Trang

Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

TÂN PHÚC ÂM HÓA ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN

Tác giả: 
 Lm Giuse Đỗ Văn Thụy
TÂN PHÚC ÂM HÓA ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN


Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Cộng Đoàn. Cộng đoàn ở đây không chỉ là cộng đoàn các dòng tu như chúng ta thường hiểu, nhưng còn bao gồm những cộng đoàn nhỏ là gia đình và cộng đoàn lớn là nhân loại, nơi mà các nước đang chung sống.

Dù sống trong cộng đoàn nhỏ hay lớn, cộng đoàn đời hay đạo, chúng ta luôn mong ước được sống trong hạnh phúc mà cỗng đoàn đó mang lại, nhưng hình như đó vẫn chỉ là một mong ước mà không bao giờ có được. Lý do là chúng ta cầu mong hạnh phúc, nhưng hạnh phúc đó luôn bị đe dọa bởi những lời nói thiếu yêu thương. Sở dĩ có những lời nói thiếu yêu thương bởi vì nó phát xuất từ những xét đoán thiếu yêu thương. Chính vì vậy, khoa tu đức luôn cố gắng tìm ra những phương thế để chữa trị những lời nói và xét đoán thiếu lành mạnh, nhưng kết cục không mấy khả quan, bởi vì còn một động lực nằm sâu trong tâm hồn chúng ta đó là lòng ghen tỵ. Chính lòng ghen tỵ chi phối điều khiển nhận xét để rồi bộc lộ qua lời nói, nhưng lòng ghen tỵ lại rất khó nhận ra vì nó được ngụy trang dưới nhiều hình thức rất tinh vi. Để phát hiện ra lòng ghen tỵ, chỉ có cách là chúng ta phải bước vào sự thinh lặng nội tâm cá nhân và cộng đoàn, để nhận ra tha nhân cũng như chính con người của chúng ta dưới ánh sáng của Tin Mừng. Chính vì vậy tài liệu này đi theo một tiến trình:

  Muốn Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Cộng Đoàn, Phải Tân Phúc Âm Hóa lời nói và xét đoán.
  Muốn Tân Phúc Âm Hóa lời nói và xét đoán, phải Tân Phúc Âm Hóa lòng ghen tỵ.
  Muốn Tân Phúc Âm Hóa lòng ghen tỵ, phải đi vào thinh lặng nội tâm cá nhân và cộng đoàn.
  Đó chính là con đường dẫn vào công cuộc Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Cộng Đoàn.

CHƯƠNG I
TÂN PHÚC ÂM HÓAvVỚI KITÔ HỮU THỜI ĐẠI HÔM NAY

1.     Tân Phúc Âm Hóa với kitô hữu thời đại hôm nay.
1.1. Tân Phúc Âm Hóa   (New Evangelization).
   Thuật ngữ này được Đức Gioan Phaolô II sử dụng lần đầu tiên trong chuyến công du tại Balan mà không có sự nhấn mạnh ý tưởng chuyên biệt nào về vai trò của nó trong tương lai; nhưng sau đó nó đã được sử dụng lại và mặc lấy một sinh khí mới` trong Huấn Quyền của ngài cho các Giáo Hội tại Châu Mỹ La Tinh. Ngài dung thuật ngữ này để đánh thức và khơi dậy lại những cố gắng canh tân trong công cuộc mới về truyền giáo và rao giảng Tin Mừng tại châu lục này.

“ Việc kỷ niệm một thiên niên kỷ rao giảng Tin Mừng tại đây hôm nay sẽ có đầy đủ ý nghĩa nếu anh em giám mục, cùng với các linh mục và giáo dân, chọn nó làm lời cam kết của mình; không phải một lời cam kết về một cuộc tái Phúc Âm Hóa, mà là một cuộc Phúc Âm Hóa Mới; mới về nhiệt huyết, phương pháp và cách biểu hiện.

  Cho nên “Tân Phúc Âm Hóa” không phải là làm lại một cái gì đã làm không đầy đủ hay không đạt được mục đích, như thể hoạt động mới này là một sự phê phán mặc nhiên về thất bại của Phúc Âm Hóa thứ nhất.

  Tân Phúc Âm Hóa cũng không phải là lại tiếp tục cuộc Phúc Âm Hóa thứ nhất, hay đơn giản là lập lại quá khứ.

  Trái lại, đây là một sự dũng cảm mở ra những con đường mới để đáp lại những hoàn cảnh và điều kiện đổi thay mà Hội Thánh đang đối diện trong việc thực thi ơn gọi loan báo Tin Mừng hôm nay.

  Từ nay thuật ngữ này được dùng để chỉ về những nỗ lực canh tân của Hội Thánh để đáp ứng những thách thức mà xã hội và các nền văn hóa hôm nay, qua các thay đổi quan trọng của chúng, đang đặt ra làm cho đức tin Kitô giáo, cho việc loan báo và làm chứng cho đức tin ấy.  (Lineamenta 5)

1.2.         Những Kitô hữu thời đại hôm nay:  lý tưởng và thực tế
  Chúng ta đã biết phần nào về tinh thần của các Kitô hữu nguyên thủy, dẫu rằng lý tưởng không bao giờ được thực hiện trọn vẹn tại trần thề này, và Thánh Thần không tác động theo một khuôn khổ nhất định. Cần phải ý thức như thế mới nhận ra chân tính của người Kitô hữu. Tuy nhiên, một cách thực tế, chúng ta cũng phải thẩm định xem các Kitô hữu mà chúng ta gặp ngày hôm nay sống đạo ở mức độ nào sau hai mươi thế kỷ Phúc Âm Hóa.

  Trong cuộc hành hương trở về nguồn, chúng ta đã tìm được mẫu người Kitô hữu nguyên thủy, là người đã hoán cải, đã đón nhận Đức Giêsu trong mầu nhiệm sâu xa và thân mật của Ngài, đã rộng tiếp Thánh Thần. Người ta cảm thấy thật ngỡ ngàng trước sự tương phản quá rõ ràng giữa người Kitô hữu được Thánh Phêrô định nghĩa vào ngày sau biến cố Hiện Xuống và người Kitô hữu mà chúng ta thấy trước mắt, tức người Kitô hữu chúng ta hôm nay. Tương lai Giáo Hội chính là những thành viên mai đây của mình. Công cuộc canh tân cộng đoàn trong Giáo Hội trước tiên tùy thuộc vào các thành phần cấu tạo nên cộng đoàn này như những viên đá của tòa nhà, tức những Kitô hữu hôm nay.

  Vậy chúng ta hãy phân tích hiện trạng một cách khách quan hết sức có thể. Ngày nay, khi nói một Kitô hữu là chúng ta nói về ai và về điều gì?.(Hồng y LJ Suenens, Thánh Thần hơi thở sống động của Giáo Hội, Trg. 145-146)

2.     Việc giữ đạo hôm nay, một phương trình cần xét lại.
  Trong nhiều thế kỷ được gọi là chịu ảnh hưởng Kitô Giáo, cách chung người ta cho rằng Kitô hữu trước tiên phải là một người “hành đạo”, nghĩa là một người có đi lễ các ngày Chúa nhật và năng lãnh nhận các bí tích. Không có ai nghi ngờ gì cả về phương trình này: ai hành đạo thì có đức tin, ai có d8ức tin thì hành đạo. Đức tin được xét theo dấu chỉ thấy được là việc hành đạo.

  Nhưng những cuộc điều tra xã hội học và những cuộc thăm dò cho thấy một thực té rõ ràng là phải đặt lại vấn đề về giả định ấy trong công việc mục vụ của chúng ta. Ngọn gió của trào lưu tục hóa đã lay động cây cối. Những cành cây xem ra sống động xum xuê giờ đã bị gãy. Khắp nơi việc thực hành các nghi thức tôn giáo đã xuống dốc, nhát là nơi giới trẻ. Chúng ta không chỉ đứng trước hiện tượng số lượng mà cả vấn đề chất lượng nữa. Vậy trong Kitô giáo, phẩm chất và chân tính Kitô hữu khi được sống đích thực là gì?.

Một cuộc thăm dò những người công giáo Pháp cho thấy một sự kiện đáng báo động:
95% muốn có nhà ở, nhưng phần lớn lại chẳng bước chân tới.
88% đòi cho con họ chịu phép rửa, nhưng hơn một nửa không biết Đức Giêsu.
2/3 không tin Đức Giêsu phục sinh.

  Những sự kiện này cho thấy cách sống sượng một tình trạng có thật. Vị Giám mục Pháp cho tôi biết những sự kiện trên, đã tiếp tục phân tích:

  “Một ngày nào đó ta sẽ quyết định rút ra những hệ quả hợp lý từ những nghiên cứu này: nếu không thì ta sẽ lại tiếp tục ban bí tích cho những kẻ không có đức tin và tiếp tục cử hành thánh lễ hôn phối hay an táng cho những người đến tham dự mà trong lòng bực bội hay chế diễu (tôi nói đến thánh lễ, đỉnh cao của đức tin chứ không nói đến phụng vụ Lời Chúa mà nếu được thực hiện tốt có thể là một phương thế truyền đạt giáo lý). “Sancta Sanctis” (Điều thánh thiện phải dành cho những người thánh). Các sự việc của Thiên Chúa phải dành cho những ai có đức tin. Bí tích phải dành cho kẻ nào tin và thực sự lên đường.

  “Phải can đảm dẹp đi những ảo tưởng. Chúng ta đã thực hiện công đồng Vaticano II trong niềm tin rằng các Kitô hữu tự bản chất được kêu gọi làm người truyền giáo, Nhưng đáng lẽ phải giúp họ tin đã. Công cuộc canh tân mà công đồng Vaticanô II mong đợi bị trì trệ, những người sống đạo bị tan đàn, những kẻ bài bác vai trò ngôn sứ ngày càng nhiều lên, những Kitô hữu muốn được trấn an thì chủ trương quay về quá khứ… Sở dĩ tất cả điều ấy xảy ra là vì nguời ta đã ngây thơ tin rằng ai cũng đều chấp nhận và sống sứ điệp Kitô giáo nền tảng (Tức là lời chứng kinh nghiệm đức tin: tôi tin vào Đức Giêsu Kitô , là con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế). Nhưng thực ra chỉ có một số người chấp nhận và sống mà thôi”  [Mgr G. Huyghe, Eglise d, Arras, số 2, 1973]

  Nếu so sánh hình ảnh người Kitô hữu nguyên thủy với hình ảnh của rất nhiều người Kitô hữu, hữu danh hơn là hữu thực ngày nay, ta sẽ thấy ngay sự tương phản đập ngay vào mắt, và phải đặt ngay vấn đề triệt để cho mọi cuộc canh tân trong Giáo Hội. Công Đống Vaticanô II là một Công Đồng mang tính cách mục vụ, nghĩa là một công đồng mong ước Hội Thánh thích ứng với những yêu cầu thời đại cả bên trong lẫn bên ngoài. Giả thiết mà Công Đồng dùng làm khởi điểm là Giáo Hội bao gồm nhữngKitô hữu đích thực hay ít ra đang cố gắng trở nên như vậy. Nhưng những dữ kiện nêu trên buộc chúng ta phải xem lại giả thiết ấy. Phải đặt lại vấn đề một lần nữa: Khi nói về người Kitô hữu là chúngta nói cái gì và nói về ai ?

  Câu chất vấn ấy làm ta khó chịu: một cách tổng quát, Kitô hữu hôm nay có thực sự là những tín hữu có một đức tin thiết than, dấn than và đúng thực không ?

  Chúng ta có phận vụ phải xem xét lại các cấu trúc của Giáo Hội trên nhiều bình diện khác nhau, phải làm việc này và phải lâu lắm mới hoàn tất. Nhưng hôm nay, ngay cả nền tảng đức tin cũng bị đặt thành vấn đề. Chúng ta vốn biết rằng Giáo Hội chỉ có ý nghĩa là nhờ Đức Kitô, Đức Kitô chỉ có ý nghĩa nếu Ngài là Con duy nhất của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa chỉ có ý nghĩa nếu Ngài là Thiên Chúa có ngôi vị và sống động. Than ôi, tất cả những điều ấy đều bị lung lay, bị đặt lại vấn đề.

  Nơi nhiều người, đức tin đã bị sói mòn tận căn, Họ cần phải tái khám phá lại ngay nơi trọng tâm của sứ điệp Kitô giáo.

Chúng ta đã quá chú trọng việc “ cử hành bí tích” mà không chú trọng đủ vấn đề “Sống và loan truyền Tin Mừng”. Sự thiếu sót này bùng nổ ở tầm mức lục địa, khắp nơi ai cũng thấy người Kitô hữu không sống phùhợp với đức tin của họ.

Trước tình trạng khẩn cấp này, những tranh cãi nội bộ của chúng ta, dù thiên hữu hay thiên tả, không mang lại một chút nào sáng sủa hơn. Chúng ta cần phãi tìm lại những đặc tính của người Kitô hữu. Sứ mạng của chúng ta không phài là phê phán cá nhân ai, mà là can trường bảo toàn lý tưởng Kitô giáo. Chúng ta phải trình bày Tin Mừng đúng với bản chất của Tin Mừng là cho thế gian biết Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, cùng những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi những kẻ tự nhận mang danh Ngài trước mặt thiên hạ.

  Chúng ta phải mời gọi các Kitô hữu ngày nay càng ý thức sống động hơn về đức tin của họ, gắn bó với Thiên Chúa ngày càng khăng khít hơn. Phải giúp một số Kitô hữu chuyển từ thứ Kitô giáo ít nhiều mang tính xã hội sang thứ Kitô giáo trọn nghĩa. Thứ Kitô giáo được cha mẹ truyền lại chủ yếu do sinh sản và giáo dục cũng phải trở thành thứ Kitô giáo chính mình lựa chọn, dựa trên quyết định của bản than và việc nhận thức rõ ràng lý do chọn lựa như thế. Tertutianô đã nói điều ấy: “Fiunt non nascuntur christiani” nghĩa là: không phải mình sinh ra là Kitô hữu, mà mình trở thành Kitô hữu.

3.     Hướng đến một kiểu mẫu Kitô hữu mới.
  Vậy mấu chốt của vấn đề là có biết bao nhiêu Kitô hữu, hữu danh vô thực, làm thế nào để biến họ thành Kitô hữu đích thực? Làm sao để Phúc Âm Hóa một thế giới vốn đã chịu ảnh hưởng Kitô giáo từ lâu ? Cần phải làm sao để Kitô giáo mà người ta đã tự do lựa chọn được phát triển, trong đó người Kitô hữu phải:

-         trở về với Đức Kitô với tất cả quyết định sáng suốt của mình.
-         Chính mình thừa nhận những bí tích đã đưa mình vào Kitô giáo là Phép Rửa, Thêm Sức. Thánh Thể.
-         Biết cởi mở trong đức tin để đón nhận Thánh Thần và các ơn huệ của Ngài, hầu đáp ứng với định mệnh siêu nhiên mà Thiên Chúa dành cho mình.

  Đó là vấn đề trọng tâm của mọi công tác mục vụ và là điểm tương phản rõ rệt giữa Kitô hữu hữu danh vô thực và Kitô hữu đích thực. Chúng ta phải xem xét  vấn đề này. Người ta không trách các Kitô hữu vì họ là Kitô hữu, mà vì họ không sống đúng như người Kitô hữu.

  Một Giáo Hội chỉ lo thực thi chuyên cần các bí tích thì chưa đủ, mà trước tiên phải biết tuyên xưng d0ạo của mình. Chúng ta phải công bố Đức Giêsu Kitô trong thế giới hôm nay, làm chúng cho niềm tin của chúng ta vào Ngài.

  Đức Giêsu từng nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố ngận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Chúng ta cần những Kitô hữu tin vào Đức Giêsu, Con duy nhất của Chúa Cha, và công bố đức tin của họ vào sự sống lại và vào tác động của Chúa Thánh Thần, đồng thời thực thi niềm tin này vào trong mọi chiều kích của cuộc sống họ.

  Tóm lại, người ta đòi hỏi một Giáo Hội gồm những người tự nguyện, những người thể hiện mạnh mẽ sự tự do của con cái Thiên Chúa. Các bổn phận Kitô hữu không phải giống như những lệnh truyền độc đoán áp đặt từ bên ngoài, nếu không thi hành, thì mắc tội trọng, mà giống như những đòi buộc từ thâm tâm, những mệnh lệnh phát sinh từ bản chất đức tin.

  Giáo Hội ấy, Giáo Hội của ngày mai, sẽ càng ngày càng trở thành một Giáo Hội gồm các Kitô hữu sống tâm tư lưu đày giữa xã hội chung quanh, như hình ảnh cha Karl Rhaner tiên đoán. Giáo Hỗi ấy đang ngày càng thành hình rõ rệt hơn. (Hồng Y LJ Suenens, sđd trg. 150-151).

4.     Những câu hỏi và những lời chất vấn cho một Kitô hữu đích thực hôm nay.

  Điều ấy đòi buộc chúng ta phải xem xét rạch ròi lương tâm của mình. Nếu tôi tự xét mình, tôi phải đặt ra cho tôi câu hỏi.
-         Tôi có thực sự hoán cải, nghĩa là tôi có chấp nhận cuộc sống với tâm hồn trở về với Thiên Chúa, tức Metanoia không ? Hoán cải không chỉ là diệt trừ tội lỗi, dĩ nhiên ưu tiên là thế, nhưng ngày ngày còn phải từ bỏ lối suy nghĩ, quan điểm, thái độ rụt rè và những tiêu chuẩn thường tình của mình.
-         Tôi có thực sự chấp nhận Đức Kitô “Là đường, là sự thật và là sự sống” của tôi không ? Tôi có thể nói, lời nói lạ lùng của Phaolô: “Không còn phảỉ là tôi sống, mà Đức Kitô sống trong tôi” ?
-         Tôi có dám quả quyết rằng, tôi thực sự tin như thế cho dẫu phải chấp nhận hệ quả của niềm tin ấy không?
-         Tôi có thực sự chấp nhận đề Đức Kitô “Kitô hóa” đề Thánh Thần “Thần hóa” tôi một cách trọn vẹn không? Tôi có tin Thánh Thần và các đoàn sủng của Ngài hiện nay cũng có thực như thế kỷ đầu tiên không?
-         Khi tôi thụ phong, Đức Giám Mục chủ phong đã ủy thác cho tôi sứ mạng làm mục tử “trong sức mạnh của các điềm thiêng dấu lạ” Tôi có tin rằng Đức Giêsu đòi hỏi tôi phải phó thác cho Thánh Thần Ngài tới mức đó không?

  Người Kitô hữu của ngày mai chỉ có thể đương đầu với tương lai nếu được chúng ta truyền lại một thứ Kitô giáo hùng mạnh, đầy sức sống, dựa trên quyền năng của Thánh Thần, được bóng Ngài che phủ và có khả năng thực hiện “những điềm thiêng dấu lạ”. Những điều ấy chứng tỏ chúng ta luôn luôn sống trong niềm phấn khởi của biến có Hiện Xuống.

  Chúng ta phải đọc lại Tin Mừng về cảnh tượng ở Nagiarét: Đức Giêsu áp dụng cho chính Ngài lời Isaia về việc Thánh Thần ngự xuống trên Ngài trước khi Ngài đem Tin Mừng đến với muôn dân (Lc 4, 18). Phải nghe lại mệnh lệnh Đức Giêsu truyền cho các Tông Đồ trước khi sai họ đi chinh phục thế gian: “Vậy anh em hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24,49).

Phải châm rãi đọc từng trang quyển giáo lý đầu tiên bằng hình ảnh này, đó là sách Tông Đồ Công Vụ.Chúng ta thấy trong sách ấy hình ảnh Phêrô đang nói với đám đông . Ông trầm tĩnh quả quyết lời tuyên sấm của ngôn sứ Giôen, đã được ứng nghiệm trước mắt họ khi ông loan báo: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ đổ Thánh Thần Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ. Ta cũng sẽ đổ Thánh ThầnTa cả trên tôi nam tớ nữ của Ta. Ta sẽ cho xuất hiện những điềm thiêng trên trời cao” (Cv 2, 17- 18) Phêrô nhắc lại cho họ về Đức Giêsu Nagiazét là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em, và để chứng thực sứ mạng của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng, dấu lạ giữa anh em. Chính anh em đã biết điều đó.

  Dưới ánh sáng các đoạn văn được linh ứng trên, chúng ta phải làm sáng tỏ khái niệm Kitô hữu “chuẩn mực”. Phải dẹp đi những sợ hãi trước những gì thuộc về Thánh Thần mà chúng ta có khuynh hướng cho là “quá đáng”. Phải thay đổi cách dùng từ ngữ của chúng ta, đừng gọi sợ hãi là thận trọng, cũng đường cho thái độ ngập ngừng trước những gì vượt quá sức chúng ta là khôn ngoan. Có làm được như thế, chúng ta mới có thể xác định rõ chân tính của mình, có thể tuyên dương chân tính Kitô hữu “bằng hành động và trong sự thật” và truyền giao chân tính đó lại nguyên vẹn cho các Kitô hữu ngày mai, mối tiếp chúng ta.

Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy          
(Hết chương I)

http://www.thanhlinh.net/node/74945

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét