Trang

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

Mầu nhiệm Giáo Hội – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

 Mầu nhiệm Giáo Hội – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Sau khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.

Hình ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.

Hình ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội.

Hình ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Giáo Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.

Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?

2. Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và yêu mến Chúa không?

3. Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?

CHÚA HIỆN RA BÊN BỜ HỒ TIBÊRIAT - Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

 CHÚA HIỆN RA BÊN BỜ HỒ TIBÊRIAT

CHÚA NHẬT III PHỤC SINH – NĂM C

(Ga 21,1-9)

Đa số các nhà phê bình nhất trí cho rằng chương này là một phụ chương được thêm sau khi phúc âm hoàn toàn chấm dứt; một số khác cho rằng chính tác giả phúc âm đã soạn thảo ra nó, vì chương có những nét đặc biệt của Gioan (ngôn ngữ, bút pháp, ngữ vựng…). Đúng vậy, nhưng người ta cũng thấy những yếu tố xa lạ với Gioan và gần với Lc hơn (có những con số; x. phép lạ hóa bánh, Lc 9,10-17). Hãy thận trọng khi giải thích những con số này vì cách tường thuật cuộc đánh cá kỳ diệu và việc hóa bánh ra nhiều rất khác nhau. Ngoài ra, vì có khá nhiều thành ngữ không thuộc Gioan, nên người ta nhìn nhận là không phải chính Gioan viết, nhưng là một môn đệ của ông viết thêm vào, dựa trên những câu chuyện của chính Gioan kể lại. Có lẽ phụ chương này được thêm vào ngay từ đầu. Thật vậy, người ta thấy nó trong tất cả mọi thủ bản và được nhiều tác giả Kitô giáo đồng thời với chính phúc âm được xuất bản, nghĩa là được phổ biến trong các giáo đoàn. Hình như tác giả phúc âm đã chết vào thời đó (c.21-23); toàn chương nói về ông như nói về một người khác (21,7:ekeinos, người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến ấy). Đàng khác ngôn ngữ thần học thường thấy trong các văn tập của Gioan ở đấy đã nhường chỗ cho việc mô tả các nhân vật và tương quan của họ trong Giáo hội. Người biên soạn bản văn này chú ý nhiều đến chi tiết cá nhân. Bản danh sách trong 21,2, việc nhắc đến nguồn gốc của Mahanael (ông từ Cana đến) và việc nói đến 2 con ông Giebêđê (mà phúc ân thứ tư đã cố tình tránh né) cho thấy điều đó. Và cách giải thích quyền tối thượng của Phêrô trên Gioan minh chứng rõ ràng có sự can thiệp của một biên tập viên khác hằng muốn làm nổi bật giá trị của phúc âm, hằng muốn cho người ta biết rằng tác giả đã xuýt trở thành nhân vật điều khiển Giáo hội. Theo ý kiến nhiều người thì phần kết luận (cc.24-25) là do một người môn đệ đặc trách việc xuất bản viết, phúc âm gia không phải là tác phẩm phần kết luận đó, vì ông chính là môn đệ dấu yêu mà trình thuật cuối cùng nói đến.

Như thế, vì thiếu chứng cớ rõ ràng dựa trên ngôn ngữ và văn thể, toàn bộ dữ kiện và chiều hướng chung của bản văn cho phép nghĩ rằng chương 21 là công trình của môn đệ đặc trách việc xuất bản. Việc Gioan đã kết thúc phúc âm ở 20,30-31 bênh vực cho kết luận này của chúng ta. Tưởng cũng nên lưu ý rằng bất xác thực tính này (non-authenticité) không ảnh hưởng gì đến linh hứng tín của chương 21; tuy nhiên bất xác thực tính đó không phải tuyệt đối, vì trình thuật này dựa trên cơ sở những gì chính tác giả phúc âm kể lại.

2. Đoản văn ghi chú các tông đồ bắt được 153 con cá trong mẻ lưới lạ lùng. Phải nghĩ gì về con số lạ lùng này? Có thể người ta vì tò mò, đã đếm xem số lượng… Tuy nhiên ở đây không chỉ có việc ghi lại cách chính xác số cá bắt được. Các giáo phụ đã đưa ra nhiều giả thiết, trong đó lối giải thích của thánh Jêrôme dễ chấp nhận nhất: các nhà vạn vật học thời xưa biết được 153 loại cá. Thực ra, một biểu hiện không hề có cơ sở trong Cựu ước như thế mà lại được ghi nhận trong phúc âm Gioan, kể cũng hơi lạ. Dù sao, nếu thánh Jêrôme có lý, thì ý nghĩa của con số này trùng phùng với thành ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (Mt 13,47). Giáo hội phải hội tụ trong nước mình tất cả mọi dân tộc, như mục tử chân chính qui tụ trong đàn mình mọi con chiên đến từ chuồng khác ngoài Israel (10,1b), như Con Người kéo lôi tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (x.12,32; 6,44). Vì thế, phải liên kết đề tài biểu tượng này với các chi tiết liên quan đến chiếc thuyền duy nhất và chiếc lưới không bị thủng.

3. Một câu hỏi, lặp lại ba lần “Phêrô, con có mến Ta không?” xem ra được nhấn mạnh bù lại ba lần chối Chúa, hầu hết các nhà chú giải đều nhất trí như thế. Nhưng chỉ sau lần hỏi thứ ba, mới nghe Chúa Giêsu thôi nói với Phêrô: “Hãy chăn nuôi đàn chiên của Ta”, như thể ngầm bảo rằng ông đã được tha. Vậy tại sao lời uỷ nhiệm này được trao cho ông ba lần luôn?

Nhiều nhà chú giải nhấn mạnh: việc lặp lại này nhằm tăng thêm phần long trọng cho khung cảnh. Theo Bultmann, việc long trọng lặp lại như thế gợi lên “một tập tục tế tự hoặc một tập tục pháp lý có tính cách ma thuật”. Còn P. Gaechter đề nghị cách giải thích sau: như những công thức luật pháp cổ xưa thường không được viết ra nhưng phải được lặp lại ba lần trước những nhân chứng. Cũng thế, lời uỷ nhiệm chính thức được trao ban cho Phêrô cũng có giá trị pháp lý nhờ lặp lại ba lần trước các nhân chứng. Để minh chứng cho ý kiến này ông đưa ra nhiều ví dụ rút từ luật giá thú xứ Palestine và nhắc lại công thức ba lần đã được dùng đến khi Abraham nhận căn động của Makpéla để chôn xác Sara (St 23,3-18). Ngoài ra, có thể kể thêm trường hợp luật dòng thánh Biển Đức, thế kỷ thứ sáu, buộc phải đọc lời khấn ba lần. Nói tóm lại, tâm thức luật pháp chung chung của cổ thời giúp ta dễ dàng hiểu lời uỷ nhiệm ba lần được lặp lại này. Việc lặp lại có ý nói rằng Phêrô chính thức được giao phó nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Đức Kitô.

4. Ba lần Chúa Giêsu hỏi và ba lần Phêrô trả lời tạo nên tâm điểm của trình thuật: địa vị Phêrô và môn đệ dấu yêu có đủ mọi cơ may được phong làm người lãnh đạo: các con ông Giêbeđê (được đó có Gioan) và mẹ các ông đã chẳng ngần ngại xin những chỗ tốt trong Nước Trời sao? (Mc 10,35-41)

Nếu Phêrô đã chiếm chỗ nhất, đó không phải là vì công lao của ông. Ba lần Chúa Giêsu hỏi rõ ràng là dư âm của ba lần ông chối Chúa. Ông đã thề theo Chúa Giêsu cho đến chết, dù các người khác chối bỏ Người… (Mc 14,29). Và giờ đây, ông bị tra vấn về tình yêu và lòng trung tín của ông: “Con có mến ta hơn những người này không?”, câu hỏi đầu tiên là vậy. Để hướng dẫn kẻ khác, phải chứng tỏ có một tình yêu lớn hơn. Chúa Giêsu hoàn toàn không muốn khơi lại niềm đau xa xưa. Nhưng Phêrô hãy biết rằng việc ông được quyền tối thượng không do công lao của ông. Mọi trình thuật về ơn gọi, trong Cựu ước cũng như trong Tân ước, luôn đi theo lời xác quyết tính cách bất xứng của đương sự (15,16). Khi Chúa hỏi Phêrô có yêu mến Ngài hơn những người khác không, câu hỏi này nhắm đến tương lai nhiều hơn là quá khứ. Phêrô không được chọn vì đã yêu nhiều. Các sự kiện quá khứ đều phủ nhận điều đó; chỉ có Gioan, vì yêu nhiều hơn nên mới dám đến đứng dưới chân thập giá sau khi đã chạy trốn. Nhưng vì một khi được chọn, ông phải từ đó yêu nhiều hơn những kẻ khác.

5. Vì là người lãnh đạo, từ nay, theo chân Chúa Giêsu Phêrô phải đi trước đoàn chiên (13,36). Xưa kia vì quá tự tin, ông đã tuyên bố có thể theo Chúa cho đến chết. Ông sẽ có cơ hội thực hiện điều đó. Khi trích một châm ngôn bình dân, Chúa Giêsu báo cho Phêrô biết một ngày kia ông sẽ chết tử vì đạo. Lúc còn trẻ, người ta có thể tự mặc áo, thắt nịt, như Phêrô đã làm lúc nãy (21,7). Nhưng khi về già, sẽ bị người khác áp chế. Cũng vậy, Phêrô sẽ giăng tay để người khác thắt lưng. Hình ảnh này nói lên việc mất tự do, chứ không nói đến hình thức cụ thể của việc Phêrô tử đạo; truyền thuyết ghi nhận đã bị đóng đinh.

Lời bí ẩn mà Chúa Giêsu đưa ra có được Giáo hội giải thích như là lời tiên báo về cuộc tử đạo của Phêrô. Chính tác giả cũng gợi lên cách giải thích này (12,33; 18,32). Nhờ việc tử đạo, Phêrô sẽ tôn vinh Thiên Chúa. Từ ngữ tôn vinh ở đây không có cùng một ý nghĩa như trong trình thuật Tử nạn của Chúa Giêsu (13,31; 17,1). Nhờ cái chết, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi người thấy vinh quang của Cha Ngài và một cách nào đó trở nên lăng kính của vinh quang Thiên Chúa. Nhờ việc tử đạo, Phêrô tuyên xưng vinh quang hay thần tính của Thiên Chúa, khi thực hiện thánh ý của Ngài (1P 4,16). Trong lúc chờ đợi, Phêrô chỉ cần đi theo Chúa Giêsu (10,4; 12,26). Con đường này đương nhiên đưa ông đến cuộc tử đạo (12,26.36).

KẾT LUẬN

Giavê, mục tử Israel (Ez 34,11-12; Tv 23) đã cho Chúa Giêsu trở nên mục tử tốt lành và đích thực (Ga 10,1-16; 1P 5,4). Từ đây chính Phêrô sẽ thay mặt Đức Kitô thi hành quyền chăn dắt hữu hình: ông trước hết rồi đến những người kế vị ông.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Người mục tử nhân lành săn sóc đàn chiên mình mà chúng ta đã biết mà phúc âm đã trình bày, đó chính là Đức Kitô; tuy nhiên Phêrô hôm nay được giao phó một công việc thật đặc biệt: coi sóc để mỗi con chiên được ăn đầy đủ. Chúng ta có thể dễ dàng hiểu đây là của ăn đã được Chúa Giêsu đưa ra, của ăn chính Ngài thiết lập và không thể thiếu: Mình và Máu Ngài. Với Thánh Thể, còn có của ăn Lời chúa đi kèm nữa. Nếu Chúa Giêsu vẫn là mục tử tối cao, thì Phêrô đặc trách về lương thực và an toàn thiêng liêng của đàn chiên.

Trong cách Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh Ngài cho vị thủ lãnh đầu tiên của Giáo hội, chúng ta có thể tìm thấy hai bài học:

– Nếu Phêrô và qua ông, những đấng kế vị, có bổn phận nuôi dưỡng thì chúng ta phải biết chạy đến với các Ngài. Có lẽ bổn phận đầu tiên của chức tư tế, qua đoạn phúc âm này, là bảo đảm của ăn thiêng liêng phát triển và giữ gìn Giáo hội.

– Cũng như Phêrô, tất cả chúng ta đều có chức vụ phải thi hành, vai trò nắm giữ để phục vụ tha nhân. Dù chức vụ khiêm tốn hay hào khoáng, quan trọng hay tầm thường, hiệu lực hay không đáng kể, cũng chẳng sao. Có lẽ hôm nay chúng ta nên suy nghĩ về cách thức chúng ta đã thi hành công việc: có đúng như Chúa Giêsu đòi hỏi Phêrô, nghĩa là làm vì yêu, trong tinh thần phục vụ và vô vị lợi hay không?

3. Chính vì Phêrô xác quyết yêu mến Chúa, nên được Chúa trao phó đoàn chiên cho. Và chính vì đàn chiên được trao phó cho mình mà Phêrô phải lệ thuộc và vâng lời.

Nếu Phêrô được trao công việc này là vì ông yêu Đức Kitô. Việc ông phục vụ tha nhân sẽ được nung nấu không phải là vì lòng ham danh cầu lợi, nhưng vì lòng tín trung với tình yêu Đức Kitô. Tình yêu với Đức Kitô thanh tẩy ý hướng phục vụ tha nhân của ông.

Khi phục vụ tha nhân vì yêu Chúa, ông can đảm dấn thân trong con đường lệ thuộc, vâng lời. Đa số các nhà chú giải thấy trong dụ ngôn kỳ lạ của Chúa Giêsu lời tiên báo việc tử đạo của Phêrô vào cuối đời. Nhưng người ta cũng thấy trong đó lời tiên báo: cuộc đời Phêrô, vì ngày càng bận bịu phục vụ tha nhân, sẽ được thúc đẩy bởi một sự vâng lời đến nỗi ông bị chiếm đoạt hoàn toàn.

Đây là một sự lệ thuộc chặt chẽ giữa tình yêu Chúa, việc phục vụ tha nhân là sự từ bỏ chính mình, tất cả những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi Phêrô, thủ lãnh Giáo hội. Do đó, được trao ban quyền bính, với sứ mạng thiết lập một sứ mạng mới, Phêrô phải tuân hành trong sự vâng phục thánh linh. Ông được chính Chúa bảo vệ khỏi cám dỗ thống trị anh em. Khỏi quyến rũ áp đặt một quyền lực tôn giáo, khỏi tham vọng mưu đồ địa vị cá nhân.

4. “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến mới nói cùng Phêrô: “Chúa đó” (c.7). Theo văn mạch, người môn đệ nhận ra Đức Kitô không phải vì nhìn thấy Chúa trực tiếp, nhưng vì thấy phép lạ Chúa làm. Truy nhiên không phải ai cũng nhận ra; bản văn cho thấy chỉ một mình môn đệ Chúa Giêsu yêu mới có được sự minh mẫn mà các tông đồ khác không có. Đối với chúng ta cũng thế: việc nhận ra Chúa Giêsu, sự khám phá ra hiện diện của Ngài, trước tiên không nằm trong tầm trí giác bén nhạy và tức khắc, nhưng được thực hiện nhờ việc giải thích biến cố trong đó biểu lộ hiệu lực của Lời Ngài và hiệu năng của công việc chúng ta dựa trên “Lời Ngài” (Lc 5,5). Chỉ một mình môn đệ Chúa Giêsu yêu mến mới có thể làm được điều ấy, bởi vì sự vắng mặt lâu của thày, sự nặng nề của công việc mà thói quen dễ thất vọng đã không dập tắt trong ông cái nhìn của tình yêu. Khi mà các môn đệ khác chỉ thấy một sự may mắn bất ngờ, thì ông lại khám phá ra sự can thiệp của Đấng phục sinh. “Ông thấy và ông tin” (20,8). Ngược với Tôma muốn thấy và sờ đến trước khi tin, ông không cần một minh chứng rõ ràng, nhưng đức tin và cái nhìn trở nên một nơi ông: điều ông thấy mạc khải cho ông Đấng ông tin, vì Đấng ông tin làm cho ông thấy. Và chúng ta, những Kitô hữu, sự phục sinh của Đức Kitô có thâm nhập và biến đổi cuộc đời chúng ta, có canh tân cùng tinh luyện cái nhìn của chúng ta về các biến cố không?

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

MẺ CÁ TÌNH THƯƠNG - CN 3 PS C

 MẺ CÁ TÌNH THƯƠNG

SUY NIỆM CHÚA NHẬT III PHỤC SINH – NĂM C

Ga 21, 1-19


Bước sang Chúa nhật thứ Ba sau Đại lễ Phục Sinh, phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta tích cực gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh trong đời sống thường ngày. Gặp được Chúa sẽ có niềm vui, vui vì Chúa đã sống lại. Thánh Phêrô Tông Đồ cho chúng ta kinh nghiệm sống động về cuộc gặp gỡ này, ông hân hoan vui mừng cả khi người Do Thái đánh đòn, cấm không được rao tin Chúa Kitô Phục Sinh (x.Cv 5,40b). Vì thế lời Ca nhập lễ bảo ta ca vang: “Cả trái đất, nào tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên, mừng danh thánh rạng ngời, hãy dâng Người lời ca tụng tôn vinh. Hallêluia“.

Trang Tin Mừng (Ga 21, 1-19) thật là đẹp, đẹp về con người, vì các môn đệ tin Chúa đã sống lại; đẹp về công việc, đi bắt cá suốt đêm không được gì, nay có mẻ lưới đầy cá; đẹp về thời gian, bởi đây là buổi bình minh của ngày thứ nhất trong tuần; đẹp về nơi chốn vì Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra với các ông ở trên bờ (x. Ga 21,4).

Một chi tiết rất hay đáng chúng ta lưu ý là: “Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển” (Ga 21,4). Biển là gì nếu không phải là biểu tượng của thế gian đang bị xô đẩy bởi những con sóng dữ dội và những vòng xoáy của ba thù? Và bờ biển ở đây là gì, há chẳng tượng trưng cho sự sống đời đời đó sao? Các môn đệ đã vất vả, cực nhọc suốt đêm trên biển để đánh bắt cá, đương đầu với những con sóng của cuộc sống hay chết, nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng ta, sau khi sống lại, Người đứng trên bờ. Theo thánh Grêgôriô Cả (540-604), Giáo hoàng, Tiến sĩ Hội Thánh giải thích thì: Chúa Giêsu đứng trên bờ, vì sau khi sống lại, Người đã vượt qua các điều kiện của một xác thịt mong manh hay hư nát, Người đứng trên bờ để nói cho các môn đệ về mầu nhiệm phục sinh, rằng: “Thầy không hiện ra với anh em trên mặt biển nữa” (x. Mt 14,25), bởi vì Thầy không còn ở với anh em trong lúc biển gầm bão tố nữa. Đó chính là ý nghĩa Chúa muốn nói với các môn đệ sau khi sống lại: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em” (Lc 24,44). Người không nói điều này bởi vì Người không còn ở với họ. Thân xác vĩnh hằng lúc ẩn lúc hiện rất xa vời với thân xác hay chết của các môn đệ. Người nói, Người không còn ở giữa họ nữa. Chúa ở trên bờ để kéo các ông lên bờ và biến các ông từ nay trở thành những kẻ lưới người ở trên bờ, chứ không lưới cá ở dưới nước nữa. (Trích Homélies sur l’Évangile, n°24)

Trở lại với mẻ cá lạ của các môn đệ làm theo lệnh truyền của Chúa Phục Sinh, vào buổi bình minh của ngày mới, Chúa hiện ra với các môn đệ lần thứ ba. Nếu như Tin Mừng không nói rõ, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng chính Chúa sẽ chuẩn bị một cái gì đó cho chính mình cũng như các môn đệ, những ngư dân mệt mỏi suốt đêm nay cần đồ ăn sáng.

Chúa Giêsu Phục Sinh đã cách mạng hóa cuộc sống của họ và biến đổi lịch sử nhân loại ở mọi nơi mọi thời. Các Tông Đồ thấy rằng họ đã thất bại, họ đã không đạt được tầm mức mà Đấng Mêsia mong đợi. Trong lưới của Phêrô và các môn đệ, người ta nhận ra sự kiệt sức, gần như đầu hàng, chẳng những không hướng về Thiên Chúa, mà còn đối diện với sự nghèo nàn của chính họ. Phêrô nói: “Tôi đi đánh cá đây“(Ga 21,3), ngay lập tức những người khác cũng đi theo, dường như muốn nói: “Bây giờ họ không có gì khác để làm“.

Quả thật, con người của các Tông Đồ lúc này: Sau “khổ đau” của Thập Giá, họ đã trở về gia đình, với cộng việc thường nhật, có người đi đánh cá, nghĩa là họ trở về lại con người và làm những công việc trước lúc chưa gặp Chúa Giêsu. Điều này chứng tỏ bầu khí phân tán và rối loạn trong nhóm  (x. Mc 14, 27, và Mt 26, 31). Đó là khó khăn cho các môn đệ để hiểu những gì đã xảy ra, khi mà tất cả dường như đến hồi kết, thì trên đường Emmaus, Chúa Giêsu đã đến với các môn đệ dưới dạng khách đồng hành. Giờ đây, Chúa gặp gỡ họ lúc họ đang ở biển, là nơi mà tâm trí họ nặng trĩu vì những thử thách gian truân của cuộc đời; Người gặp họ vào rạng sáng ngày hôm sau khi họ vất vả cực nhọc vô dụng suốt đêm. Lưới họ không có gì, cách nào đó, điều này cho thấy cảm nghiệm của họ với Chúa Giêsu, họ biết Chúa đang ở bên họ, và Chúa hứa với họ nhiều điều. Tuy nhiên, họ thấy mình bây giờ với mẻ lưới  trống rỗng.

Chúng ta cũng vậy, có lúc thấy mình với mẻ lưới trống rỗng. Đi bộ, kiệt sức, trên đường Emmaus của chúng ta, Chúa tiến lại gần để giúp chúng ta thực hiện những bước nhảy vọt về sự khiêm nhường và tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Các tông đồ thấy mỏi mệt, nhưng xúc động trước tình yêu của Chúa Kitô, họ thả lưới ở “phía bên kia” thuyền. Câu hỏi được đặt ra : Tại sao lại bên kia? Bên kia là bên của tình yêu Thiên Chúa. Tấm lưới của Phêrô đã được thả xuống từ một phần của tình thương Chúa. Quả thật, tình thương Chúa là rất cần thiết trong thế giới hôm nay. Chúng ta hãy vâng nghe Lời Chúa, tin tưởng làm theo những gì Chúa truyền dạy để xứng đáng được kể là dân được Chúa yêu.

Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Suy niệm chú giải Lời Chúa – CN 3 PS C – Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật III Phục Sinh C – Lm. Inhaxiô Hồ Thông


 Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Phục Sinh hôm nay dâng hiến cho chúng ta những chứng từ mới về biến cố Phục Sinh.

Cv 5: 27b-32, 40b-41

Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật lời chứng của các Tông Đồ trước Thượng Hội Đồng. Các Tông Đồ khẳng định đầy xác tín rằng Đức Giê-su, mà các ông đã đóng đinh, đã sống lại và được tôn vinh.

Kh 5: 11-14

Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan mô tả thị kiến về phụng vụ thiên quốc tôn vinh Con Chiên chịu sát tế, được cả triều thần thánh thiên quốc cũng như muôn loài thụ tạo chúc tụng tôn vinh.

Ga 21: 1-19

Tin Mừng tường thuật Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ Ngài trên bờ Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Đây là giây phút Chúa Giê-su trao gởi con thuyền Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô và tấn phong thánh nhân làm Mục Tử tối cao trên toàn thể đoàn chiên Ngài, căn cứ  trên tình yêu của thánh nhân đối với Ngài.

BÀI ĐỌC I (Cv 5: 27b-32, 40b-41)

Sự kiện các Tông Đồ bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng, tức là tòa án tối cao ở Giê-ru-sa-lem, được đặt vào trong hoàn cảnh rất đặc thù. Trước đó, thánh Phê-rô và thánh Gioan đã bị bắt sau khi đã chữa lành một người bại liệt ở cửa Đền Thờ và đã ngỏ lời với đám đông tụ tập chung quanh các ngài. Sau khi tra hỏi các ngài, các thành viên Thượng Hội Đồng ngăm đe và nghiêm cấm các ông không được rao giảng Đức Giê-su nữa, rồi thả các ông về “vì họ sợ dân chúng” (4: 21).

Thánh Phê-rô, thánh Gioan cũng như các Tông Đồ khác, chẳng những đã không nín lặng, lại càng lớn tiếng rao giảng Đức Giê-su. Thánh Lu-ca xác định: “Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng” (5: 18). Vào ban đêm, thiên sứ mở cửa ngục, đưa hai ông ra ngoài. Ngay từ sáng sớm, các ông lại xuất hiện trong Đền Thờ để giảng dạy đám đông. Các thượng tế càng nỗi giận và bắt các ngài một lần nữa. Chính đây là đoạn trích dẫn hôm nay: các Tông Đồ lại bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng.

1. Vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người

Vì thế, vị thượng tế hỏi những kẻ tái phạm ngoan cố này: “Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!” (5: 28)

Nhân danh nhóm Mười Hai, thánh Phê-rô khôn khéo trả lời. Thánh nhân giải thích cho các tư tế được thánh hiến để phụng sự Thiên Chúa trong Đền Thờ rằng chính “vị Thiên Chúa của cha ông chúng ta” này đã cho Đức Giê-su sống lại, tôn vinh Ngài và đặt Ngài làm Thủ Lãnh và Đấng Cứu Độ. Vì thế, nếu thánh nhân cũng như các bạn đồng môn đã không thể nào nín lặng, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người.

2. Chúng tôi cùng Chúa Thánh Thần xin làm chứng

Thánh Phê-rô biết rằng lời chứng của mình có thể bị bác bỏ. Luật Do thái đòi hỏi việc xét xử chỉ có giá trị nếu căn cứ ít nhất trên hai nhân chứng (Đnl 17: 6). Chứng nhân thứ hai mà vị Tông Đồ viện dẫn, quả thật bất ngờ, là Chúa Thánh Thần: Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người” (5: 33).

Cũng vẫn ở nơi Thiên Chúa mà thánh Phê-rô quy giá trị những lời nói được Thánh Thần linh hứng cho mình. Như vậy, thánh nhân kết thúc bài diễn từ của mình với cùng viễn cảnh như thánh nhân đã bắt đầu: “Vâng phục Thiên Chúa” (5: 29 và 32).

Qua bài diễn từ này và những bài diễn từ khác nữa của thánh Phê-rô (tổng cộng là năm bài diễn từ), thánh Lu-ca cho chúng ta biết những đề tài cốt yếu của giáo lý tiên khởi; vào lúc đó, giáo lý này chỉ ngỏ lời với các thính giả Do thái.

Thượng Hội Đồng lại miển cưỡng thả các Tông Đồ. Quả thật, vào gần cuối của đoạn trích này, thánh Lu-ca đặt ông Ga-ma-li-ên, một người Pha-ri-sêu, đồng thời một kinh sư đáng kính có khuynh hướng cởi mở, lên tiếng bênh vực cho các Tông Đồ. Như vậy, ngay ở giữa lòng Thượng Hội Đồng xảy ra những căng thẳng nội bộ. Những đối thủ hung dữ nhất của các Tông Đồ không là những người Pha-ri-sêu (thánh Lu-ca đã không nêu tên họ trong suốt bài tường thuật Thương Khó), nhưng giới giáo sĩ, đặc biệt nhà Kha-nan (“vị thượng tế cùng những người thân cận”).

Tuy nhiên, các Tông Đồ, trước khi được thả ra, phải bị đánh đòn theo luật Mô-sê cho là có tội, và chỉ được phép đánh không quá bốn mươi đòn, “sợ rằng đánh thêm sẽ bị trọng thương, và người anh em của anh em sẽ bị nhục trước mặt anh em” (Đnl 25: 2-3).

3. Niềm vui của những người bị khổ nhục vì danh Đức Giê-su

Dù bị đánh đòn, “các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su”. Chúa Giê-su đã nói trước với các ông: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5: 11-12). Thánh Phê-rô, khi viết cho các cộng đoàn Ki-tô hữu bị bách hại, cũng phát biểu như vậy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu” (1Pr 4: 13).

BÀI ĐỌC II (Kh 5: 11-14)

Sách Khải Huyền được chi phối bởi hai thị kiến khai mạc. Chúng ta đã đọc thị kiến thứ nhất vào Chúa Nhật trước. Thị kiến thứ hai giới thiệu phần chính yếu thứ hai sách Khải Huyền. Thị kiến này bao gồm các chương 4 và 5 và được chia thành hai phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất mô tả một lễ nghi hùng vĩ tôn thờ Thiên Chúa cực thánh, Đấng Sáng Tạo muôn loài muôn vật, và phân đoạn thứ hai là một phụng vụ trang trọng tôn vinh Con Chiên chịu sát tế. Bản văn của chúng ta được trích dẫn từ phân đoạn thứ hai này.

1. Đức Ki-tô, Con Chiên chịu sát tế

Trong sách Khải Huyền, đây là lần đầu tiên Đức Ki-tô được gọi là Con Chiên và Con Chiên chịu sát tế. Danh xưng này từ nay sẽ ngự trị toàn bộ sách Khải Huyền. Tước hiệu này mang đậm nét truyền thống Gioan. Trong Tin Mừng Thứ Tư, thánh Gioan Tẩy Giả chứng nhận Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1: 36); cũng trong Tin Mừng Thứ Tư, Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho người Do thái đóng đinh vào thập giá “hôm ấy vào ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 18: 14), đúng vào giờ trong sân Đền Thờ người ta sát tế những con chiên dành cho bữa ăn Vượt Qua.

Hình ảnh con chiên ẩn hiện trong tư tưởng của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, khi ông gợi lên Người Tôi Trung bị đem đi giết “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53). Ngược dòng lịch sử, sách Xuất Hành tường thuật máu chiên vượt qua đã bảo vệ dân Do thái khỏi chết như thế nào khi họ bôi máu con chiên trên khung cửa nhà mình (Xh 12: 7-13).

Trong thị kiến của mình, tác giả sách Khải Huyền xác định rằng ông thấy “con chiên đã bị sát tế”, nghĩa là được ghi dấu bởi những vết thương hy tế. Trong vinh quang của mình, Chúa Ki-tô muôn đời mang lấy những dấu tích cuộc Tử Nạn của mình mà giá trị của chúng không bao giờ phai nhạt. Chính ở nơi Con Chiên này mà muôn vàn thiên thần và muôn vị chư thánh dâng lời tôn vinh chúc tụng.

2. Lời chúc tụng của các thiên thần và con số 7

Muôn vàn thiên thần đứng chầu chung quanh ngai. Ngai chỉ Thiên Chúa, Đấng không bao giờ được miêu tả, ngoại trừ qua những ám chỉ đến ánh sáng huy hoàng nhiệm mầu của Ngài, được sánh ví với những viên đá quý lung linh rực rỡ. Ấy vậy, ở đây, ngai cũng chỉ Con Chiên, cách thức công bố thần tính của Chúa Giê-su.

Các thiên thần tán dương Con Chiên qua bảy phẩm tính: “Con Chiên đã bị giết quả xứng đáng lãnh nhận phú quý và quyền năng, khôn ngoan và uy lực, danh dự với vinh quang, cùng muôn lời chúc tụng!”. Bảy là con số chỉ sự viên mãn. Xa hơn một chút, chúng ta gặp lại lời chúc tụng khác cũng về bảy phẩm tính, mà cộng đoàn được tuyển chọn dâng lên cho chính Thiên Chúa: “A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!” (7: 12). Nếu Con Chiên đón nhận cùng một phụng thờ như thế, đó là một cách thức mới khẳng định thần tính của Ngài.

Cả triều thần thánh trên trời đều tán dương Con Chiên, như thế khẳng định thần học của thánh Phao-lô và thần học của tác giả thư gởi tín hữu Do thái: Chúa Ki-tô đã được đặt trên các thiên thần (x. Ep 1: 21; Dt 1: 4-14).

3. Lời chúc tụng của các Con Vật, các Kỳ Mục và con số 4

Chung quanh ngai có các Con Vật và các Kỳ Mục. Các Con Vật và các Kỳ Mục này đã được nêu lên và đã được mô tả trước đây. Các Con Vật được biểu tượng bởi con số bốn, con số có nghĩa hoàn vũ (“bốn phương”). Chúng được mô tả có cánh, giống như con vật hay con người (4: 7), gần với bốn con vật có hình thù kỳ lạ nâng đỡ ngai Thiên Chúa trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 1: 18). Ở đây, chúng đại diện vũ trụ.

Các Kỳ Mục có tất cả là hai mươi bốn vị. Họ biểu thị mười hai chi tộc Ít-ra-en và mười hai Tông Đồ, tức là vừa Giao Ước Cũ vừa Giao Ước Mới; như vậy, hai mươi bốn Kỳ Mục ngụ ý rằng chỉ có một Giao Ước duy nhất. Dù thế nào, họ thuộc về nhân loại và đã đóng vài trò của những người thờ phượng trong phụng vụ trước đó: mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên (4: 10-11). Họ cũng tôn thờ Con Chiên: “Các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy”.

4. Lời chúc tụng của muôn loài thọ tạo và con số 4

Muôn loài thọ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất và ngoài biển khơi đều tung hô Con Chiên. Vũ trụ được chỉ rõ bởi bốn miền. Bài thánh thi tung hô Con Chiên với bốn phẩm tính: “Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!”.

5. Mầu nhiệm vượt qua

Con Chiên được tôn thờ, tán dương, chúc tụng vì nó đã được sát tế. Tất cả mầu nhiệm Vượt Qua được tiềm ẩn ở nơi khía cạnh hy tế và cứu chuộc, rồi đến vinh quang, vinh quang mà Chúa Giê-su đã xin Cha Ngài trong lời cầu nguyện hiến tế của Ngài: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha : xin ban cho Con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17: 5).

6. Sứ điệp

Ngoài phụng vụ tôn vinh Con Chiên – phản ảnh nào đó cuộc sống phụng vụ Giáo Hội – nổi bật sứ điệp then chốt của sách Khải Huyền: những người Ki-tô hữu bị bách hại, dẫn đến cuộc tử đạo, chính họ là những con chiên bị sát tế, “bị đem đi làm thịt”; họ theo bước chân của Chúa Ki-tô; họ dự phần vào vận mệnh và vinh quang của Ngài. Lời hứa đã được ban cho họ một cách long trọng: “Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngự bên Cha Ta trên ngai của Người” (3: 21).

TIN MỪNG (Ga 21: 1-19)

Chương 21 Tin Mừng Gioan là phần phụ chương. Tác phẩm đã đóng lại rồi ở 20: 30-31: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người”. Chung chung, người ta nghĩ rằng phần phụ chương này đã được thêm vào, hoặc bởi chính tác giả hay bởi một trong các môn đệ của ông.

Dù thế nào, người ta nhận ra ở đây văn phong của Gioan: những thực tại được mô tả chất nặng những dấu chỉ đến mức chúng ban cho câu chuyện nghĩa thứ hai, tròn đầy hơn nghĩa của từ ngữ. Đoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài trình thuật, nhưng có chung một đề tài: quyền lãnh đạo tối thượng của thánh Phê-rô trên Giáo Hội truyền giáo (21: 1-14) và quyền mục tử tối cao của thánh nhân trên toàn thể đoàn chiên của Chúa Giê-su (21: 15-19).

1. Quyền lãnh đạo tối thượng của thánh Phê-rô trên Giáo Hội truyền giáo (21: 1-14)

A- Cuộc hội ngộ bên biển hồ Ti-bê-ri-a miền Ga-li-lê

Sau những cuộc gặp gỡ ban đầu với Đấng Phục Sinh ở Giê-ru-sa-lem, các Tông Đồ trở về Ga-li-lê. Về điểm này, thánh Gioan đồng thuận với thánh Mát-thêu. Theo thánh Mát-thêu, vào lúc trên đường đến đồi Ô-liu, sau Bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mt 26: 31-32). Thiên sứ đã lập lại sứ điệp này cho những người phụ nữ đến mồ: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (Mt 28: 6-7).

Theo Tin Mừng Gioan, không phải tất cả các Tông Đồ đều có mặt ở đó, nhưng chỉ có bảy người, con số chỉ sự viên mãn, và tất cả họ đều lên thuyền, thuyền của thánh Phê-rô. Người ta nhận ra rồi ở nơi tình tiết này ý nghĩa Giáo Hội. Cũng giống như mẻ lưới cá lạ lùng thứ nhất được thánh Lu-ca tường thuật (Lc 5: 1-11), “Đêm ấy không bắt được gì cả”. Ấy vậy, những mẻ lưới ban đêm, theo kinh nghiệm nghề nghiệp, được xem là những mẻ lưới đánh nhiều cá hơn những mẻ lưới ban ngày.

B- Chúa Giê-su Phục Sinh ở trên bờ

“Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển” như một khách vãng lai vui miệng hỏi thăm công việc của các ngư phủ như thế nào. Họ trả lời là chẳng bắt được gì cả. Vâng theo lời chỉ dẫn của Ngài “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được nhiều cá”, họ đánh bắt được một mẻ lưới đầy những cá. “Người môn đệ Chúa yêu” nhận ra ngay chính Chúa đó. Trong Tin Mừng Gioan, độ nhạy bén của con tim luôn luôn trổi vượt hơn sự suy luận của lý trí. Tuy nhiên, thánh Phê-rô là người phản ứng trước tiên: không đợi thuyền cập bến, thánh nhân lao mình xuống nước đến gặp Thầy.

Thánh Lu-ca tường thuật mẻ lưới cá lạ lùng được định vị vào lúc Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ đầu tiên, theo đó Đức Giê-su đã ở trong thuyền với các môn đệ của Ngài (Lc 5: 1-7). Thánh Gioan cũng tường thuật mẻ lưới cá lạ lùng, nhưng được định vị sau biến cố Phục Sinh, theo đó Đức Giê-su Phục Sinh không còn ở trên thuyền với các môn đệ, nhưng ở bên bờ cuộc sống đời đời của Ngài. Chỉ một mình các môn đệ của Ngài trên biển, theo truyền thống được xem như nơi trú ngụ của những quyền lực sự dữ. Tuy nhiên, Đức Giê-su vẫn tiếp tục quan tâm đến công việc của họ và hướng dẫn họ. Chính nhờ sự can thiệp của Ngài mà công việc của họ đâm hoa kết trái. Rõ ràng, con thuyền giữa sóng nước mênh mông là biểu tượng của Giáo Hội giữa trần thế. Và công việc đánh cá của các ông được Chúa Giê-su xác định với thánh Phê-rô ngay từ mẻ lưới cá lạ lùng đầu tiên: “Từ nay anh sẽ là người chài lưới người” (Lc 5: 10).

C- Riêng một mình thánh Phê-rô

Thánh Phê-rô một mình bơi vào bờ, trong khi các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá. Khi Chúa Giê-su bảo các ông đem ít cá mới vừa mới đánh bắt được đến đây, thì chỉ mình thánh Phê-rô lại xuống thuyền, rồi kéo lưới đầy cá lớn lên bờ, công việc vượt quá sức của một người, và lưới dù đầy cá đến thế mà không bị rách (21: 11). Chính nơi thánh Phê-rô mà Chúa Giê-su trao phó trách nhiệm hàng đầu đối với Giáo Hội truyền giáo của Ngài; chính thánh nhân phải dẫn đến với Chúa những ai mà sứ mạng truyền giáo đã thu phục được và chính ở nơi thánh nhân mà Ngài ủy nhiệm bổn phận ân cần săn sóc để không có bất kỳ một ai phải bị mất đi. Thời điểm được xác định ngay từ đầu câu chuyện: “trời đã sáng”, hình ảnh rất tâm đắc của thánh Gioan, đây là thời điểm ánh sáng, thời điểm cứu độ.

Còn con số “một trăm năm mươi ba con” được thánh Giê-rô-ni-mô giải thích theo đó vào thời của thánh nhân, các nhà động vật học liệt kê được một trăm năm mươi ba loài cá. Như vậy, qua con số biểu tượng này, tác giả ám chỉ đến công việc truyền giáo các Tông Đồ sẽ thực hiện theo lệnh của Đức Ki-tô dưới sự hướng dẫn của thánh Phê-rô, đồng thời tác giả cũng tiên báo công trình ấy sẽ đem muôn dân muôn nước về với Đức Ki-tô.

D- Bữa ăn của Chúa

Biết các môn đệ vất vả suốt đêm trong cái lạnh của nước và gió, Đức Giê-su chuẩn bị sẵn cho các ông một bếp than hồng để sưởi ấm và một bữa ăn để no lòng. Tất cả đã sẵn sàng: “Anh em đến mà ăn”. Bữa ăn gồm bánh và cá, hai yếu tố này xem ra không phù hợp với bàn tiệc Thánh Thể, tuy nhiên biểu thức: “Đức Giê-su cầm lấy bánh và trao cho các môn đệ ăn” rõ ràng là biểu thức của bàn tiệc Thánh Thể. Hơn nữa vào thời Giáo Hội tiên khởi “bánh” và “cá” biểu tượng Thánh Thể, như được thấy trong phép lạ “Bánh và Cá hóa nhiều” được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại như tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể. 

“Mẻ cá lạ lùng” và “bữa ăn của Chúa” diễn tả hai khía cạnh bất khả phân của thực tại Giáo Hội: hoạt động truyền giáo và bàn tiệc Thánh Thể. Giáo Hội được mời gọi nối tiếp sứ mạng của Đức Giê-su, loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Đây là một công việc đòi hỏi nhiều gian nan vất vả như cuộc đời cứu thế của Đức Giê-su đã cho thấy. Chính vì thế, Chúa Giê-su đã dọn sẵn cho các môn đệ của Ngài bữa ăn của Ngài để sưởi ấm lòng mến của các ông và nuôi dưỡng đức tin kiên vững của các ông trong sứ mạng.

2- Quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô trên toàn thể đoàn chiên của Chúa Giê-su (21: 15-19)

A- Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su Phục Sinh với thánh Phê-rô

Sau đó diễn ra một cuộc đối thoại thật cảm động giữa Chúa Giê-su và thánh Phê-rô. Chúa Giê-su long trọng hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Này anh Si-mon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”, và cả ba lần thánh nhân đều khẳng định là mình yêu mến Thầy.

Ngoài ra, có một sắc thái ngữ nghĩa rất tinh tế giữa hai động từ Hy lạp: “agapaô”: diễn tả một tình yêu cho đến mức sẵn sàng chết cho người mình yêu, và “phileô”: diễn tả tình bằng hữu. Trong hai lần đầu, Chúa Giê-su hỏi thánh nhân với động từ “agapaô”, nghĩa là Ngài đòi hỏi thánh nhân yêu mến Ngài đến mức dám chết cho Ngài. Tuy nhiên, cả ba lần thánh nhân điều trả lời cho Thầy với cùng một động từ “phileô”, nghĩa là, từ kinh nghiệm mình đã chối Thầy ba lần, thánh nhân không dám hứa với Thầy rằng thánh nhân yêu mến Thầy theo cùng mức độ tình yêu tận mức mà động từ “agapaô” đòi hỏi, nhưng chỉ theo tầm mức mà động từ “phileô” diễn tả. Vì thế, đến lần thứ ba, một cách tế nhị, Chúa Giê-su hạ mức độ lòng yêu mến của thánh nhân đối với Ngài xuống cho ngang tầm với yêu cầu của thánh nhân khi hỏi thánh nhân với động từ “phileô”. Chính với câu hỏi lần thứ ba này, thánh nhân buồn vì mình không thể đáp trả lòng mến của mình đối với Thầy trên cùng mức độ “agapaô” như Chúa muốn: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”.

B- Các bản văn Tin Mừng nói đến quyền tối thượng của thánh Phê-rô

Trong các sách Tin Mừng, chúng ta có đến ba bản văn thiết lập quyền tối thượng của thánh Phê-rô: Mt 16: 13-19, Lc 22: 31-34 và Ga 21: 15-17. Không là một nhưng cả ba bản văn bổ túc cho nhau thắp sáng dung mạo tuyệt đẹp của vị lãnh đạo Giáo Hội của Chúa Giê-su.

Theo bản văn Mt 16: 13-19, Đức Giê-su đã long trọng tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo tối thượng của Giáo Hội Ngài căn cứ trên niềm tin của thánh Tông Đồ. Sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô ở Xê-da-rê: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”, Chúa Giê-su đã long trọng công bố thánh nhân là đá tảng trên đó Ngài sẽ xây Giáo Hội của Ngài cách vững chắc, ngay cả thế lực sự dữ cũng không thể nào làm lay chuyển được.

Theo bản văn Lc 22: 31-34, sau khi báo trước thánh nhân sẽ chối Thầy và các ông sẽ bỏ rơi Thầy trong cuộc thương khó của Thầy, Chúa Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Thầy cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em mình nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Thánh Phê-rô ý thức hơn ai hết về sự yếu đuối ngay chính trong bản thân mình: đã ba lần mình đã chối Thầy, và thánh nhân có kinh nghiệm sâu xa hơn ai hết về sự yêu thương tha thứ vô bờ của Thầy. Từ đó, thánh nhân phải thông cảm những yếu đuối của anh em mình và ra sức nâng đỡ niềm tin của anh em mình.

Theo bản văn Ga 21: 15-17, Đức Giê-su Phục Sinh thiết lập quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô căn cứ trên “tình yêu”. Cho đến lúc đó, Chúa Giê-su đã cho thánh nhân thấy rằng Ngài đã yêu mến Giáo Hội Ngài và toàn thể nhân loại đến mức hy sinh mạng sống mình. Chính trên cùng mức độ tình yêu như thế mà Ngài đòi hỏi thánh Phê-rô phải có khi đặt thánh nhân làm “mục tử chăm sóc đoàn chiên của Ngài”, như Ngài đã phác họa ở nơi dụ ngôn “Người Mục Tử Nhân Lành”: quyết tâm bảo vệ đoàn chiên cho dù phải hy sinh mạng sống mình để “chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10: 10). Chính đó cũng là tiêu chuẩn để nhận dạng người mục tử đích thật với kẻ chăn chiên thuê (Ga 10: 11-15).

Như vậy, trong bản văn Gioan này, điều quan trọng không chỉ ghi nhận quyền mục tử tối cao của thánh Phê-rô, nhưng còn cả tấm lòng yêu thương của Chúa Giê-su dành cho đoàn chiên của Ngài nữa. Trước khi trao gởi đến ba lần đoàn chiên của Ngài cho thánh Phê-rô chăn dắt, Chúa Giê-su đã hỏi thánh nhân cũng đến ba lần có yêu mến Ngài không. Như vậy, tấm lòng của thánh nhân dành cho Đức Giê-su như thế nào, thì tấm lòng của thánh nhân đối với đoàn chiên của Ngài cũng phải như vậy. Nói cách khác, chính qua cách thức người mục tử cư xử với đoàn chiên của Đức Giê-su như thế nào, người ta đo lường được lòng yêu mến của người mục tử ấy đối với Đức Ki-tô cũng như vậy.

Vì thế, trong phần kết (21: 18-19), Chúa Giê-su cho thánh nhân hiểu rằng với tư cách Mục Tử tối cao, thánh nhân sẽ hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên như Ngài: “Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào đẻ tôn vinh Thiên Chúa”. Cuối cùng, Chúa Giê-su mời gọi thánh nhân “Hãy theo Thầy” trên cùng một con đường yêu thương vô bờ dành cho đoàn chiên như Ngài. Như vậy, trong cuộc đối thoại, khi ý thức thân phận yếu đuối của mình, thánh nhân không dám đáp trả bằng một tình yêu tròn đầy như Chúa muốn; nhưng trong khi thi hành sứ vụ mục tử, thánh nhân đã đi cho đến cùng tình yêu bằng cuộc tử đạo của mình.

Trước khi chấm dứt bài suy niệm này, chúng ta đừng quên rằng chính Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đương nhiệm đã chọn đoạn Tin Mừng Gioan này trong ngày lễ đăng quang của mình nhân dịp lễ thánh Giu-se. Trong bài giảng vào ngày lễ đăng quang của ngài, được xem như định hướng toàn bộ hoạt động mục vụ của tân Giáo Hoàng, chính dựa trên đoạn Tin Mừng Gioan này mà Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã phác họa chân dung thật đẹp của vị Mục Tử tối cao như sau: “Ngày nay, cùng với lễ Thánh Giuse, chúng ta cử hành khởi đầu sứ vụ của tân Giám Mục Roma, người Kế Vị Thánh Phêrô, cũng bao gồm cả quyền bính. Dĩ nhiên Chúa Giêsu Kitô đã ban quyền cho thánh Phêrô, nhưng đó là quyền bính gì thế? Sau ba câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô về tình yêu, có ba lời mời gọi: hãy chăn dắt các chiên con, hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ và cả Giáo Hoàng, để thi hành quyền bính này, ngày càng phải tiến sâu hơn vào việc phục vụ ấy, việc phục vụ có tột đỉnh sáng ngời trên Thập Giá; Giáo Hoàng phải nhìn đến sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, đầy đức tin, của thánh Giuse và như thánh nhân, mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và yêu thương, dịu dàng, đón nhận toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất, những người mà thánh Matthêu mô tả trong cuộc phán xét chung về đức ái: những người đói, khát, ngoại kiều, người trần trụi, bệnh nhân, tù nhân (x. Mt 25,31-46). Chỉ những ai phục vụ với lòng yêu mến mới biết giữ gìn!”.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô mời gọi tất cả mọi người: “Giữ gìn Chúa Giêsu với Mẹ Maria, giữ gìn toàn thể công trình sáng tạo, giữ gìn mỗi người, đặc biệt là người nghèo nhất, giữ gìn chính chúng ta; đó là một công tác phục vụ mà Giám Mục Roma được kêu gọi chu toàn, nhưng đó cũng là ơn gọi mà tất cả chúng ta được mời gọi làm cho ngôi sao hy vọng được chiếu sáng rạng ngời: Chúng ta hãy gìn giữ với lòng yêu mến những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta!”.

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

VHTK Chúa Nhật 3 Phục Sinh C

 


 

VUI HỌC THÁNH KINH

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH C
Tin Mừng thánh Gioan 21,1-19



Tải về file DPF A4 VHTK CN 3 PHỤC SINH C tại đây

TIN MỪNG
Đức Giê-su hiện ra ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a
1 Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này.2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.3 Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.

4 Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su.5 Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không."6 Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.7 Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9 Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.10 Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách.12 Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa.13 Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.14 Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.

15 Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy."16 Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy."17 Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? " Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy.18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn."19 Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."


1 After this, Jesus revealed himself again to his disciples at the Sea of Tiberias. He revealed himself in this way.
2 Together were Simon Peter, Thomas called Didymus, Nathanael from Cana in Galilee, Zebedee's sons, and two others of his disciples.
3 Simon Peter said to them, "I am going fishing." They said to him, "We also will come with you." So they went out and got into the boat, but that night they caught nothing.
4 When it was already dawn, Jesus was standing on the shore; but the disciples did not realize that it was Jesus.
5 Jesus said to them, "Children, have you caught anything to eat?" They answered him, "No."
6 So he said to them, "Cast the net over the right side of the boat and you will find something." So they cast it, and were not able to pull it in because of the number of fish.
7 So the disciple whom Jesus loved said to Peter, "It is the Lord." When Simon Peter heard that it was the Lord, he tucked in his garment, for he was lightly clad, and jumped into the sea.
8 The other disciples came in the boat, for they were not far from shore, only about a hundred yards, dragging the net with the fish.
9 4When they climbed out on shore, they saw a charcoal fire with fish on it and bread.
10 Jesus said to them, "Bring some of the fish you just caught."
11 So Simon Peter went over and dragged the net ashore full of one hundred fifty-three large fish. Even though there were so many, the net was not torn.
12 Jesus said to them, "Come, have breakfast." And none of the disciples dared to ask him,  "Who are you?" because they realized it was the Lord.
13 Jesus came over and took the bread and gave it to them, and in like manner the fish.
14 This was now the third time Jesus was revealed to his disciples after being raised from the dead.
15 When they had finished breakfast, Jesus said to Simon Peter, "Simon, son of John, do you love me more than these?" He said to him, "Yes, Lord, you know that I love you." He said to him, "Feed my lambs."
16 He then said to him a second time, "Simon, son of John, do you love me?" He said to him, "Yes, Lord, you know that I love you." He said to him, "Tend my sheep."
17 He said to him the third time, "Simon, son of John, do you love me?" Peter was distressed that he had said to him a third time, "Do you love me?" and he said to him, "Lord, you know everything; you know that I love you." (Jesus) said to him, "Feed my sheep.
18 Amen, amen, I say to you, when you were younger, you used to dress yourself and go where you wanted; but when you grow old, you will stretch out your hands, and someone else will dress you and lead you where you do not want to go."
19 He said this signifying by what kind of death he would glorify God. And when he had said this, he said to him, "Follow me."


I. HÌNH TÔ MÀU
cnps03c 2
 
* Chủ đề của hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

* Bạn hãy viết câu TM thánh Gioan 21,17
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

 
II. TRẮC NGHIỆM
 
01. Tại đâu Đức Giêsu gặp các môn đệ và trao quyền chăm sóc đoàn chiên cho Phêrô? (Ga 21,1)
a. Thành Giêrusalem.
b. Thành Caphácnaum.
c. Sông Giođan.
d. Biển Hồ Tibêria.


02. Lúc đầy cá, các môn đệ đếm được bao nhiêu con? (Ga 21,11)
a. 120 con.
b. 150 con.
c. 153 con.
d. 170 con.


03. Khi lên bờ, quây quần bên Đức Giêsu, ngài đã trao gì cho các ông ăn? (Ga 21,13)
a. Cá.
b. Rượu.
c. Bánh.
d. Chỉ a và c đúng.


04. Đức Giêsu hỏi ông Phêrô: “Này anh simon, con ông Gioan, anh có mến thầy hơn các người này không?” bao nhiêu lần? (Ga 21,15-19)
a. 1 lần.
b. 2 lần.
c. 3 lần.
d. 7 lần.


05. Sau khi hỏi Phêrô: “Anh có mến thầy hơn các người này không?”, Đức Giêsu đã làm gì? (Ga 21,15-19)
a. Chúc lành cho Phêrô.
b. Thổi hơi ban Thánh Thần.
c. Bảo anh thật hạnh phúc vì được Chúa Cha mạc khải cho.
d. Bảo anh: “Hãy chăm sóc cho chiên của Thầy”.

 
III. Ô CHỮ 
 OC 3 PS C

Những gợi ý

01. Tên gọi khác của Tôma? (Ga 21,2)

02. Đức Giêsu trao quyền chăm sóc đoàn chiên cho ai? (Ga 21,15-19)

03. Khi lưới đầy cá, người môn đệ Chúa thương nói với ông Phêrô điều gì? (Ga 21,7)

04. Trước các câu hỏi của Đức Giêsu, ông Phêrô bày tỏ tấm lòng của mình với Thầy điều gì? (Ga 21,15-19)

05. Ai trao quyền chăm sóc đoàn chiên cho  ông Phêrô? (Ga 21,15-19)

06. Đức Giêsu trao gì cho các ông cùng ăn? (Ga 21,13)

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?


IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy."
Tin Mừng thánh Gioan 21,17b
 
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH C

I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề 
Chúa Giêsu và ông Phê rô

* Câu Tin Mừng thánh Gioan 21,17
"Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?"

II. TRẮC NGHIỆM
01. d. Biển Hồ Tibêria (Ga 21,1)
02. c. 153 con (Ga 21,11)
03. d. Chỉ a và c đúng (Ga 21,13)
04. c. 3 lần (Ga 21,15-19)
05. d. Bảo anh: “Hãy chăm sóc cho chiên của Thầy” (Ga 21,15-19)


III. Ô CHỮ
01. Didymô (Ga 21,2)
02. Phêrô (Ga 21,15-19)
03. “Chúa đó!”(Ga 21,7)
04. Yêu mến (Ga 21,15-19)
05. Đức Giêsu (Ga 21,15-19)
06. Bánh (Ga 21,13)


Hàng dọc : Yêu Mến

GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
pvc ps