Hãy Ði Theo Chúa
Suy Niệm:
Chúa Nhật XXVIII Thường
Niên Năm B
Khôn ngoan 7,7-11; Hipri
4,12-13; Marcô 10,17-30
Hằng tuần và có khi hằng
ngày, chúng ta họp nhau lại đây cử hành thánh lễ để làm gì? Có lẽ cuối cùng
chúng ta phải dựa vào các bài Thánh Kinh hôm nay để trả lời một cách thỏa đáng.
Chúng ta muốn bắt chước vua Salomon đến đây cầu xin ơn khôn ngoan để biết sống
ở đời. Và hơn nữa, chúng ta muốn như chàng thanh niên trong Phúc Âm xin Chúa
chỉ đàng cho chúng ta như lời bài Thánh Thư hôm nay không? Do đó những bài Kinh
Thánh chúng ta vừa nghe đọc, rất đáng suy nghĩ và phải được đem ra thực hành.
Chúng ta hãy đọc lại.
1. Cầu Xin Ơn Khôn Ngoan
Bài sách Khôn ngoan cho chúng
ta được nghe lại chính lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít
là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy.
Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó
hơn hết mọi sự ở đời. Về điểm này ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể
(3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng
thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra
với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải
cai trị một dân tộc "đông đúc"; nên ông không xin điều gì khác ngoài
một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Ðiều
ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.
Câu đầu của đoạn sách hôm nay
nhắc lại câu truyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời
Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin
được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù� nên Ta se cho ngươi
một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ
khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay
trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý
sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều
như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự
trong tay.
Ðối với Salomon, khôn ngoan
là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là
ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn
ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu
xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó
muốn nói đến sự khôn ngoan nào?
Không dễ trả lời câu hỏi này
đâu. Ðọc sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ
định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là
một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo
thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và
lãnh nhận dần được ơn cao cả này. Cuối cùng chúng ta có thể nói, khôn ngoan
chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải
như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho
chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.
Ðó mới thật là sự khôn ngoan
mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin.
Ðừng quý gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta. Nếu muốn cụ
thể hơn, chúng ta hãy nói rằng sự khôn ngoan mà chúng ta phải cầu xin chính là
ơn cứu độ mà Ðức Kitô đã mang đến, là chính Ðức Yêsu là sự khôn ngoan của Thiên
Chúa đã giáng sinh làm người. Chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm
nay.
2. Hãy Ði Theo Chúa
Thánh Marcô kể hôm ấy Ðức
Yêsu đang đi đường. Người lên Yêrusalem để thụ nạn cứu thế và ban hạnh phúc cho
mọi người. Một chàng thanh niên chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa với
Người như một bậc "tôn sư": "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì
để được sống đời đời làm cơ nghiệp". Anh chưa thấy Người khác mọi bậc thầy
và khác với mọi sư phụ. Anh tưởng Người cũng giống như bao luật sĩ hoặc nhà
truyền đạo đã thay lượt nhau đến dạy đường khôn ngoan cho loài người. Có lẽ anh
chỉ coi Người hơn họ một chút xíu thôi.
Nhưng Người không phải như
vậy. Người không đến dạy sự khôn ngoan, nhưng là chính sự khôn ngoan nhập thể.
Người không chỉ dạy đàng dẫn đến sự sống đời đời, nhưng có chính sự sống ấy để
ban cho những ai biết đón nhận... Thế nên Người đã nhắc nhở anh nghĩ tới điều
đó và phải nhận ra Người không phải là một bậc Thầy thông thường. Người bảo
anh: "Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên
Chúa". Nghĩa là nếu ngươi nói Ta là tốt lành, thì ngươi nên nhận ra thần
tính ở nơi Ta; Ta là Thiên Chúa giáng trần. Thế nên lời Ta nói đây không phải
là ý kiến của một luật sĩ hay của một nhà truyền đạo, nhưng là của chính Thiên
Chúa. Và Người đã nhắc lại cho anh những giới răn trong Luật pháp. Chàng thanh
niên vội thưa: "Lạy Thầy, mọi điều đó tôi đã giữ từ thuở bé". Lời anh
nói làm chúng ta liên tưởng tới ý kiến của Phaolô phát biểu sau này: "Ðời
tôi từ lúc thiếu thời... đã sống theo phái nhiệm nhặt trong tôn giáo chúng
tôi...". Hoặc chúng ta cũng có thể nghĩ tới lời tự tín của người biệt phái
nọ lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa, tôi đội ơn Người, vì tôi không
phải như những người khác... mỗi tuần tôi ăn chay 2 lần, tôi nộp thuế thập
phân...".
Quả thật, chàng thanh niên
đang đứng trước mặt Chúa Yêsu, là hình ảnh của biệt phái, của những con người
tưởng rằng có thể chiếm được Nước Trời bằng cách giữ luật hoặc thi hàn các
nguyên tắc khôn ngoan này, khôn ngoan khác. Ðức Yêsu nhìn chàng thanh niên ấy;
Người muốn yêu những tâm hồn như vậy; Người muốn cứu độ họ thật sự. Người bảo
anh ta: ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! Có gì thì đem bán hết mà chi kẻ khó,
và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta.
Thánh Marcô kể tiếp:
"Người ấy sầm mặt xuống vì lời đó mà bỏ đi buồn rầu, vì nó có nhiều
của". Có thể thánh nhân đã viết như vậy để chuyển ý sang đoạn văn sau nói
về nguy hiểm do của cải, đối với Nước Trời. Ðúng hơn người đã áp dụng ý của
Chúa vào trường hợp cụ thể của độc giả tác phẩm của người. Những người này là
các tín hữu đã tin vào Ðức Kitô chứ không phải là các biệt phái nữa. Họ cũng
phải giữ Lời Chúa. Và cho được như vậy phải biết áp dụng Lời của Người vào
trường hợp của mình. Vậy lời của Người khi xưa, tức là lúc Người đang ở trần gian,
đã trực tiếp nói với chàng thanh niên đã giữ các giới răn từ thuở bé, tức là
vẫn tưởng rằng có thể dùng sức mình và theo sự khôn ngoan của mình mà được sự
sống đời đời. Không, người ta phải từ bỏ mọi ảo tưởng đó, phải khước từ hết,
phải bắt chước Salomon trông cậy nguyên vào Chúa. Người ta phải đi bán tất cả,
từ bỏ tất cả vì Nước Trời, rồi đến đi theo Chúa.
Lời Ðức Yêsu nói với chàng
thanh niên có giá trị tổng quát và triệt để. Chúng ta phải ghi nhớ tính cách
tuyệt đối này. Người ta không được cậy dựa gì ngoài Chúa. Của cải chỉ là một
diện phải từ bỏ, tuy là diện khá quan trọng.
Nhưng vì sao thánh Marcô lại
chú ý đến diện này? Phải chăng như lời Tin Mừng Luca viết: "Biệt phái vốn
tham tiền"? (16,14). Hay là tại vì ở thời Marcô viết sách Tin Mừng, của cải
đã trở thành vấn đề trong đời sống đạo? Tín hữu phải tự đồng hóa mình với hạng
"nghèo khó được rao giảng Phúc Âm". Như vậy sẽ không được giàu có
sao? Và như vậy sẽ được gì?
Chúng ta có thể coi lời Phêrô
hỏi Chúa hôm nay như phản ảnh tâm lý và những thắc mắc này. Và chúng ta thấy
câu trả lời thật khôn ngoan. Kẻ bỏ mọi sự mà theo Chúa vẫn có mọi sự ở đời này
và cộng thêm sự bị bắt bớ. Ðàng rằng chỉ có Marcô thêm chữ "bị bắt
bớ" này vào câu trả lời của Chúa. Có lẽ vì hoàn cảnh đặc biệt của Hội Thánh
thời Marcô viết tác phẩm Tin Mừng. Nhưng ai cấm chúng ta suy nghĩ rằng: theo
thánh nhân, môn đệ của Chúa ở đời này không tất nhiên phải biến mình trở thành
khố rách áo ôm. Như mọi người, họ vẫn có nhà để ở, áo để mặc, cơm để ăn, họ
hàng bè bạn để tương giao... và còn có hơn vì tình huynh đệ và tương trợ trong
Hội Thánh; nhưng họ hãy có như không có, hưởng như không hưởng, vì họ phải sống
mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô mà viễn tượng "bị bắt bớ" luôn nhắc nhở
người ta phải có tinh thần từ bỏ tuyệt đối vì Nước Trời. Và của cải là diện khó
từ bỏ, đến nỗi con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào được
Nước Trời.
Các môn đệ của Ðức Yêsu đã
ngạc nhiên trước những đòi hỏi như vậy. Họ sợ ít người có thể vào được Nước
Thiên Chúa. Ðúng, với sức mình, với sự khôn ngoan của mình, loài người không
làm gì được đâu. Nhưng, "mọi sự đều là có thể nơi Thiên Chúa"; tức là
người ta phải trông cậy vào Chúa và chỉ trông cậy vào một mình Người mà thôi.
Salomon đã có thái độ như vậy trong bài sách Khôn ngoan hôm nay... Còn chàng thanh
niên kia, giống như các biệt phái, không muốn bỏ mọi sự và quan điểm của mình
mà theo Chúa và thi hành Lời của Người. Tại sao vậy? Chúng ta hãy nghe lời thư
Hipri.
3. Hãy Thi Hành Lời Chúa
Thư Hipri bàn rất nhiều và
sâu sắc về chức tư tế trong đạo mới. Ðạo cũ tức là Dothái giáo có hàng tư tế
đông đảo và lễ nghi sầm uất. Số lượng tế vật cùng khói hương và huyết chảy
không thể tưởng tượng được. Nhưng tất cả để làm gì? Chỉ là một thất bại hoàn
toàn; một bất lực không hơn không kém. Tội lỗi của dân chúng vẫn còn đó. Chính
vì vậy mà Cựu Ước cứ phải dâng lễ không ngừng.
Trong Tân Ước trái lại, máu
Ðức Yêsu đã rửa sạch mọi tội. Người chỉ dâng lễ một lần. Người đã đi vào cung
thánh của chính bản tính Thiên Chúa qua mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ta
chỉ còn phải tham dự vào lễ tế vô giá ấy.
Nhưng đi vào lễ tế này sao
được khi không để thân thể mình nát ra như chính của lễ hy sinh trên thập giá?
Và phương tiện phân nát thân thể con người chính là Lời Chúa. Vì đây không phải
là ý tưởng, mà là sự sống. Ðó là sự sống bởi trời xuống, đi vào thân xác con
người, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi và đâm phập vào tận ranh giới hồn
phách... cùng biện phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ. Người ta cứ xem
Ngôi Lời đã thành nhục thể. Người đã sống một cuộc đời gian khổ như thế nào.
Cuối cùng Người đã chết trên thập giá để trở thành của lễ cứu độ và trở nên vị
Thượng tế của đạo mới. Người ta cũng phải để cho Lời Chúa thấm nhập tâm can...
đóng đinh dục vọng và xác thịt vào thập giá. Có như vậy con người mới trở nên
của lễ và mới tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô, mới được khỏi tội và ngang
qua các tầng trời đi vào nơi yên nghĩ ở trong Thiên Chúa.
Cái lầm của đạo cũ là thái độ
vụ hình thức, là não trạng tưởng rằng giữ được Luật pháp là có sự sống đời đời.
Thật ra điều quan trọng là phải từ bỏ "sự sống của mình", của con
người cũ ở nơi mình và nhận lấy sự sống mới đến từ Thiên Chúa. Salomon đã biết
từ bỏ mọi sự để được sự khôn ngoan; Ðức Yêsu bảo người thanh niên phải đi bán
tất cả để đến đi theo Người; tác giả thư Hipri khuyên chúng ta hãy để cho Lời
Chúa thấm nhập biện phân tình và ý tưởng của lòng dạ. Ai sẵn sàng làm như vậy?
Chúng ta hãy chạy đến Thánh
Thể, tham dự vào lễ tế của Ðức Kitô. Hãy hòa mình vào tâm tình xả kỷ cứu thế
của Người. Hãy sống chân thật theo lương tâm và Lời Chúa dạy bảo và thôi lấy
hình thức che đậy tâm can. Ai làm như vậy mà còn sợ sẽ không được sự sống đời
đời? Ðó là người khôn ngoan hơn hết, hơn cả Salomon, vì ở đây nơi bàn thờ, còn
có Ðấng trọng hơn Salomon và còn dạy đường khôn ngoan hơn Salomon. Chúng ta hãy
đến và nhận lấy Người.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 28 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Wis 7:7-11; Heb 4:12-13; Mk
10:17-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời?
Nhiều người biết rất rõ
đích điểm của cuộc đời là cuộc sống hạnh phúc muôn đời bên Chúa; nhưng làm thế
nào để đạt được đích điểm đó, có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho chỉ cần
tin vào Đức Kitô là được cứu rỗi; có người cho chỉ cần đi lễ mỗi tuần, đọc kinh
mỗi ngày; có người cho chỉ cần ăn ngay ở lành... Nhưng thánh Giacôbê nói:
"đức tin không việc làm là đức tin chết." Chúa Giêsu cũng tuyên bố:
''không phải ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà được vào Nước Trời; nhưng chỉ có
những ai lắng nghe và thực hành Lời Chúa.'' Và câu châm ngôn ăn ngay ở lành
cũng rất tổng quát và mơ hồ: Nếu chỉ giản lược trong đời sống chỉ biết lo cho
cá nhân hay gia đình mình, cuộc sống như thế có đủ đáp ứng lời mời gọi mà Chúa
dạy các môn đệ trong Kinh Lạy Cha không? Một cách cụ thể, con người đã góp phần
gì vào việc: xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời?
Các Bài Đọc hôm nay chú
trọng đến câu hỏi: Phải làm thế nào để đạt được cuộc sống đời đời? và câu trả
lời: "Phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa." Trong Bài Đọc I, tác giả
Sách Khôn Ngoan đề cao sự quan trọng của Đức Khôn Ngoan. Theo ông, Đức Khôn
Ngoan đáng quý trọng hơn mọi sự trên trần gian này, vì hai lý do: (1) Có Đức
Khôn Ngoan là có mọi sự; và (2) Chỉ có Đức Khôn Ngoan tồn tại muôn đời. Trong
Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái đồng nhất Đức Khôn Ngoan với Lời Chúa, hay Ngôi
Lời chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Không như khôn ngoan của thế gian,
Lời Chúa luôn sống động, hiệu quả, và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi. Lời Chúa
đòi con người phải suy tư, thúc đẩy con người phải hành động, và làm chứng cho
con người trước tòa phán xét của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, khi được người
thanh niên hỏi phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời, Chúa Giêsu tuyên bố:
phải giữ tất cả các điều răn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Với
Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
1.1/ Hiểu biết khôn ngoan
đáng quí trọng hơn mọi sự: Theo truyền thống Do-thái, vua Solomon là "tác
giả" của các Sách Khôn Ngoan; vì vua Solomon được coi là người khôn ngoan
nhất trong lịch sử của nhân loại. Truyền thống kể lại truyện khi Thiên Chúa hỏi
nhà vua muốn xin bất cứ gì, thì Thiên Chúa cũng ban cho. Vua Solomon không xin
cho có uy quyền, cũng chẳng xin cho được giầu có, sức khỏe, sống lâu, hay bất
cứ điều gì khác; nhưng chỉ xin cho được khôn ngoan để biết sống và cai trị dân.
Thiên Chúa rất hài lòng với điều nhà vua xin; nên Ngài hứa sẽ ban cho vua
Solomon được khôn ngoan đến độ không có ai trước và sau vua được khôn ngoan như
thế.
+ Khôn ngoan quí trọng
hơn vương quyền: Nắm giữ vương trượng, ngai vàng, mà không biết cách cai trị dân
chúng; sớm muộn gì rồi vương quyền cũng vào tay người khác. Nếu có Đức Khôn
Ngoan, vua sẽ biết lòng dân mong ước gì, và cai trị họ theo những điều họ mong
ước, thì vương quyền sẽ tồn tại lâu dài, và vua không phải chịu trách nhiệm
trước tòa phán xét của Thiên Chúa.
+ Khôn ngoan quí trọng
hơn của cải:
Vua Solomon thú nhận: ''Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức
Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát
bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.'' Có giàu có đến đâu
chăng nữa, mà không biết cách sống sao để được bình an và hạnh phúc, có lợi cho
người sở hữu nó đâu. Thực tế chứng minh: nhiều người giàu có, nhưng vẫn không
muốn sống, và có người còn tìm cách kết liễu đời mình nữa.
+ Khôn ngoan quí trọng
hơn sức khỏe và sắc đẹp: Đây phải là bài học khôn ngoan cho nhiều người trong xã hội chúng
ta, quá chú trọng đến việc tập luyện và nhịn ăn uống để có một thân thể cân đối
đẹp đẽ và khỏe mạnh. Dĩ nhiên chúng ta không đả kích những điều đó không quan
trọng; nhưng không đủ để mưu cầu hạnh phúc cho con người. Có đẹp đẽ khỏe mạnh
đến đâu chăng nữa, rồi cũng úa tàn theo thời gian. Vua Solomon cho biết lý do
ông quí trọng Đức Khôn Ngoan hơn: ''Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức
khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn
Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.''
Nói tóm, vua Solomon đã
suy nghĩ rất nhiều khi xin cho được Đức Khôn Ngoan, vì khi có Đức Khôn Ngoan là
có tất cả: ''Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ
tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể.''
1.2/ Làm sao để có Đức
Khôn Ngoan?
Khác với khôn ngoan của thế gian, ai muốn có phải cố gắng luyện tập; Đức Khôn
Ngoan mà vua Solomon có được là do Thiên Chúa ban: "Vậy tôi nguyện xin, và
Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan
đã đến với tôi.''
2/ Bài đọc II: Đức
Khôn Ngoan chính là Lời của Thiên Chúa.
2.1/ Đặc tính trổi vượt
của Lời Chúa:
Tác giả Thư Do-thái liệt kê các đặc tính của Lời Chúa như sau: "Lời Thiên
Chúa là lời sống động, hữu
hiệu và sắc
bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh,
cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người."
(1) Sống động (zôn): Tất cả các tác phẩm nhân loại, dù hay đến đâu
chăng nữa, cũng bị thời gian đào thải, vì không theo kịp đà tiến của nhân loại;
nhưng Kinh Thánh lại khác, nó vẫn luôn sống động. Đã hơn hai ngàn năm qua, Kinh
Thánh vẫn là Sách được nhiều người đọc nhất, vì nội dung của Kinh Thánh vẫn
thích hợp và sống động với con người ở mọi thời và mọi nơi.
(2) Hữu hiệu (energês): Lời Chúa trong Kinh Thánh không phải chỉ
là những lời để suy niệm; nhưng thúc đẩy và cung cấp năng lực cho con người
hành động. Tiên-tri Isaiah nói rất hay về Lời Chúa như sau: "Cũng như mưa
với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm
cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói
có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về
với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ
mạng Ta giao phó" (Isa 55:10-11). Hai câu này chắc chắn áp dụng cho Đức
Kitô là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi Ngài xuống trần gian nhập thể để cứu chuộc
con người. Hai câu đó cũng áp dụng cho chúng ta, vì tuy ơn cứu chuộc Đức Kitô
đã dọn sẵn cho con người; nhưng nó phải hoạt động nơi chúng ta để mang lại ơn
cứu chuộc cho cá nhân chúng ta.
(3) Sắc bén hơn cả gươm
hai lưỡi:
Như thanh gươm hai lưỡi có sức xuyên thủng cả hai bên, Lời Chúa sắc bén, có sức
xuyên thủng bất cứ con người nào, cho dù những người lạnh lùng và chai đá nhất.
+ xuyên thấu chỗ phân
cách tâm với linh: Truyền thống Hy-lạp tin con người là tập hợp của ba phần: tinh
thần (pneuma), đời sống thể lý
(psychê), và thân xác (sark). Psyche là đời sống thể lý của con
người, cái mà con người có chung với các tạo vật khác; nhưng cái làm con người
suy nghĩ và hành động khác nhau là tinh thần.
+ xuyên thấu chỗ phân
cách sụn (harmos) với tuỷ (muelos): Nếu thanh gươm có thể tách rời sụn với
tủy; Lời Chúa cũng có thể tách rời tinh thần ra khỏi đời sống thể lý của một
người. Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.
2.2/ Lời Chúa là chứng cớ
phán xét con người: "Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời
Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng
ta trả lẽ." Lời Chúa thúc đẩy con người phải hành động, các việc làm của
con người sẽ là những bằng chứng tố cáo con người. Ví dụ, Gioan nói về việc con
người phán xét chính mình như sau: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người
đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ
không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên
Chúa" (Jn 3:17-18). Sự hiện diện của Đức Kitô buộc con người phải hành
động: tin hay không tin vào Ngài; và tùy vào việc tin hay không tin, con người
tự luận phạt chính mình. Con người không thể giữ thái độ trung dung, không chịu
phản ứng, trước sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời.
3/ Phúc Âm: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời
làm gia nghiệp?
3.1/ Làm thế nào để đạt
được đích điểm của cuộc đời: Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ
xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Đức Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi
là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hai điều Chúa
đòi anh phải làm:
(1) Giữ các giới răn với
tha nhân:
''Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ
làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ." Anh ta nói:
"Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ."
(2) Giữ các giới răn với
Thiên Chúa:
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh
chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ
được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Điều Chúa Giêsu đòi
hỏi anh ở đây không gì khác hơn giới răn thứ nhất: "Phải yêu mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự." Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ
đi, vì anh ta có nhiều của cải.''
3.2/ Giàu có khó vào Nước
Trời: Đức
Giêsu nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa
biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên
Chúa." Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai
có thể được cứu?"
Đức Giêsu nhìn thẳng vào
các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với
Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể
được."
(1) Điều Chúa muốn nhấn
mạnh ở đây là
con người không được đặt của cải trên lòng mến Thiên Chúa, vì "của cải anh
ở đâu, lòng trí anh ở đó." Nếu lòng trí đã đặt vào của cải, còn lòng trí
đâu dành cho Thiên Chúa và các việc của Ngài? Chúng ta không nói của cải không
cần thiết; nhưng chúng ta phải đặt đúng thứ tự của nó: sau Thiên Chúa và sau
tha nhân.
(2) Phần thưởng cho
những môn đệ của Đức Kitô: Thiên Chúa là Đấng uy quyền và thương yêu, Ngài không bao
giờ bỏ đói những ai trông cậy và làm việc cho Ngài. Chúa Giêsu hứa với các môn
đệ: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ
cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này,
lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm,
cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.'' Khi các môn đệ đi theo
Chúa, họ giả sử phải bỏ tất cả: nghề nghiệp, gia đình, nhà cửa, và mọi thứ tiện
nghi; nhưng họ không chết đói, và họ có nhiều thời gian dành cho việc mở mang
Nước Trời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Chúng ta phải đặt đúng
thứ tự ưu tiên trong cuộc đời: Thiên Chúa, tha nhân, và của cải vật chất. Đảo
lộn thứ tự ưu tiên này sẽ gây bất an, chia rẽ, và làm cho con người mất hạnh
phúc.
- Tin như nào sẽ sống
như thế. Nếu chúng ta tin Đức Khôn Ngoan là điều đáng quí trọng hơn hết các giá
trị vật chất, hãy cầu nguyện để xin Thiên Chúa cho chúng ta hiểu được Lời Chúa.
- Để đạt được cuộc sống
đời đời, chúng ta phải giữ tất cả điều răn; chứ không chỉ giữ một số những gì
chúng ta thích, và bỏ lơ những gì chúng ta không thích.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét