THÁNH VỊNH 122
THÀNH THÁNH GIÊ-RU-SA-LEM
THÀNH THÁNH GIÊ-RU-SA-LEM
1Ca khúc lên Đền. Của vua Đa-vít.
Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi :
“Ta cùng trẩy lên Đền Thánh CHÚA!”
Và giờ đây, Giê-ru-sa-lem hỡi,
2cửa nội thành, ta đã dừng chân.
3Giê-ru-sa-lem khác nào đô thị
được xây nên một khối vẹn toàn.
4Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en.
5Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đa-vít.
6Hãy nguyện chúc Giê-ru-sa-lem được thái bình,
rằng : “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
7tường trong luỹ ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh.”
8Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu,
tôi nói rằng : “Chúc thành đô an lạc.”
9Nghĩ tới Đền Thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô.
Tiếp bước bao thế hệ xưa đã hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem, chính Đức Giê-su đã từng nhịp bước lên đền thánh ấy. Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi cùng nhau đọc chậm và ngâm nga hát ca Thánh vịnh 122, không nhất thiết phải hiện diện trong bối cảnh một cuộc hành hương tới Giê-ru-sa-lem Đất Thánh, nhưng lúc nào cũng có thể trong ý hướng và tâm tình của một lữ khách đang tiến về Giê-ru-sa-lem vĩnh cửu.
Hướng lên cao
Chưa kịp cất tiếng hát lời ca thánh, mới chỉ vừa chạm mắt tới tiêu đề, người ca ngâm đã được Tv 122 kêu mời hướng lên cao. Tiêu đề của 15 Thánh vịnh, từ 120 – 134, đều là Ca khúc lên Đền, dịch sát là Ca khúc đi lênhoặc Ca khúc của những cuộc đi lên (המעלות שיר, šîr hamma`álôt). Lên cao ở đây không phải để tận hưởng khí lành gió mát và tầm nhìn khoáng đạt thênh thang cho bằng để được gặp gỡ Đấng vô biên và ngàn trùng chí thánh.
15 Thánh vịnh lên Đền là những Thánh vịnh được đặc biệt hát trong các dịp dân Chúa hành hương Giê-ru-sa-lem, cụ thể là vào ba kỳ đại lễ hằng năm : Vượt Qua, Ngũ Tuần và lễ Lều (x. Đnl 16,1-17). Nói như thế vì trong tiếng Híp-ri, động từ đi lên (עלה, `äläh) vẫn thường được dùng khi nói về các cuộc hành hương Giê-ru-sa-lem (x. Tv 24,3 ; 2 V 23,2), bởi thành này xây nơi cao, trên núi (x. Tv 2,6 ; Tv 68,16-17 ; 2 Sb 3,1 ; St 22,2).
Đi lên còn là một biểu tượng : Đối với người tin, hành trình lên Giê-ru-sa-lem tượng trưng cho cuộc tiến bước trong hành trình tâm linh ; và hành hương Giê-ru-sa-lem là việc làm rất quan trọng đối với dân Ít-ra-en vì là lệnh truyền của Thiên Chúa (x. Xh 23,14-17 ; Đnl 16,1-17).
Cả 15 Thánh vịnh từ 120-134 đều mang tiêu đề Ca khúc đi lên với ý nghĩa và mục đích vừa nêu trên. Tuy nhiên, trong toàn bộ nội dung, trừ Tv 122, 14 Thánh vịnh kia chỉ phản ánh những nét cụ thể của người hành hương : mệt mỏi, cầu xin, mong cho mau đến, yêu mến Đền Thờ, thương mến Giê-ru-sa-lem, vui mừng sâu xa, cậy trông, tín thác…, chứ không trực tiếp nói về cuộc hành hương nào.
Duy nhất có Tv 122 nói rõ về việc hành hương lên Giê-ru-sa-lem. Đây cũng là Thánh vịnh được biết đến rất nhiều và có lẽ được nhiều Ki-tô hữu yêu thích hơn so với 14 Thánh vịnh lên Đền kia.
Đi vào vòng tay Đức Chúa
Không chỉ nêu đích danh Giê-ru-sa-lem, Thánh vịnh 122 còn nhắc tới hai địa danh khác : Đền Thánh CHÚA(cc. 1.9) và vương triều Đa-vít (c. 5). Gọi vương triều Đa-vít là địa danh thì nghe cũng hơi lạ ! Thực ra, từ vương triều ở đây được dịch từ tiếng Híp-ri בית (Bäyit) - từ này nghĩa chữ là NHÀ -, khi đi với Đa-vít có thể hàm ý vương triều, triều đại, hoặc cung điện. Cũng như trong cụm từ Đền Thánh CHÚA, từ Đền Thánh cũng dịch từ tiếng Híp-ri בית (NHÀ), nên trong Thánh vịnh này, hai cụm từ Đền Thánh CHÚA và vương triều Đa-vít có thể lần lượt được thay thế bằng cách nói Nhà Đức Chúa và nhà Đa-vít. Thay thế như thế thì thấy ngay đây là hai địa danh.
Xét về phương diện địa lý, Nhà Đức Chúa và nhà Đa-vít dẫu có là đền thờ và cung điện nguy nga đến mấy cũng nằm trong phạm vi Giê-ru-sa-lem hay toạ lạc giữa thành đô này. Nhưng nếu đọc kỹ và lưu ý tới vị trí mà ba địa danh được xếp đặt trong toàn Thánh vịnh cách có chủ đích, chúng ta sẽ nhận thấy tầm quan trọng của các địa danh này được tác giả sắp đặt theo một trật tự hoàn toàn khác, từ đó mới nhận ra ý nghĩa và tâm tình ông muốn diễn tả, gửi gắm và khơi lên.
Lần theo từng câu trong Thánh vịnh, ta thấy ba địa danh được đặt ở các vị trí như sau :
c. 1 : Nhà Đức Chúa
c. 2 : Giê-ru-sa-lem
c. 3 : Giê-ru-sa-lem
c. 5 : nhà Đa-vít
c. 6 : Giê-ru-sa-lem
c. 9 : Nhà Đức Chúa
+ Nhà Đa-vít được đóng khung bởi Nhà Đức Chúa.+ Giê-ru-sa-lem lặp lại ba lần, và cũng được Nhà Đức Chúa đóng khung.
Nhìn từ khía cạnh cấu trúc văn chương, Nhà Đức Chúa đứng sừng sững uy hùng ngay ở đầu ca khúc - rồi vẫn đầy uy thế, lại tái hiện ở cuối nữa ! Bình thường, chúng ta chỉ thấy Giê-ru-sa-lem bao trùm Nhà Đức Chúa vànhà Đa-vít cùng với bao nhiêu nhà cửa cư dân, nhưng cặp mắt thi nhân được linh hứng lại thấy và muốn cho mọi người thấy Nhà Đức Chúa mọc cao từ đầu này và vươn xa đầy uy lực đến tận cuối tầm nhìn ở đầu kia, như đang bao bọc, ôm trọn nhà Đa-vít, ôm trọn và bao trùm cả Giê-ru-sa-lem, thậm chí cả đất nước mà Giê-ru-sa-lem thành đô là biểu tượng.
Lối cấu trúc mở-đóng hay cấu trúc đóng khung này rất được ưa chuộng trong văn chương Do-thái, và qua đó, trong mỗi hoàn cảnh, người viết muốn nhắn gửi người đọc một tâm sự, một nỗi niềm, hay một thông điệp đặc biệt nào đó .
Thông điệp ở đây là một niềm xác tín : Thiên Chúa sẽ ôm trọn Giê-ru-sa-lem và nhà Đa-vít trong vòng tay chở che bao bọc của Người. Người là nguồn lực bảo đảm cho triều Đa-vít vững vàng, cho vương quốc Ít-ra-en bền lâu, điều mà Người đã hứa với Đa-vít qua ngôn sứ Na-than : Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra -, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. (2 Sm 7,12-13).
Từ niềm xác tín ấy, cấu trúc đóng khung mà tác giả sử dụng cho ca khúc làm cho Đền Thánh CHÚA càng nổi bật lên trong tâm hồn những người đang say sưa ngâm hát : Nhà Đức Chúa rực sáng lên như tâm điểm của cuộc hành hương kính viếng và của lòng gắn bó trung thành. Nhà Đức Chúa chính là nguyên nhân cho niềm vui trào dâng vỡ oà. Vì mến yêu Nhà Đức Chúa, người muôn phương tuốn về Giê-ru-sa-lem (c. 1). Để cùng xưng tụng danh Đức Chúa như lệnh đã truyền, dân Ít-ra-en phải tiến về Giê-ru-sa-lem, nơi có Nhà Đức Chúa (x. c. 4). Sau cùng, vì nghĩ đến Nhà Đức Chúa, mọi người tin tưởng nhắn nhủ nhau cùng nguyện chúc an lạc, hạnh phúc mãi mãi cho thành đô (cc. 8-9) !
Để cảm nếm niềm vui
Tác giả Thánh vịnh chia sẻ cho độc giả niềm vui lớn lao của bản thân cũng như của những người vẫn đồng lòng và đang đồng hành với ông trong cuộc hành hương lên Thành Thánh (cc. 1-2). Tại chính nơi hành hương, niềm vui trải rộng trên khắp mọi người và mọi vật trong cảnh : vật là những kiến trúc đô thị hợp thành một khối hài hòa ; người là mười hai chi tộc họp thành một dân hiệp nhất, vua tôi cùng thờ phượng Thiên Chúa (cc. 3-5). Niềm vui được người đang vui mong cho lan toả và kéo dài mãi mãi : niềm vui đã dâng đầy khi bình an được lặp lại tới 3 lần trong các câu 6-7-8 (Các Thánh vịnh là những áng thơ tiếng Híp-ri. Bản dịch CGKPV ở đây cố gắng chuyển tải chất thơ của nguyên tác bằng nét đẹp và sự phong phú về hình ảnh và âm thanh mà một bài thơ tiếng Việt cần có, nên dịch từ שלום (šälôm) trong tiếng Híp-ri bằng ba từ tiếng Việt khác nhau nhưng đều có nội dung cơ bản như nhau là bình an. Ba từ đó lần lượt ở ba câu 6.7.8 là : thái bình, yên ổn, an lạc. Chúng ta sẽ rõ hơn nếu xem bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn (lặp lại từ thái bình ở cả ba câu) hay các bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp (cả ba lần, שלום đều được dịch là peace, paix)), và còn được nhân rộng khi câu 9 rót thêm niềmhạnh phúc. Tác giả tha thiết mời gọi chúc bình an cho Giê-ru-sa-lem và chính ông cũng cầu chúc !
Chúng ta sẽ theo sát trình tự vừa kể để đào sâu ý nghĩa thánh thiêng của những dòng thơ và ngụp lặn trong niềm vui trào dâng của người trong thơ, cũng như theo sát hướng nhìn của nhà thơ. Tác giả đang nức lòng với từng cảnh tượng trước mắt, đồng thời chung nhịp với con tim rộn ràng của vô số khách hành hương đang khấp khởi mừng vui và tràn trề hy vọng. Mọi người cùng chăm chú nhìn Giê-ru-sa-lem để chiêm ngắm, thưởng ngoạn, gắn bó, mến yêu Thành thánh và Đền Thờ, nhất là bái phục tôn thờ Đấng ngự nơi đây, để thành này nên Thành Thánh và nếp kiến trúc trung tâm này nên Đền Thánh của Người.
Chúng ta sẽ cùng mọi người hướng tới và sống với Giê-ru-sa-lem qua ba khía cạnh :
+ Giê-ru-sa-lem, niềm vui của khách hành hương (cc. 1-2).+ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng của hiệp nhất (cc. 3-5).
+ Giê-ru-sa-lem, đối tượng của lời chúc bình an (cc. 6-9).
§ Giê-ru-sa-lem, niềm vui của khách hành hương (cc. 1-2)
Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi :
“Ta cùng trẩy lên Đền Thánh CHÚA!”
Và giờ đây, Giê-ru-sa-lem hỡi,
cửa nội thành, ta đã dừng chân (Tv 12,1-2).
Niềm vui của người được nghe báo tin hành hương như vỡ oà. Ông vừa được loan tin, vừa được gọi mời cùng lên đường, cùng bước đi với nhiều đồng đạo, chung nỗi khổ niềm vui suốt hành trình dài và thánh thiện :
“Ta cùng trẩy lên Đền Thánh CHÚA !”
Thật tuyệt vời, cả một đoàn người đông đảo bên nhau chia sẻ trong suốt hành trình và cảm nhận ân ban khi được dừng chân thỏa lòng chiêm ngắm và ngưỡng mộ kính yêu sau những ngày đường xa đầy mong mỏi : Đây rồi, Giê-ru-sa-lem thánh đô,
“cửa nội thành, ta đã dừng chân !”
Nhưng tại sao lên Đền Thánh lại khiến cho người lữ hành khấp khởi mừng và chan chứa vui đến thế ? Có thể hiểu vì đối với dân Ít-ra-en thời ấy, các lễ hội tôn giáo là sinh khí cuộc sống, và mọi sinh hoạt đều xoay quanh đó. Hành hương lên Giê-ru-sa-lem là đại lễ của mọi người, mọi thành thị, thôn xóm, mọi chi tộc Ít-ra-en, dù năm nào cũng diễn ra đều đặn, nhịp nhàng như thế.
Tuy nhiên, câu ca ngâm đầu Thánh vịnh thích hợp hơn với hoàn cảnh của những người đã từng lưu vong và bị áp bức ngặt nghèo chốn tha phương đất khách, không được hồi hương dự lễ. Nỗi buồn biền biệt tha phương ấy được diễn tả phần nào trong Tv 120,5 :
Thật bất hạnh cho tôi
phải trú ngụ trong miền rợ Me-séc,
phải sống cùng dân du mục Kê-đa.
và Tv 42,5 :
Tôi thả hồn miên man tưởng nhớ
thuở tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa,
cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa sóng người trẩy hội tưng bừng.
Đối với những trường hợp đó, câu 1 ở đây không những là lời loan báo tin vui lên Đền, mà còn làm sống lại nỗi mừng vui vì được giải thoát :
Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi :
“Ta cùng trẩy lên Đền Thánh CHÚA!”
Cảnh tượng mừng vui tưng bừng nhộn nhịp này càng thích hợp hơn nữa với những người đã hồi hương sau thời lưu đày khổ nhục. Họ nô nức lên Giê-ru-sa-lem, lòng dạt dào cảm xúc. Họ bồi hồi nhớ lại cảnh Đền Thờ bị thiêu rụi và Thành Thánh bị triệt phá bình địa hoang tàn hồi năm 587. Họ tự hào vì với Nơ-khe-mi-a và Ét-ra, khoảng năm 515, những công trình tái thiết đã được hoàn tất thật huy hoàng tráng lệ (x. Er 6,19tt). Những ngày hội thánh thiêng đang bù lại cho họ biết bao nỗi nhục nhằn cay đắng từng hứng chịu :
+ nhục trước quân thù ngoại bang :
Chúng con bị láng giềng thoá mạ
người chung quanh phỉ báng nhạo cười.
Đến bao giờ, lạy CHÚA, Ngài còn nổi giận,
Ngài nổi giận mãi sao ? (Tv 79,4-5)
+ tủi vì bị Thiên Chúa ruồng bỏ do lỗi lầm của tiền nhân :
Tội tiền nhân, xin Chúa đừng nhớ mãi
mà trừng phạt chúng con.
Xin dủ lòng thương mau đến giúp,
vì chúng con đã khổ quá nhiều. (Tv 79,8)
+ ngậm ngùi vì cảnh tôi đòi nơi đất khách :
Bên bờ sông Ba-by-lon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xi-on ;
trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn… (Tv 137,1-2)
+ Vất vả âu lo vì một thời gian dài vừa xây lại tường thành, vừa phải chiến đấu chống kẻ thù quấy phá như được mô tả trong Nkm 3,33 – 4,17, nhất là 4,10-11 :
Từ ngày ấy, một nửa tráng đinh của tôi lo làm việc ; còn nửa kia thì cầm giáo, khiên mộc, cung nỏ và mang áo giáp ; các thủ lãnh làm hậu thuẫn cho toàn thể nhà Giu-đa đang xây tường thành (Nkm 4,10-11).
Khổ nhục trong những ngày xưa ấy càng tuyệt vọng bao nhiêu thì niềm vui hôm nay càng tràn ngập đến vô tận bấy nhiêu khi Thiên Chúa thương ngoảnh mặt lại và đáp lời họ cầu khẩn. Niềm vui của người lên Đền hôm nay như òa vỡ vì đó chính là niềm vui của người được giải thoát, được Thiên Chúa đoái nhìn và thứ tha.
Mặt khác, niềm vui thánh vịnh gia và khách hành hương có được không chỉ do chính tin vui, mà còn do người loan tin :
“Ta cùng trẩy lên Đền Thánh CHÚA!”
Họ là những người thân quen, họ hàng hay bằng hữu của nhau, họ mời gọi nhau, khuyến khích nhau cùng trẩy hội. Nói cách khác, đây không phải chỉ là niềm vui lên Giê-ru-sa-lem, mà còn là niềm vui có nhau và bên nhau trên đường ; không phải chỉ vui vì được biết tin đăng trình, nhưng còn vui vì tin mừng được chia sẻ xuất phát tự đáy lòng của những người đang phấn chấn reo vui tình huynh đệ !
Và giờ đây, Giê-ru-sa-lem hỡi,
cửa nội thành, ta đã dừng chân.
Lời cảm thán do ngưỡng mộ và mến yêu thành còn bộc lộ nỗi hân hoan vui sướng vì cảm thấy nhẹ lòng sau hành trình dài lâu vất vả. Qua hết rồi bao nỗi thấp thỏm lo âu vì hành trình đầy nỗi gian nan hiểm trở. Chỉ còn lại đây niềm vui ngỡ ngàng xen lẫn nỗi tự hào rạo rực trước thành thánh Giê-ru-sa-lem, thành của tổ tiên cha ông và của chính họ, nhất là thành có Đức Chúa ngự trị và là thành của Đức Chúa !
Ngưỡng mộ công trình kiến trúc của thành Giê-ru-sa-lem là tâm trạng của dân tỉnh lên thành đô, đến với trung tâm tôn giáo lẫn văn hóa của cả nước, đi vào tâm điểm kinh tế của miền Giu-đa trù mật. Ngưỡng mộ cũng là tâm trạng của kẻ du mục quay về thành. Vốn chỉ quen với những túp lều vải thô sơ, họ ngỡ ngàng trước những khối đá liên kết nhau tài tình để làm nên ngôi đền tráng lệ với những cột trụ to lớn, những bức tường thành vững chãi. Sâu xa hơn nữa, khách hành hương còn thấy phản ánh nơi đây tâm trạng của một đoàn dân hậu lưu đày : họ thực sự xúc động khi ông truyền tai cha, con truyền tai cháu lịch sử của dân tộc : chính từ một đống tro tàn xưa kia (x. Nkm 3,33-34), Giê-ru-sa-lem hôm nay lại sừng sững, oai vệ như một thành đô, và đáng quý hơn cả là nên một khối vẹn toàn !
§ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng của hiệp nhất (cc. 3-5)
Nói về thành để biết về người. Nói khối đá vẹn toàn để diễn tả đoàn dân hiệp nhất. Đoàn dân này gồm mười hai bộ tộc nhà Gia-cóp, cùng trẩy hội lên Đền như xưa mười hai chi họ tổ tiên cùng lên khỏi Ai-cập dưới sự lãnh đạo của Mô-sê để tiến về miền Đất Hứa (x. Ds 10,11-28 ; Mk 6,4 ; Xh 32,7-8) theo cột mây cột lửa của Thiên Chúa, Đấng giải phóng đầy uy quyền. Khách hành hương quy tụ nơi đây nên một khối vẹn toàn để cùng làm mới lại Giao Ước với Thiên Chúa như dân xưa quy tụ tại Si-khem bên ông Giô-suê, cùng cam kết chỉ thờ phụng một mình Người (x. Gs 24).
Giê-ru-sa-lem khác nào đô thị
được xây nên một khối vẹn toàn (Tv 122,3).
Một khối vẹn toàn, cụm từ này muốn nói về một mối hiệp nhất, nhất thiết phải được xây nên, một tình gắn bó nhất định phải được kết thành giữa dân Ít-ra-en. Đây là những hình ảnh minh họa thêm cho tình liên đới giữa khối duy nhất của thành và cho sự nên một của dân ấy :
+ Giê-ru-sa-lem đã được xây nên một khối thì mọi chi tộc nhà Gia-cóp phải cùng quy tụ cả về :
Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây…(Tv 122,4).
+ Mọi chi tộc đều là của Thiên Chúa, nên phải đồng lòng lên đây để chung tiếng xưng tụng danh Người, cùng thi hành một mệnh lệnh Người đã truyền ban, cùng nhận quyền quản cai xét xử của một vị vua chính Người đã tuyển chọn :
… để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en.
Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đa-vít (122,4b-5).
+ Và thế là mọi chi tộc cùng có chung một định mệnh, mang chung một hy vọng từ lời hứa Thiên Chúa đã dành cho…
Những yếu tố trên đây liên kết họ nên một. Cùng nhau lên Giê-ru-sa-lem là dịp cho họ cùng nhau củng cố niềm tin vào Thiên Chúa, cùng nhau làm mới lại Giao Ước giữa họ với Người, cùng nhau ý thức sâu xa hơn mình là dân Giao Ước và phải sống đúng sứ mạng của mình là : xưng tụng danh CHÚA, vì danh CHÚA, tiếng hip-ri là יהוה (YAHVE), là danh xưng mà chính Thiên Chúa đã mặc khải cho Mô-sê (x. Xh 3,14), khởi đầu biến cố xuất hành, biến cố ký kết Giao Ước.
Nhưng nói đến sự hiệp nhất là đã ngầm giả thiết sự chia rẽ vẫn hằng đe dọa. Đúng thế, ngay từ khi mới manh nha chế độ quân chủ, thời Đa-vít, hai miền nam bắc đã từng theo hai nhà : bắc, thường gọi là Ít-ra-en ; và nam, Giu-đa, tùng phục nhà Đa-vít. Bắc nam đã từng gươm giáo chống lại nhau, tức là chống lại chính anh em đồng bào mình ! (x. 2 Sm 2,12-13.24-27 ; 3,1). Nam bắc phân đôi (x. 1 V 11 – 12) và cứ thế kỳ thị nhau cho đến thời Chúa Giê-su vẫn còn chưa dứt (x. Ga 4) !
Từ nỗi đau phân chia nhức nhối do lịch sử để lại, tác giả Thánh vịnh 122 ý thức sâu xa tầm quan trọng của hiệp nhất, không những trên bình diện chính trị mà còn về mặt tôn giáo, nên đã nhấn rất mạnh việc phải cùng tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất :
Để danh Chúa, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en.
Đây là ơn gọi riêng của Ít-ra-en. Họ được tách riêng ra, được dành riêng cho Thiên Chúa – tức là được thánh hiến – để trở thành một dân chuyên lo việc tế tự, chuyên xưng tụng danh Chúa. Bao lâu các dân nước chưa nhận ra Thiên Chúa, bấy lâu vai trò của Ít-ra-en giữa chư dân vẫn là một Dân Tư Tế. Đồng thời, họ còn có sứ mạng là làm sao cho muôn dân được biết và ca tụng danh Thiên Chúa, như ngôn sứ I-sai-a đã từng loan báo (Is 2,2-3).
Lên Đền Thánh để ca tụng danh Chúa, khách hành hương lại nghĩ đến ngai báu Đa-vít :
Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Đa-vít (Tv 122,5).
Nhắc đến vương triều Đa-vít là nói đến niềm tự hào về thời đại vàng son đã qua và cũng là niềm hy vọng của Ít-ra-en về sự phục hưng vương quốc sẽ tới, cho dù từ sau lưu đày, lời hứa về sự bền vững của vương triều Đa-vít vẫn chỉ là lời hứa, nhiều khi tưởng chừng như đã bị chìm vào quên lãng hay chỉ còn là chuyện viển vông mơ ước. Nhưng cấu trúc đóng khung của Thánh vịnh 122 lại cho thấy Nhà Đức Chúa bao bọc lấy nhà Đa-vít !
Lối diễn tả gợi đến trình thuật Thiên Chúa loan báo chính Người sẽ xây nhà cho Đa-vít chứ không phải ngược lại như Đa-vít từng ấp ủ (x. 2 Sm 7). Một khi Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người, vì Người đã đoái nhìn đến họ ngay tự thuở lưu đày, thì họ vẫn còn hy vọng từ lời hứa, cũng là hy vọng về mối hiệp nhất mà Giê-ru-sa-lem vẫn là một biểu tượng. Và do đó, Giê-ru-sa-lem mãi là đối tượng cho những lời cầu chúc bình an.
§ Giê-ru-sa-lem, đối tượng của lời chúc bình an (cc. 6-9)
Trong 3 câu từ 6-8, từ שלום (šälôm) – hòa bình, bình an – trong nguyên bản Híp-ri được lặp lại nguyên ngữ ba lần (còn bản dịch Việt ngữ, như đã trình bày, diễn tả ý của šälôm bằng ba từ đồng nghĩa dị âm). šälôm là lời cửa miệng của người Do-thái. Họ chào "šälôm" mỗi khi gặp nhau.
Hòa bình, an lạc, hạnh phúc là chủ điểm của bốn câu cuối Thánh vịnh này. Đây là mối bận tâm chính của vịnh gia. Vì thế, bài thơ vịnh cuộc hành hương Thành Thánh được ông kết thúc bằng lời kêu mời tha thiết :
Hãy nguyện chúc Giê-ru-sa-lem được thái bình,
rằng : “Chúc thân hữu của thành luôn thịnh đạt,
tường trong luỹ ngoài hằng yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an ninh.”
Nghĩ tới anh em cùng là bạn hữu,
tôi nói rằng : “Chúc thành đô an lạc.”
Nghĩ tới đền thánh CHÚA, Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô (Tv 122,6-9).
Hãy cầu chúc šälôm cho người người nhà nhà của khách hành hương, cho họ hàng bằng hữu, cho Đền Thờ và Thành Thánh, và, qua thành đô, cho toàn dân tộc. Cũng ngầm hiểu thi nhân muốn mời gọi mọi người chúc vinh cho cả danh Thiên Chúa nữa, Đấng ngự nơi Đền và hiển trị thành đô, đất nước !
Ngay sau khi từ đất lưu đày trở về, dân hồi hương đã phải đối đầu với mối hiềm khích thù địch của các dân xung quanh (x. Nkm 4,1-4). Hòa bình hầu như chẳng hề có trên mảnh đất vẫn gọi là Đất Hứa này, mảnh đất Ca-na-an mà Ít-ra-en có được bởi Lời Hứa của Thiên Chúa và cũng bởi những trận chiến dữ dội cam go ! Và trước đó cũng thế, từ thưở đầu sở hữu, Đất Hứa dành cho Ít-ra-en luôn bị các nước láng giềng, nhất là quân Phi-li-tinh, cố sức giành giật, xâm chiếm. Sa-un, vị vua đầu tiên được chọn để khai mở đế chế của họ đã mất mạng ngay trên chiến trường cùng với con trai là Gio-na-than. Còn Đa-vít, con người của trận mạc, thì suốt một đời chinh chiến và đổ máu quân thù (x. 1 Sb 22,8). Ngay như Giê-ru-sa-lem, thành mang tên šälôm đã được đặt làm kinh đô và trung tâm của Giu-đa, đã được mệnh danh là Thành của Đa-vít, cũng chỉ được Đa-vít sở hữu sau cuộc chiến ác liệt với người Giơ-vút (x. 2 Sm 5,6-7).
Chiến tranh triền miên. Ít-ra-en ra công phòng thủ, nhưng chỉ đủ sức đối phó với quân thù từ mấy nước láng giềng nhỏ bé. Rồi một ngày, đại họa sẽ ập đến từ các đế quốc khổng lồ phía bắc rồi phía đông : Năm 722, Sa-ma-ri bị quân Át-sua xóa sổ (x. 2 V 15,5-6). Năm 587 là cùng tận của vương quốc Giu-đa, dân bị lưu đày sang Ba-by-lon. Chính trong bối cảnh này, lời loan báo của I-sai-a về Hoàng Tử Hòa Bình đã được gióng lên (x. Is 9,1-6).
Cuộc hành hương của Ki-tô hữu
Chưa và sẽ không bao giờ có hòa bình nếu thế giới này không lấy Đức Giê-su Ki-tô làm đích điểm Ω (Ô-mê-ga) để tập trung và hướng tới, nếu nhân loại này không nhận Đức Giê-su Ki-tô làm Hoàng Tử Hòa Bình để yêu mến, làm Vua Tình Yêu để suy phục, vâng theo.
Hơn hai ngàn năm đã qua kể từ khi bị đế quốc Rô-ma thiêu hủy, Đền Thánh Giê-ru-sa-lem vẫn chưa được tái thiết và chỉ còn trơ lại duy nhất Bức Tường Than Khóc. Nhưng khách hành hương Ki-tô hữu từ muôn phương vẫn không ngừng tuốn về, vẫn yêu thích lặp lại ca khúc lên Đền kia, khi đặt chân lên mảnh đất thuở xa xưa là Thành Thánh.
Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi :
“Ta cùng trẩy lên Đền Thánh CHÚA!”
Thay cho tin vui Thành Thánh và Đền Thờ được xây dựng lại, Đức Giê-su Ki-tô, Đấng chúng ta tôn nhận là Hoàng Tử Hòa Bình, Vua Tình Yêu, Vua Vũ Trụ, đã mang lại cho chúng ta một tin mừng vĩ đại hơn : Mọi Ki-tô hữu sẽ được tiến về Nhà Cha trên trời, nơi đó ai cũng có phần. Người khẳng định : Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó (Ga 14,2-3).
Đầy vui mừng và hy vọng, người Ki-tô hữu sống ngay từ bây giờ niềm vui của người hành hương tiến về Thành Thánh Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc ấy (x. Kh 21,2).
Xưa kia, Đền Thánh Giê-ru-sa-lem là những viên đá liên kết thành một khối duy nhất làm biểu tượng đầy ước mơ cho sự hiệp nhất các chi tộc Ít-ra-en ; ngày nay, Đấng Phục Sinh là viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường (1 Pr 2,7). Trên Người và quanh Người, thay cho những phiến đá vật chất, chúng ta được Ngườitrao Thần Khí tự trên đồi Gôn-gô-tha (x. Ga 19,30), nên sẽ để Thiên Chúa dùng chúng ta như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, sẽ để Người đặt chúng ta làm hàng tư tế vương giả, làm dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người ngay khi chúng ta còn mang thânkhách lạ và lữ hành (x. 1 Pr 2,5.9.11) :
Từng chi tộc, chi tộc của CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en (Tv 122,4).
Được làm dân riêng của Thiên Chúa, chúng ta luôn có Đức Giê-su là Mục tử dẫn đường. Đức Giê-su là Đa-vít mới, vừa theo huyết thống vừa theo lời hứa (Cv 13,22), sẽ nắm giữ vương quyền đến muôn thuở, sẽ ngự ngai xét xử và hiệp nhất thực sự vĩnh viễn một khối vẹn toàn, không những hiệp nhất toàn thể nhân loại mà còn cả muôn loài thọ tạo. Bởi chưng Thiên Chúa đã muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời (Cl 1,20).
Hành trình mở ra từ những Phòng Tiệc Thánh nội tâm, từ những Phòng Tiệc Thánh gia đình, cộng đoàn hay Giáo Hội, để đến với con người, bắt đầu từ những người nghèo hèn nhỏ bé nhất, muốn ôm trọn mọi người và thế giới mà đưa về Giê-ru-sa-lem trên trời. Hành trình đó là hành trình luôn bên nhau và cùng nhau, luôn có nhau và sẵn sàng phục vụ lẫn nhau. Anh trọng lắm, chị quý lắm, em đáng giá lắm : đáng giá, đáng quý, đáng trọng bằng máu Thầy, máu đã trào ra đến giọt cuối cùng tự đáy trái tim bị đâm thâu mà gột rửa từng người chúng ta, không loại bỏ một ai.
Từ suy tư đó, một gia đình hay cộng đoàn phải có tôn ti, trật tự, và Hội Thánh phải có phẩm trật. Nhưng nơi những cộng đồng Ki-tô hữu này, mọi quyền bính phải nhằm phục vụ chứ không để thống trị. Càng làm đầu thì càng phải hầu thiên hạ. Người cha, người chồng, người bề trên, người chức quyền sẽ được yêu quý, tôn trọng, khẩu phục và tâm phục, khi họ biết "cúi xuống" để phục vụ mọi người. Những thất vọng bỏ cuộc, bỏ nhà, bỏ nhóm, bỏ cộng đoàn hay lìa xa Hội thánh của một ai đó sẽ là nỗi nhức nhối cho mọi người !
Niềm vui hướng tới Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc sẽ là động lực cho chúng ta trong cuộc lữ hành vạn nẻo :
Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi :
“Ta cùng trẩy lên Đền Thánh CHÚA !”
Sẽ không còn buồn chán hay thất vọng vì cuộc sống hiện tại đầy thách đố khi biết rằng Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc đang chờ đón chúng ta. Đồng thời, chúng ta cũng không lẩn tránh cuộc sống này, nhưng luôn luôn sống mọi chiều kích đời mình cách có ý nghĩa, trong tình người và tình yêu thiên nhiên, vì tất cả đều là thụ tạo của Thiên Chúa và đang tiến đến một ngày cùng với loài người được biến đổi trong trời mới đất mới.
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng(126,5)
Dạt dào niềm vui và ngập tràn hy vọng, chưa hết hứng khởi với Thánh vịnh lên Đền 122, người Ki-tô hữu có thể đã rộn lên trong lòng mình câu hát trên của Thánh vịnh 126, một Thánh vịnh lên Đền khác…
Sr Agnes Cảnh Tuyết
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aletti, J.-N. - Gilbert, M. - Ska, J.-L., Vocabulaire raisonné de l'exégèse biblique. Paris : Cerf, 2005.
Elliger, K. - Rudolph, W. (ed.), Biblia Hebraica Stuttgartensia. Stuttgart : Deutsche Bibelgesellschaft, 21977.
Botterweck, J.G. - Ringgren, H. - Fabry, H.-J., Theological Dictionary of the Old Testament. Grand Rapids (Michigan) : W.B. Eerdmans (15 volumes), 1977-2006.
Koehler, L. - Baumgartner, W., The Hebrew and Aramaic Lexicon of the Old Testament. Leinden : E.J. Brill (5 volumes), 1994-2000.
Guthrie, D. (ed.), Nouveau commentaire biblique. Saint-Légier : Emmaus, 1978.
Giarard, M., Les psaumes redécouverts : de la structure au sens, 101-150. Québec : Bellarmin, 1996.
Mannati, P., Les psaumes, T. IV (Ps 107-150). Paris : Desclée de Brouwer, 1968.a
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét