Trang

Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2017

Học hỏi Tông huấn Dạy Giáo lý

Học hỏi Tông huấn Dạy Giáo lý




Học hỏi Tông huấn
catechesi tradendae
Dẫn nhập
1. Tông huấn Dạy Giáo lý là tài liệu gì?
Đáp: Tông huấn Dạy Giáo lý là tông huấn về việc dạy giáo lý trong Giáo hội và thế giới do Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II công bố vào ngày 16-10-1979.
Đây là thành quả của Thượng hội đồng Giám Mục thông thường thứ IV nhóm họp tại Rô-ma từ ngày 30-9 đến 29-10-1977.
2. Tại sao dạy giáo lý luôn được Giáo hội coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mình?
Đáp: Vì trước khi lên cùng Cha Người, Đức Ki-tô phục sinh đã ban cho các Tông đồ một lệnh truyền cuối cùng: làm cho mọi dân tộc trở nên môn đệ và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền.
3. Qua lệnh truyền đó, Đức Giê-su trao ban cho các ông điều gì?
Đáp: Đức Giê-su ban cho các ông:
§ sứ mệnh và quyền năng loan truyền cho nhân loại điều mà các ông đã nghe, thấy tận mắt, chiêm ngưỡng, tay đã chạm đến, về Ngôi Lời ban sự sống;
§ sứ mệnh và quyền năng giải thích một cách có thẩm quyền điều mà Người đã dạy các ông, lời nói và việc làm của Người, các dấu lạ và giới răn của Người;
§ Thần Khí để chu toàn sứ mệnh ấy.
4. Cụm từ dạy giáo lý được dùng để biểu thị điều gì?
Đáp: Cụm từ dạy giáo lý được dùng để biểu thị toàn thể nỗ lực của Giáo hội nhằm:
§ gầy dựng các môn đệ, giúp người ta tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, ngõ hầu nhờ đức tin họ được sống nhờ danh Người;
§ giáo dục và dạy dỗ họ trong cuộc sống ấy và nhờ thế, xây dựng Thân thể Đức Ki-tô.
5. Trong thời gian vừa qua, có những nỗ lực nào liên quan đến việc dạy giáo lý?
Đáp: Đó là:
§ Giáo huấn của công đồng Va-ti-ca-nô II;
§ Ngày 18-3-1971, Đức Phao-lô VI phê chuẩn Tập chỉ dẫn tổng quát về việc dạy giáo lý do Thánh Bộ Giáo sĩ soạn thảo;
§ Năm 1975, Đức Phao-lô VI thiết lập Hội Đồng Quốc tế về khoa dạy giáo lý;
§ Ngày 18-12-1975, Đức Phao-lô VI ban hành tông huấn Evangelii nuntiandi;
§ Đại hội thứ IV của Thượng Hội Đồng Giám mục về việc dạy giáo lý;
§ Mẫu gương về cách dạy giáo lý của Đức Gio-an Phao-lô II nhằm vào điểm cốt yếu và đồng thời có tính cách bình dân, với những cử chỉ và lời nói đơn sơ,
6. Đại hội lần IV của Thượng Hội đồng Giám mục có chủ đề gì?
Đáp: Chủ đề: việc dạy giáo lý, đặc biệt là việc dạy giáo lý cho trẻ em và giới trẻ.
7. Tông huấn nhắm mục đích gì?
Đáp: Tông Huấn có mục đích:
§ làm cho đức tin và đời sống Ki-tô hữu thêm vững mạnh;
§ đem lại một sinh lực mới cho các sáng kiến hiện hành;
§ kích thích óc sáng tạo -với sự thận trọng cần thiết;
§ giúp lan toả giữa các cộng đoàn niềm vui là được đem đến cho thế giới mầu nhiệm Đức Ki-tô.
8. Tông huấn Dạy giáo lý có bố cục như thế nào?
Đáp: Sau phần Nhập đề, Tông huấn chia thành 9 chương, 2 chương đầu là cái nhìn lịch sử, 7 chương sau đề cập đến các khía cạnh của việc dạy giáo lý:

Chương I: Chúng ta chỉ có một vị Thầy là đức Giê-su Ki-tô;
Chương II: một kinh nghiệm cổ xưa như Giáo hội;
Chương III: việc dạy giáo lý trong hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo hội (dạy giáo lý là gì?);
Chương IV: toàn thể Tin mừng múc từ nguồn mạch (dạy cái gì?);
Chương V: mọi người cần được hấp thụ giáo lý (dạy cho ai?);
Chương VI: một vài đường lối và phương tiện của ngành dạy giáo lý (đường lối và phương tiện nào?);
Chương VII: dạy giáo lý cách nào (dạy cách nào?);
Chương VIII: niềm vui của đức tin trong một thế giới đầy khó khăn (dạy nơi nào?);
Chương IX: nhiệm vụ ấy liên quan đến tất cả chúng ta (Ai dạy?)
 

Chương 1: Chúng ta chỉ có một vị Thầy là đức Giê-su Ki-tô
9. Mục đích tối hậu của khoa dạy giáo lý là gì?
Đáp: Đó là:
§ làm cho người ta thông hiệp với ngôi vị Đức Ki-tô;
§ thông truyền giáo huấn của Đức Ki-tô.
10. Đức Ki-tô là vị Thầy duy nhất có nghĩa là gì?
Đáp: Điều đó có nghĩa là:
§ trong việc dạy giáo lý, chính Đức Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể và Con Thiên Chúa là Đấng được giảng dạy - tất cả những điều khác được giảng dạy bằng cách quy chiếu về Người
§ chỉ một mình Đức Ki-tô giảng dạy - mọi người khác giảng dạy tùy theo mức độ mà họ là phát ngôn viên của Người để Đức Ki-tô dùng miệng họ mà giảng dạy.
11. Vẻ uy nghi của Đức Ki-tô Thầy dạy cũng như tính mạch lạc và sức thuyết phục độc nhất vô nhị của Lời Người giảng do đâu mà có?
Đáp: Đó là do lời nói, dụ ngôn và lập luận của Người không hề tách rời khỏi đời sống và bản thân Người. Theo nghĩa này, toàn thể cuộc đời của Đức Ki-tô là một bài giảng liên tục.
12. Để đạt được mục đích của việc dạy giáo lý, giáo lý viên phải làm gì?
Đáp: Giáo lý viên phải:
§ chuyên cần học hỏi Lời Chúa do Huấn quyền của Giáo hội thông truyền;
§ hiệp thông sâu xa với Đức Ki-tô và với Chúa Cha;
§ có tinh thần cầu nguyện và từ bỏ bản thân mình.
Chương hai: một kinh nghiệm cổ xưa như Giáo hội
13. Tông huấn có nhận định nào về cuộc đời các thánh tông đồ?
Đáp: Tông huấn nói rằng hình ảnh của Đức Ki-tô Thầy dạy đã in sâu vào tâm trí các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên, và lệnh truyền: Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ đã hướng dẫn toàn thể cuộc đời của các ngài.
14. Toàn thể sách Công vụ tông đồ cho ta thấy điều gì?
Đáp: Toàn thể sách Công vụ tông đồ:
§ minh chứng rằng các tông đồ đã trung thành với ơn gọi và với sứ mệnh đã nhận được;
§ cho ta thấy hình ảnh thường xuyên của một Giáo hội, nhờ giáo huấn của các Tông đồ mà sinh ra và luôn luôn được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, cử hành Lời Người trong Hy lễ tạ ơn và minh chứng điều đó với thế giới qua dấu chỉ Đức ái.
15. Việc dạy giáo lý thời các tông đồ như thế nào?
Đáp: Các Tông đồ đã không chậm trễ chia sẻ với những người khác thừa tác vụ tông đồ. Trong nhiệm vụ giảng dạy, các Tông đồ còn được sự cộng tác của nhiều môn đệ khác nữa; và ngay cả các Ki-tô hữu thường, khi bị phân tán do bách hại, đi qua đâu, họ cũng giảng Lời Tin mừng ở đó. Các Thư, các sách Tin mừng là những chứng tá về việc giảng dạy giáo lý thời các thánh Tông đồ.
16. Việc dạy giáo lý thời các giáo phụ như thế nào?
Đáp: Một số Giám mục và chủ chăn thời danh nhất, đặc biệt trong thế kỷ thứ III và thứ IV, coi việc giảng dạy và viết các bài giáo lý như một phần quan trọng của thừa tác vụ Giám mục của các ngài.
17. Công đồng Tri-đen-ti-nô đã quan tâm đến việc dạy giáo lý như thế nào?
Đáp: Công đồng đã:
§ dành ưu tiên cho việc dạy giáo lý trong các Hiến chế và Sắc lệnh của Công đồng;
§ khởi xướng Sách Giáo lý Rô-ma;
§ phát sinh trong Giáo hội một tổ chức dạy giáo lý đáng chú ý.
18. Từ những kinh nghiệm vừa gợi lại trong lịch sử Giáo hội, ta có thể rút ra những bài học nào?
Đáp: Ta có thể rút ra những bài học sau đây:
§ Việc dạy giáo lý là quyền lợi và bổn phận của Giáo hội;
§ đây là nhiệm vụ ưu tiên;
§ là trách nhiệm chung nhưng khác biệt;
§ cần canh tân liên tục và quân bình.
19. Do đâu mà việc dạy giáo lý là một bổn phận?
Đáp: Việc dạy giáo lý là một bổn phận nảy sinh do mệnh lệnh của Chúa.
20. Tại sao dạy giáo lý là một quyền?
Đáp: Bởi vì hai lý do:
§ về phương diện thần học, tất cả mọi người đã được thanh tẩy, do chính bởi sự kiện đã lãnh nhận phép thánh tẩy, đều có quyền được đón nhận từ Giáo hội sự giảng dạy và huấn luyện, nhờ dó họ có thể tiến tới một đời sống Ki-tô hữu đích thực;
§ trên bình diện nhân quyền, mọi nhân vị đều có quyền tìm kiếm chân lý tôn giáo và tự do theo chân lý ấy.
21. Hệ quả của quyền ấy là gì?
Đáp: Hoạt động dạy giáo lý
§ phải diễn tiến trong những hoàn cảnh thuận lợi về không gian, thời gian,
§ phải được quyền sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội và được trang bị thích hợp, không phân biệt đối xử với phụ huynh, học viên giáo lý hay giáo lý viên.
22. Vì việc dạy giáo lý là nhiệm vụ ưu tiên, Giáo hội được kêu mời làm gì?
Đáp: Giáo hội được kêu mời dành cho việc dạy giáo lý những tiềm lực tốt nhất của mình về nhân sự và sức lực, mà không quản ngại những cố gắng, mệt nhọc và phương tiện vật chất, để tổ chức việc dạy giáo lý cho chu đáo hơn và đào tạo những nhân sự có khả năng.
23. Việc dạy giáo lý là trách nhiệm chung nhưng khác biệt nghĩa là gì?
Đáp: Điều đó có nghĩa là toàn thể Giáo hội phải cảm thấy có trách nhiệm và muốn gánh lấy trách nhiệm, nhưng các thành viên của Giáo hội có những trách nhiệm khác nhau, phát sinh từ sứ mệnh của mỗi người.
24. Việc dạy giáo lý cần được canh tân như thế nào?
Đáp: Việc dạy giáo lý cần được canh tân liên tục:
§ bằng một sự mở rộng nào đó chính khái niệm dạy giáo lý,
§ bằng cách rà soát lại phương pháp,
§ bằng cách tìm kiếm một ngôn ngữ thích hợp,
§ bằng cách sử dụng những phương tiện mới mẻ để loan truyền sứ điệp.
25. Để có một sự canh tân quân bình, Giáo hội phải như thế nào?
Đáp: Giáo hội phải tỏ ra khôn ngoan, can đảm và trung thành với Tin mừng trong việc tìm kiếm và vận dụng các đường lối và những triển vọng mới cho việc dạy giáo lý.
Chương iii: việc dạy giáo lý trong hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo hội
26. Phúc âm hoá là gì?
Đáp: Phúc âm hoá là đem Tin mừng đến cho toàn thể nhân loại để nhân loại sống Tin mừng ấy.
27. Dạy giáo lý là gì?
Đáp: Dạy giáo lý là giáo dục đức tin cho trẻ nhỏ, thanh niên và người lớn, đặc biệt là việc dạy giáo lý Ki-tô giáo, có tổ chức và hệ thống nhằm khai tâm họ vào cuộc sống Ki-tô hữu sung mãn.
28. Việc dạy giáo lý được xây dựng trên những yếu tố nào?
Đáp: Đó là:
§ loan truyền lần đầu Tin mừng hay rao giảng có tính cách truyền giáo bằng kerygma để khơi dậy đức tin;
§ biện giáo hay tìm lý lẽ cho niềm tin;
§ kinh nghiệm về đời sống Ki-tô hữu;
§ cử hành các bí tích;
§ tháp nhập cộng đoàn Giáo hội;
§ làm chứng bằng việc tông đồ và truyền giáo.
29. Như thế, đâu là chỗ đứng của việc dạy giáo lý trong công cuộc Phúc âm hoá?
Đáp: Việc dạy giáo lý là một thời rất đặc biệt trong những thời của toàn thể tiến trình Phúc âm hoá.
30. Đâu là khác biệt giữa dạy giáo lý và việc loan báo tin mừng đầu tiên?
Đáp: Việc loan báo Tin mừng đầu tiên là khơi dậy sự hoán cải, còn dạy giáo lý nhắm mục tiêu kép là làm cho đức tin mới chớm nở nên trưởng thành và huấn luyện người môn đệ đích thực của Đức Ki-tô, nhờ sự hiểu biết sâu xa và có hệ thống hơn, về bản thân và sứ điệp của Đức Giê-su Ki-tô.
Tuy nhiên, trong thực hành, việc dạy giáo lý nhiều khi phải lo, không những nuôi dưỡng và giáo dục đức tin, nhưng còn là khơi dậy đức tin với sự trợ giúp của ơn Chúa, mở rộng tâm hồn, hoán cải, chuẩn bị sự gắn bó hoàn toàn với Đức Giê-su Ki-tô, nơi những người còn ở ngưỡng cửa đức tin.
31. Đâu là mục đích đặc biệt của việc dạy giáo lý?
Đáp: Mục đích đặc biệt của việc dạy giáo lý chính là, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, làm phát triển đức tin còn thơ ấu, thăng tiến đến mức độ viên mãn và nuôi dưỡng hằng ngày đời sống ki-tô của các tín hữu thuộc mọi lứa tuổi. Nói rõ hơn, mục đích của việc dạy giáo lý, trong toàn thể công cuộc phúc âm hoá, là làm nên giai đoạn dạy dỗ và đem đến sự trưởng thành.
32. Việc dạy giáo lý phải có những đặc diểm nào?
Đáp: Phải có những đặc điểm sau:
§ một sự giảng dạy có hệ thống, không phải là tuỳ hứng, thiếu sửa soạn, nhưng theo một chương trình, để đạt đến một mục đích rõ rệt;
§ đề cập đến những điều cốt yếu, không có tham vọng đề cập đến tất cả các vấn đề còn tranh luận, cũng không biến thành cuộc khảo cứu thần học hay chú giải có tính cách khoa học;
§ khá đầy đủ, không dừng lại ở việc loan báo đầu tiên Mầu nhiệm Ki-tô giáo, như ta có trong Keryma;
§ một sự khai tâm đời sống ki-tô giáo toàn diện, khai mở về hết mọi thành tố của đời sống ki-tô hữu.
33. Đâu là mối tương quan giữa việc dạy giáo lý và kinh nghiệm đời sống?
Đáp: Có một mối quan hệ hỗ tương. Những xác tín vững chắc và có suy xét đưa đến hành động can đảm và chính trực; nỗ lực sống xứng đáng là môn đệ của Đức Ki-tô tạo thuận lợi cho việc khám phá sâu xa Mầu nhiệm Đức Ki-tô trong lịch sử cứu độ.
34. Vì thế, tông huấn nhắc nhở phải tránh 2 chủ trương nào?
Đáp: Đó là chủ trương:
§ cổ võ loại bỏ việc nghiên cứu nghiêm chỉnh và có hệ thống về sứ điệp của Đức Ki-tô, nhân danh một phương pháp coi trọng kinh nghiệm đời sống;
§ đối lập việc dạy giáo lý lấy đời sống làm khởi điểm với việc dạy giáo lý cổ truyền, có tính cách học thuyết và hệ thống.
35. Việc dạy giáo lý liên hệ với các bí tích như thế nào?
Đáp: Một mặt, việc dạy giáo lý là để sửa soạn lãnh nhận các phép bí tích, và mọi việc dạy giáo lý đều tất nhiên đưa đến các bí tích của đức tin. Mặt khác, việc cử hành chân chính các bí tích đương nhiên có tính cách dạy giáo lý.
36. Cộng đồng Giáo hội có trách nhiệm gì đối với việc dạy giáo lý?
Đáp: Cộng đồng Giáo hội không những có trách nhiệm lo huấn luyện các thành viên, nhưng còn có trách nhiệm tiếp đón họ vào một môi trường mà họ có thể sống trọn vẹn nhất điều họ đã học hỏi.
37. Tóm lại, việc dạy giáo lý cần thiết như thế nào?
Đáp: Việc dạy giáo lý là cần thiết không những để làm cho đức tin của các Ki-tô hữu thêm trưởng thành, mà còn giúp họ làm chứng trên thế giới.
Chương IV:Toàn thể Tin mừng múc từ nguồn mạch
38. Nội dung của việc dạy giáo lý là gì?
Đáp: Vì việc dạy giáo lý là một giai đoạn hay một khía cạnh của công cuộc Phúc âm hoá, nên nội dung của nó không thể khác với nội dung của công cuộc Phúc âm hoá xét như một toàn thể: sứ điệp Tin mừng cứu độ.
39. Trong việc dạy giáo lý, sứ điệp Tin mừng được đào sâu nhờ đâu?
Đáp: Sứ điệp Tin mừng được đào sâu nhờ:
§ suy tư và nghiên cứu có hệ thống;
§ ý thức đến các hệ luận của sứ điệp ấy trên đời sống cá nhân của mỗi người - một ý thức đòi hỏi dấn thân hơn;
§ tháp nhập vào cái tổng thể hữu cơ và hài hoà là đời sống Ki-tô hữu trong xã hội và trên thế giới.
40. Đâu là nguồn mạch của nội dung ấy?
Đáp: Đó là Lời Chúa, được truyền đạt trong Thánh truyền và Kinh thánh.
41. Để việc dạy giáo lý thấm nhuần tư tưởng, tinh thần và thái độ theo Kinh thánh và Tin mừng, ta phải làm gì?
Đáp: Ta phải:
§ tiếp xúc chuyên cần với chính các bản văn;
§ đọc các bản văn với trí hiểu và tâm hồn của Giáo hội và lấy cảm hứng ở sự suy tư và cuộc sống của Giáo hội trong 2000 năm.
42. Ta có thể tìm thấy điểm quy chiếu chắc chắn cho nội dung của việc dạy giáo lý nơi đâu?
Đáp: Trong Kinh Tin kính.
43. Tông huấn nêu lên những yếu tố nào không được bỏ qua của nội dung việc dạy giáo lý?
Đáp: Đó là:
§ Mầu nhiệm Thiên Chúa;
§ Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể và cứu chuộc;
§ Mầu nhiệm Ba Ngôi;
§ Mầu nhiệm Giáo hội;
§ Mầu nhiệm cánh chung;
§ Đời sống mới;
§ Các nhân đức ki-tô giáo;
§ Giáo huấn về xã hội.
44. Về nội dung của khoa dạy giáo lý, ngày nay cần lưu ý đặc biệt đến những điểm nào?
Đáp: Ta cần lưu ý đặc biệt ba điểm:
§ sự toàn vẹn của nội dung: không cắt xén, xuyên tạc, giảm bớt, nhưng đầy đủ và toàn vẹn, chính xác và đầy sức mạnh;
§ nhờ những phương pháp sư phạm thích hợp;
§ chiều kích đại kết.
45. Có những điều kiện nào để khoa dạy giáo lý có một chiều kích đại kết?
Đáp: Có 3 điều kiện:
§ khi không ngừng dạy rằng toàn thể các chân lý được Mặc khải và những phương tiện cứu độ do Đức Ki-tô thiết lập được tìm thấy Giáo hội Công giáo;
§ khi khơi dậy và cổ võ ước muốn thành thực đi đến sự hiệp nhất;
§ khi cố gắng chuẩn bị các trẻ nhỏ và thanh niên cũng như người lớn công giáo, sống trong sự giao tiếp với những người không công giáo, bằng cách khẳng định đặc tính công giáo của mình trong sự tôn trọng đức tin của các người khác.
46. Nơi nào có sự cộng tác đại kết trong lãnh vực dạy giáo lý thì phải lưu ý điển gì?
Đáp: Phải chăm sóc sao cho việc huấn luyện người công giáo trong Giáo hội công giáo phải được đảm bảo về phương diện giáo lý và đời sống kitô hữu.
Chương V: mọi người cần được hấp thụ giáo lý
47. Tại sao Đại hội thứ IV của Thượng Hội Đồng Giám mục chọn chủ đề là Việc dạy giáo lý cho trẻ em và giới trẻ?
Đáp: Bởi vì trẻ em và giới trẻ họp thành một lực lượng lớn, lực lượng này, mặc dù có nhiều rủi ro, đang dự định xây dựng nền văn minh sắp tới.
48. Khi dạy giáo lý cho trẻ thơ, cần nhấn mạnh những yếu tố nào?
Đáp: Đó là:
§ một mặc khải đơn sơ về Chúa Cha trên trời, Đấng tốt lành và quan phòng;
§ những kinh đọc rất vắn tắt;
§ học cho biết hướng tâm hồn lên với vị Thiên Chúa ẩn dấu mà sau đó nó sẽ bắt đầu nghe lời;
§ truyền đạt cách đơn giản và trung thực trong yêu thương và tôn trọng.
49. Khi dạy giáo lý cho thiếu nhi, cần nhấn mạnh những yếu tố nào?
Đáp: Đó là:
§ Mục tiêu: tháp nhập cách hữu cơ vào đời sống Giáo hội
§ tính cách sư phạm nhưng hướng đến việc làm chứng trong đức tin;
§ khai tâm, dù một cách sơ lược, tất cả các mầu nhiệm chính yếu của đức tin và và những tác động trong đời sống đức tin và tôn giáo của trẻ nhỏ;
§ chuẩn bị trực tiếp cho việc cử hành các bí tích.
50. Đâu là đặc điểm của tuổi thiếu niên?
Đáp: Đó là:
§ thời kỳ khám phá ra chính mình và thế giới nội tâm của mình, thời kỳ của những dự định quảng đại, thời kỳ nẩy ra tình cảm yêu thương, với những thúc đẩy sinh lý của dục tính, thời kỳ ham thích ở chung với nhau, thời kỳ những xúc cảm mãnh liệt, gắn liền với sự khám phá say mê cuộc sống.
§ Nhưng cũng là tuổi thích đặt những câu hỏi sâu sắc hơn, những tìm tòi đầy lo âu, thậm chí dẫn đến thất vọng, tuổi có những ngờ vực nào đó đối với người khác và có khi rút lui vào chính mình một cách nguy hiểm, tuổi đôi khi gặp những thất bại và những cay đắng đầu tiên.
51. Khoa dạy giáo lý cho thiếu niên cần phải như thế nào?
Đáp: Cần phải:
§ Chú ý đến khía cạnh dễ thay đổi của thời kỳ tế nhị này;
§ có khả năng dẫn dắt thiếu niên đến chỗ duyệt xét lại đời mình và đi đến đối thoại;
§ không bỏ qua những vấn đề trọng đại của tuổi này - sự hiến thân, niềm tin, lòng yêu mến và cách biểu lộ qua phái tính.
52. Nội dung giáo lý của thời kỳ này là gì?
Đáp: Đó là trình bày:
§ Đức Giê-su Ki-tô như người bạn, người hướng dẫn và gương mẫu, đáng thán phục nhưng cũng có thể bắt chước được;
§ sứ điệp của Người, là sứ điệp đem lại giải đáp cho những vấn đề căn bản;
§ ý định yêu thương của Đức Ki-tô cứu thế như nhập thể tình yêu đích thực duy nhất và như khả năng hiệp nhất loài người;
§ mầu nhiệm khổ nạn và sự chết của Đức Giê-su, chính các mầu nhiệm ấy có thể đánh động mạnh mẽ lương tâm và tâm hồn của người thiếu niên và chiếu toả một luồng ánh sáng xuống những đau khổ đầu tiên của chúng, và các đau khổ của thế giới mà chúng khám phá ra.
53. Đâu là đặc điểm của thời thanh niên?
Đáp: Tuổi thanh niên là thời kỳ của những quyết định quan trọng. Dù được các người trong gia đình và bạn hữu nâng đỡ, nhưng người thanh niên phải cậy dựa vào chính mình và theo lương tâm đạo đức của mình, và đảm đương trách nhiệm về số mệnh mình một cách ngày càng thường xuyên hơn và quyết định hơn.
54. Nội dung giáo lý của thời kỳ này cần nhấn mạnh những điểm nào?
Đáp: Đó là trình bày:
§ Tin Mừng đem lại cho đời sống một ý nghĩa và do đó, khơi dậy những thái độ: quảng đại, hi sinh, siêu thoát, kiên nhẫn, công bình, dấn thân, hoà giải, ý thức về Tuyệt đối và vô hình, v.v
§ trình bày ý nghĩa Ki-tô giáo của lao động, của công ích, công lý và bác ái, hoà bình giữa các dân tộc và về sự thăng tiến nhân phẩm, về sự phát triển và về sự giải phóng.
55. Thượng hội đồng đã nêu lên những nhận xét nào có ích cho việc truyền đạt giáo lý cho thanh niên?
Đáp: Thượng hội đồng đã:
§ phác họa một cách hết sức chính xác bộ mặt phức tạp của tuổi thanh niên ngày nay;
§ chỉ rõ rằng người trẻ nói một ngôn ngữ qua đó ta phải kiên nhẫn và khôn ngoan mới biết diễn đạt mà không phản bội sứ điệp của Đức Giêsu;
§ minh chứng rằng, dầu vẻ bề ngoài thế nào đi nữa, những người trẻ ấy mang trong lòng, tuy có khi còn mơ hồ, không chỉ là một sự sẵn sàng và cởi mở mà thôi, nhưng còn là một khát vọng thực sự muốn biết Đức Giê-su mà người ta gọi là Đức Ki-tô;
§ vạch rõ rằng công cuộc dạy giáo lý ngày nay, nếu muốn thực hiện nghiêm túc và đúng đắn thì khó khăn hơn và mệt nhọc hơn bao giờ hết, do mọi thứ chướng ngại và khó khăn gặp phải, nhưng lại an ủi hơn vì những đáp trả sâu sắc mà nó nhận được từ nơi các trẻ nhỏ và thanh niên.
56. Hạng người trẻ nào đáng ta lưu ý cách riêng?
Đáp: Đó là:
§ những trẻ nhỏ và thanh niên tật nguyền về thể xác và tinh thần;
§ các trẻ nhỏ và thanh niên, sinh trưởng và được giáo dục trong một gia đình không Công giáo hay ít ra là không hành đạo, nhưng muốn biết đức tin Ki-tô giáo.
57. Tại sao việc dạy giáo lý cho người lớn là vấn đề trọng yếu và được các nghị phụ quan tâm nhất?
Đáp: Vì:
§ đây là hình thức chính của việc dạy giáo lý, vì nó nhắm đến các người có những trách nhiệm lớn lao nhất và có khả năng sống sứ điệp Ki-tô giáo dưới hình thức đã phát huy cách trọn vẹn.
§ Cộng đồng Ki-tô hữu không thể thực hiện việc dạy giáo lý thường xuyên nếu không có sự tham gia trực tiếp và có kinh nghiệm của người lớn, bất luận họ là người tiếp nhận hay tổ chức hoạt động dạy giáo lý.
§ Thế giới trong đó các người trẻ được mời gọi sống và làm chứng cho đức tin mà việc dạy giáo lý muốn đào sâu và củng cố, thế giới ấy do người lớn điều khiển.
§ Đức tin của các người lớn này cũng phải luôn luôn được soi sáng khích lệ và canh tân để họ thấu triệt các thực tại trần thế mà họ chịu trách nhiệm.
58. Vì thế, Tông huấn nhắc nhở điều gì?
Đáp: Tông huấn nói rằng:
§ muốn được hữu hiệu, việc dạy giáo lý phải thường xuyên và nó sẽ vô ích nếu dừng lại ngay ở ngưỡng cửa của tuổi trưởng thành.
§ các người lớn bất cứ về tuổi nào, và cả những cụ ông cụ bà, phải được theo học giáo lý không kém gì trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên.
59. Những người nào được kể là dự tòng?
Đáp: Đó là:
§ những người sinh ra và được giáo dục ở những miền chưa được Ki-tô hoá và chưa bao giờ có thể đào sâu giáo lý Công giáo;
§ những người hồi còn nhỏ đã được học giáo lý phù hợp với tuổi họ nhưng sau đó đã buông lơi không thực hành đạo, và khi đứng tuổi chỉ có những hiểu biết ấu trĩ về tôn giáo;
§ những người chịu ảnh hưởng của việc dạy giáo lý hồi thơ ấu, nhưng được truyền đạt cách vụng về hay thiếu thấm nhuần;
§ những người, mặc dầu sinh trong một nước ki-tô giáo, thậm chí sinh trong một môi trường xã hội ki-tô giáo, nhưng không bao giờ được giáo dục về đức tin của mình.
60. Kết thúc chương này, Tông huấn lưu ý điều gì?
Đáp: Tông huấn lưu ý 2 điểm:
§ phải làm sao cho việc dạy giáo lý cho các lứa tuổi có sự tiếp nối và bổ túc hoàn hảo cho nhau;
§ trong Giáo hội của Đức Giê-su Ki-tô không ai có thể cảm thấy mình được miễn học Giáo lý. Điều đó đúng ngay cả với các chủng sinh, các tu sĩ trẻ, cũng như tất cả những người được kêu gọi lãnh nhiệm vụ chủ chăn và giáo lý viên.
Chương vi: một vài đường lối và phương tiện của ngành dạy giáo lý
61. Tông huấn chú ý đến một vài đường lối và phương tiện nào của ngành dạy giáo lý?
Đáp: Đó là:
§ Các phương tiện truyền thông xã hội;
§ Địa điểm, cơ hội như hành hương hay cuộc họp của các câu lạc bộ Kinh Thánh, cộng đoàn Giáo hội cơ bản, các nhóm Công giáo tiến hành, hội Bác ái, nhóm cầu nguyện, nhóm suy tư Ki-tô giáo;
§ Bài giảng;
§ Sách dạy giáo lý;
§ Sách Giáo Lý.
62. Về các đoàn thể, đức giáo hoàng khuyến khích điều gì?
Đáp: Đức giáo hoàng khuyến khích:
§ các người trẻ tham gia các đoàn thể ấy;
§ các người lãnh đạo và các linh mục dành phần quan trọng nhất của thừa tác vụ của mình cho công cuộc ấy;
§ tổ chức sao để phát huy những giá trị bằng hữu và liên đới giữa các người trẻ, niềm vui và lòng nhiệt thành, suy tư về các biến cố và sự kiện, và đừng để cho các đoàn thể ấy thiếu sự học hỏi nghiêm túc Giáo lý Công giáo.
63. Đức giáo hoàng nhắc nhở điều gì liên quan đến bài giảng?
Đáp: Đó là:
§ tập trung vào các bản văn kinh thánh,
§ giúp cho các tín hữu quen thuộc với toàn thể các mầu nhiệm đức tin và những quy tắc của đời sống Ki-tô hữu,
§ bài giảng đừng dài quá cũng đừng ngắn quá, bao giờ cũng phải soạn kỹ, nội dung súc tích và thích hợp với thính giả.
64. Những điều kiện thiết yếu của một cuốn sách dạy giáo lý là gì?
Đáp: Đó là:
§ sách phải theo sát đời sống cụ thể của giới mà sách nhằm tới;
§ sách phải cố gắng nói bằng ngôn ngữ dễ hiểu cho giới ấy;
§ sách phải cố gắng trình bày trọn vẹn sứ điệp của Đức Ki-tô và của Giáo hội Người, mà không bỏ sót hay bóp méo điểm nào, nhưng trình bày sứ điệp ấy theo một hướng và một cơ cấu làm nổi bật lên những điều cốt yếu;
§ sách phải nhằm đem lại cho người dùng sách, một sự hiểu biết sâu rộng hơn về các mầu nhiệm của Đức Ki-tô để đi đến hoán cải thực sự và sống một đời sống hợp với ý muốn của Thiên Chúa hơn.
Chương vii: dạy giáo lý cách nào
65. Tại sao việc dạy giáo lý cần đến những phương pháp khác nhau?
Đáp: Vì việc dạy giáo lý tùy thuộc:
§ tuổi tác và sự phát triển trí thức của người ki-tô hữu, mức độ trưởng thành của họ về phương diện giáo hội và về mặt tâm linh và nhiều hoàn cảnh cá nhân khác;
§ những môi trường xã hội - văn hoá khác nhau.
66. Tông huấn nêu lên những vấn đề nào liên quan đến phương pháp dạy giáo lý?
Đáp: Đó là:
§ Phục vụ mặc khải và sự hoán cải;
§ Hội nhập của sứ điệp vào các nền văn hoá;
§ Sử dụng những yếu tố có giá trị của lòng đạo đức bình dân;
§ Việc dùng trí nhớ.
67. Tông huấn nêu lên mối nguy hiểm và cám dỗ nào?
Đáp: Đó là pha trộn không chính đáng giáo lý với những quan điểm về ý thức hệ công khai hay tiềm ẩn, nhất là về chính trị và xã hội, hay với những chọn lựa chính trị có tính cách riêng tư.
68. Vì thế Thượng hội đồng nhấn mạnh điều gì?
Đáp: Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh rằng việc dạy giáo lý:
§ phải vượt trên các khuynh hướng phiến diện lệch lạc, mọi thứ duy đạo đức hình thức, mọi cứu thế thuyết trần thế, xã hội hay chính trị;
§ phải dựa trên mặc khải, y như huấn quyền phổ quát của Giáo hội thông truyền;
§ phải dẫn đến sự thay đổi triệt để loài người và vũ trụ, thay đổi tất cả những gì dệt thành cuộc sống loài người dưới ảnh hưởng của Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô.
69. Để đưa sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng văn hoá và các nền văn hoá, khoa dạy giáo lý phải làm gì?
Đáp: Phải làm những việc sau:
§ tìm biết các nền văn hoá và những thành tố căn bản của chúng;
§ học biết cách thức diễn tả có ý nghĩa nhất theo những nền văn hoá ấy;
§ tôn trọng các giá trị và kho tàng phong phú riêng của chúng.
70. Tông huấn lưu ý điều gì khi hội nhập sứ điệp vào các nền văn hoá?
Đáp: Tông huấn lưu ý 2 điều:
§ không thể đơn thuần cô lập sứ điệp Tin Mừng ra khỏi nền văn hoá trong đó sứ điệp đã được lồng vào, cũng không thể tách rời khỏi các nền văn hoá trong đó sứ điệp ấy đã được diễn tả qua nhiều thế kỷ;
§ ở đâu sức mạnh Tin Mừng cũng biến đổi và tái tạo. Sẽ không có khoa dạy giáo lý nếu Tin Mừng phải biến chất khi tiếp xúc với các nền văn hoá.
71. Khi đề cao lại việc sử dụng trí nhớ trong khi học giáo lý, Tông huấn căn dặn điều gì?
Đáp: Tông huấn căn dặn rằng: Điều cốt yếu là bản văn được ghi nhớ cần được nội tâm hoá và dần dần được am hiểu theo chiều sâu, để trở nên nguồn mạch đời sống ki-tô giáo cá nhân và cộng đoàn.
72. Điều luật căn bản chi phối mọi phương pháp dạy giáo lý là gì?
Đáp: Đó là: trung thành với Thiên Chúa và trung thành với con người trong cùng một thái độ yêu thương.
Chương viii: niềm vui của đức tin trong một thế giới đầy khó khăn
73. Thế giới hiện nay mà chúng ta muốn đối thoại về ơn cứu độ như thế nào?
Đáp: Đó là:
§ một thế giới đầy khó khăn, trong đó mối lo âu vì thấy những sáng tạo tốt nhất của loài người thoát ly khỏi mình và quay chống lại mình, tạo ra một bầu khí lưỡng lự, do dự và nhạt nhẽo;
§ một thế giới tục hoá: không biết Thiên Chúa và thậm chí, phủ nhận Thiên Chúa.
74. Trong thế giới này, khoa dạy giáo lý phải làm gì?
Đáp: Khoa dạy giáo lý phải giúp người ki-tô hữu:
§ luôn giữ được sự trong sáng và kiên định trong đức tin,
§ thanh thản khẳng định mình là người ki-tô hữu và công giáo,
§ nhìn thấy cái vô hình và bám chặt vào tính tuyệt đối của Thiên Chúa,
§ trở nên ánh sáng và muối để họ được niềm vui và phục vụ mọi người.
75. Thế nào là một khoa sư phạm đức tin?
Đáp: Khi nói đến khoa sư phạm đức tin:
§ đây không phải là vấn đề thông truyền một sự hiểu biết loài người dù hết sức cao sâu;
§ nhưng là vấn đề thông truyền mặc khải của Thiên Chúa cách toàn vẹn theo kiểu mẫu khoa sư phạm của Thiên Chúa.
§ Một kỹ thuật chỉ có giá trị cho việc dạy giáo lý trong chừng mực kỹ thuật ấy phục vụ đức tin mà ta phải thông truyền và giáo dục.
76. Ngôn ngữ phải như thế nào?
Đáp: Ngôn ngữ phải thích nghi, phục vụ cho việc diễn tả đức tin. Cụ thể là:
§ Ngôn ngữ phải thích hợp với người được thông truyền đức tin;
§ không thể chấp nhận một ngôn ngữ nào rốt cuộc làm biến chất nội dung của đức tin;
§ cũng không thể chấp nhận một ngôn ngữ lừa dối hay phỉnh gạt;
§ các tiến bộ to tát trong ngôn ngữ học phải có thể được dùng phục vụ khoa dạy giáo lý để khoa này thực có khả năng nói lên hay thông truyền mà không bóp méo nội dung giáo lý.
77. Ngày nay, có trào lưu tư tưởng nào về đức tin?
Đáp: Có trào lưu quan niệm rằng đức tin không phải là sự xác tín nhưng là một thắc mắc, không phải là cái gì minh bạch nhưng là bước nhảy vào chỗ tối tăm.
78. Trào lưu này có ích như thế nào?
Đáp: Trào lưu này có ích là:
§ nhắc nhở ta rằng đức tin liên quan đến những điều mà ta chưa chiếm hữu được vì ta còn mong chờ, những điều mà ta mới thấy ở trong gương, cách mường tượng và rằng Thiên Chúa luôn ngự trong ánh sáng siêu phàm;
§ khiến ta không biến đức tin ki-tô giáo thành ra thái độ của người đã đạt đến đích, nhưng là một cuộc hành trình, như hành trình của A-bra-ham.
79. Khi giáo dục trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên, ta nên truyền đạt như thế nào về đức tin?
Đáp: Ta đừng nên truyền đạt một khái niệm quá tiêu cực về đức tin, như sự không biết tuyệt đối, một thứ mù loà, một thế giới tối tăm. Nhưng ta nên vạch cho chúng thấy rằng, việc tìm kiếm cách khiêm tốn và can đảm của đức tin, không khởi sự từ hư vô, từ những ảo tưởng, từ những ý kiến có thể sai lầm và từ những điều không xác thực, nhưng trái lại, dựa trên Lời Chúa, mà Lời Chúa thì không sai lầm, không lừa dối, và sự tìm kiếm đó, được luôn luôn xây dựng trên tảng đá không thể lay chuyển của Lời ấy.
80. Một khi ý thức rằng những nghiên cứu và khẳng định của họ ảnh hưởng đến việc dạy giáo lý, các nhà thần học và các nhà chú giải có bổn phận nào?
Đáp: Họ phải hết sức quan tâm để người ta đừng coi những điểm thuộc lãnh vực ý kiến hay tranh luận giữa các nhà chuyên môn, như là những chân lý xác thực.
81. Còn các giáo lý viên phải làm gì?
Đáp: Các giáo lý viên phải:
§ khôn ngoan nhặt hái trong cánh đồng khảo cứu thần học những điều nào có thể soi sáng suy tư riêng và lời dạy của họ, bằng cách múc ở những nguồn mạch đích thực, dưới ánh sáng của Huấn quyền;
§ tránh đừng gây bối rối cho tâm trí các trẻ nhỏ và thanh niên bằng những lý thuyết kỳ dị, những vấn đề rỗng tuếch hay những cuộc tranh luận vô bổ.
82. Quà tặng quý giá nhất mà Giáo hội có thể trao tặng cho thế giới ngày nay, một thế giới lạc hướng và lo âu là gì?
Đáp: Đó là đào tạo các ki-tô hữu xác tín trong những điểm cốt yếu, hân hoan và khiêm tốn trong niềm tin của mình.
Chương IX :nhiệm vụ ấy liên quan đến tất cả chúng ta
83. Trong chương cuối cùng này, đức giáo hoàng muốn điều gì?
Đáp: Ngài muốn gieo rắc dồi dào lòng can đảm, niềm hy vọng và sự nhiệt thành trong lòng mọi người, thật đông đảo và khác nhau, đang gánh vác trách nhiệm giảng dạy đạo Chúa và huấn luyện về đời sống theo Tin mừng.
84. Đâu là nhiệm vụ của giám mục trong lãnh vực dạy giáo lý?
Đáp: Giám mục là:
§ người có trách nhiệm trước tiên về việc dạy giáo lý, là giáo lý viên đích thực nhất;
§ người có trách nhiệm về việc dạy giáo lý trong Giáo hội toàn cầu.
85. Mối quan tâm cổ võ công cuộc dạy giáo lý sao cho linh hoạt và hữu hiệu của giám mục sẽ được thể hiện cụ thể như thế nào?
Đáp: Mối quan tâm ấy sẽ được thể hiện qua việc:
§ chính ngài loan truyền giáo lý ban sự sống cho các tín hữu;
§ đảm nhiệm việc điều khiển tối cao công cuộc dạy giáo lý, cùng với những cộng tác viên thành thạo và đáng tin cẩn;
§ khơi dậy và giữ gìn trong Giáo phận một sự say mê dạy giáo lý, sự say mê được thể hiện qua một tổ chức thích hợp và hữu hiệu, vận dụng người, phương tiện, dụng cụ và cả các tài nguyên cần thiết.
§ đôi khi phải tố cáo những lệch lạc, sửa chữa những sai lầm.
86. Đức giáo hoàng khuyên nhủ gì với các linh mục?
Đáp: Ngài khuyên nhủ:
§ dành những nỗ lực tốt nhất của các con để làm tăng trưởng cộng đoàn của các con trong đức tin;
§ đừng bỏ sót bất cứ việc gì cần thiết cho một công cuộc dạy giáo lý có tổ chức và định hướng đúng đắn;
§ đừng để vì một sự thiếu nhiệt thành nào, do một thiên kiến đáng tiếc nào mà các tín hữu không được học giáo lý. Đừng để ai có thể nói rằng: Các trẻ nhỏ đòi bánh, nhưng không ai trao cho chúng.
87. Đức giáo hoàng khuyên nhủ gì với các tu sĩ?
Đáp: Là những người nhờ sự thánh hiến tu trì càng sẵn sàng phục vụ Giáo hội, các con hãy chuẩn bị càng kỹ lưỡng càng tốt cho nhiệm vụ dạy giáo lý, tùy theo ơn gọi khác nhau của dòng các con hay tùy theo sứ mệnh giao phó cho các con, và mang theo mối quan tâm ấy bất kỳ ở đâu. Chớ gì các cộng đoàn dành tối đa khả năng và phương tiện cho công cuộc dạy giáo lý.
88. Đức giáo hoàng nói gì với các giáo lý viên giáo dân?
Đáp: Nhân danh toàn thể Giáo hội, cha muốn cám ơn các con, là những giáo lý viên giáo dân trong các giáo xứ, những người nam và những người nữ đông hơn gấp bội, khắp nơi trên thế giới, đang tận tụy trong việc giáo dục tôn giáo cho nhiều thế hệ. Hoạt động của các con nhiều khi khiêm tốn và âm thầm, nhưng nhiệt thành, hăng hái và quảng đại, là một hình thức tuyệt vời của tông đồ giáo dân, đặc biệt quan trọng ở những nơi mà, vì nhiều lý do khác nhau, các trẻ nhỏ và thanh niên không được huấn luyện về đạo giáo một cách xứng hợp trong gia đình Cùng với Đại hội này, cha khuyến khích các con luôn tiếp tục cộng tác vì đời sống Giáo hội.
89. Đặc biệt với các giáo lý viên ở các xứ truyền giáo, đức giáo hoàng đã có lời ưu ái nào?
Đáp: Các giáo lý viên ở các xứ truyền giáo thực đáng tước hiệu giáo lý viên hơn ai hết Những Giáo hội ngày nay phồn thịnh chắc đã không xây dựng được nếu không có họ. Cha vui mừng vì những nỗ lực của Thánh Bộ Phúc âm hoá các dân tộc, để hoàn thiện luôn mãi công cuộc đào tạo giáo lý viên. Cha tưởng niệm với lòng biết ơn, những kẻ mà Chúa đã gọi về với Người. Cha nguyện xin những đấng mà các vị tiền nhiệm của Cha đã tôn lên vinh quang bàn thờ, cầu bầu cho chúng ta. Cha hết lòng khuyến khích những người đang hiến thân trong công việc. Cha ước mong nhiều người khác thay phiên nhau tiếp tục đi con đường ấy và cha cầu chúc con số họ đông hơn nữa cho một việc cần thiết như thế cho công cuộc truyền giáo.
90. Tại sao giáo xứ vẫn phải là địa điểm ưu tiên cho việc dạy giáo lý?
Đáp: Bởi vì giáo xứ là là một gia đình sống tình huynh đệ và hiếu khách, nơi các người đã được thánh tẩy và thêm sức ý thức rằng mình hợp thành dân Chúa. Ở đó bánh giáo lý chân thực và bánh Thánh Thể được bẻ ra cho họ cách dồi dào trong khuôn khổ một hành vi phụng tự duy nhất; từ nơi ấy, hằng ngày họ được sai đi để chu toàn sứ vụ truyền giáo tại mọi công trường hoạt động của thế giới.
91. Giáo xứ có bổn phận nghiêm trọng nào?
Đáp: Giáo xứ có bổn phận:
§ đào tạo những người hoàn toàn hiến thân cho việc linh hoạt công cuộc dạy giáo lý,
§ cung cấp những trang bị cần thiết cho việc dạy giáo lý dưới mọi khía cạnh,
§ gia tăng và thích nghi các địa điểm dạy giáo lý,
§ tùy theo khả năng và lợi ích, quan tâm đến phẩm chất của việc đào tạo tôn giáo cho các nhóm khác nhau và sự tháp nhập của họ vào nhiệm thể Giáo hội.
92. Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, kèm theo, phong phú hoá mọi hình thức khác của việc dạy giáo lý như thế nào?
Đáp: Tông huấn đã nêu lên một số hoạt động dạy giáo lý trong gia đình như sau:
§ cha mẹ giáo dục đức tin cho con cái ngay từ tuổi thơ ấu qua chứng tá đời sống, một chứng tá nhiều khi lặng lẽ nhưng bền chí qua một cuộc sống ngày qua ngày phù hợp theo Tin mừng;
§ giải thích nội dung ki-tô giáo hay tôn giáo của các biến cố xảy ra trong gia đình;
§ theo dõi và nhắc lại, trong khung cảnh gia đình, việc đào tạo có phương pháp hơn đã được hấp thụ ở nơi khác.
§ Chính cha mẹ cũng được lợi nhờ những nỗ lực mà công việc ấy đòi hỏi, vì trong một cuộc đối thoại giáo lý như thế, mỗi người vừa lãnh nhận vừa trao ban.
93. Để cha mẹ chu toàn trách vụ không thể thay thế ấy, đức giáo hoàng đã khuyên nhủ điều gì?
Đáp: Ngài khuyên nhủ:
§ các cha mẹ ki-tô hữu phải hết sức cố gắng để chuẩn bị thừa tác vụ làm giáo lý viên cho chính con cái mình và để thực hiện bổn phận ấy với một lòng nhiệt thành không mệt mỏi;
§ các cá nhân hay định chế, nhờ sự tiếp xúc cá nhân, nhờ những cuộc gặp gỡ hay hội họp, nhờ mọi thứ phương tiện giáo dục, mà giúp đỡ các cha mẹ chu toàn nhiệm vụ của mình.
94. Vì các người đang theo học tất nhiên bị mang dấu ấn của những điều học hỏi và phải đối diện với nhiều tư tưởng học được nơi nhà trường nên đức giáo hoàng nhắc nhở điều gì?
Đáp: Ngài nhắc nhở rằng việc dạy giáo lý phải hết sức lưu tâm đến ảnh hưởng này của nhà trường trên các học sinh để Tin mừng thấm nhiễm tâm trạng của học sinh trong lãnh vực học hành của chúng và văn hoá của chúng được hài hoà dưới ánh sáng của đức tin.
95. Đức giáo hoàng khuyến khích điều gì với các hiệp hội, phong trào và đoàn thể giáo dân?
Đáp: Ngài khuyến khích họ biết dành một chỗ đứng quan trọng cho việc đào tạo nghiêm chỉnh các thành viên của họ về mặt tôn giáo.
96. Cuối cùng đức giáo hoàng nói gì về việc đào tạo?
Đáp: Các giáo lý viên giáo dân phải được đào tạo kỹ lưỡng để gánh vác, nếu không phải là một thừa tác vụ được chính thức thiết lập, ít ra cũng là một chức vụ rất cao trọng trong Giáo hội. Việc đào tạo này đòi hỏi ta phải tổ chức những trung tâm và học viện dành riêng mà các Giám mục sẽ ân cần chăm sóc.
Kết luận
97. Cuối Tông huấn, đức giáo hoàng hướng về Đấng nào?
Đáp: Đức giáo hoàng hướng về Chúa Thánh Thần, Đấng là căn nguyên cảm hứng mọi công cuộc dạy giáo lý và những người thực hiện công cuộc ấy.
98. Đâu là sứ mệnh của Thần Khí trong Giáo hội?
Đáp: Đó là:
§ Thầy dạy nội tâm, Đấng, trong nơi bí ẩn của lương tâm và tâm hồn, giúp ta hiểu điều mà ta đã nghe mà không thể lĩnh hội để;
§ biến đổi các môn đệ thành nhân chứng của Đức Ki-tô;
§ ban cho con người đời sống mới của những con cái Thiên Chúa, là đời sống theo Thần Khí;
§ phân phát mọi đoàn sủng, là những ơn xây dựng Giáo hội, cộng đoàn các ki-tô hữu.
99. Từ đó, ngài khẳng định điều gì?
Đáp: Việc dạy giáo lý, tức là sự tăng trưởng trong đức tin và trưởng thành trong đời sống Ki-tô hữu cho tới sung mãn, là một công trình của Chúa Thánh Thần, công trình mà chỉ một mình Người mới có thể khởi xướng và nâng đỡ trong Giáo hội.
100. Hai hệ luân ngài đã rút ra là gì?
Đáp: Đó là:
§ khi chu toàn sứ mệnh dạy giáo lý, Giáo hội cũng như mọi ki-tô hữu riêng lẻ dấn thân cho sứ vụ ấy trong Giáo hội và nhân danh Giáo hội, phải ý thức sâu xa rằng mình hành động như một công cụ sống động và ngoan ngoãn của Chúa Thánh Thần. Luôn khẩn cầu Thần khí, thông hiệp với Người, nỗ lực hiểu biết các điều Người linh hứng, đó phải là thái độ của Giáo hội thầy dạy và của mọi giáo lý viên;
§ công cuộc canh tân trong Thần khí sẽ là chân chính và sẽ sinh nhiều hoa trái trong Giáo hội tùy theo mức độ mà công cuộc ấy dẫn đưa các tín hữu nỗ lực cách khiêm tốn, kiên nhẫn và bền chí, để hiểu biết ngày càng sâu xa hơn mầu nhiệm Đức Ki-tô và để làm chứng cho mầu nhiệm này.
Lm John Phan Du Sinh, OFM
Học hỏi Tông huấn Dạy Giáo lý

1. Tông huấn Dạy Giáo lý là tài liệu gì?

Học hỏi Tông huấn
catechesi tradendae
Dẫn nhập
1. Tông huấn Dạy Giáo lý là tài liệu gì?
Đáp: Tông huấn Dạy Giáo lý là tông huấn về việc dạy giáo lý trong Giáo hội và thế giới do Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II công bố vào ngày 16-10-1979.
Đây là thành quả của Thượng hội đồng Giám Mục thông thường thứ IV nhóm họp tại Rô-ma từ ngày 30-9 đến 29-10-1977.
2. Tại sao dạy giáo lý luôn được Giáo hội coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mình?
Đáp: Vì trước khi lên cùng Cha Người, Đức Ki-tô phục sinh đã ban cho các Tông đồ một lệnh truyền cuối cùng: làm cho mọi dân tộc trở nên môn đệ và dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Người đã truyền.
3. Qua lệnh truyền đó, Đức Giê-su trao ban cho các ông điều gì?
Đáp: Đức Giê-su ban cho các ông:
§ sứ mệnh và quyền năng loan truyền cho nhân loại điều mà các ông đã nghe, thấy tận mắt, chiêm ngưỡng, tay đã chạm đến, về Ngôi Lời ban sự sống;
§ sứ mệnh và quyền năng giải thích một cách có thẩm quyền điều mà Người đã dạy các ông, lời nói và việc làm của Người, các dấu lạ và giới răn của Người;
§ Thần Khí để chu toàn sứ mệnh ấy.
4. Cụm từ dạy giáo lý được dùng để biểu thị điều gì?
Đáp: Cụm từ dạy giáo lý được dùng để biểu thị toàn thể nỗ lực của Giáo hội nhằm:
§ gầy dựng các môn đệ, giúp người ta tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, ngõ hầu nhờ đức tin họ được sống nhờ danh Người;
§ giáo dục và dạy dỗ họ trong cuộc sống ấy và nhờ thế, xây dựng Thân thể Đức Ki-tô.
5. Trong thời gian vừa qua, có những nỗ lực nào liên quan đến việc dạy giáo lý?
Đáp: Đó là:
§ Giáo huấn của công đồng Va-ti-ca-nô II;
§ Ngày 18-3-1971, Đức Phao-lô VI phê chuẩn Tập chỉ dẫn tổng quát về việc dạy giáo lý do Thánh Bộ Giáo sĩ soạn thảo;
§ Năm 1975, Đức Phao-lô VI thiết lập Hội Đồng Quốc tế về khoa dạy giáo lý;
§ Ngày 18-12-1975, Đức Phao-lô VI ban hành tông huấn Evangelii nuntiandi;
§ Đại hội thứ IV của Thượng Hội Đồng Giám mục về việc dạy giáo lý;
§ Mẫu gương về cách dạy giáo lý của Đức Gio-an Phao-lô II nhằm vào điểm cốt yếu và đồng thời có tính cách bình dân, với những cử chỉ và lời nói đơn sơ,
6. Đại hội lần IV của Thượng Hội đồng Giám mục có chủ đề gì?
Đáp: Chủ đề: việc dạy giáo lý, đặc biệt là việc dạy giáo lý cho trẻ em và giới trẻ.
7. Tông huấn nhắm mục đích gì?
Đáp: Tông Huấn có mục đích:
§ làm cho đức tin và đời sống Ki-tô hữu thêm vững mạnh;
§ đem lại một sinh lực mới cho các sáng kiến hiện hành;
§ kích thích óc sáng tạo -với sự thận trọng cần thiết;
§ giúp lan toả giữa các cộng đoàn niềm vui là được đem đến cho thế giới mầu nhiệm Đức Ki-tô.
8. Tông huấn Dạy giáo lý có bố cục như thế nào?
Đáp: Sau phần Nhập đề, Tông huấn chia thành 9 chương, 2 chương đầu là cái nhìn lịch sử, 7 chương sau đề cập đến các khía cạnh của việc dạy giáo lý:

Chương I: Chúng ta chỉ có một vị Thầy là đức Giê-su Ki-tô;
Chương II: một kinh nghiệm cổ xưa như Giáo hội;
Chương III: việc dạy giáo lý trong hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo hội (dạy giáo lý là gì?);
Chương IV: toàn thể Tin mừng múc từ nguồn mạch (dạy cái gì?);
Chương V: mọi người cần được hấp thụ giáo lý (dạy cho ai?);
Chương VI: một vài đường lối và phương tiện của ngành dạy giáo lý (đường lối và phương tiện nào?);
Chương VII: dạy giáo lý cách nào (dạy cách nào?);
Chương VIII: niềm vui của đức tin trong một thế giới đầy khó khăn (dạy nơi nào?);
Chương IX: nhiệm vụ ấy liên quan đến tất cả chúng ta (Ai dạy?)
 

Chương 1: Chúng ta chỉ có một vị Thầy là đức Giê-su Ki-tô
9. Mục đích tối hậu của khoa dạy giáo lý là gì?
Đáp: Đó là:
§ làm cho người ta thông hiệp với ngôi vị Đức Ki-tô;
§ thông truyền giáo huấn của Đức Ki-tô.
10. Đức Ki-tô là vị Thầy duy nhất có nghĩa là gì?
Đáp: Điều đó có nghĩa là:
§ trong việc dạy giáo lý, chính Đức Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể và Con Thiên Chúa là Đấng được giảng dạy - tất cả những điều khác được giảng dạy bằng cách quy chiếu về Người
§ chỉ một mình Đức Ki-tô giảng dạy - mọi người khác giảng dạy tùy theo mức độ mà họ là phát ngôn viên của Người để Đức Ki-tô dùng miệng họ mà giảng dạy.
11. Vẻ uy nghi của Đức Ki-tô Thầy dạy cũng như tính mạch lạc và sức thuyết phục độc nhất vô nhị của Lời Người giảng do đâu mà có?
Đáp: Đó là do lời nói, dụ ngôn và lập luận của Người không hề tách rời khỏi đời sống và bản thân Người. Theo nghĩa này, toàn thể cuộc đời của Đức Ki-tô là một bài giảng liên tục.
12. Để đạt được mục đích của việc dạy giáo lý, giáo lý viên phải làm gì?
Đáp: Giáo lý viên phải:
§ chuyên cần học hỏi Lời Chúa do Huấn quyền của Giáo hội thông truyền;
§ hiệp thông sâu xa với Đức Ki-tô và với Chúa Cha;
§ có tinh thần cầu nguyện và từ bỏ bản thân mình.
Chương hai: một kinh nghiệm cổ xưa như Giáo hội
13. Tông huấn có nhận định nào về cuộc đời các thánh tông đồ?
Đáp: Tông huấn nói rằng hình ảnh của Đức Ki-tô Thầy dạy đã in sâu vào tâm trí các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên, và lệnh truyền: Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ đã hướng dẫn toàn thể cuộc đời của các ngài.
14. Toàn thể sách Công vụ tông đồ cho ta thấy điều gì?
Đáp: Toàn thể sách Công vụ tông đồ:
§ minh chứng rằng các tông đồ đã trung thành với ơn gọi và với sứ mệnh đã nhận được;
§ cho ta thấy hình ảnh thường xuyên của một Giáo hội, nhờ giáo huấn của các Tông đồ mà sinh ra và luôn luôn được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, cử hành Lời Người trong Hy lễ tạ ơn và minh chứng điều đó với thế giới qua dấu chỉ Đức ái.
15. Việc dạy giáo lý thời các tông đồ như thế nào?
Đáp: Các Tông đồ đã không chậm trễ chia sẻ với những người khác thừa tác vụ tông đồ. Trong nhiệm vụ giảng dạy, các Tông đồ còn được sự cộng tác của nhiều môn đệ khác nữa; và ngay cả các Ki-tô hữu thường, khi bị phân tán do bách hại, đi qua đâu, họ cũng giảng Lời Tin mừng ở đó. Các Thư, các sách Tin mừng là những chứng tá về việc giảng dạy giáo lý thời các thánh Tông đồ.
16. Việc dạy giáo lý thời các giáo phụ như thế nào?
Đáp: Một số Giám mục và chủ chăn thời danh nhất, đặc biệt trong thế kỷ thứ III và thứ IV, coi việc giảng dạy và viết các bài giáo lý như một phần quan trọng của thừa tác vụ Giám mục của các ngài.
17. Công đồng Tri-đen-ti-nô đã quan tâm đến việc dạy giáo lý như thế nào?
Đáp: Công đồng đã:
§ dành ưu tiên cho việc dạy giáo lý trong các Hiến chế và Sắc lệnh của Công đồng;
§ khởi xướng Sách Giáo lý Rô-ma;
§ phát sinh trong Giáo hội một tổ chức dạy giáo lý đáng chú ý.
18. Từ những kinh nghiệm vừa gợi lại trong lịch sử Giáo hội, ta có thể rút ra những bài học nào?
Đáp: Ta có thể rút ra những bài học sau đây:
§ Việc dạy giáo lý là quyền lợi và bổn phận của Giáo hội;
§ đây là nhiệm vụ ưu tiên;
§ là trách nhiệm chung nhưng khác biệt;
§ cần canh tân liên tục và quân bình.
19. Do đâu mà việc dạy giáo lý là một bổn phận?
Đáp: Việc dạy giáo lý là một bổn phận nảy sinh do mệnh lệnh của Chúa.
20. Tại sao dạy giáo lý là một quyền?
Đáp: Bởi vì hai lý do:
§ về phương diện thần học, tất cả mọi người đã được thanh tẩy, do chính bởi sự kiện đã lãnh nhận phép thánh tẩy, đều có quyền được đón nhận từ Giáo hội sự giảng dạy và huấn luyện, nhờ dó họ có thể tiến tới một đời sống Ki-tô hữu đích thực;
§ trên bình diện nhân quyền, mọi nhân vị đều có quyền tìm kiếm chân lý tôn giáo và tự do theo chân lý ấy.
21. Hệ quả của quyền ấy là gì?
Đáp: Hoạt động dạy giáo lý
§ phải diễn tiến trong những hoàn cảnh thuận lợi về không gian, thời gian,
§ phải được quyền sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội và được trang bị thích hợp, không phân biệt đối xử với phụ huynh, học viên giáo lý hay giáo lý viên.
22. Vì việc dạy giáo lý là nhiệm vụ ưu tiên, Giáo hội được kêu mời làm gì?
Đáp: Giáo hội được kêu mời dành cho việc dạy giáo lý những tiềm lực tốt nhất của mình về nhân sự và sức lực, mà không quản ngại những cố gắng, mệt nhọc và phương tiện vật chất, để tổ chức việc dạy giáo lý cho chu đáo hơn và đào tạo những nhân sự có khả năng.
23. Việc dạy giáo lý là trách nhiệm chung nhưng khác biệt nghĩa là gì?
Đáp: Điều đó có nghĩa là toàn thể Giáo hội phải cảm thấy có trách nhiệm và muốn gánh lấy trách nhiệm, nhưng các thành viên của Giáo hội có những trách nhiệm khác nhau, phát sinh từ sứ mệnh của mỗi người.
24. Việc dạy giáo lý cần được canh tân như thế nào?
Đáp: Việc dạy giáo lý cần được canh tân liên tục:
§ bằng một sự mở rộng nào đó chính khái niệm dạy giáo lý,
§ bằng cách rà soát lại phương pháp,
§ bằng cách tìm kiếm một ngôn ngữ thích hợp,
§ bằng cách sử dụng những phương tiện mới mẻ để loan truyền sứ điệp.
25. Để có một sự canh tân quân bình, Giáo hội phải như thế nào?
Đáp: Giáo hội phải tỏ ra khôn ngoan, can đảm và trung thành với Tin mừng trong việc tìm kiếm và vận dụng các đường lối và những triển vọng mới cho việc dạy giáo lý.
Chương iii: việc dạy giáo lý trong hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo hội
26. Phúc âm hoá là gì?
Đáp: Phúc âm hoá là đem Tin mừng đến cho toàn thể nhân loại để nhân loại sống Tin mừng ấy.
27. Dạy giáo lý là gì?
Đáp: Dạy giáo lý là giáo dục đức tin cho trẻ nhỏ, thanh niên và người lớn, đặc biệt là việc dạy giáo lý Ki-tô giáo, có tổ chức và hệ thống nhằm khai tâm họ vào cuộc sống Ki-tô hữu sung mãn.
28. Việc dạy giáo lý được xây dựng trên những yếu tố nào?
Đáp: Đó là:
§ loan truyền lần đầu Tin mừng hay rao giảng có tính cách truyền giáo bằng kerygma để khơi dậy đức tin;
§ biện giáo hay tìm lý lẽ cho niềm tin;
§ kinh nghiệm về đời sống Ki-tô hữu;
§ cử hành các bí tích;
§ tháp nhập cộng đoàn Giáo hội;
§ làm chứng bằng việc tông đồ và truyền giáo.
29. Như thế, đâu là chỗ đứng của việc dạy giáo lý trong công cuộc Phúc âm hoá?
Đáp: Việc dạy giáo lý là một thời rất đặc biệt trong những thời của toàn thể tiến trình Phúc âm hoá.
30. Đâu là khác biệt giữa dạy giáo lý và việc loan báo tin mừng đầu tiên?
Đáp: Việc loan báo Tin mừng đầu tiên là khơi dậy sự hoán cải, còn dạy giáo lý nhắm mục tiêu kép là làm cho đức tin mới chớm nở nên trưởng thành và huấn luyện người môn đệ đích thực của Đức Ki-tô, nhờ sự hiểu biết sâu xa và có hệ thống hơn, về bản thân và sứ điệp của Đức Giê-su Ki-tô.
Tuy nhiên, trong thực hành, việc dạy giáo lý nhiều khi phải lo, không những nuôi dưỡng và giáo dục đức tin, nhưng còn là khơi dậy đức tin với sự trợ giúp của ơn Chúa, mở rộng tâm hồn, hoán cải, chuẩn bị sự gắn bó hoàn toàn với Đức Giê-su Ki-tô, nơi những người còn ở ngưỡng cửa đức tin.
31. Đâu là mục đích đặc biệt của việc dạy giáo lý?
Đáp: Mục đích đặc biệt của việc dạy giáo lý chính là, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, làm phát triển đức tin còn thơ ấu, thăng tiến đến mức độ viên mãn và nuôi dưỡng hằng ngày đời sống ki-tô của các tín hữu thuộc mọi lứa tuổi. Nói rõ hơn, mục đích của việc dạy giáo lý, trong toàn thể công cuộc phúc âm hoá, là làm nên giai đoạn dạy dỗ và đem đến sự trưởng thành.
32. Việc dạy giáo lý phải có những đặc diểm nào?
Đáp: Phải có những đặc điểm sau:
§ một sự giảng dạy có hệ thống, không phải là tuỳ hứng, thiếu sửa soạn, nhưng theo một chương trình, để đạt đến một mục đích rõ rệt;
§ đề cập đến những điều cốt yếu, không có tham vọng đề cập đến tất cả các vấn đề còn tranh luận, cũng không biến thành cuộc khảo cứu thần học hay chú giải có tính cách khoa học;
§ khá đầy đủ, không dừng lại ở việc loan báo đầu tiên Mầu nhiệm Ki-tô giáo, như ta có trong Keryma;
§ một sự khai tâm đời sống ki-tô giáo toàn diện, khai mở về hết mọi thành tố của đời sống ki-tô hữu.
33. Đâu là mối tương quan giữa việc dạy giáo lý và kinh nghiệm đời sống?
Đáp: Có một mối quan hệ hỗ tương. Những xác tín vững chắc và có suy xét đưa đến hành động can đảm và chính trực; nỗ lực sống xứng đáng là môn đệ của Đức Ki-tô tạo thuận lợi cho việc khám phá sâu xa Mầu nhiệm Đức Ki-tô trong lịch sử cứu độ.
34. Vì thế, tông huấn nhắc nhở phải tránh 2 chủ trương nào?
Đáp: Đó là chủ trương:
§ cổ võ loại bỏ việc nghiên cứu nghiêm chỉnh và có hệ thống về sứ điệp của Đức Ki-tô, nhân danh một phương pháp coi trọng kinh nghiệm đời sống;
§ đối lập việc dạy giáo lý lấy đời sống làm khởi điểm với việc dạy giáo lý cổ truyền, có tính cách học thuyết và hệ thống.
35. Việc dạy giáo lý liên hệ với các bí tích như thế nào?
Đáp: Một mặt, việc dạy giáo lý là để sửa soạn lãnh nhận các phép bí tích, và mọi việc dạy giáo lý đều tất nhiên đưa đến các bí tích của đức tin. Mặt khác, việc cử hành chân chính các bí tích đương nhiên có tính cách dạy giáo lý.
36. Cộng đồng Giáo hội có trách nhiệm gì đối với việc dạy giáo lý?
Đáp: Cộng đồng Giáo hội không những có trách nhiệm lo huấn luyện các thành viên, nhưng còn có trách nhiệm tiếp đón họ vào một môi trường mà họ có thể sống trọn vẹn nhất điều họ đã học hỏi.
37. Tóm lại, việc dạy giáo lý cần thiết như thế nào?
Đáp: Việc dạy giáo lý là cần thiết không những để làm cho đức tin của các Ki-tô hữu thêm trưởng thành, mà còn giúp họ làm chứng trên thế giới.
Chương IV:Toàn thể Tin mừng múc từ nguồn mạch
38. Nội dung của việc dạy giáo lý là gì?
Đáp: Vì việc dạy giáo lý là một giai đoạn hay một khía cạnh của công cuộc Phúc âm hoá, nên nội dung của nó không thể khác với nội dung của công cuộc Phúc âm hoá xét như một toàn thể: sứ điệp Tin mừng cứu độ.
39. Trong việc dạy giáo lý, sứ điệp Tin mừng được đào sâu nhờ đâu?
Đáp: Sứ điệp Tin mừng được đào sâu nhờ:
§ suy tư và nghiên cứu có hệ thống;
§ ý thức đến các hệ luận của sứ điệp ấy trên đời sống cá nhân của mỗi người - một ý thức đòi hỏi dấn thân hơn;
§ tháp nhập vào cái tổng thể hữu cơ và hài hoà là đời sống Ki-tô hữu trong xã hội và trên thế giới.
40. Đâu là nguồn mạch của nội dung ấy?
Đáp: Đó là Lời Chúa, được truyền đạt trong Thánh truyền và Kinh thánh.
41. Để việc dạy giáo lý thấm nhuần tư tưởng, tinh thần và thái độ theo Kinh thánh và Tin mừng, ta phải làm gì?
Đáp: Ta phải:
§ tiếp xúc chuyên cần với chính các bản văn;
§ đọc các bản văn với trí hiểu và tâm hồn của Giáo hội và lấy cảm hứng ở sự suy tư và cuộc sống của Giáo hội trong 2000 năm.
42. Ta có thể tìm thấy điểm quy chiếu chắc chắn cho nội dung của việc dạy giáo lý nơi đâu?
Đáp: Trong Kinh Tin kính.
43. Tông huấn nêu lên những yếu tố nào không được bỏ qua của nội dung việc dạy giáo lý?
Đáp: Đó là:
§ Mầu nhiệm Thiên Chúa;
§ Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể và cứu chuộc;
§ Mầu nhiệm Ba Ngôi;
§ Mầu nhiệm Giáo hội;
§ Mầu nhiệm cánh chung;
§ Đời sống mới;
§ Các nhân đức ki-tô giáo;
§ Giáo huấn về xã hội.
44. Về nội dung của khoa dạy giáo lý, ngày nay cần lưu ý đặc biệt đến những điểm nào?
Đáp: Ta cần lưu ý đặc biệt ba điểm:
§ sự toàn vẹn của nội dung: không cắt xén, xuyên tạc, giảm bớt, nhưng đầy đủ và toàn vẹn, chính xác và đầy sức mạnh;
§ nhờ những phương pháp sư phạm thích hợp;
§ chiều kích đại kết.
45. Có những điều kiện nào để khoa dạy giáo lý có một chiều kích đại kết?
Đáp: Có 3 điều kiện:
§ khi không ngừng dạy rằng toàn thể các chân lý được Mặc khải và những phương tiện cứu độ do Đức Ki-tô thiết lập được tìm thấy Giáo hội Công giáo;
§ khi khơi dậy và cổ võ ước muốn thành thực đi đến sự hiệp nhất;
§ khi cố gắng chuẩn bị các trẻ nhỏ và thanh niên cũng như người lớn công giáo, sống trong sự giao tiếp với những người không công giáo, bằng cách khẳng định đặc tính công giáo của mình trong sự tôn trọng đức tin của các người khác.
46. Nơi nào có sự cộng tác đại kết trong lãnh vực dạy giáo lý thì phải lưu ý điển gì?
Đáp: Phải chăm sóc sao cho việc huấn luyện người công giáo trong Giáo hội công giáo phải được đảm bảo về phương diện giáo lý và đời sống kitô hữu.
Chương V: mọi người cần được hấp thụ giáo lý
47. Tại sao Đại hội thứ IV của Thượng Hội Đồng Giám mục chọn chủ đề là Việc dạy giáo lý cho trẻ em và giới trẻ?
Đáp: Bởi vì trẻ em và giới trẻ họp thành một lực lượng lớn, lực lượng này, mặc dù có nhiều rủi ro, đang dự định xây dựng nền văn minh sắp tới.
48. Khi dạy giáo lý cho trẻ thơ, cần nhấn mạnh những yếu tố nào?
Đáp: Đó là:
§ một mặc khải đơn sơ về Chúa Cha trên trời, Đấng tốt lành và quan phòng;
§ những kinh đọc rất vắn tắt;
§ học cho biết hướng tâm hồn lên với vị Thiên Chúa ẩn dấu mà sau đó nó sẽ bắt đầu nghe lời;
§ truyền đạt cách đơn giản và trung thực trong yêu thương và tôn trọng.
49. Khi dạy giáo lý cho thiếu nhi, cần nhấn mạnh những yếu tố nào?
Đáp: Đó là:
§ Mục tiêu: tháp nhập cách hữu cơ vào đời sống Giáo hội
§ tính cách sư phạm nhưng hướng đến việc làm chứng trong đức tin;
§ khai tâm, dù một cách sơ lược, tất cả các mầu nhiệm chính yếu của đức tin và và những tác động trong đời sống đức tin và tôn giáo của trẻ nhỏ;
§ chuẩn bị trực tiếp cho việc cử hành các bí tích.
50. Đâu là đặc điểm của tuổi thiếu niên?
Đáp: Đó là:
§ thời kỳ khám phá ra chính mình và thế giới nội tâm của mình, thời kỳ của những dự định quảng đại, thời kỳ nẩy ra tình cảm yêu thương, với những thúc đẩy sinh lý của dục tính, thời kỳ ham thích ở chung với nhau, thời kỳ những xúc cảm mãnh liệt, gắn liền với sự khám phá say mê cuộc sống.
§ Nhưng cũng là tuổi thích đặt những câu hỏi sâu sắc hơn, những tìm tòi đầy lo âu, thậm chí dẫn đến thất vọng, tuổi có những ngờ vực nào đó đối với người khác và có khi rút lui vào chính mình một cách nguy hiểm, tuổi đôi khi gặp những thất bại và những cay đắng đầu tiên.
51. Khoa dạy giáo lý cho thiếu niên cần phải như thế nào?
Đáp: Cần phải:
§ Chú ý đến khía cạnh dễ thay đổi của thời kỳ tế nhị này;
§ có khả năng dẫn dắt thiếu niên đến chỗ duyệt xét lại đời mình và đi đến đối thoại;
§ không bỏ qua những vấn đề trọng đại của tuổi này - sự hiến thân, niềm tin, lòng yêu mến và cách biểu lộ qua phái tính.
52. Nội dung giáo lý của thời kỳ này là gì?
Đáp: Đó là trình bày:
§ Đức Giê-su Ki-tô như người bạn, người hướng dẫn và gương mẫu, đáng thán phục nhưng cũng có thể bắt chước được;
§ sứ điệp của Người, là sứ điệp đem lại giải đáp cho những vấn đề căn bản;
§ ý định yêu thương của Đức Ki-tô cứu thế như nhập thể tình yêu đích thực duy nhất và như khả năng hiệp nhất loài người;
§ mầu nhiệm khổ nạn và sự chết của Đức Giê-su, chính các mầu nhiệm ấy có thể đánh động mạnh mẽ lương tâm và tâm hồn của người thiếu niên và chiếu toả một luồng ánh sáng xuống những đau khổ đầu tiên của chúng, và các đau khổ của thế giới mà chúng khám phá ra.
53. Đâu là đặc điểm của thời thanh niên?
Đáp: Tuổi thanh niên là thời kỳ của những quyết định quan trọng. Dù được các người trong gia đình và bạn hữu nâng đỡ, nhưng người thanh niên phải cậy dựa vào chính mình và theo lương tâm đạo đức của mình, và đảm đương trách nhiệm về số mệnh mình một cách ngày càng thường xuyên hơn và quyết định hơn.
54. Nội dung giáo lý của thời kỳ này cần nhấn mạnh những điểm nào?
Đáp: Đó là trình bày:
§ Tin Mừng đem lại cho đời sống một ý nghĩa và do đó, khơi dậy những thái độ: quảng đại, hi sinh, siêu thoát, kiên nhẫn, công bình, dấn thân, hoà giải, ý thức về Tuyệt đối và vô hình, v.v
§ trình bày ý nghĩa Ki-tô giáo của lao động, của công ích, công lý và bác ái, hoà bình giữa các dân tộc và về sự thăng tiến nhân phẩm, về sự phát triển và về sự giải phóng.
55. Thượng hội đồng đã nêu lên những nhận xét nào có ích cho việc truyền đạt giáo lý cho thanh niên?
Đáp: Thượng hội đồng đã:
§ phác họa một cách hết sức chính xác bộ mặt phức tạp của tuổi thanh niên ngày nay;
§ chỉ rõ rằng người trẻ nói một ngôn ngữ qua đó ta phải kiên nhẫn và khôn ngoan mới biết diễn đạt mà không phản bội sứ điệp của Đức Giêsu;
§ minh chứng rằng, dầu vẻ bề ngoài thế nào đi nữa, những người trẻ ấy mang trong lòng, tuy có khi còn mơ hồ, không chỉ là một sự sẵn sàng và cởi mở mà thôi, nhưng còn là một khát vọng thực sự muốn biết Đức Giê-su mà người ta gọi là Đức Ki-tô;
§ vạch rõ rằng công cuộc dạy giáo lý ngày nay, nếu muốn thực hiện nghiêm túc và đúng đắn thì khó khăn hơn và mệt nhọc hơn bao giờ hết, do mọi thứ chướng ngại và khó khăn gặp phải, nhưng lại an ủi hơn vì những đáp trả sâu sắc mà nó nhận được từ nơi các trẻ nhỏ và thanh niên.
56. Hạng người trẻ nào đáng ta lưu ý cách riêng?
Đáp: Đó là:
§ những trẻ nhỏ và thanh niên tật nguyền về thể xác và tinh thần;
§ các trẻ nhỏ và thanh niên, sinh trưởng và được giáo dục trong một gia đình không Công giáo hay ít ra là không hành đạo, nhưng muốn biết đức tin Ki-tô giáo.
57. Tại sao việc dạy giáo lý cho người lớn là vấn đề trọng yếu và được các nghị phụ quan tâm nhất?
Đáp: Vì:
§ đây là hình thức chính của việc dạy giáo lý, vì nó nhắm đến các người có những trách nhiệm lớn lao nhất và có khả năng sống sứ điệp Ki-tô giáo dưới hình thức đã phát huy cách trọn vẹn.
§ Cộng đồng Ki-tô hữu không thể thực hiện việc dạy giáo lý thường xuyên nếu không có sự tham gia trực tiếp và có kinh nghiệm của người lớn, bất luận họ là người tiếp nhận hay tổ chức hoạt động dạy giáo lý.
§ Thế giới trong đó các người trẻ được mời gọi sống và làm chứng cho đức tin mà việc dạy giáo lý muốn đào sâu và củng cố, thế giới ấy do người lớn điều khiển.
§ Đức tin của các người lớn này cũng phải luôn luôn được soi sáng khích lệ và canh tân để họ thấu triệt các thực tại trần thế mà họ chịu trách nhiệm.
58. Vì thế, Tông huấn nhắc nhở điều gì?
Đáp: Tông huấn nói rằng:
§ muốn được hữu hiệu, việc dạy giáo lý phải thường xuyên và nó sẽ vô ích nếu dừng lại ngay ở ngưỡng cửa của tuổi trưởng thành.
§ các người lớn bất cứ về tuổi nào, và cả những cụ ông cụ bà, phải được theo học giáo lý không kém gì trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên.
59. Những người nào được kể là dự tòng?
Đáp: Đó là:
§ những người sinh ra và được giáo dục ở những miền chưa được Ki-tô hoá và chưa bao giờ có thể đào sâu giáo lý Công giáo;
§ những người hồi còn nhỏ đã được học giáo lý phù hợp với tuổi họ nhưng sau đó đã buông lơi không thực hành đạo, và khi đứng tuổi chỉ có những hiểu biết ấu trĩ về tôn giáo;
§ những người chịu ảnh hưởng của việc dạy giáo lý hồi thơ ấu, nhưng được truyền đạt cách vụng về hay thiếu thấm nhuần;
§ những người, mặc dầu sinh trong một nước ki-tô giáo, thậm chí sinh trong một môi trường xã hội ki-tô giáo, nhưng không bao giờ được giáo dục về đức tin của mình.
60. Kết thúc chương này, Tông huấn lưu ý điều gì?
Đáp: Tông huấn lưu ý 2 điểm:
§ phải làm sao cho việc dạy giáo lý cho các lứa tuổi có sự tiếp nối và bổ túc hoàn hảo cho nhau;
§ trong Giáo hội của Đức Giê-su Ki-tô không ai có thể cảm thấy mình được miễn học Giáo lý. Điều đó đúng ngay cả với các chủng sinh, các tu sĩ trẻ, cũng như tất cả những người được kêu gọi lãnh nhiệm vụ chủ chăn và giáo lý viên.
Chương vi: một vài đường lối và phương tiện của ngành dạy giáo lý
61. Tông huấn chú ý đến một vài đường lối và phương tiện nào của ngành dạy giáo lý?
Đáp: Đó là:
§ Các phương tiện truyền thông xã hội;
§ Địa điểm, cơ hội như hành hương hay cuộc họp của các câu lạc bộ Kinh Thánh, cộng đoàn Giáo hội cơ bản, các nhóm Công giáo tiến hành, hội Bác ái, nhóm cầu nguyện, nhóm suy tư Ki-tô giáo;
§ Bài giảng;
§ Sách dạy giáo lý;
§ Sách Giáo Lý.
62. Về các đoàn thể, đức giáo hoàng khuyến khích điều gì?
Đáp: Đức giáo hoàng khuyến khích:
§ các người trẻ tham gia các đoàn thể ấy;
§ các người lãnh đạo và các linh mục dành phần quan trọng nhất của thừa tác vụ của mình cho công cuộc ấy;
§ tổ chức sao để phát huy những giá trị bằng hữu và liên đới giữa các người trẻ, niềm vui và lòng nhiệt thành, suy tư về các biến cố và sự kiện, và đừng để cho các đoàn thể ấy thiếu sự học hỏi nghiêm túc Giáo lý Công giáo.
63. Đức giáo hoàng nhắc nhở điều gì liên quan đến bài giảng?
Đáp: Đó là:
§ tập trung vào các bản văn kinh thánh,
§ giúp cho các tín hữu quen thuộc với toàn thể các mầu nhiệm đức tin và những quy tắc của đời sống Ki-tô hữu,
§ bài giảng đừng dài quá cũng đừng ngắn quá, bao giờ cũng phải soạn kỹ, nội dung súc tích và thích hợp với thính giả.
64. Những điều kiện thiết yếu của một cuốn sách dạy giáo lý là gì?
Đáp: Đó là:
§ sách phải theo sát đời sống cụ thể của giới mà sách nhằm tới;
§ sách phải cố gắng nói bằng ngôn ngữ dễ hiểu cho giới ấy;
§ sách phải cố gắng trình bày trọn vẹn sứ điệp của Đức Ki-tô và của Giáo hội Người, mà không bỏ sót hay bóp méo điểm nào, nhưng trình bày sứ điệp ấy theo một hướng và một cơ cấu làm nổi bật lên những điều cốt yếu;
§ sách phải nhằm đem lại cho người dùng sách, một sự hiểu biết sâu rộng hơn về các mầu nhiệm của Đức Ki-tô để đi đến hoán cải thực sự và sống một đời sống hợp với ý muốn của Thiên Chúa hơn.
Chương vii: dạy giáo lý cách nào
65. Tại sao việc dạy giáo lý cần đến những phương pháp khác nhau?
Đáp: Vì việc dạy giáo lý tùy thuộc:
§ tuổi tác và sự phát triển trí thức của người ki-tô hữu, mức độ trưởng thành của họ về phương diện giáo hội và về mặt tâm linh và nhiều hoàn cảnh cá nhân khác;
§ những môi trường xã hội - văn hoá khác nhau.
66. Tông huấn nêu lên những vấn đề nào liên quan đến phương pháp dạy giáo lý?
Đáp: Đó là:
§ Phục vụ mặc khải và sự hoán cải;
§ Hội nhập của sứ điệp vào các nền văn hoá;
§ Sử dụng những yếu tố có giá trị của lòng đạo đức bình dân;
§ Việc dùng trí nhớ.
67. Tông huấn nêu lên mối nguy hiểm và cám dỗ nào?
Đáp: Đó là pha trộn không chính đáng giáo lý với những quan điểm về ý thức hệ công khai hay tiềm ẩn, nhất là về chính trị và xã hội, hay với những chọn lựa chính trị có tính cách riêng tư.
68. Vì thế Thượng hội đồng nhấn mạnh điều gì?
Đáp: Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh rằng việc dạy giáo lý:
§ phải vượt trên các khuynh hướng phiến diện lệch lạc, mọi thứ duy đạo đức hình thức, mọi cứu thế thuyết trần thế, xã hội hay chính trị;
§ phải dựa trên mặc khải, y như huấn quyền phổ quát của Giáo hội thông truyền;
§ phải dẫn đến sự thay đổi triệt để loài người và vũ trụ, thay đổi tất cả những gì dệt thành cuộc sống loài người dưới ảnh hưởng của Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô.
69. Để đưa sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng văn hoá và các nền văn hoá, khoa dạy giáo lý phải làm gì?
Đáp: Phải làm những việc sau:
§ tìm biết các nền văn hoá và những thành tố căn bản của chúng;
§ học biết cách thức diễn tả có ý nghĩa nhất theo những nền văn hoá ấy;
§ tôn trọng các giá trị và kho tàng phong phú riêng của chúng.
70. Tông huấn lưu ý điều gì khi hội nhập sứ điệp vào các nền văn hoá?
Đáp: Tông huấn lưu ý 2 điều:
§ không thể đơn thuần cô lập sứ điệp Tin Mừng ra khỏi nền văn hoá trong đó sứ điệp đã được lồng vào, cũng không thể tách rời khỏi các nền văn hoá trong đó sứ điệp ấy đã được diễn tả qua nhiều thế kỷ;
§ ở đâu sức mạnh Tin Mừng cũng biến đổi và tái tạo. Sẽ không có khoa dạy giáo lý nếu Tin Mừng phải biến chất khi tiếp xúc với các nền văn hoá.
71. Khi đề cao lại việc sử dụng trí nhớ trong khi học giáo lý, Tông huấn căn dặn điều gì?
Đáp: Tông huấn căn dặn rằng: Điều cốt yếu là bản văn được ghi nhớ cần được nội tâm hoá và dần dần được am hiểu theo chiều sâu, để trở nên nguồn mạch đời sống ki-tô giáo cá nhân và cộng đoàn.
72. Điều luật căn bản chi phối mọi phương pháp dạy giáo lý là gì?
Đáp: Đó là: trung thành với Thiên Chúa và trung thành với con người trong cùng một thái độ yêu thương.
Chương viii: niềm vui của đức tin trong một thế giới đầy khó khăn
73. Thế giới hiện nay mà chúng ta muốn đối thoại về ơn cứu độ như thế nào?
Đáp: Đó là:
§ một thế giới đầy khó khăn, trong đó mối lo âu vì thấy những sáng tạo tốt nhất của loài người thoát ly khỏi mình và quay chống lại mình, tạo ra một bầu khí lưỡng lự, do dự và nhạt nhẽo;
§ một thế giới tục hoá: không biết Thiên Chúa và thậm chí, phủ nhận Thiên Chúa.
74. Trong thế giới này, khoa dạy giáo lý phải làm gì?
Đáp: Khoa dạy giáo lý phải giúp người ki-tô hữu:
§ luôn giữ được sự trong sáng và kiên định trong đức tin,
§ thanh thản khẳng định mình là người ki-tô hữu và công giáo,
§ nhìn thấy cái vô hình và bám chặt vào tính tuyệt đối của Thiên Chúa,
§ trở nên ánh sáng và muối để họ được niềm vui và phục vụ mọi người.
75. Thế nào là một khoa sư phạm đức tin?
Đáp: Khi nói đến khoa sư phạm đức tin:
§ đây không phải là vấn đề thông truyền một sự hiểu biết loài người dù hết sức cao sâu;
§ nhưng là vấn đề thông truyền mặc khải của Thiên Chúa cách toàn vẹn theo kiểu mẫu khoa sư phạm của Thiên Chúa.
§ Một kỹ thuật chỉ có giá trị cho việc dạy giáo lý trong chừng mực kỹ thuật ấy phục vụ đức tin mà ta phải thông truyền và giáo dục.
76. Ngôn ngữ phải như thế nào?
Đáp: Ngôn ngữ phải thích nghi, phục vụ cho việc diễn tả đức tin. Cụ thể là:
§ Ngôn ngữ phải thích hợp với người được thông truyền đức tin;
§ không thể chấp nhận một ngôn ngữ nào rốt cuộc làm biến chất nội dung của đức tin;
§ cũng không thể chấp nhận một ngôn ngữ lừa dối hay phỉnh gạt;
§ các tiến bộ to tát trong ngôn ngữ học phải có thể được dùng phục vụ khoa dạy giáo lý để khoa này thực có khả năng nói lên hay thông truyền mà không bóp méo nội dung giáo lý.
77. Ngày nay, có trào lưu tư tưởng nào về đức tin?
Đáp: Có trào lưu quan niệm rằng đức tin không phải là sự xác tín nhưng là một thắc mắc, không phải là cái gì minh bạch nhưng là bước nhảy vào chỗ tối tăm.
78. Trào lưu này có ích như thế nào?
Đáp: Trào lưu này có ích là:
§ nhắc nhở ta rằng đức tin liên quan đến những điều mà ta chưa chiếm hữu được vì ta còn mong chờ, những điều mà ta mới thấy ở trong gương, cách mường tượng và rằng Thiên Chúa luôn ngự trong ánh sáng siêu phàm;
§ khiến ta không biến đức tin ki-tô giáo thành ra thái độ của người đã đạt đến đích, nhưng là một cuộc hành trình, như hành trình của A-bra-ham.
79. Khi giáo dục trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên, ta nên truyền đạt như thế nào về đức tin?
Đáp: Ta đừng nên truyền đạt một khái niệm quá tiêu cực về đức tin, như sự không biết tuyệt đối, một thứ mù loà, một thế giới tối tăm. Nhưng ta nên vạch cho chúng thấy rằng, việc tìm kiếm cách khiêm tốn và can đảm của đức tin, không khởi sự từ hư vô, từ những ảo tưởng, từ những ý kiến có thể sai lầm và từ những điều không xác thực, nhưng trái lại, dựa trên Lời Chúa, mà Lời Chúa thì không sai lầm, không lừa dối, và sự tìm kiếm đó, được luôn luôn xây dựng trên tảng đá không thể lay chuyển của Lời ấy.
80. Một khi ý thức rằng những nghiên cứu và khẳng định của họ ảnh hưởng đến việc dạy giáo lý, các nhà thần học và các nhà chú giải có bổn phận nào?
Đáp: Họ phải hết sức quan tâm để người ta đừng coi những điểm thuộc lãnh vực ý kiến hay tranh luận giữa các nhà chuyên môn, như là những chân lý xác thực.
81. Còn các giáo lý viên phải làm gì?
Đáp: Các giáo lý viên phải:
§ khôn ngoan nhặt hái trong cánh đồng khảo cứu thần học những điều nào có thể soi sáng suy tư riêng và lời dạy của họ, bằng cách múc ở những nguồn mạch đích thực, dưới ánh sáng của Huấn quyền;
§ tránh đừng gây bối rối cho tâm trí các trẻ nhỏ và thanh niên bằng những lý thuyết kỳ dị, những vấn đề rỗng tuếch hay những cuộc tranh luận vô bổ.
82. Quà tặng quý giá nhất mà Giáo hội có thể trao tặng cho thế giới ngày nay, một thế giới lạc hướng và lo âu là gì?
Đáp: Đó là đào tạo các ki-tô hữu xác tín trong những điểm cốt yếu, hân hoan và khiêm tốn trong niềm tin của mình.
Chương IX :nhiệm vụ ấy liên quan đến tất cả chúng ta
83. Trong chương cuối cùng này, đức giáo hoàng muốn điều gì?
Đáp: Ngài muốn gieo rắc dồi dào lòng can đảm, niềm hy vọng và sự nhiệt thành trong lòng mọi người, thật đông đảo và khác nhau, đang gánh vác trách nhiệm giảng dạy đạo Chúa và huấn luyện về đời sống theo Tin mừng.
84. Đâu là nhiệm vụ của giám mục trong lãnh vực dạy giáo lý?
Đáp: Giám mục là:
§ người có trách nhiệm trước tiên về việc dạy giáo lý, là giáo lý viên đích thực nhất;
§ người có trách nhiệm về việc dạy giáo lý trong Giáo hội toàn cầu.
85. Mối quan tâm cổ võ công cuộc dạy giáo lý sao cho linh hoạt và hữu hiệu của giám mục sẽ được thể hiện cụ thể như thế nào?
Đáp: Mối quan tâm ấy sẽ được thể hiện qua việc:
§ chính ngài loan truyền giáo lý ban sự sống cho các tín hữu;
§ đảm nhiệm việc điều khiển tối cao công cuộc dạy giáo lý, cùng với những cộng tác viên thành thạo và đáng tin cẩn;
§ khơi dậy và giữ gìn trong Giáo phận một sự say mê dạy giáo lý, sự say mê được thể hiện qua một tổ chức thích hợp và hữu hiệu, vận dụng người, phương tiện, dụng cụ và cả các tài nguyên cần thiết.
§ đôi khi phải tố cáo những lệch lạc, sửa chữa những sai lầm.
86. Đức giáo hoàng khuyên nhủ gì với các linh mục?
Đáp: Ngài khuyên nhủ:
§ dành những nỗ lực tốt nhất của các con để làm tăng trưởng cộng đoàn của các con trong đức tin;
§ đừng bỏ sót bất cứ việc gì cần thiết cho một công cuộc dạy giáo lý có tổ chức và định hướng đúng đắn;
§ đừng để vì một sự thiếu nhiệt thành nào, do một thiên kiến đáng tiếc nào mà các tín hữu không được học giáo lý. Đừng để ai có thể nói rằng: Các trẻ nhỏ đòi bánh, nhưng không ai trao cho chúng.
87. Đức giáo hoàng khuyên nhủ gì với các tu sĩ?
Đáp: Là những người nhờ sự thánh hiến tu trì càng sẵn sàng phục vụ Giáo hội, các con hãy chuẩn bị càng kỹ lưỡng càng tốt cho nhiệm vụ dạy giáo lý, tùy theo ơn gọi khác nhau của dòng các con hay tùy theo sứ mệnh giao phó cho các con, và mang theo mối quan tâm ấy bất kỳ ở đâu. Chớ gì các cộng đoàn dành tối đa khả năng và phương tiện cho công cuộc dạy giáo lý.
88. Đức giáo hoàng nói gì với các giáo lý viên giáo dân?
Đáp: Nhân danh toàn thể Giáo hội, cha muốn cám ơn các con, là những giáo lý viên giáo dân trong các giáo xứ, những người nam và những người nữ đông hơn gấp bội, khắp nơi trên thế giới, đang tận tụy trong việc giáo dục tôn giáo cho nhiều thế hệ. Hoạt động của các con nhiều khi khiêm tốn và âm thầm, nhưng nhiệt thành, hăng hái và quảng đại, là một hình thức tuyệt vời của tông đồ giáo dân, đặc biệt quan trọng ở những nơi mà, vì nhiều lý do khác nhau, các trẻ nhỏ và thanh niên không được huấn luyện về đạo giáo một cách xứng hợp trong gia đình Cùng với Đại hội này, cha khuyến khích các con luôn tiếp tục cộng tác vì đời sống Giáo hội.
89. Đặc biệt với các giáo lý viên ở các xứ truyền giáo, đức giáo hoàng đã có lời ưu ái nào?
Đáp: Các giáo lý viên ở các xứ truyền giáo thực đáng tước hiệu giáo lý viên hơn ai hết Những Giáo hội ngày nay phồn thịnh chắc đã không xây dựng được nếu không có họ. Cha vui mừng vì những nỗ lực của Thánh Bộ Phúc âm hoá các dân tộc, để hoàn thiện luôn mãi công cuộc đào tạo giáo lý viên. Cha tưởng niệm với lòng biết ơn, những kẻ mà Chúa đã gọi về với Người. Cha nguyện xin những đấng mà các vị tiền nhiệm của Cha đã tôn lên vinh quang bàn thờ, cầu bầu cho chúng ta. Cha hết lòng khuyến khích những người đang hiến thân trong công việc. Cha ước mong nhiều người khác thay phiên nhau tiếp tục đi con đường ấy và cha cầu chúc con số họ đông hơn nữa cho một việc cần thiết như thế cho công cuộc truyền giáo.
90. Tại sao giáo xứ vẫn phải là địa điểm ưu tiên cho việc dạy giáo lý?
Đáp: Bởi vì giáo xứ là là một gia đình sống tình huynh đệ và hiếu khách, nơi các người đã được thánh tẩy và thêm sức ý thức rằng mình hợp thành dân Chúa. Ở đó bánh giáo lý chân thực và bánh Thánh Thể được bẻ ra cho họ cách dồi dào trong khuôn khổ một hành vi phụng tự duy nhất; từ nơi ấy, hằng ngày họ được sai đi để chu toàn sứ vụ truyền giáo tại mọi công trường hoạt động của thế giới.
91. Giáo xứ có bổn phận nghiêm trọng nào?
Đáp: Giáo xứ có bổn phận:
§ đào tạo những người hoàn toàn hiến thân cho việc linh hoạt công cuộc dạy giáo lý,
§ cung cấp những trang bị cần thiết cho việc dạy giáo lý dưới mọi khía cạnh,
§ gia tăng và thích nghi các địa điểm dạy giáo lý,
§ tùy theo khả năng và lợi ích, quan tâm đến phẩm chất của việc đào tạo tôn giáo cho các nhóm khác nhau và sự tháp nhập của họ vào nhiệm thể Giáo hội.
92. Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, kèm theo, phong phú hoá mọi hình thức khác của việc dạy giáo lý như thế nào?
Đáp: Tông huấn đã nêu lên một số hoạt động dạy giáo lý trong gia đình như sau:
§ cha mẹ giáo dục đức tin cho con cái ngay từ tuổi thơ ấu qua chứng tá đời sống, một chứng tá nhiều khi lặng lẽ nhưng bền chí qua một cuộc sống ngày qua ngày phù hợp theo Tin mừng;
§ giải thích nội dung ki-tô giáo hay tôn giáo của các biến cố xảy ra trong gia đình;
§ theo dõi và nhắc lại, trong khung cảnh gia đình, việc đào tạo có phương pháp hơn đã được hấp thụ ở nơi khác.
§ Chính cha mẹ cũng được lợi nhờ những nỗ lực mà công việc ấy đòi hỏi, vì trong một cuộc đối thoại giáo lý như thế, mỗi người vừa lãnh nhận vừa trao ban.
93. Để cha mẹ chu toàn trách vụ không thể thay thế ấy, đức giáo hoàng đã khuyên nhủ điều gì?
Đáp: Ngài khuyên nhủ:
§ các cha mẹ ki-tô hữu phải hết sức cố gắng để chuẩn bị thừa tác vụ làm giáo lý viên cho chính con cái mình và để thực hiện bổn phận ấy với một lòng nhiệt thành không mệt mỏi;
§ các cá nhân hay định chế, nhờ sự tiếp xúc cá nhân, nhờ những cuộc gặp gỡ hay hội họp, nhờ mọi thứ phương tiện giáo dục, mà giúp đỡ các cha mẹ chu toàn nhiệm vụ của mình.
94. Vì các người đang theo học tất nhiên bị mang dấu ấn của những điều học hỏi và phải đối diện với nhiều tư tưởng học được nơi nhà trường nên đức giáo hoàng nhắc nhở điều gì?
Đáp: Ngài nhắc nhở rằng việc dạy giáo lý phải hết sức lưu tâm đến ảnh hưởng này của nhà trường trên các học sinh để Tin mừng thấm nhiễm tâm trạng của học sinh trong lãnh vực học hành của chúng và văn hoá của chúng được hài hoà dưới ánh sáng của đức tin.
95. Đức giáo hoàng khuyến khích điều gì với các hiệp hội, phong trào và đoàn thể giáo dân?
Đáp: Ngài khuyến khích họ biết dành một chỗ đứng quan trọng cho việc đào tạo nghiêm chỉnh các thành viên của họ về mặt tôn giáo.
96. Cuối cùng đức giáo hoàng nói gì về việc đào tạo?
Đáp: Các giáo lý viên giáo dân phải được đào tạo kỹ lưỡng để gánh vác, nếu không phải là một thừa tác vụ được chính thức thiết lập, ít ra cũng là một chức vụ rất cao trọng trong Giáo hội. Việc đào tạo này đòi hỏi ta phải tổ chức những trung tâm và học viện dành riêng mà các Giám mục sẽ ân cần chăm sóc.
Kết luận
97. Cuối Tông huấn, đức giáo hoàng hướng về Đấng nào?
Đáp: Đức giáo hoàng hướng về Chúa Thánh Thần, Đấng là căn nguyên cảm hứng mọi công cuộc dạy giáo lý và những người thực hiện công cuộc ấy.
98. Đâu là sứ mệnh của Thần Khí trong Giáo hội?
Đáp: Đó là:
§ Thầy dạy nội tâm, Đấng, trong nơi bí ẩn của lương tâm và tâm hồn, giúp ta hiểu điều mà ta đã nghe mà không thể lĩnh hội để;
§ biến đổi các môn đệ thành nhân chứng của Đức Ki-tô;
§ ban cho con người đời sống mới của những con cái Thiên Chúa, là đời sống theo Thần Khí;
§ phân phát mọi đoàn sủng, là những ơn xây dựng Giáo hội, cộng đoàn các ki-tô hữu.
99. Từ đó, ngài khẳng định điều gì?
Đáp: Việc dạy giáo lý, tức là sự tăng trưởng trong đức tin và trưởng thành trong đời sống Ki-tô hữu cho tới sung mãn, là một công trình của Chúa Thánh Thần, công trình mà chỉ một mình Người mới có thể khởi xướng và nâng đỡ trong Giáo hội.
100. Hai hệ luân ngài đã rút ra là gì?
Đáp: Đó là:
§ khi chu toàn sứ mệnh dạy giáo lý, Giáo hội cũng như mọi ki-tô hữu riêng lẻ dấn thân cho sứ vụ ấy trong Giáo hội và nhân danh Giáo hội, phải ý thức sâu xa rằng mình hành động như một công cụ sống động và ngoan ngoãn của Chúa Thánh Thần. Luôn khẩn cầu Thần khí, thông hiệp với Người, nỗ lực hiểu biết các điều Người linh hứng, đó phải là thái độ của Giáo hội thầy dạy và của mọi giáo lý viên;
§ công cuộc canh tân trong Thần khí sẽ là chân chính và sẽ sinh nhiều hoa trái trong Giáo hội tùy theo mức độ mà công cuộc ấy dẫn đưa các tín hữu nỗ lực cách khiêm tốn, kiên nhẫn và bền chí, để hiểu biết ngày càng sâu xa hơn mầu nhiệm Đức Ki-tô và để làm chứng cho mầu nhiệm này.
Lm John Phan Du Sinh, OFM
 

NGUỒN : GP. NHATRANG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét