống và ngủ lại nhà ông hiện đang ở bây giờ là của Cha Mẹ Ông là Ông Lễ và Bà Tú.

            Ông Muời Thính là cận vệ của tướng Cao Đài trong vùng là Cao Triều Phát kể cho Ông nghe nhiều lần rằng:  Không phải Cao Đài hay Việt Minh giết Cha Diệp mà là hai tên lình Nhựt bị giải giáp và nhập vào phe Ông Cao Triều Phát. Hai tên nầy mang tên Cao Triều Thắng và Cao Triều Ngươn. Còn một tên nữa không biết tên. Thắng và Ngươn rất hung dữ và thù ghét Pháp vô cùng. Thấy Cha Diệp tới lui với Pháp, hai tên nầy trả thù bằng cách bày chuyện dẫn linh cao đài của Cao Triều Phát đi lùa Cha Diệp và giáo dân nhốt vào lẫm lùa của Ông Châu văn Sự ở Cây Gừa và chém Cha rồi xô xuống ao gần bên. Ông Cao Triều Phát nghe tin và nghĩ rằng: Ông đã nuôi ong tay áo, hai tên Nhật nầy nếu giết người khác dễ dàng như thế thì có lúc cũng sẽ phản bội và giết Ông chăng? Nên Ông đã lập mưu cho người giết hai tên Nhật mang tên Thắng và Ngươn nầy. Tên lính Nhật còn lại ông âm thầm thanh toán sau.

Bà Huỳnh thị Tú sinh năm 1905
            Bà không nhớ nhiều chi tiết về cuộc đời Cha Fx. Trương Bửu Diệp. Bà khóc khi nhắc đến Cha và tình thương của Cha. Bà nói “mọi chuyện đều do Cha lo: áo trằng mặc khi rửa tội hay khi rước lễ thường, khăn tang hay hòm chôn người chết… cha đều lo cho dân nghèo. Cha dạy giữ lửa bằng cách lấy trái ổi non, phơi khô, đốt lên rôi bỏ trong lon đậy kín lại, một tuần sau vẫn còn than đỏ.  Bà Huỳnh thị Tú cho chúng ta hình ảnh xác thực về Cha Fx. Như một mục tử nhân lành: lo lắng và sống chết với đàn chiên.

Có tháp canh
            Nhiều khi chúng ta chứng kiến có quá nhiều tiêu cực xảy ra trong Giáo Hội: ít người sống đức tin, có những chủ trương chia rẽ đòi tự trị trong Giáo Hội, có những người không phục tùng Đức Giáo Hoàng…Người ta nghĩ đến một ngày nào đó trong tương lai gần, Giáo Hội Chúa sẽ bị thao túng và bị quỉ hoả ngục phá đổ. Phúc Âm hôm nay nói: Chủ vườn làm rào giậu và đặt tháp canh… Chúa chăm sóc cẩn thận Vườn nho Giáo Hội của Ngài. Bằng chứng là Ngải đã gửi những trung gian đến để giáo huấn và chăn sóc vườn nho. Ngài còn gửi Con yêu dầu của Ngài đến…Những chi tiết nầy làm cho tôi thật an tâm trước những biến cố tiêu cực hay nguy hiểm xảy ra trong Giáo Hội.

            Tôi không chủ trương: Để mặc cho Giáo Hội hay những người có trách nhiệm trong Giáo Hội muốn làm gì tuỳ tiện. Không! Chỉ xin góp phần theo khả năng của mình để xây dựng Giáo Hội và luôn xác tín là: Mình chỉ là một dụng cụ hèn mọn trong việc làm vườn nho Chúa. Có mình hay không có mình, Giáo Hội vẫn trường tồn. Đừng có ai vỗ ngực xưng tên rằng: Không có tôi thì làm sao Giáo xứ hay nhà thờ nầy được như ngày nay!  Chúa đang canh chừng, gìn giữ và chăm sóc Giáo Hội Ngài. Hãy sống trong Giáo Hội với tin, cậy và yêu thương.

Lm Phêrô Trần Thế Tuyên


Thợ vườn nho
Dụ ngôn những thợ vườn nho phản loạn thuộc vào loại các dụ ngôn Chúa dùng để tỏ lộ thân thế của Ngài là Đấng Thiên Sai. Dụ ngôn này cũng cho thấy sự cô đơn bi thảm của Chúa Giêsu, khi bị dân Ngài loại bỏ.
Như thường lệ Chúa Giêsu cấu tạo dụ ngôn từ các thực tại mà Ngài nghe thấy trước mắt. Trong xứ Galilêa thời ấy, những điền chủ bỏ tiền vào việc trồng nho. Họ giao cho thợ làm vườn nho trông coi rồi trả lương. Đôi khi họ đi vắng xa, chẳng hạn như ra nước ngoài, và để quan lý mùa màng, họ sai những đầy tớ đến với những người thợ làm vườn. Theo luật Do Thái, nếu chủ một thửa đất chết đi mà không có người thừa kế, thì thửa đất ấy sẽ thuộc về người nào chiếm ngụ đầu tiên. Điều này làm cho chúng ta hiểu được lý luận của các thợ làm vườn nho: Đứa con thừa tự đây rồi, nào hãy giết nó đi và chúng ta sẽ chiếm được gia tài của nó. Quả thực, người con thừa tự mà chết, đất sẽ thành vô chủ và thuộc quyền những kẻ cư ngụ.
Qua dụ ngôn này và qua đoạn kế tiếp với hình ảnh viên đá góc bị thợ xây loại bỏ, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: Chính Ngài là người con bị bọn thợ làm vườn nho giết đi, chính Ngài là viên đá góc bị thợ xây loại bỏ.
Một cách quyết liệt, dụ ngôn đã đưa ra câu hỏi sau đây: Làm sao giới hữu trách của dân Do Thái lại đi tới chỗ loại bỏ Đấng thiên sai? Tôi xin thưa vì họ đã buông thả theo bản năng chiếm hữu của họ. Chủ vườn nho là Thiên Chúa, thủ lãnh duy nhất của họ. Thế nhưng tinh thần chiếm hữu của họ hệ tại việc áp đặt quan niệm riêng của họ về lề luật. Họ dùng lề luật để thống trị dân, họ còn có cao vọng dùng dân tộc của họ để lên ngôi thống trị thế giới. Các vị tiên tri đã đến để nhắn nhủ họ, nhưng tất cả đều bị họ giết chết, và sau cùng họ đã đi tới chỗ loại bỏ Đấng Thiên Sai, Con Một của Thiên Chúa. Thay vì phục vụ cho lề luật và dân chúng thì họ đã chiếm hữu, coi mình là chủ của lề luật và của dân chúng.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có thoát khỏi thái độ tự coi là người làm chủ của Tin Mừng, của chân lý hay không? Làm thế nào để phục vụ Phúc Âm mà không chiếm hữu? Tôi xin thưa bằng cách để cho tinh thần Phúc Âm thấm nhập vài cải tạo chúng ta, chứ chúng ta không đọc Phúc Âm, rồi sau đó ngồi sắp xếp Phúc Âm theo ý riêng của chúng ta. Ngày xưa các thầy thông luật đã lèo lái niềm trông đợi của dân chúng tới những ước vọng thống trị trần gian. Ngày nay cũng không thiếu gì những người muốn lợi dụng Phúc Âm để quảng cáo cho một hệ thống chính trị hay một quan niệm xã hội. Chúng ta không có quyền sử dụng và dùng Phúc Âm vào một mục tiêu nào khác ngoài mục tiêu đi đến Đức Kitô. Nhiều người muốn chiếm hữu Phúc Âm để mưu cầu lợi ích riêng tư, để rồi cuối cùng đã đi đến chỗ phủ nhận con người Đức Kitô. Tin Mừng mời gọi chúng ta xây dựng cuộc sống trên viên đá góc là Đức Kitô, Đấng chúng ta tìm kiếm và yêu mến, chứ không nên lèo lái Ngài và Tin Mừng của Ngài vào những ý đồ riêng tư của mình.

Lectio Divina: Chúa Nhật XXVII Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 5 Tháng 10, 2014
Dụ ngôn về những người tá điền sát nhân
Mt 21:33-43 

1.  Lời nguyện mở đầu 
Lạy Chúa, Chúa Nhật này con muốn cầu nguyện với một trong những hình ảnh đẹp nhất của Cựu Ước:  “Xin đừng bỏ rơi vườn nho tay hữu của Chúa đã trồng nên”.  Xin Chúa hãy tiếp tục vun xới và làm phong phú nó với tình yêu của Chúa.  Nguyện xin cho Lời Chúa trong phần Phụng Vụ Chúa Nhật tuần này là niềm hy vọng và an ủi cho con.  Xin cho con có thể suy gẫm những lời ấy và để cho chúng vang dội trong lòng con, cho cả đến cuối đời con.  Xin cho nhân loại của con là cái nôi màu mỡ để từ đó sự sinh động của Lời Chúa có thể nảy mầm. 
 2.  Bài Đọc 
a)  Bối cảnh: 
Thánh Mátthêu đặt bài dụ ngôn về những người tá điền sát nhân ở giữa hai dụ ngôn khác:  dụ ngôn hai người con (21:28-32) và dụ ngôn tiệc cưới (22:1-14).  Cả ba dụ ngôn chứa đựng câu trả lời tiêu cực:  của người con trai đối với cha nó, của những người tá điền đối với chủ vườn nho và của một số khách mời đối với nhà vua làm tiệc cưới cho hoàng tử.  Cả ba dụ ngôn có khuynh hướng chỉ về một điểm duy nhất, đó là, những kẻ bởi vì họ không chấp nhận lời rao giảng và phép rửa của ông Gioan, bây giờ đồng thanh từ chối lời mời gọi cuối cùng của Thiên Chúa trong con người của Đức Giêsu.  Lời giới thiệu về dụ ngôn thứ nhất trong chương 21:28-33 cũng cần được xem như là lời giới thiệu bài dụ ngôn về những người tá điền sát nhân:  Sau khi Chúa Giêsu đã tiến vào khuôn viên của đền thờ, và trong khi Người đang giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão trong dân đã đến gặp Người và nói:  Ông lấy quyền gì mà làm các điều ấy?  Ai đã cho ông quyền ấy?  Đó là tầng lớp thày cả quý tộc và giáo sĩ thế tục đến gặp Chúa Giêsu khi Người ở trong đền thờ.  Họ đang lo lắng bởi việc Chúa Giêsu được mến mộ và hỏi Người những câu hỏi để tìm biết hai điều:  Người lấy quyền gì để làm những việc Người đang làm và nguồn gốc của quyền này.  Thực ra, câu trả lời cho câu hỏi thứ hai cũng là câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất.  Các thượng tế và kỳ lão trong dân đòi hỏi một bằng chứng pháp lý, họ quên rằng các ngôn sứ nhận quyền trực tiếp từ Thiên Chúa.    
b)  Phúc Âm: 
33 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng:  “Các ông hãy nghe dụ ngôn này:  Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa.  34 Đến mùa nho, ông sai đày tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi.  35 Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác.  36 Chủ nhà lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy.  37 Sau cùng, chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng:  ‘Họ sẽ kính nể con trai mình.’  38 Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau:  “Đứa con thừa tự kia rồi:  Nào anh em!  Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó.”  39 Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết.  40 Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?”
41 Họ trả lời:  “Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ đến mùa nộp phần hoa lợi.”  42 Chúa Giêsu phán:  “Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh:  Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc tường; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?  43 Bởi vậy, Ta bảo các ông:  ‘Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa trái.’
3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Chúng ta không thể hiểu thấu được Lời của Chúa trừ phi chính Thiên Chúa mở lòng chúng ta (Cv 16:14).  Tuy nhiên, điều ấy tùy thuộc vào chúng ta khơi dậy sự tò mò của mình bằng cách lắng nghe, dừng lại và đứng trước Lời Chúa …
4.  Lời giải thích bài Tin Mừng
a)  Một lời mời để lắng nghe:

Dụ ngôn bắt đầu với một lời mời gọi để lắng nghe:  Hãy nghe một dụ ngôn khác(câu 33).  Chúa Giêsu dường như thu hút sự chú ý của các người lãnh đạo trong dân về dụ ngôn Người sắp sửa công bố.  Đây là một mệnh lệnh, “lắng nghe”, mà không loại trừ một sự đe dọa nào đó (Gnilka) nếu chúng ta nhìn vào cách dụ ngôn kết thúc:  “Ta bảo các ông, lúc ấy, Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho một dân tộc khác biết làm trổ sinh hoa trái” (câu 43).  Mặt khác, Chúa Giêsu giải thích dụ ngôn người gieo giống với các môn đệ mà không có bất kỳ dấu hiệu của sự quở trách (Mt 13:18).
Sự giải thích về lời mời để lắng nghe có một chút đe dọa này là gì?  Câu trả lời là để được tìm kiếm trong các điều kiện kinh tế của vùng đất Palestine vào thế kỷ thứ nhất.  Phần lớn đất đai đã thuộc về những ngoại kiều tự do là những người đã thuê đất theo từng nhóm.  Hợp đồng cho thuê với điều kiện là một phần của vụ thu hoạch sẽ nộp cho chủ đất, người này thực hiện quyền của họ bằng cách gửi người quản lý đến để thu nhặt phần hoa lợi của mình.  Trong tình huống như vậy, người ta có thể hiểu được những cảm xúc của tá điền đã vô cùng mệt mỏi:  họ cảm thấy rất chán nản và điều này đôi khi đưa đến cuộc nổi dậy.
Trong dụ ngôn của mình, Chúa Giêsu đề cập đến tình trạng thực tế này nhưng đòi hỏi phải ở một trình độ hiểu biết cao hơn, đó là, tình trạng trở thành bản tóm tắt câu chuyện về Thiên Chúa và dân của Người.  Thánh Mátthêu mời gọi độc giả hãy đọc bài dụ ngôn trong một ý nghĩa biểu tượng:  Đằng sau “người chủ nhà” là hình ảnh của Thiên Chúa; đàng sau vườn nho là dân tộc Israel.   
b)  Việc chăm sóc cẩn thận vườn nho của người chủ nhà (câu 33): 
Thoạt đầu, sáng kiến của người chủ nhà là trồng một vườn nho.  Mátthêu dùng năm động từ để mô tả sự quan tâm và chăm sóc này:  trồng … rào giậu … đào … xây … cho thuê.  Sau khi ông đã trồng vườn nho, người chủ nhà cho tá điền thuê, và rồi trẩy đi phương xa.
c)  Nhiều nỗ lực của người chủ vườn để thu lại phần hoa lợi của vườn nho (các câu 34-36):  
Trong cảnh thứ hai, người chủ nhà hai lần sai các đày tớ của ông là những người có nhiệm vụ đi thu lại phần hoa lợi của vườn nho, đã bị ngược đãi và bị sát hại. Hành động hung hăng và bạo lực này được mô tả với ba động từ:  đánh … giết … ném đá … (câu 35).  Bằng cách gửi một số đày tớ đông hơn trước và việc chịu đựng sự ngược đãi cũng tăng theo, Mátthêu muốn ám chỉ đến lịch sử của các tiên tri cũng bị ngược đãi tương tự như thế.  Chúng ta nhớ lại một số các vị này:  tiên tri U-ria bị giết bởi một lưỡi gươm (Gr 26:23); ngôn sứ Giêrêmia thì bị cùm (Gr 20:2); tiên tri Giacaria đã bị ném đá chết (2Sb 24:21).  Chúng ta có thể tìm thấy bản tóm lược phần lịch sử này của các ngôn sứ trong sách Nơ-khê-mia 9:26:  “Họ đã từng giết hại các ngôn sứ của Ngài…”        
d)  Cuối cùng ông sai chính con trai mình: 
Người đọc được mời gọi để nhận ra người con, người “cuối cùng” được sai đến, Đấng được sai đến bởi Thiên Chúa, Đấng phải được kính nể và hoa lợi của vườn nho phải được thu nộp.  Đây là cố gắng cuối cùng của người chủ nhà.  Thuật ngữ “cuối cùng” định rõ người con là Đấng Mêssia.  Ngoài ra, có thể rằng đây là phương án loại trừ người con được mô phỏng theo một câu chuyện khác từ Cựu Ước:  các anh em của ông Giuse đã nói:  “Nào bây giờ, chúng ta hãy giết nó và ném nó vào trong một cái giếng ở đây!” (St 37:20).  
Bài dụ ngôn đạt đến tột đỉnh thương tâm với hậu quả của nhiệm vụ trao cho người con là anh ta đã bị các tá điền vườn nho giết đi để họ có thể tiếp thu vườn nho và chiếm đoạt quyền thừa kế.  Số phận của Chúa Giêsu được so sánh như của các ngôn sứ, nhưng là trưởng tử và là người thừa kế, cao trọng hơn các ngôn sứ. Những so sánh học thuyết Kitô giáo như thế có thể tìm thấy trong Thư gửi Tín Hữu Do Thái, trong đó, tính ưu việt của Chúa Kitô là Trưởng Tử và là người thừa kế vũ trụ được tìm thấy trong bằng chứng:  “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Trưởng Tử.  Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài…” (các câu 1-2).
Có một chi tiết ở phần cuối dụ ngôn này mà chúng ta không nên bỏ qua:  bằng cách đặt cạnh nhau các chữ:  “họ lôi cậu ra khỏi vườn nho” theo sau bởi “họ giết cậu”, Mátthêu đã chủ ý ám chỉ đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu nơi mà Chúa bị điệu ra để bị đóng đinh. 
e)  Cho các tá điền khác thuê vườn nho (các câu 42-43):
Đoạn cuối của bài dụ ngôn khẳng định sự cất đi Nước Thiên Chúa và trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái, đó là, có khả năng sống với một đức tin sống động và một tình yêu thực tiễn.  Các từ ngữ “Ta bảo các ông, rồi … sẽ bị cất khỏi … và sẽ trao cho …” cho thấy sự nghiêm trọng của việc làm Thiên Chúa đánh dấu chấm dứt truyền thống dân tộc Do Thái cổ xưa và thiết lập một dân tộc mới.
5.  Suy gẫm cho sự rèn luyện giáo hội 
-  Biểu tượng vườn nho cho chúng ta một tấm gương mà chúng ta có thể thấy phản ảnh lịch sử cộng đoàn và cá nhân về mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Ngày nay, vườn nho mà Chúa vun xới, chăm bón và giao phó cho chúng ta chính là giáo hội, các tá điền vườn nho (các cộng tác viên) là những người có nhiệm vụ tiếp tục sứ vụ Người đã khởi đầu.  Đây chắc chắn là một trách nhiệm nặng nề.  Tuy nhiên, giống như giáo hội, chúng ta nhận thức được sự căng thẳng còn tồn tại và giáo hội có thể phải trải qua kinh nghiệm giữa những người trung thành và kẻ bất trung, giữa những kẻ chối từ và người chào đón.  Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho chúng ta biết, dù rằng có những khó khăn và dường như mong manh, không có gì có thể ngăn chặn được tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, thậm chí ngay cả việc giết chết Con Một Người, và trong thực tế, đó là sự hy sinh để đạt được sự cứu rỗi cho tất cả mọi người.
-  Chúng ta được gọi ở lại với Chúa Giêsu và tiếp tục sứ vụ của Người trong việc giúp đỡ các người đàn ông và phụ nữ đến gặp Người và được cứu rỗi; cố gắng mỗi ngày để ngăn chặn sự dữ và thực hiện mong ước làm điều tốt lành và nêu cao công lý.
-  Giống như giáo hội, chúng ta được gọi để tìm hiểu, noi theo gương của Chúa Giêsu, để trải qua kinh nghiệm cuộc xung đột và có thể chịu đựng được những khó khăn trong việc quyết tâm rao giảng Tin Mừng của chúng ta.
-  Bạn có tin rằng những thử nghiệm hướng dẫn tâm hồn chúng ta không?  Và những khó khăn có thể là một khí cụ để đo lường tính xác thực của chúng ta và sự bền đỗ của đức tin chúng ta không?
6.  Thánh Vịnh 80 (79)
Tác giả Thánh Vịnh thể hiện lòng mong muốn của mọi người được tiếp cận với bàn tay của Thiên Chúa, Đấng khẩn hoang đất đai để trồng và cấy ghép vườn nho yêu quý của Người.
Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai-cập,
đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng,
Chúa khẩn hoang bốn bề quang đãng,
cho bén rễ sâu và lan rộng khắp nơi.
Bóng um tùm phủ xanh đầu núi,
cành sum sê rợp bá hương thần,
nhánh vươn dài tới phía đại dương,
chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả.
Tường rào nó, vậy sao Ngài phá đổ?
Khách qua đường mặc sức hái mà ăn!
Heo rừng vào phá phách,
dã thú gặm tan hoang.
Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại,
tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem,
xin Ngài thăm nom vườn nho cũ,
bảo vệ cây tay hữu Chúa đã trồng,
và chồi non được Ngài ban sức mạnh.
Những người đã hoả thiêu chặt phá,
Ngài nghiêm sắc mặt là chúng phải tiêu tan.
Xin giơ tay bênh vực Đấng đang ngồi bên hữu
là con người được Chúa ban sức mạnh.
Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu,
cúi xin Ngài ban cho được sống,
để chúng con xưng tụng danh Ngài.
Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
xin phục hồi chúng con,
xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
để chúng con được ơn cứu độ.
7.  Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa, đã bao lần tình yêu được đền trả bằng sự vô ơn tối tăm nhất?  Không có gì tiêu cực hơn là cảm giác bị phản bội và bị đánh lừa, để biết rằng mình đã bị lừa dối.  Thậm chí còn khó hơn là nhận ra rằng rất nhiều những đối xử tử tế, rộng lượng, khoan dung, cởi mở và chân thành, và quyết tâm gắn bó đã không mang lại kết quả gì.
Lạy Chúa, Chúa đã có kinh nghiệm về sự vô ơn bội nghĩa của nhiều người.  Chúa đã nhẫn nại với những kẻ công kích Ngài.  Lạy Chúa, Đấng luôn tỏ lòng xót thương và hiền lành, xin giúp chúng con phấn đấu với tính khắc nghiệt của chúng con đối với những người khác.  Cùng với tác giả Thánh Vịnh, chúng con cũng cầu nguyện: “Xin Chúa đừng bỏ bê vườn nho Chúa đã trồng”.   Sau lần gặp gỡ này với Lời Chúa, nguyện xin cho lời cầu nguyện của chúng con có thể trở thành lời nài van tha thiết hơn bao giờ hết để có thể chạm tới trái tim Chúa:  “Lạy Chúa, xin nâng chúng con dậy lần nữa, xin tỏ lộ thánh nhan Chúa và chúng con sẽ được ơn cứu rỗi”.  Lạy Chúa, chúng con rất cần lòng thương xót của Chúa và ngày nào tâm hồn chúng con còn tìm kiếm thánh nhan Ngài, đường cứu rỗi vẫn còn rộng mở cho chúng con.  Amen!
Chú giải và gợi ý suy niệm Chúa nhật 27 thường niên A: DỤ NGÔN NHỮNG TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN


Bài này có thể chia làm hai phần:
1) Dụ ngôn những tá điền sát nhân: Hành động của dân Chúa (21,33-41); 2) Kết luận từ dụ ngôn: Hành động của Thiên Chúa (21,42-43)
Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: DỤ NGÔN NHỮNG TÁ ĐIỀN SÁT NHÂN
1. Ngữ cảnh
Tác giả Mátthêu đặt bài dụ ngôn này giữa dụ ngôn Hai người con (Mt 21,28-32) và dụ ngôn Bữa tiệc hoàng gia (Mt 22,1-14), trong ngữ cảnh lịch sử và văn chương là các xung đột ngày càng trầm trọng giữa Đức Giêsu và các thủ lãnh dân Israel (x. các chương Mt 21, 22 và 23). Sau khi đã nhấn mạnh rằng những người thu thuế và các cô gái điếm, giống như người con bướng bỉnh rồi ngoan ngoãn trong bài dụ ngôn, đã đón tiếp ý muốn của Chúa Cha được biểu lộ trong lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu (trong khi những người Pharisêu và các thủ lãnh của dân đã từ khước), Đức Giêsu xác định trong một dụ ngôn thứ hai thế nào là tiếp đón Người Con. Người lấy lại đề tài “nói” và “làm” (cc. 28-31) và đề tài cây vả không ra trái (cc. 19-20) để kêu gọi các thủ lãnh thêm một lần nữa, bằng cách làm cho họ hiểu rằng giờ phút cung cấp hoa trái (cc. 34 và 41) đã đến, giờ phút quyết liệt khi mà Thiên Chúa yêu cầu cây nho của Ngài tính sổ.
2. Bố cục
Bài này có thể chia làm hai phần:
1) Dụ ngôn những tá điền sát nhân: Hành động của dân Chúa (21,33-41):
- giới thiệu hoàn cảnh: Vườn nho của ông chủ (c. 33),
- các tá điền sát nhân (cc. 34-39):
. giết các đầy tớ (cc. 34-36),
. giết người con (cc. 37-39).
- cách xử sự của ông chủ (cc. 40-41);
2) Kết luận từ dụ ngôn: Hành động của Thiên Chúa (21,42-43):
- đối với Đức Kitô (c. 42),
- đối với dân Chúa (c. 43).
3. Vài điểm chú giải
- Chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho (33): Ở đây cũng như trong Is 5, tác giả liệt kê ra những công việc ông chủ làm cho vườn nho nhằm nêu bật tình yêu cũng như quyền tuyệt đối của ông trên vườn nho. Nó thuộc về ông bởi vì ông đã tạo ra nó từ đầu. Tháp canh là để bảo vệ nó, nhất là vào mùa hái trái. Bồn đạp nho là để trích chất cốt của nho. Các chi tiết nêu rõ sự tương phản giữa tình yêu của ông chủ đối với vườn nho của ông và sự độc ác của các tá điền không cho ông hưởng hoa trái của công sức chăm sóc của ông.
Gần đến mùa hái nho (34): Mùa hái nho có lẽ gợi đến thời điểm quyết liệt, lúc mà Thiên Chúa yêu cầu dân Ngài phải tính sổ. Nếu dịch sát câu này là “Khi mùa hái nho đã đến gần”, chúng ta gặp lại cùng một động từ như Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu đã dùng (x. 3,2 và 4,17). Vậy dường như Mt muốn ám chỉ rằng thời điểm tính sổ trùng vào thời điểm Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu xuất hiện. Do lời rao giảng của hai vị sứ giả đó của Thiên Chúa, bây giờ Israel phải “sinh hoa quả xứng với lòng sám hối” (3,8).
Bọn tá điền … đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ (35): Có một sự tiệm tiến trong cách sử dụng các động từ: quan hệ giữa ông chủ và các tá điền các lúc càng trở nên xấu hơn. Việc ném đá các ngôn sứ là một đề tài truyền thống trong Do Thái giáo và Kitô giáo tiên khởi (x. 2 Sb 24,21; Dt 11,37; nhất là Mt 23,37; Lc 13,34).
Ông lại sai (36): Nếu tác giả Mt nói đến lần sai phái thứ hai này có lẽ vì ông muốn ám chỉ đến việc truyền thống Do Thái phân chia các ngôn sứ ra các ngôn sứ trước và các ngôn sứ sau.
Sau cùng (37): Công thức này có ý nói rằng đối với các tá điền, đây là cơ hội cuối cùng để họ có thể hoán cải.
Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi (38): Theo ba Tin Mừng Nhất Lãm, các tá điền tức khắc nhận ra người thừa tự (Dt 1,2; Rm 8,17). Tội ác của họ không phải là hậu quả của một sự lầm lẫn bi đát, hoặc của một tình trạng thiếu lòng tin nơi Vị sứ giả: Họ hành động với ý thức hoàn toàn về mức độ trầm trọng của hoàn cảnh. Họ đã từ khước Thiên Chúa nơi bản thân Đấng Ngài sai đến.
Quẳng ra bên ngoài vườn nho (39): Chi tiết này ám chỉ đến việc Đức Giêsu bị giết chết bên ngoài tường thành Giêrusalem.
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên … (42): “Loại bỏ” (apodokimazô) là một động từ chuyên môn để nói về việc một người có thẩm quyền tuyên bố một đồng bạc là vô giá trị vì bị coi là giả mạo. “Lại trở nên” là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Thiên Chúa đã làm cho lại trở nên”. Đây là một hành vi tuyệt vời của Thiên Chúa toàn năng.
một dân (43): Từ ngữ này ở số đơn nên không thể có nghĩa là “các dân nước” tức là “các dân ngoại”, nhưng có nghĩa là một tập thể đang được thành lập và phát triển: ta có thể nghĩ đến “Dân thánh” trong Xh 19,6. Dân thánh được tạo thành bởi tất cả những ai mang hoa trái của Nước Trời, nghĩa là những người đón tiếp Người Con và làm thành dân mới của Thiên Chúa quanh Người Con ấy (x. Rm 9,25; 1 Pr 2,10).
4. Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu kể cho các đối thủ của Người một câu truyện khác.
* Dụ ngôn những tá điền sát nhân: Hành động của dân Chúa (33-41)
Trong một bài ca với giọng cảm động, ngôn sứ Isaia đã ví dân Israel với một vườn nho được Thiên Chúa chăm sóc, bảo vệ. Ngài hy vọng sẽ nhận được hoa quả ngon ngọt: “Anh những mong nó sinh trái tốt, nó lại sinh nho dại. Vậy bây giờ, dân Giêrusalem và người Giuđa hỡi, xin phân xử đôi đàng giữ tôi với vườn nho, có làm gì hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?… Vậy bây giờ tôi cho các người biết tôi đối xử thế nào với vườn nho của tôi: hàng giậu thì chặt phá cho vườn bị tan hoang, bờ tường thì đập đổ cho vườn bị giày xéo” (Is 5,2b.3.4a.5). Rào giậu (x. Tv 80,13-14) là để bảo vệ vườn nho khỏi bị thú hoang và trộm phá hoại. Bồn đạp nho thường được đục khoét vào đá, gồm có hai chậu, một chậu chứa các chùm nho để nghiền, chậu kia hứng nước cốt nho chảy ra. Tháp canh là để đuổi chim và trộm cướp. Chủ vườn nho đã làm tất cả những gì cần cho vườn nho.
Các câu đầu của bài dụ ngôn Đức Giêsu kể được trực tiếp vay mượn từ bản văn trên. Nhưng bài ca của Isaia chỉ là một khởi điểm mà thôi, câu truyện được kể trong dụ ngôn được triển khai theo một chiều hướng khác. Ý tưởng căn bản vẫn còn đó: Israel không sinh hoa trái nên đã đáng bị kết án. Nhưng nay bài dụ ngôn đi sang một chiều hướng mới do chi tiết vườn nho được giao cho các tá điền canh tác: Đức Giêsu kể một truyện mới về “vườn nho cũ”. Trong bài ca Isaia, người chủ vườn nho (Thiên Chúa) và vườn nho (Israel) liên kết mật thiết với nhau: Thiên Chúa trồng vườn nho, Ngài thất vọng về kết quả nên đe dọa phá hủy. Trong bài dụ ngôn, vườn nho không phải là Israel mà là Nước Thiên Chúa (c. 43). Hình ảnh vườn nho-Nước Thiên Chúa đã được Thiên Chúa cưu mang trong quá khứ của Israel, nghĩa là Thiên Chúa đã muốn giao phó Nước Thiên Chúa (= kế hoạch cứu độ và ân sủng của Ngài được tượng trưng bằng giao ước) cho Israel lịch sử, nhưng Israel đã thất trung với chương trình cứu độ này khi vi phạm giao ước đã được các ngôn sứ thay nhau đến nhắc lại.
Dân Israel đã không nghe các sứ giả của Thiên Chúa, họ đã cứng lòng lại (x. Gr 7,24-26). Sau này, Đức Giêsu cũng nối tiếp chuỗi những lời kể ra sự bất phục tùng của dân Thiên Chúa (x. Mt 23,34-36). Và nếu họ đã không nghe các ngôn sứ, họ cũng sẽ chẳng nghe Con Thiên Chúa. Ngược lại, họ đối xử với Người Con còn độc ác hơn nữa, bởi vì họ không chỉ bắt Người Con ấy mà giết đi như đã giết các đầy tớ, họ còn quẳng Người ra bên ngoài vườn nho để xử Người cách ô nhục nhất: họ đã đóng đinh Người.
Vườn nho đã được giao cho các tá điền để họ mang lại hoa trái. Các hoa trái của vườn nho trong dụ ngôn là những hoa trái của Nước Thiên Chúa trong thực tế. Các tá điền là “dân Thiên Chúa”. Dân đầu đã thất bại, họ đã không mang lại hoa trái, họ đã làm cho ông chủ hoàn toàn thất vọng. Một dân khác sẽ được nhận lấy vườn nho, nghĩa là Nước Thiên Chúa; dân này sẽ không làm cho ông chủ phải thất vọng, họ sẽ mang lại hoa trái mà dâng cho Thiên Chúa. Các hoa trái ấy là sự công chính vượt xa sự công chính của các kinh sư và Pharisêu (Mt 5,20).
Câu 40 bắt đầu với một quy chiếu về thời gian. Ông chủ trở về; chúng ta sắp được thấy chuyện gì xảy ra. Tác giả lại dùng Isaia (5,3-4) mà thách thức các thính giả bằng một câu hỏi để phán đoán. Câu trả thật rõ ràng: “Ông sẽ tru diệt bọn chúng” (c. 41). Vườn nho sẽ được giao cho những tá điền khác. Các nhà lãnh đạo Israel vừa tuyên bố chính án quyết trên mình.
* Kết luận từ dụ ngôn: Hành động của Thiên Chúa (42-43)
Sự từ khước của dân cũ đã tới cao điểm khi họ giết Người Con; còn dân mới sẽ được thiết lập trong máu Đức Giêsu, máu Giao ước (26,28). Đức Giêsu hỏi bằng giọng châm biếm: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này sao?” (c. 42). Dĩ nhiên các đối thủ của Người phải biết nhờ Kinh Thánh. Nhưng nay Kinh Thánh trở thành một tòa án phúc thẩm trong cuộc tranh luận với các nhà lãnh đạo Do Thái. Các Kitô hữu xác tín rằng Kinh Thánh làm chứng về Đức Kitô. Câu trích kia lấy từ Tv 117,22-23 theo Bản LXX nói một cách bóng bảy về một tảng đá: tảng đá bị loại vì vô giá trị lại trở thành đá tảng góc tường nâng đỡ cả tòa nhà. Giáo Hội thấy đây là hình ảnh báo trước điều huyền diệu Thiên Chúa thực hiện: Đấng Mêsia bị loại trừ đã trở nên Đức Chúa khi sống lại từ trong kẻ chết (Cv 4,11; 1 Pr2,7).
Trên cái nền đen tối này với việc kết án Israel, lời Thiên Chúa hứa vẫn nổi lên rạng rỡ:kế hoạch Thiên Chúa muốn là nhân loại mang hoa trái không hề bị vĩnh viễn thất bại với sự suy thoái của Israel. Một dân mới sẽ được thành lập, họ sẽ được giao phó Nước Thiên Chúa cho và họ sẽ mang hoa trái. Nhưng các hoa trái này sẽ không phải là kết quả của nỗ lực con người, mà sẽ là “hoa quả của Thần Khí” (Gl 5,22).
+ Kết luận
Dụ ngôn Những tá điền sát nhân này đã có trong TM Mc, trong đó vườn nho là biểu tượng truyền thống để gọi Israel, nên câu truyện có ý nghĩa biểu tượng (Mc 12,1-12; Mt21,33-43; x. Is 5,1-10). Tác giả Mt đã nêu bật khía cạnh lịch sử cứu độ của câu truyện này. Thời kairos, thời phán xét, đã gần kề (21,34.40). Các nhà lãnh đạo Do Thái hiểu rõ là Đức Giêsu nói về họ.
Dụ ngôn này cho chúng ta hiểu rõ cách tác giả giải thích sự chống đối đang nhắm vào Đức Giêsu. Sự loại trừ Người phải chịu ở trong cùng chiều hướng với tình cảnh của các ngôn sứ. Bởi vì Đức Giêsu là sứ giả cuối cùng và cao quý nhất của Thiên Chúa, vì là Con Thiên Chúa, hậu quả của việc loại trừ Người sẽ rất tàn khốc. Đối với tác giả, xác tín này đã được xác nhận trong những cuộc tàn phá Giêrusalem vào năm 70. Ngài cũng thấy được các dấu vết của chương trình cứu độ của Thiên Chúa ngay giữa lòng bi kịch: Nếu Israel đã bỏ mất cơ hội trả lời lại sứ điệp của Thiên Chúa mời gọi hoán cải để được cứu độ, Dân ngoại sẽ đáp trả. Vì thế vai trò ưu tuyển của các tá điền sẽ được chuyển cho những người khác, những người này sẽ làm sản sinh hoa trái dồi dào.
Vị trí của các Kitô hữu là ở đó. Sứ điệp của Thiên Chúa hôm nay đang được gửi đến cho họ, và Thiên Chúa cũng đang chờ đợi họ đáp lại.
5. Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa đã tạo dựng loài người với tình yêu thương âu yếm sâu xa. Trong nhân loại này, Ngài đã chọn ra một nhóm người mang những lời Ngài hứa, họ có nhiệm vụ làm cho Ngài hiện diện giữa nhân loại. Ngài đã ân cần nuôi dưỡng, chăm sóc họ, và sai họ đi làm chứng về tình thương của Ngài. Đáng tiếc, thay vì sản sinh những hoa quả ngon ngọt của lòng trung thành và của sự bình an, họ đã tạo ra sự hận thù, ghen ghét, bạo lực.
2. Thiên Chúa tiếp tục phái các sứ giả đến: Ngài ân cần và kiên trì tìm cách cứu lấy dân Ngài. “Dân” đây cũng có thể là một tập thể như giáo xứ, gia đình hay những cá nhân (mỗi người trong chúng ta). Trong thực tế, Thiên Chúa chỉ dừng lại khi cái chết đến đóng ấn trên một cuộc đời vĩnh viễn từ khước tình yêu của Ngài.
3. Tội nặng nhất của các tá điền là từ chối đón tiếp các ngôn sứ và Người Con mà Chúa Cha sai phái đến. Tuy nhiên, Đức Giêsu cho biết tội ấy bắt nguồn từ chỗ họ muốn chiếm lấy vườn nho. Mỗi lần chúng ta muốn coi Nước Thiên Chúa là chuyện riêng của chúng ta, mỗi lần chúng ta nhắm một thành công tưởng như là để phụng sự Thiên Chúa nhưng thật ra là để thỏa mãn nhu cầu chúng ta là tỏ ra mình quan trọng, là tạo một ảnh hưởng, khi đó chúng ta đang chiếm hữu vườn nho của Thiên Chúa, bởi vì thật ra chúng ta đang phục vụ chính mình dưới cái vỏ bề ngoài là sự tận tụy và sự đạo đức.
4. Không có gì có thể ngăn chặn hành động uy quyền của Thiên Chúa trong thế giới. Bởi vì Thiên Chúa đủ quyền năng để đưa mọi chuyện (kể cả điều ác) vào việc thực hiện các kế hoạch của Ngài. Trong đời sống chúng ta, nếu chúng ta sẵn sàng dâng cho Thiên Chúa tất cả những gì làm nên con người chúng ta, tất cả những gì chúng ta có, Thiên Chúa sẽ có thể làm những điều kỳ diệu xuyên qua chúng ta. Trong lịch sử các thánh, Thiên Chúa đã tỏ ra thích dùng những giới hạn của con người để thực hiện những chương trình vĩ đại trong Giáo Hội.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét