Gợi Ý Bài Giảng – Chúa Nhật XXXIII Thường Niên

–Lm Inhaxiô Hồ Thông–

Theo truyền thống, Giáo Hội dành thời gian kết thúc Năm Phụng Vụ để nhắc nhở các tín hữu thời Cánh Chung, thời kết thúc vận mệnh con người, nhưng cũng là thời con người hội ngộ với Thiên Chúa của mình trong cuộc sống đời đời.


Đn 12: 1-3

Bài Đọc I, trích từ sách Đa-ni-en, khẳng định rõ nét cuộc phục sinh các vong nhân và sự biến đổi hình dạng của những người được sống lại.

Dt 10: 11-14, 18

Thư gởi tín hữu Do thái nêu bật tính hiệu quả hy tế độc nhất của Đức Giê-su qua đó Ngài thông truyền cho nhân loại sự thánh thiện của Ngài. Trong vinh quang bên cạnh Chúa Cha, Ngài chờ đợi việc thiết lập Nước Trời vào lúc cuộc chiến thắng vĩnh viễn trên các thế lực của sự ác.

Mc 13: 24-32

Tin Mừng Mác-cô gợi lên thời gian nan, nhưng đó cũng là thời cứu độ, thời chuẩn bị cuộc Quang Lâm của Đức Ki-tô và cuộc tập hợp những người ưu tuyển vào thời chung cục.

BÀI ĐỌC I (Đn 12: 1-3)

Bản văn Cựu Ước này thuộc thế kỷ II trước Công Nguyên khẳng định cách rõ nét nhất cuộc phục sinh của các vong nhân và sự biến đổi hình dạng của những người ưu tuyển trong cuộc sống đầy ánh sáng. Đây là lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh Thánh diễn ngữ: “phúc trường sinh”.

Thật ra, bản văn Đa-ni-en này rất gần với sấm ngôn của I-sai-a:

“Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên.

Này những kẻ nằm trong bụi đất,

hãy chỗi dậy, hãy reo mừng!

Vì lạy Chúa, sương Ngài ban là sương ánh sáng,

và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh” (Is 26: 19).

Tuy nhiên, như sấm ngôn của Ê-dê-ki-en về cuộc hồi sinh các bộ xương khô (37: 1-11), người ta không loại trừ sấm ngôn của I-sai-a này có liên hệ đến những người lưu đày tại Ba-by-lon, họ gởi nấm xương tàn của mình ở nơi đất khách quê người. Qua đó, vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát của họ và cuộc tái thiết đất nước của họ.

1.Niềm hy vọng lớn lao:

Dù thế nào, sấm ngôn của I-sai-a và sấm ngôn của Ê-dê-ki-en đã góp phần hướng tầm nhìn của con người về viễn cảnh cánh chung. Nhưng để Mặc Khải được phát triển và niềm hy vọng được rộng mở phải có một chấn động tâm lý sâu xa. Đó là cuộc bách hại mà người Do thái tại Pa-lét-tin phải chịu do vua Xy-ri-a là An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê tiến hành. Làm thế nào người ta có thể tưởng tượng rằng những người phải đối mặt với những nỗi khốn khổ cùng cực, ngay cả cái chết để nhất mực trung thành với Thiên Chúa, cũng vào cõi Âm Ty là nơi cư ngụ đời đời như bao người khác được chứ? Thánh vịnh gia đã hát ca rồi niềm hy vọng mà những người công chính được vui sống bên cạnh Thiên Chúa, trong khi bọn ác nhân bị ném vào nơi tối tăm, hay bị tiêu diệt.

Tác giả sách Đa-ni-en biên soạn tác phẩm của mình, trong những năm bách hại. Mục đích của ông là củng cố lòng trung tín của các tín hữu và đem lại cho họ, khi phải đối mặt với cuộc bách hại, những động lực cho sự can đảm và hy vọng. Ông mượn tên Đa-ni-el, một thiếu niên Do thái anh hùng xưa kia bị lưu đày tại Ba-by-lon đã dám cưỡng kháng lại vua ngoại giáo là Na-bu-cô-đô-nô-so. Trong phần thứ nhất của sách Đa-ni-en, tác giả xây dựng câu chuyện khuyến thiện và mẫu mực, đôi khi được phóng đại đến mức không thực: tác giả biến Đa-ni-en không chỉ một người Do thái trung thành cách mẫu mực, nhưng còn một nhà thấu thị giải mã lịch sử và phát hiện những ý định của Thiên Chúa trong lịch sử đó.

2.Thời chung cục:

Phần thứ hai của sách thuộc loại văn chương khải huyền mà tác giả khai mạc. Thể loại văn chương khải huyền sẽ nở rộ sau này (được vài bản văn của I-sai-a, Giô-en, Ê-dê-ki-en, Da-ca-ri-a chuẩn bị trước). Bản văn hôm nay được trích dẫn từ đoạn cuối của phần thứ hai này. Nhà thấu thị vừa mới báo trước cái chết gần kề của kẻ bách hại là vua An-ti-ô-khô, đồng lúc cuộc giải thoát của Ít-ra-en. Từ cuộc giải thoát này, tác giả hình dung ơn cứu độ của Dân Thiên Chúa vào thời chung cục.

Đây là thời ngặt nghèo nhưng cũng là thời chan chứa hy vọng dưới quyền bảo trợ của “Mi-ca-en, ngài là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường hằng che chở dân Người” (12: 1). Vào thế kỷ II trước Công Nguyên, khoa thiên thần học rất phát triển trong Do thái giáo. Văn chương khải huyền ban cho mỗi quốc gia một thiên thần làm đấng bảo trợ. Có bốn tổng lãnh thiên thần: Mi-ca-en có nghĩa “ai sánh bằng Thiên Chúa”, Gáp-ri-en có nghĩa “người của Thiên Chúa”, Ra-pha-en có nghĩa “Thiên Chúa cứu chữa” và Ou-ri-en có nghĩa “ánh sáng của Thiên Chúa”. Tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en là đấng bảo trợ đặc biệt của Ít-ra-en, chính ngài, trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, chiến đấu chống lại Con Rồng.

Một đàng, vào lúc tiên báo cuộc phục sinh của các vong nhân, các người công chính Ít-ra-en đang chờ đợi hưởng phúc trường sinh. Xem ra, thị kiến của vị ngôn sứ chưa dự kiến toàn thể nhân loại, nhưng chỉ những người tử đạo thời vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, cũng như “các hiền sĩ”, tức những người đã hiểu sứ điệp tôn giáo của Ít-ra-en và đã trung thành với Đức Chúa, và “những thầy dạy đàng công chính”, tức là “những ai làm cho người người nên công chính”. Qua biểu tượng ánh sáng, ngôn sứ loan báo cuộc thay hình đổi dạng của những người hưởng phúc trường sinh.

Đàng khác, đây là lần đầu tiên Kinh Thánh gợi lên cuộc phục sinh của những kẻ tội lỗi để chịu xử án. Trước đây các ngôn sứ hay các hiền nhân nhắm đến việc tiêu diệt bọn ác nhân, chẳng hạn như lời cầu nguyện này:

“Lạy Đức Chúa, tay Ngài giơ lên, chúng chẳng thấy,

nhưng sẽ thấy Ngài yêu thương nồng nhiệt dân này,

khiến chúng phải thẹn thùng xấu hổ;

lửa dành cho thù địch của Ngài sẽ thiêu đốt chúng” (Is 26: 11).

Trong Tin Mừng Mác-cô hôm nay, khi tiên báo thời chung cục, Đức Giê-su định vị mình vào hàng của những lời tiên báo Cựu Ước: thời ngặt nghèo báo hiệu thời cứu độ. Tuy nhiên có những khác biệt lớn lao. Thời chung cục được đánh dấu bởi cuộc Quang Lâm của Đức Ki-tô. Vì thế, công trình cứu độ và cuộc phục sinh của Đức Ki-tô đã mở ra đến vô tận những viễn cảnh chan chứa hy vọng.

BÀI ĐỌC II (Dt 10: 11-14, 18)

Cùng với đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc hết các đoạn trích dẫn quan trọng trong Thư gởi tín hữu Do thái suốt bảy tuần qua.

1.Tính hữu hiệu hy tế duy nhất của Đức Giê-su:

Chương 10 được định vị vào phần kết của phân đoạn trung tâm được dâng hiến cho chức tư tế của Đức Giê-su. Tác giả tóm lược đề tài đã được khai triển dài: tính vô hiệu chức tư tế và các hy tế của Cựu Ước, các lễ tế này “chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi”, và tính hữu hiệu hy tế duy nhất của Đức Giê-su, Người vừa là tư tế vừa là tế vật, lễ tế này “vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”.

Trong sự gợi ý sau cùng này, tác giả nhắm đến không còn chỉ vị Thượng Tế, nhưng tất cả các tư tế trong việc phục vụ hằng ngày của họ, để bao gồm tính vô hiệu của tất cả hệ thống lễ tế và nghi lễ của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

Còn Đức Ki-tô, sau khi đã tự hiến để đền tội cho nhân loại, Người đã vào trong vinh quang, vinh quang này sẽ viên mãn khi mà thế lực của sự ác bị đánh bại vĩnh viễn vào thời chung cục. “Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân Người”, câu này xuất xứ từ Tv 110, thánh vịnh Mê-si-a vương đế mà tác giả đã nhiều lần trích dẫn.

Ở lòng vinh quang này, Đức Ki-tô theo đuổi công trình cứu độ của Người, vì lễ tế của Người luôn luôn hữu hiệu bên cạnh các tín hữu để thánh hóa họ và dẫn họ đến cùng một vinh quang này.

2.Thánh Lễ tái hiện hiến lễ của Đức Giê-su:

“Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”. Câu nói nổi tiếng này đã gây nên những tranh luận. Anh em Tin Lành dựa trên bản văn này để từ chối Thánh Lễ là hy tế, nhưng chỉ là tưởng niệm. Các tín hữu Công Giáo cho rằng Thánh Lễ là tái diễn hy tế duy nhất, hy tế Thập Giá, chứ không một hy tế mới; vì thế, Thánh Lễ không đơn thuần tưởng niệm, nhưng tái hiện hiến lễ duy nhất của Đức Giê-su trên đồi Sọ. Không ai chối cãi hy tế mà Đức Giê-su đã thực hiện trên Thập Giá một lần là đủ, nhưng hy tế ấy phải được tái hiện để đem ơn cứu độ đến với mọi người ở mọi thời cho đến ngày Người trở lại, chứ không chỉ dành riêng cho một nhóm người vào một thời gian nhất định.

TIN MỪNG (Mc 13: 24-32)

Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều định vị diễn từ này của Đức Giê-su vào giờ phút được xác định đem lại ý nghĩa phong phú cho bài diễn từ: Đức Giê-su giảng dạy lần cuối cùng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem; Ngài sẽ không còn quay lại chỗ này nữa và Ngài báo cho các môn đệ biết Đền Thờ sẽ bị phá đổ thành bình địa “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (13: 2). Các môn đệ sửng sốt. Lúc đó, Đức Giê-su cho các ông biết rằng phải biết đọc ra trong những biến cố này một dấu chỉ: dấu chỉ của một thế giới mới mà Ngài đã đến thiết lập, và Ngài sẽ trở lại, vào thời chung cuộc, để hoàn tất công trình này. Cũng vậy, trước khi từ giả các ông, Đấng Phục Sinh đã long trọng hứa với các ông là Ngài sẽ trở lại.

Cuộc trở lại sẽ xảy ra chỉ khi thế giới đã trải qua thời gian nan. Đoạn, Đức Giê-su đề cập đến viễn cảnh chung cục; Ngài sử dụng những kiểu nói Kinh Thánh và từ vựng khải huyền, kiểu nói này dễ hiểu đối với các môn đệ của Ngài và các Ki-tô hữu tiên khởi, nhưng thật khó hiểu đối với chúng ta. Vì thế, bài diễn từ chứa đựng nhiều điều khó hiểu này.

1.Khúc dạo đầu cho một thế giới mới:

 Trong Cựu Ước, những đảo lộn của vũ trụ là những hình ảnh ước lệ được dùng để giới thiệu cuộc can thiệp vĩnh viễn của Thiên Chúa, bày tỏ sự siêu việt của Ngài: quyền năng của Thiên Chúa trên các yếu tố là dấu chỉ quyền năng của Ngài trên mọi biến cố. Chính qua hình ảnh như vậy mà các ngôn sứ loan báo cuộc sụp đổ của các đế quốc, sự trừng phạt của các quốc gia ngoại giáo hay của dân bất trung. Giờ chung cục, giờ Thiên Chúa xử án, “ngày của Thiên Chúa” được mô tả theo cùng một cách thức như vậy: “Ngày của Đức Chúa đến rồi, ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, ngày mây mù tối đen…Mặt trời mặt trăng tối sầm lại, tinh tú không còn chiếu sáng nữa…Bấy giờ, hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được ơn cứu độ” (2: 2, 10; 3: 5). Bởi lẽ đó sẽ là ngày thịnh nộ.

Phải lưu ý rằng trong diễn từ của Đức Giê-su, như thánh Mác-cô trình thuật, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cũng như cuộc xử án không được nhắc đến, nhưng chỉ gợi lên viễn cảnh bình an và vinh quang của những người ưu tuyển tụ tập chung quanh Con Người. Từ những hình ảnh hoàn vũ truyền thống, thánh ký chỉ giữ lại ý nghĩa của chúng như khúc dạo đầu cho một thế giới mới sắp được khai sinh, sánh ví với một mùa hè sắp đến gần khi thấy cây vả đâm chồi nẩy lộc. Vì thế, những hình ảnh này xuất hiện như một thị kiến đảo ngược về một cuộc tạo dựng đầu tiên. Chuyện tích của sách Sáng Thế đã nhấn mạnh ánh sáng. Thiên Chúa đã sáng tạo ánh sáng trước mọi thụ tạo, đoạn những tinh tú được chỉ định vai trò của chúng. Nếu trật tự sáng tạo này bị đảo lộn, đó không phải là cuộc sáng tạo đang qua đi sao? (“Trời đất sẽ qua đi…”.

Thánh Mát-thêu sử dụng những ẩn dụ này trong bài trình thuật của mình về cuộc Tử Nạn, để nói rằng cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su thiết lập một sự thay đổi tận căn: “Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín…Đất rung đá vỡ” (Mt 27: 45-52).

Mặt khác, chúng ta nên nhớ rằng trong từ vựng của các sách khải huyền kiểu nói “các tinh tú từ trời rơi xuống” là cách diễn tả cuộc sụp đổ của Xa-tan. Chắc chắn Đức Giê-su đã ám chỉ đến điều này khi nói: “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống” (Lc 10: 18). Nhưng phải chăng chúng ta có thể đưa thêm một lời giải thích tổng quát hơn về sự rung chuyển của những thế lực thiên giới báo hiệu một trật tự mới? Đây là một trong những khó khăn của bản văn. Dù thế nào, cuộc khải hoàn chung cục của Đức Ki-tô giả sử cuộc sụp đổ này của Xa-tan.

2.Cuộc tụ tập đoàn người ưu tuyển:

“Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Chắc chắn đoàn người ưu tuyển này thì rất đông, bởi vì không nói chi đến những người khác. Khi ngự đến lần thứ nhất, Đức Giê-su tự hạ mình thành một người giữa mọi người; khi ngự đến lần thứ hai, ngược lại, Người nâng con người lên cho đến Người để dẫn đưa nhân loại vào trong vinh quang của Người.

3.Ngày và giờ:

Ngay ở đầu câu chuyện, các môn đệ đã hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13: 4). Họ hỏi Ngài về ngày giờ và điềm báo cuộc sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

Trong câu trả lời của Đức Giê-su, Ngài lập lại từ ngữ của họ: “Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra”, nhưng bao hàm ở đó văn mạch diễn từ của Ngài, nghĩa là cuộc Quang Lâm tương lai của Ngài: “Anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa”. Vả lại, trong hậu ý của các môn đệ, cuộc tàn phá Đền Thờ – Đền Thờ này quá thân thiết với các ông và các ông sẽ còn đến đó để cầu nguyện và rao giảng hằng ngày vào đầu sứ vụ tông đồ của mình – cuộc tàn phá này có thể được trộn lẫn với thời chung cục của thế giới, điều này xem ra khá nhạy cảm tại thánh Mát-thêu.

“Thế hệ này chẳng qua đi , trước khi mọi điều ấy xảy ra”. Theo nghĩa hẹp, chúng ta có thể hiểu rằng chính các môn đệ và những người đương thời sẽ chứng kiến cuộc sụp đổ Đền Thờ; nhưng theo nghĩa rộng, cả toàn thể nhân loại. Ở đây chúng ta còn cảm thấy ảnh hưởng kiểu nói khải huyền. Những viễn cảnh được lồng vào nhau đến mức kỷ nguyên thiên sai và kỷ nguyên cánh chung trộn lẫn vào nhau.

Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”. Câu nói này làm tốn biết bao giấy mực. Trước tiên, chúng ta hãy nêu lên rằng từ “Con” được dùng ở đây cách tuyệt đối, điều này họa hiếm tại các Tin Mừng Nhất Lãm (hai lần tại Tin Mừng Mát-thêu trong bài trình thuật song đối ở 24: 30 và một lần khác ở 11: 27; một lần duy nhất tại Tin Mừng Lu-ca ở 10: 22): câu này bao gồm một lời Đức Giê-su khẳng định tính siêu việt của Ngài và mối liên hệ tròn đầy với Chúa Cha. Ấy vậy, lời khẳng định này xem ra mâu thuẫn khi Ngài thú nhận rằng chính Ngài cũng không biết ngày và giờ về thời chung cục của thế giới.

Về sự hiểu biết giới hạn của người Con, người ta đưa ra hai lời giải thích: lời giải thích thứ nhất cho rằng nhân tính mà Đức Giê-su đã đảm nhận giới hạn tầm nhìn của Ngài, chính nhân tính hữu hạn này đã có thể che khuất vài điểm về kế hoạch của Chúa Cha. Lời giải thích thứ hai đối chiếu với những lời công bố khác của Đức Giê-su theo cùng ý nghĩa. Đức Giê-su trả lời cho lời cầu xin của hai người con ông Dê-bê-đê được ngồi ở bên hữu bên tả của Ngài trong vương quốc: “Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được” (Mt 20: 23).

Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1: 7). Câu trả lời này rất gần với câu nói trong bài diễn từ cánh chung của Đức Giê-su và soi sáng cho chúng ta hiểu câu nói đó. Vả lại, trong suốt sứ vụ công khai của mình, Đức Giê-su đã không ngừng nhấn mạnh sự phụ thuộc của Ngài đối với Chúa Cha: chính từ nơi Chúa Cha mà Đức Giê-su đã đón nhận mọi sự, chính Chúa Cha đã thông truyền trọn vẹn tình yêu của mình cho Ngài, chính Chúa Cha là nguồn mạch của mọi ân phúc: Đức Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện bằng cách thân thưa: “Lạy Cha chúng con”. Tuy vậy, với vai trò là Con, Chúa Giê-su không thể truyền đạt cho con người những bí mật của Chúa Cha về thời chung cuộc.

Bản văn này của thánh Mác-cô dâng hiến một trong những bức tranh tích cực nhất của sách Tin Mừng. Thị kiến sáng tỏ về thời chung cục này, trong đó công trình của Đức Giê-su được hoàn tất và vận mệnh của con người được hoàn thành, được định vị trong hàng Mặc Khải: Đức Ki-tô đã đến, không để xử án thế giới, nhưng để cứu độ thế giới (Ga 3: 17). Thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại điều đó.

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, thì đa số là giáo dân. Thánh Inê Đê là một phụ nữ chân quê, thánh Tô ma Thiện là một chủng sinh còn trẻ, thánh Âu-gút-tin Nguyễn văn Mới là một nông dân. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài khẳng khái làm chứng cho Tin Mừng Đức Kitô. Các thánh đã bền vững đến cùng trong lòng tin vào Chúa, nêu gương sáng cho cháu con hôm nay.

Kn 3: 1-9

“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy”.

1Cr 1: 17-25

Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, đa số là giáo dân. Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Ki-tô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.

Mt 10: 17-25

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Đa số các ngài là những dân quê hiền lành chất phát, nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh Âu-gút-tin: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Ki-tô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa”.

BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)

Những khẳng định của sách Khôn Ngoan đánh dấu một khúc quanh quan trọng về cuộc sống mai sau của con người. Chúng kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ. Vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào.

1.Quan niệm Cựu Ước về sự sống lại:

Trong lịch sử dài nầy, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “nhân quả”“ở hiền gặp lành”“gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Quan niệm về thưởng phạt ngay từ cõi đời nầy phát xuất từ một niềm tin quá bi quan và yếm thế về cuộc sống mai hậu. Tất cả mọi người, dù thiện hay ác, khi từ giả cõi đời nầy đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.

Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trong thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế nầy. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 tCn) xao xuyến nêu lên vấn đề “họa vô đơn chí” giáng xuống trên người công chính. Quả thật, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với bọn ác nhân ở bên kia nấm mồ. Các thánh vịnh gia công bố rằng người công chính sẽ được hưởng hạnh phúc vinh hiển trước Nhan Thiên Chúa muôn đời (Tv 16; 17; 49; 73).

Tiếp đó, niềm tin kẻ chết sống lại vào ngày chung thẩm xuất hiện. Vào thời vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái thật khủng khiếp, những người tử đạo chết trong khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống bên kia nấm mồ (2Mcb 7: 1-38).

Tác giả sách Khôn Ngoan còn đi xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin của người Hy lạp vào sự bất tử của linh hồn như một sự củng cố cho niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu của dân Do thái, dù vẫn còn tiềm tàng hay rụt rè. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp nầy không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác được ví như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bĩ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.

2.Quan niệm sai lầm về con người:

Trong đoạn văn trước đó (ch. 2), tác giả sách Khôn Ngoan đã phản bác quan niệm duy vật sai lầm về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng. Khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như mây khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật nầy, không có chỗ nào được dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.

Sách Khôn Ngoan được viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho những đồng bào của mình, họ đang bị những sức hấp dẫn của nền văn minh ngoại giáo chung quanh cám dỗ. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa ngôi vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật nầy, tác giả mô tả quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.

3.Quan niệm đích thật về con người:

  Ở trung tâm tiến trình lập luận của mình, tác giả đã đặt Mặc Khải thiết yếu nhất liên quan đến con người:

“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người

cho họ được trường tồn bất diệt.

Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23)

Lời khẳng định này chúng ta đọc thấy trong sách Sáng Thế: “Thiên Chúa làm ra con người theo hình ảnh Ngài, giống như Ngài” (St 1: 26). Vì thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Từ đó, tác giả khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện:

“Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa;

và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (3: 1)

Tất cả những khai triển nầy mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết học nhị nguyên của Platon. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất tử ở trong một thân xác hủy hoại theo Nhị Nguyên triết thuyết Hy lạp, nhưng là nephesh, “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).

Từ nay, vấn đề sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách như “lửa thử vàng, gian nan thử đức” nhằm tôi luyện cuộc đời của các tôi trung của Thiên Chúa thành “của lễ toàn thiêu”.

4.Vinh quang chung cục:

“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm,

họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (3: 7).

“Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ kinh thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như trong những lời trăn trối sau cùng của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài. Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung, vào thời những người công chính sẽ rực sáng vinh quang.

“Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước.

Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (3: 8)

Nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo. Chính trong chiều hướng nầy mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng diễn ngữ tương tự để xác định vị thế các môn đệ Ngài trong Nước Trời: “Khi Con Người ngự trên ngai vinh hiển của Ngài, các anh cũng vậy, những người đã theo Thầy, ngự trên mười hai ngai tòa để xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”.

5.Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và xót thương:

Niềm hy vọng lớn lao nầy được đặt để vào tình yêu, ân phúc và xót thương của Thiên Chúa. Chính ở nơi tình yêu, ân phúc và xót thương nầy mà những người công chính sống.

“Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật;

những ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương

và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc

và xót thương những ai Người tuyển chọn” (3: 9).

Lời kết thúc của Bài Đọc I nầy được viết trước các sách Tin Mừng một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một tiến trình liên tục từ Mặc Khải Cựu Ước đến Mặc Khải Tân Ước.

BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)

Bài Đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô vào Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, được cấu trúc rất chặc chẻ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân. Xin nhắc lại ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, tạo nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy nầy, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xử nầy không phù hợp với tinh thần Tin Mừng.

1.Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21):

Đáp lại những kẻ tự phụ mình “thông thái”, thánh nhân nhắc nhở rằng ngài đã rao giảng cho họ không phải bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với đòi hỏi điềm thiêng dấu lạ của người Do thái và tìm kiếm lẽ khôn ngoan của người Hy lạp.

Dân Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Dân Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được. Đó là điều mà tất cả mọi hệ thống triết học đều đề cao. Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá được.

Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại nầy. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ nhục trên thập giá. Ở An-ti-ô-ki-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và những nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do thái nầy bách hại. Còn đối với dân Hy lạp và sự khôn ngoan của họ, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Thánh nhân cố gắng thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những bài diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một con người thập toàn bị đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó lòng mà thuyết phục con người.

2.Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25):

Nhưng Thập Giá không là một bài diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện lạ thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.

Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn ra khỏi mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh hình ảnh độc nhất về “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.

TIN MỪNG (Mt 10: 17-25)

Theo cấu trúc của Tin Mừng Mát-thêu, đoạn văn thứ hai về những huấn thị bách hại (10: 17-25) được phân biệt rõ nét với đoạn văn thứ nhất về những huấn thị truyền giáo (10: 1-16).

Đoạn văn thứ nhất nêu bật chủ đề uy quyền hay quyền năng phi thường mà Đức Giê-su ban cho những ai mà Ngài sai đi loan báo Nước Trời. Trong đoạn văn nầy, không có bất kỳ ám chỉ chính xác nào về đau khổ. Thật ra, đoạn văn 10: 13b-16 ám chỉ đến việc người đời có thể không tiếp đón các môn đệ (10: 13b-15) và cảnh báo rồi những hiểm nguy đang rình rập chờ đón họ: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (10: 16); tuy nhiên, những đối kháng nầy vẫn mơ hồ và một bầu khí chiến thắng xem ra phải ngự trị trên hoạt động truyền giáo.

Khởi đi từ 10: 17, những huấn thị được đặt trên một dấu nhấn hoàn toàn khác: những cuộc bách hại sắp đến. Các môn đệ không chỉ bị thù ghét, nhưng những thử thách sắp tới của họ được mô tả một cách chính xác đến nỗi chúng ta có thể định vị môi trường của chúng nữa. Chúng ta có thể phân chia đoạn văn thứ hai nầy thành: cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ cần phải có trong hoàn cảnh bách hại (10: 23) và phần kết luận (10: 24-25) cho toàn bộ phân đoạn thứ hai này (10: 17-25).

1.Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21):

Phần mở đầu của câu 17: “Hãy coi chừng người đời” lập lại chủ đề về sự cẩn trọng của câu 16 nhưng với những thuật ngữ hoàn toàn khác. Động từ “coi chừng” mặc lấy hai nét nghĩa: hoặc bác bỏ, từ chối điều gì đó (như 7: 15; 16: 6) hay đề phòng cảnh giác trong hoàn cảnh khó khăn nào đó (như 6: 1). Văn mạch nhấn mạnh đến nét nghĩa thứ hai: Đức Giê-su không khuyên các môn đệ của Ngài nên trốn chạy khỏi “người đời” nhưng trong những gặp gỡ của họ với người đời, nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Họ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời nầy tìm cách khai trừ, loại bỏ. Phần tiếp theo của câu 17 cho thấy rằng “người đời” nầy không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ”.

Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong xứ Pa-lét-tin nhưng cũng vừa ở bên ngoài xứ Pa-lét-tin. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Ki tô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực nầy có một  ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội “làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” về Đức Ki-tô và Nước Thiên Chúa. Lời chứng nầy nêu bật tính chất vừa công chúng vừa chính trị nữa. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.

Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Chính vì làm chứng cho Thầy mình mà họ không cần lo nghĩ phải nói gì, vì trong giờ đó Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thần Khí để giúp họ như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12).

Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến nghĩ đến một sự gợi hứng máy móc loại bỏ tất cả sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế, trái lại hai cụm từ “anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ nầy được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng còn ở trong họ và bởi họ nữa.

2.Cuộc bách hại ngay trong gia đình (10: 21-22):

Song đối với 10: 17-20 ở trên, các câu 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa. Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết để tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.

3.Thái độ phải có trong hoàn cảnh bách hại (23):

Câu 23 diễn tả thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại. Người Ki tô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành nầy, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành nầy xua đuổi họ đi thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng vẫn phải là bổn phận cho đến cùng.

4.Phần kết luận (10: 24-25):

Hai câu 24-25 là phần kết luận của phân đoạn nầy. Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị án tử trên thập giá. Thầy và trò, chủ và tớ được đặt vào trong cùng một số phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ nầy không giới thiệu một sự so sánh nhưng là căn tính về vận mệnh trần thế giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẽ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho môn đệ của mình sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Thiên Chúa đã đến gần (10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Thiên Chúa nầy (10: 18).