Trang

Thứ Bảy, 5 tháng 8, 2017

Các mối tương quan và các giá trị của gia đình theo Thánh Kinh

Các mối tương quan và các giá trị của gia đình theo Thánh Kinh

Lm. Raniero Cantalamessa
Người chuyển dịch: 
 Đức Ông Linh Tiến Khải
Bài nói chuyện của tôi chia làm 3 phần. Trong phần thứ nhất, tôi sẽ xin minh hoạ kế hoạch khởi thủy của Thiên Chúa trên Hôn Nhân và Gia Đình và cách thức mà kế hoạch nầy được thực hiện trong lịch sử dân Israel. Trong phần thứ hai, tôi sẽ xin nói về việc tóm tắt do Chúa Kitô thực hiện và về cách thức việc nầy đươc giải thích và được sống trong lòng cộng đồng Kitô giáo Tân Ước. Trong phần thứ ba, tôi sẽ cố gắng xem xét những gì mạc khải Kinh Thánh có thể mang lại giải đáp cho những vấn đề hiện nay về Hôn Nhân và Gia Đình.
 
 
PHẦN THỨ NHẤT
 
HÔN NHÂN và GIA ĐÌNH :
KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA VÀ NHỮNG ĐIỀU CON NGƯỜI THỰC HIỆN
TRONG CỰU ƯỚC
1. KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA
Người ta biết rằng Sách Sáng Thế Ký chứa đựng hai trình thuật cuộc Tạo dựng câp con người đầu tiên,trở ngược về hai truyền thống khác niệt nhau : Truyền thống Ya-vê (thê kỷ 10 trước CN) và truyền thống gần đây hơn (thế kỷ 6 trước CN).
Trong truyền thống tư tế (St 1,26 – 28), ngừơi nam và người nữ được dựng nên cùng một lúc, chứ không phải kẻ trước người sau ; một tương quan được nảy sinh giữa « là người nam và người nữ » và « là hình ảnh của Thiên Chúa » : « Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh Người ; giống hình ảnh Thiên Chúa,Người dựng nên con người ; người nam và người nữ,Người dựng nên họ ». Ở đây tính cứu ácnh đầu tiên của sự kết hợp giữa người nam và người nữ là sinh sôi nẩy nở và tràn đầy mắt đất.
Trong truyền thống Ya-vê (St 2, 18 – 25), người nữ được rút ra từ người nam ; việc dựng nên hai giới tính được xem như một phương thuốc cho sự cô đơn (« người nam ở một mình thì không tốt . Ta phải làm cho nó một trợ thủ xứng hợp với nó »). Dấn nhấn trước tiên không được đặt trên nhân tố sinh đẻ,nhưg là trên nhân tố kết hợp (« Người nam gắn bó với vợ mình và họ trở nên một xương thịt »). Mỗi người vó tự do trước giới tínch của roêng mình và giới tính của người khia : »Cả hai đều trần truồng, người đàn ông và vợ mình, và họ không thấy mắc cở trước mặt nhau ».
Không có nơi nào trong hai văn bản làm ta iên tưởng đến sự lệ thuộc của người nữ vào người nam, trước khi phạm tội : cả hai người đều trên bình diện bình đẳng với nhau, ngang hàng với nhau tuyệt đối, cho dù theo như trong truyền thống Ya-vê, khởi đầu từ người nam.
Cách giải th1ich thuyêt phục nhấtvề lý do tại sao của việc Thiên Chúa « can thiệp » phân biệt thành hai giới tính nầy, tôi đã tìm thấy được không phải nơi một nhà chú giải,mà là nơi một nhà thơ,Paul Claudel :
« Kẻ kiêu căng nầy : không có cách gì khác làm cho nó hiểu được người lân cận, làm cho nó vào sâu trong da thịt. Không còn cách nào khác làm cho nó hiểu sự phụ thuộc vào nhau, sự cần thiết và nhu cầu, một người khác trên nó, luật lệ trên nó của hữu thế khác biệt ấy chẳng vì lý do nào khác ngoài lý do nó hiện hữu »(P.Claudel, Le soulier de satin, a. III. sc.8 (éd. La Pléiade, II, Parigi 1956, p. 804)
« Mở ra cho phái tính khác là bước đầu để mở ra cho người khác, tức là người lân cận, cho đến Người Khác viết hoa,tức là Thiên Chúa. Hôn nhân ra đời dưới dấu hiệu khiêm nhường. Nó là sự thừa nhận sự lệ thuộc của nó và do đó, sự lệ thuộc của thân phận ạto vật của nó. Yêu một người nữ hoặc một người nam tượng trưng cho hành vi khiêm tốn căn bản nhất. Đó là làm cho mình nên người ăn xin và nói với người kia : « Anh/em không còn đủ cho chính mình nữa. Anh/em cần đến em/anh, cần đến hữu thể của em/anh ». Theo như Schleimacher suy nghĩ, nếu bản chất của tôn giáo trong « cảm giác lệ thuộc » (Abhaengigheisgefuehl) ở trước mặt Chúa, thì giới tính con người là trường học tôn giáo đầu tiên.
Cho tới nay là kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng người ta không thể giải thich đựơc đoạn tiếp của Kinh Thánh nếu như cùng lúc với trình thuât cuộc tạo dựng, chúng ta không để ý tới sự sa ngã, nhất là những gì đã đựơc nói về người nữ : “Ta sẽ nhân lên những đau đớn khi ngươi mang thai và ngươi sẽ sinh con trai trong đau đớn . Lòng tham của ngươi sẽ đẩy ngươi về phía chồng người và nó sẽ thống trị ngươi » (St 3,16). Ưu thế của người nam trên người nữ là môt phần của tội lỗi con người, không phải trong kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chua loan báo điều nầy với những lời ấy.Người không chuẩn y điều đó.
 
2. NHỮNG ĐIỀU CON NGƯỜI THỰC HIỆN
Kinh Thánh là một cuốn sách của Thiên Chúa và con người, bởi vì tác giả của nó là Thiên Chúa và con người, nhưng cũng vì nó mô tả, hoà trộn vào nhau, sự trung thành của Thiên Chúa và sự bất trung của con người ; không chỉ qua chủ thể nó tả lại,mà còn qua đối tượng của Sách Thánh. Điều đó đặc biệt đập vào mắt khi người ta so sánh kế hoạch của Thiên Chúa về Hôn Nhân và Gia Đình với việc áp dụng cụ thể trong lịch sử dân riêng.
Tưởng cũng nên nêu lên những điểu ngu đần ngớ ngẫn và những lầm lạc của con người để khỏi phải quá ngạc nhiên bởi những gì đang xảy ra chung quanh chúng ta ; và cũng bởi vì đó là chứng cứ cho thấy hôn nhân và gia đình là những cơ chế, ít ra là trong thực hành, tiến hoá theo thời gian như tất cả mọi khía cạnh khác của đời sống xã hội và tôn giáo. Vẫn ở trong Sách Sáng Thế, ta đã thấy Lamech,con của Cain vi phạm chế độ một vợ một chồng khi lấy hai vợ. Ông Noê cùng với gia đình dường như là một ngoại lệ giữa sự thối nát chung ở thời đại ông sống. Chính các tổ phụ Abraham và Giacóp cũng có những con cái từ nhiều bà vợ. Môsê cho phép thực hành ly dị. David va Salomon có cả một hậu cung hùng hậu.
Nhưng người ta quan sát những lệch lạc nầy, như vẫn thường làmn như thế, ở chóp đỉnh xã hội giữa các thủ lãnh, hơn là ở cấp độ bình dân, mà với họ ý tưởng hôn nhân một vợ một chồng nguên thủy phải thành luật, không có ngoại lệ. Các Sách Khôn Ngoan – Thánh Vịnh, Châm Ngôn, Siracide (Giáo Sĩ) – hơn là các sách lịch sử (đề cập đến các thủ lãnh) cho phép chúng ta có được hình ảnh về những quan hệ và giá trị gia đình được cân nhắc suy xét và được sống ở Israel. : trung thành trong hôn nhân; giáo dục con cái; tôn kính cha mẹ. Giá trị cuối cùng nầy cấu thành một trong mười giới răn:” hãy thảo kính cha mẹ”.
Còn hơn là những vựơt rào vi phạm cụ thể ở mức độ cá thể, sự rời xa lý tưởng nguyên thủy hiện rõ trong khái niệm căn bản mà người ta có về hôn nhân ở Israel. Việc làm cho hoá ra tối tăm chính liên quan tới hai điểm chủ yếu : Điểm thứ nhất là hôn nhân, từ cứu cánh,trở thành phương tiện. Cựu Ước,trong tổng thể của nó, coi hôn nhân như “một cấu trúc quyền bính theo kiểu gia trưởng,chủ yếu để làm cho bộ tộc tồn tại mãi. Chính trong ý nghĩa nầy mà ta phảu hiểu việc thành lập tộc Lêvi (Đnl 25, 5 -10), lập ra việc lấy vợ lẽ (St 16) và chế độ đa thê tạm thời. Lý tưởng một sự hiệp thông đời sống giữa người nam và người nữ, đặt nền tảng trên tương quan ác nhân và lẫn nhau không bị bỏ quên,nhưng bị đặt xuống hàng thứ yếu sau lợi ích của con cái.
Việc làm cho hoá ra tối tăm thứ hai và sâu xa được nối kết với thân phận người phụ nữ: từ người bạn đời của ngươi đàn ông, được phú cho một phẩm giá bình đẳng, người phụ nữ ngày càng tỏ ra lệ thuộc đàn ông và theo ý đàn ông. Người ta có thể nhìn thấy điều đó tận trong lời ca tụng người phụ nữ trong Sach Châm Ngôn: “Tìm đâu được người đàn bà…Nàng qúy hơn châu ngọc…” (Cn 31,10 tt). Lời ca tụng nầy hoàn toàn là theo ý người đàn ông. Kết luận là : phúc thay ngừơi đàn ông nào có được một người vợ như thế! Nàng dệt cho ông những y phục đẹp đẽ, làm cho nhà cửa của ông danh giá, làm ông nở mặt nở mày với bạn bè. Tôi không tin rằng các phụ nữ ngày nay sẽ phấn khởi vì lòi ca tụng nầy.
Các tiên tri, đặc biệt là tiên tri Ôsê,Isaia và Giêrêmia, đã đóng một vai trò quan trọng khi đem ra lại ánh sáng kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Với việc nhìn nhận trong sự kết hợp của người nam và người nữ sự tượng trưng cho giao ước giữa Thiên Chúa và Dân Người, một cách gián tiếp các tiên tri nầy đặt lại ở vị trí hàng đầu những giá trị của tình yêu lẫn nhau,của sự trung thành và sự không thể chia lìa vốn là đặc trưng thái độ của Thiên Chúa đối với Israel. Tất cả các giai đoạn và những sự thăng trầm của tình yêu vợ chồng được gợi lên và được sử dụng trong mục đích nầy : sự say đắm của tình yêu thời kỳ chớm nở trong đính hôn (Gr 2,2); niềm vui tròn đầy ngày tiệc vui thành hôn (Is 72,5); bi kịch đổ vỡ (Is 2,4 tt) và cuối cùng sự tái sinh đầy tràn hy vọng của tình xưa nghĩa cũ (Os 2,16;Is 54,8).
Tiên tri Malakia chỉ cho thấy nhữngẩanh hưởng có lợi mà thông điệp tiên tri có thể đem đến cho hôn nhân con người và nhất là cho thân phận người phụ nữ. Thông điệp viết :” Đức Chúa là chứng nhân giữa anh và người nữ thời trai trẻ của anh, mà anh đã phản bội,mặc dầu nàng đã là bạn trăm năm của anh và là người phụ nữ giao ước của anh. Chẳng phải đã là một hữu thể duy nhất,có xương thịt và hơi thở sự sống? Và hữu thể duy nhất nầy, nó kiếm tìm điều gì? Một hậu duệ mà Thiên Chúa ban cho! Hãy tôn trọng đối với cuộc đời anh và ngừơi vợ thời trai trẻ của anh, chớ phản bội nàng!”(Mk 2,14 – 15)
Chính dưới ánh sáng của truyền thống tiên tri nầy mà thích hợp cho vệic đọc Sách Nhã Ca. Nó tượng trưng cho sự tái sinh nhãn quan hôn nhân như là sự hấp dẫn lẫn nhau, như eros, như niềm say mê của người nam trước người nữ ( trong trường hợp nầy,, cũng là niềm say mê của người nữ trước người nam);một nhãn quan hiện diện trong trình thuật cũ xưa nhất cuộc tạo dựng.
Mặt khác, một khoa chú giải hiện đại nào đó sẽ lầm lẫn khi giải th1ich Nhã Ca chỉ bằng những từ ngữ nói về tình yêu nhân loại giữa một người nam là một người nữ. Tác giả Sách Nhã Ca tự đặt mình ở tâm lịch sử tôn giáo của dân ông, nơi tình yêu con người đã được các tiên tri coi như là một ẩn dụ cua giao ước giữa Thiên Chúa và dân tộc Người. Tiên tri Osê đã biến câu chuyện hôn nhân của chính mình thành một ẩn dụ các quan hệ giữa Thiên Chúa và Israel. Làm sao tưởng tượng được rằng tác giả Sách Nhã Ca lại có thể bỏ tất cả những điều đó đi đươc chứ? Đọc sách Nhã Ca huyền bí, vốn rất được truyền thống của Israel và Giáo Hội yêu thích, do vậy không phải là một cấu trúc thượng tầng đến sau, mà một cách nào đó đã mặc nhiên có trong sách. Thay vì rút đi bất cứ điều gì trong sự tán dương tình yêu con người, sách còn phong ban cho tình yêu con người một nét huy hoàng và nét đẹp mới mẻ.
 
 
 
PHẦN THỨ HAI
 
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG TÂN-ƯỚC
 
1. TÓM TẮT HÔN NHÂN TRONG CHÚA KITÔ
Thánh Irênê giảo thích “sự tóm tắt mọi sự nầy - anakephalaiosis” được thực hiện trong Chúa Kitô (Ep 1,10) như là một “lấy lại mọi sự từ đầu để dẫn chúng tới sự thành toàn của chúng”. Khái niệm nầy bao hàm đồng thời một tính liên tục và một tính mới lạ khi có liên quan đến hôn nhân, được thực hiện một cách gương mẫu trong công trình của Chúa Kitô.
1.1 Tính liên tục
 
Chương 19 Phúc Âm theo Thánh Matthêu tự nó cũng đã đủ để minh hoạ hai khía cạnh của viêc tóm tắt nầy. Trước hết chúng ta hãy xem Chúa Giêsu lấy lại mọi sự từ khởi đầu như thế nào.
“Những người Biệt phái đến gần Người và hỏi Người để thử thách Người : “Có được phép rẩy vợ mình vì bất kỳ lý do gì chăng?” .Người đáp :”Các ông đã không đọc thấy rằng Đấng Tạo Hoá,ngay từ khởi thủy, đã dựng nên họ người nam và người nữ [St 1,27] và Chúa nói với họ : Vì thế người nam sẽ bỏ cha mẹ mình để gắn bó với vợ mình và cả hai chỉ còn là một xác thịt duy nhất,sao? [ St 2,24]. Ví vậy họ không còn là hai, nhưng là một huyết nhục mà thôi. Vậy thì! Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được tách nó ra” (Mt 19, 3 – 6).
Chúa Giêsu trả lời cho các đối thủ vốn chỉ biết suy luận trong lãnh vực bị bó hẹp của một khoa ngụy biện thuộc trường phái (quanh quẩn ở việc có được phép rẩy vợ mình vì bất cứ lý do gì hay là vần phải có một lý do rõ ràng và nghiêm túc) bằng việc lấy lại vấn đề ở gốc rễ, từ khởi đầu. Trong các trích dẫn của Người, Chúa Giêsu tham chiếu hai trình thuật về việc thiết lập hôn nhân, lấy các yếu tố của cả trình thuật nầy lẫn trình thuật khi và khởi từ đó, như chúng ta đã thấy, Người đưa ra ánh sáng khía cạnh hiệp thông những con người.
Bản văn tiếp theo, về vấn đề ly dị, cũng đi theo chiều hướng nầy. Chúa Giêsu tái khẳng định sự trung thành và sự không thể phân ly của mối dây liên kết hôn nhân, vượt qua cả thiện ích của lời mà qua đó chế độ đa thê và ly dị đã được biện minh trong quá khứ.
Những người Biệt-phái bắt bẻ Người :”Tại sao Ông Môsê đã truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ - Người bảo họ :”Vì các ông lòng chai dạ đá,nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không phải như vậy. Tôi nói cho các ông biết : ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mình mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19, 7 – 9).
Bản văn song song của Mác-cô cho thấy làm sao, theo Chúa Giêsu, trong trưìơng hợp ly dị, người nam và người nữ được đặt trên một bình diện bình đẳng tuyệt đối :” Ai rẫy vợ mình và cưới một phụ nữ khác làm vợ, thì phạm tội ngoại tình với vợ mình; va nếu một người vợ ly dị chồng mình và lấy một người khác làm chồng, thì người nữ đó phạm một tội ngoại tình”.
Tôi không ngừng lại ở câu “ngoại trừ khi phạm tội ngoại tình” (porneia)bởi vì như mỗi người đều biết, các Giáo Hội Chính Thống và Tin Lành giải thích câu nầy một cách khác biệt với Gíao Hội Công giáo. Đúng ra phải nhấn mạnh “nền tảng bí tích mặc nhiên của hôn nhân” đựôc trình bày trong câu trả lời của Chúa Giêsu. Những lời “điều gì Thiên Chúa đã kết hợp” khẳng định rằng hôn nhân không phải à một thực tại đơn thuần thế tục chỉ do kết quả ý muốn của con người. Ở đây có một chiều kích linh thánh đi lên tận đến Thánh ý Chúa.
Việc nâng hôn nhân lên hàng “ bí tích’ do vậy không dựa trên lý lễ yếu ớt về sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana và trên đoạn 5 thư gửi tín hữu Êphêsô. Một cách nào đó nó bắt đầu với Chúa Giêsu ở dưới đất. Đức giáo hàong Gioan-Phaolô II có lý khi Người định nghĩa hôn nhân “là bí tích cũ xưa nhất”.
 
1.2 Nét mới mẻ.
Cho tới nay, chúng ta đã gợi lên tính liên tục. Nhưng tính mới lạ thì gồm những gì vậy? Một cách nghịch lý, sự mới lạ hệ tại ở sự tương đối hoá hôn nhân. Hãy cùng nghe bản văn của Thánh Mat-thêu sau đây:
“Các môn đệ nói với Người : “Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ,thì thà đừng lấy vợ còn hơn”. Người nói với họ :”Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy,nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu,mới hiểu được. Quả vậy,có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn;lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu” (Mt 19, 10 12).
Qua những lời nầy,Chúa Giêsu thiết lập một trạng thái cuộc sống thứ hai,biện minh cho nó bằng việc Nươc Trời đến trên trần gian. Điều nầy không thủ tiêu khả năng kia,- hôn nhân- nhưng tương đối hoá nó.. Điều nầy xảy ra giống như ý tưởng quốc gia trong lãnh vực chính trị : nó không bị bải bỏ,nhưng được tương đối hoá một cách căn bản trong việc mạc khải sự hiện diện cùng thời,trong lịch sử, của một vương quốc Thiên Chúa.
Để được công nhận có giá trị, sự tiết dục tự nguyện do vậy không cần người ta phải phủ nhận hoặc coi thường hôn nhân (một số tác giả xưa,trong các bài viết về đức trinh khiết, đã rơi vào sai lầm nầy). Đức trinh khiết,trái lại, chỉ có ý nghĩa nhờ sự khẳng định đồng thời của sự thiện hảo hôn nhân. Việc thiết lập luật độc thân và đức trinh khiết vì Nước Trời làm tăng giá trị hôn nhân,vì nó làm cho hôn nhân trở thành một chọn lựa,một ơn gọi chứ không còn chỉ là một nghĩa vụ đạo đức luân lý, mà ở [xã hội] Israel không ai được miễn trừ mà lại không bị tố cáo là vi phạm giới răn Đức Chúa Trời.
Cần phải lưu ý một điều mà người ta thừơng hay quên. Luật độc thân và đức trinh khiết có nghĩa là từ bỏ hôn nhân, chứ không phải là từ bỏ giới tính vẫn luôn mang đầy ý nghĩa phong phú, ngay cả khi giới tính được sống thao cách khác. Người nam nào đã chọn sống độc thân và ngừơi nữ nào đã chọn sống trinh khiết cũng trải nghiệm được nét quyến rủ và do vậy trải nghiệm đựơc sự phụ thuộc so với giới kia và chính đó là cái làm cho sự chọn lựa đức khiết tịnh của họ có ý nghĩa và chính vì thế mà nó qúy giá.
 
1.3 Chúa Giêsu, kẻ thù của gia đình?
 
Giữa nhiều luận điểm được đưa ra những năm gần đây nhất trong lãnh vực “nghiên cứu thứ ba về Chúa Giêsu lịch sử”, có luận đề về một Giêsu được coi là đã rẩy bỏ gia đình tự nhiên và tất cả mọi liên hệ thân thích họ hàng của Người, lấy danh nghĩa là đã thuộc về một cộng đồng khác biệt, nơi đó Thiên Chúa là Cha và các môn đệ tất cả đều là anh chị em, đề ra cho các môn đệ Người một cuộc đời nay đây mai đó, giống như cácc triết gia phái khuyển nho cũng làm như vậy bên ngoài Israel.
Thoạt nhìn đã thấy có những lời nói gây bối rối trong các Phúc Âm. Chúa Giêsu đã nói :”Ai theo Ta mà không ghét cha,mẹ,vợ con,anh chị em và cho đến cả mạng sông mình, thì không thể làm môn đệ của Ta” (Lc 14,26). Những lời nói cứng rắn hết sức ấn tượng, chắc chắn rồi, nhưng thánh sử Matthêu vội vàng giải thích ý nghĩa của từ “ghét” : “Ai yêu mến cha hoặc mẹ mình hơn Ta,thì không xứng vớiTa. Ai yêu con trai hoặc con gái mình hơn Ta,thì không xứng với Ta” (Mt 10,37). Chúa Giêsu do vậy không đòi phải ghét cha mẹ hoặc con cái, nhưng là không được yêu mến hơn đến mức từ chối đi theo Người vì họ.
Một đoạn khác gây bối rối. Một hôm Chúa Giêsu nói với một người : “Hãy theo Ta”. Ngừơi ấy thưa :”Cho phép con trước hết đi chôn cất cha con đã”.Nhưng Người nói với ngừơi ấy :”Hãy để kẻ chết chôn người chết của họ; còn anh, anh hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa” (Lc 9,59 tt). Đối với một số người chỉ trích, trong đó có gíao sĩ Do Thái người Mỹ Jacob Neusner mà Đức Biển Đức XVI đối thoại với ông trong cuốn sách Chúa Giêsu Nazaret của Người, thì đó là một đòi hỏi xúc phạm, một sự không vâng lời Thiên Chúa là Đấng ra lệnh chăm sóc cha mẹ, một vi phạm hiển nhiên các bổn phận gia đình.
Người ta có thể đồng ý một điều với giáo sĩ Neusner : những lời nầy của Chúa Kitô không giải thích được nếu người ta chỉ coi Người như một con người, dù là ngừơi ngoại lệ. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi người ta yếu mến Người hơn là một người cha và rằng để đi theo Người, người ta còn phải từ bỏ cả việc có mặt dự chôn cất người đó. Đối với các tín hữu, thêm một bằng chứng cho thấy Chúa Giêsu là Thiên Chúa; với Neusner, đó là lý do khiến người ta không thể đi theo Người.
Trước những đòi hỏi nầy của Chúa Giêsu, sự bối rối cũng phát sinh từ sự việc người ta không để ý đến sự khác biệt giữa những gì Người đòi hỏi nơi mọi người một cách không rõ ràng phân biệt và những gì Người chỉ đòi hỏi nơi một số người được gọi để chia sẻ đời sống trọn hiến cho Nước Trời, như vẫn còn xảy ra ngày nay trong Giáo Hội. Người ta cũng phải nói điều tương tự về việc từ bỏ hôn nhân : Người không áp đặt đềiu nầy và không đề nghị với mọi người không ph6n biệt, nhưng chỉ đề nghị với những ai chấp nhận nên giống như Người, phục vụ trọn vẹn Nước Trời (x. Mt 19,10 12).
Tất cả những nghi ngờ về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình và hôn nhân rơi rụng,nếu chúng ta để ý đến những đoạn Phúc Âm khác. Chúa Giêsu là người nghiêm khắc nhất trong hêt mọi ngừơi về những gì liên quan đến sự không thể chia lìa của hôn nhân và nhắc nhở mạnh mẽ điều răn tôn kính cha mẹ mình. Người lên án việc viện cớ tôn giáo mà không thực hành bổn phận giúp đỡ cha mẹ (x. Mc 7, 11 – 13). Biết bao phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện để làm dịu đau khổ của các ông bố (ông Gia-irô, ông bố người bất toại), của các bà mẹ (phụ nữ xứ Canaan,bà goá Naim) hoặc của các người anh và các bà chị (các chị của Lazarô) và do vậy, để tôn vinh những mối liên hệ họ hàng thân thuộc. Hơn một lần, Người chia sẻ đau khổ của các bậc cha mẹ đến nỗi khóc cùng họ.
 
Ở một thời đại như ngày nay khi mà mọi sự dường như muốn làm suy yếu các mối liên hệ và các giá trị gia đình, chỉ còn thiếu một nỗi là Chúa Giêsu và Phúc Âm liên minh nhau chống lại gia đình! Chúa Giêsu đến đem lại cho hôn nhân vẻ đẹp nguyên thủy, để củng cố hôn nhân,chứ không làm nó suy yếu.
 
2. HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG GIÁO HỘI THỜI CÁC TÔNG ĐỒ
 
Như chúng ta đã làm đối với kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa và về sự tóm tắt do Chúa Kitô thực hiện, bây giờ chúng ta hãy tìm xem có được đón nhận và sống thế nào trong cuộc sống và trong giảng dạy giáo lý của Giáo Hội, được gắn liền lúc nầy với Giáo Hội thời các tông đồ. Ở đây Thánh Phaoô là nguồn thông tin chính cho chúng ta, bởi vì Ngài đã phải đương đầu vơi vấn nạn nầy trong một số thư của Ngài,nhất là trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô.
Thánh Tông Đồ phân biệt những gì đến trực tiếp từ Chúa Giêsu,từ những áp dụng đặc biệt mà Ngài làm trong bối cảnh mới mà Phúc Âm được rao giảng. Trong trường hợp thứ nhất, chính tính chất không thể phân ly của hôn nhân được đề cập :”Còn với những ngừơi đã kết hôn,tôi ra lệnh nầy, không phải là tôi,mà là Đức Chúa : vợ không được bỏ chồng;mà nếu đã bỏ chồng,thì phải ở độc thân hoặc phải làm hòa với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ” (I Cor 7,10 11). Trong trường hợp thứ hai, chúng ta nhìn thấy những cỉ dẫn Ngài ban khi có hôn nhân giữa ngừơi có Đạo và người ngoài Đạo; và những bố trí liên quan đến những người sống độc thân và trinh nữ :”Còn với những người đã kết hôn,v..v…Vế vấn đề độc thân,v..v…” (x. I Cor 7,10 – 11 ;I Cor 7,25). Từ thời Chúa Giêsu, Giao Hội thời các Tông Đồ cũng đã tiếp nhận một sự mới mẻ, như chúng ta đã thấy, hệ ở sự thiếp lập một tình trạng đời sống thứ hai : Độc thân và trinh khiết vì Nước Trời. Với những người ấy, Thánh Phaolô - bản thân Ngài cũng không lập gia đình – dành phần cuối chương 7 thư của Ngài. Căn cứ vào câu :”Tôi mong ước mọi người đều như tôi;nhưng mỗi người đón nhận từ Thiên Chúa đặc sủng riêng,kẻ thế nầy,người thế khác” (I Cor 7,7), một số người nghĩ rằng Thánh Tông Đồ xem hôn nhân và sự tring khiết như hai đặc sủng. Không đúng như vậy! Các trinh nữ đã đón nhận đặc sủng đức trinh khiết, còn những người vợ chồng có được những đặc sủng khác (hiểu ngầm : không phải là đặc sủng đức trinh khiết). Thật có ý nghĩa khi thần học Giáo Hội luôn coi đức trinh khiết như một đặc sủng, chứ không phải là một bí tích và coi hôn nhân như một bí tích, chứ không phải là một đặc sủng.
Văn bản thư gửi tín hữu Êphêsô có một trọng lượng đáng kể trong tiến trình sẽ dẫn tới (khá lâu sau đó) việc công nhận tính chất bí tích của hôn nhân :”Chính vì vậy ngừơi đàn ông sẽ lìa cha mẹ để gắn bó với vợ mình; và cả hai sẽ thành một xương một thịt: Mầu Nhiệm nầy thật cao cả: tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5, 31 – 32). Đây không phải là một lời khẳng định đơn độc hoặc ngẫu nhiên,do việc dịch không rõ ràng từ “mầu nhiệm” (mysterion) sang tiếng la-tinh bí tích (sacramentum). Hôn nhân như biểu tượng quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội đặt nền tảng trên toàn thể một loạt những lời được loan báo và những dụ ngôn, trong đó Chúa Giêsu đã áp dụng cho chính mình danh hiệu hôn phu, mà các tiên tri đã gán cho Thiên Chúa.
Trong khi công đồng Công giáo lớn lên và dần dà nên vững chắc, người ta thấy triển nỡ cả một mục vụ và một linh đạo về gia đình. Những văn bản ý nghĩa nhất cho chủ đề nầy là các thư gửi tín hữu Côlôsê và Êphêsô. Hai mối quan hệ căn bản cấu thành gia đình được đưa ra ánh sáng ở trong hai thư ấy : tương quan vợ - chồng và tương quan cha mẹ - con cái. Về tương quan thứ nhất [ vợ - chồng], Thánh Tông Đồ viết: “Vợ chồng hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Chúa Kitô. Ước gì người vợ phụ tùng người chồng như Giáo Hội phục tùng Chúa Kitô;các bà vợ cũng phải phục tùng các người chồng trong mọi sự. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội : Người đã phó nộp mình vì Giáo Hội”.
Thánh Phaolô nhắn nhủ người chồng “yêu thương” vợ mình ( điều nầy bình thường với chúng ta), nhưng tiếp sau đó Ngài nhắn nhủ người vợ “phục tùng”chồng mình và đềiu ấy dường như không thể chấp nhận được trong một xã hội ý thức mạnh mẽ về sự bình đẳng giữa các giới. Về điểm nầy, Thánh Phaolô, ít là một phần, chịu ácc đềiu kiện tập tục thời đại Ngài sống. Dù vậy cũng phải xem lại khó khăn nầy bằng vệic lưu ý tới câu ở đầu thư : “Vì lòng tôn kính Chúa Kitô, hạy phục tùng lẫn nhau”, thiết lập một tương quan lẫn nhau trong sự phục tùng cũng như trong tình yêu.
Về mối tương quan cha mẹ - con cái, Thánh Phaolô nhắc lại những lời khuyên răn truyền thống của văn chương sách khôn ngoan :” Hỡi con cái, hãy vâng lời cha mẹ, trong Đức Chúa: đó là đìêu ch1inh đáng. Hãy tôn vinh cha ngươi và mẹ ngươi. (Cn 6,20), đó là giới răn đầu tiên nối liền với một lời hứa : để ………(Xh 20,12). Hỡi các bậc làm cha làm mẹ, đừng làm cho con áci tức giận;nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6, 1 – 4).
Các thư mục vụ, đặc biệt là Thư gửi Titô, cho thấy những chi tiết cho mỗi phạm trù những con người :những người vợ,những người chồng, các giám mục và linh mục, những người cao tuổi, những thanh thiếu niên, các bà goá, các ông chủ, những người nô lệ ( x. Tt 2, 1 – 9).Quả thật, ngay cả các nô lệ cũng làm thành phần gia đình trong quan niệm mở rộng về gia đình.
 
Ngay cả trong Giáo Hội tiên khởi, lý tưởng hôn nhân được Chúa Giêsu đề xuất lại, sẽ không được thực hiện mà không gặp những bóng tối hoặc chống cự. Nhu cầu mà các Tông Đồ cảm nhận phải nhấn mạnh lên khía cạnh nầy của cuộc sống Kitô giáo làm chứng cho điều ấy, tất nhiên không tính đến trường hợp loạn luân ở Côrintô (x. I Cor 8,1 tt). Nhưng xét tổng thể, các Kitô hữu đã giới thiệu cho thế giới một kiểu mẫu gia đình mơi tỏ cho thấy đó là một trong những nhân tố công cuộc rao giảng Tin Mừng.
Tac giả thư gửi Diognète ở thế kỷ thứ 2 khẳng định rằng các Kitô-hữu “lập gia đình như mọi người, cũng có con cái,nhưng không bỏ rơi con cái mới sinh của họ. Họ chia sẻ cùng một bàn ăn,nhưng không chung một giường nằm” (V, 6 – 7). Trong cuốn Apologies, Justin đưa ra lý lẽ rằng chúng ta,các Kitô hữu ngày nay,lẽ ra pảhi có thể đối thoại với các nhà cầm quyền chính trị. Ông nói như sau : Các Ngài, hỡi những hoàng đế La Mã, các Ngài nhân lên các luật lệ về gia đình,nhưng chúng chio thấy không hiệu quả để tránh cho gia đình đổ vỡ. Hãy đến mà xem gia đình của chúng tôi và các Ngài sẽ xác tín rằng Kitô hữu là những đồng minh tốt nhất của cuộc cải cách xã hội,chứ không phải là kẻ thù của các Ngài. Kết thúc,sau ba thế kỷ bách hại, vị hoàng đế đã tiếp nhận kiểu mẫu Kitô giáo về gia đình trong luật pháp của ông.
 
THUYẾT-TRÌNH VỀ GIA ĐÌNH CỦA CHA RANIERO CANTALAMESSA
Đại Hội Thế Giới Lần thứ VI về Gia Đình (Mexico 14.01.2009)
(còn tiếp một kỳ)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét