Trang

Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2017

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN A - LM. INHAXIO HỒ THÔNG


CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN
Chủ đề Lời Chúa Chúa Nhật XV Thường Niên năm A này là tính hữu hiệu của Lời Chúa.

Is 55: 10-11

Trong đoạn trích của tác phẩm ngôn sứ I-sai-a đệ nhị này, Lời Chúa được sánh ví với ơn mưa móc làm cho hạt giống, nẩy mầm, đâm chồi nẩy lộc và đem lại cơm bánh cho con người.

Rm 8: 18-23

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô kêu mời suy gẫm, bên kia mầu nhiệm đau khổ, số mệnh vinh quang đang chờ đón không chỉ con cái Thiên Chúa nhưng còn muôn loài thụ tạo nữa. 

Mt 13: 1-23

Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Người Gieo Giống”. Chúa Giê-su sánh ví Lời Ngài với hạt giống. Hạt giống được gieo vào những mảnh đất tốt, chắc chắn sản sinh một vụ mùa bội thu.

BÀI ĐỌC I (Is 55: 10-11)

Bản văn này gợi lên tính hữu hiệu của lời Chúa có thể sánh ví với tính hữu hiệu của ơn mưa móc làm cho đất phì nhiêu. Bản văn này được chọn vì mối liên hệ gần gũi của nó với dụ ngôn“Người Gieo Giống” trong Tin Mừng hôm nay. Bản văn này được trích từ chương cuối tác phẩm của I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ của thời lưu đày Ba-by-lon này an ủi những người đồng hương bất hạnh của ông khi hứa với họ rằng Đức Chúa sắp ra tay giải thoát họ.

1.Tính hữu hiệu của Lời Chúa:

Vị ngôn sứ khẳng định rằng những gì Chúa đã hứa như thế không thể nào là dối trá được, vì Lời Chúa nhất thiết phải phát sinh thành quả của mình, chắc chắn như ơn mưa mốc từ trời xuống đem lại sự phong nhiêu cho đất đai và phúc lộc cho con người trước khi trở về trời cao. Những hình ảnh được dùng để so sánh ở đây không thuần túy là thi ca: “mưa trời và sương sa là dấu chỉ ơn cứu độ nhưng không”. Ở đầu bài thơ của mình, vị ngôn sứ đã nhắc nhớ rằng nước mà trời ban thì không phải trả đồng nào. Từ đó, ông lại kêu gọi dân chúng hãy tin tưởng. Tính hữu hiệu của Lời Chúa được minh chứng một cách tuyệt vời nhất đó sẽ là cuộc giải thoát sắp đến cho những người lưu đày. Ông kêu to lên ngay sau đoạn trích này:

“Phải, các ngươi sẽ ra đi mừng rỡ hân hoan, 
rồi lũ lượt kéo về bình an vô sự” (Is 55: 12) 

2.Nhân cách hóa lời Chúa:

Trong bản văn này, tác giả nhân cách hóa Lời Chúa; Lời Chúa được sánh ví như một sứ giả ra đi để chu toàn sứ mạng và sẽ chỉ trở về khi sứ mạng được hoàn thành. Đức Giê-su sẽ hiện thân Lời Chúa này. Ngài sẽ trở về nhà Cha chỉ khi Ngài chu toàn sứ mạng cứu độ của mình.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 18-23)

Chúng ta tiếp tục đọc chương 8 được trích từ thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma. Thánh nhân vừa mới chứng tỏ rằng vận mệnh của người Ki-tô hữu được liên kết với vận mệnh của Đức Ki-tô. Chính nhờ Ngài và trong Ngài mà chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và đồng thừa tự với Ngài.

1.Vận mệnh vinh quang của con cái Thiên Chúa:

“Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ, sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa đã mặc khải nơi chúng ta”. Kiểu nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ”, có thể được hiểu là những hoàn cảnh trần thế mà người Ki-tô hữu đang sống, nhưng chắc chắn là những gian nan thử thách mà họ phải chịu trong cuộc chiến đấu chống tội lỗi. Đau khổ tự nó là một điều dữ không thể nào phát sinh vinh quang được; tuy nhiên, đau khổ lại trở nên nguồn mạch vinh quang chỉ khi nào được liên kết với Đức Giê-su, vì chính ở nơi Ngài mà đau khổ và vinh quang là hai khía cạnh của một mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh: “Vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người”.

2.Muôn loài mong chờ được giải thoát:

Những gì được thánh Phao-lô khai triển ở đây không xuất phát từ một hệ thống triết học, cũng không từ một quan niệm khoa học về vũ trụ, nhưng được đặt trên nền tảng Kinh Thánh. Thế giới đã được sáng tạo cho con người; vì thế, nó liên đới với vận mệnh của con người; tất nhiên, nó đã bị nguyền rủa do tội lỗi của con người: “Đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra” (St 3: 17). Chính dựa trên lời nguyền này mà thánh Phao-lô đã quả quyết: “Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng vì Thiên Chúa bắt chịu vậy”. Theo thánh Phao-lô, chính trong kế hoạch của Thiên Chúa mà muôn loài muôn vật, vì được liên kết với án phạt của con người, cũng được dự phần vào ơn cứu độ và được giải thoát khỏi cảnh hư nát. Các ngôn sứ đã loan báo: 

“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, 
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. 
Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan 
vì những gì chính Ta sáng tạo” (Is 65: 17-18; x. 11: 6-9).

Thánh Phao-lô ám chí đến lời loan báo này: “Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài trong vũ trụ cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh con”.

Vả lại, văn chương khải huyền đã mở rộng những niềm hy vọng vào thời Mê-si-a vượt quá cái khung chủ nghĩa quốc gia chật hẹp để đạt đến toàn thể nhân loại, và thậm chí đến muôn vật vô tri vô giác.“Thế giới tương lai” được mô tả như một thế giới thay hình đổi dạng nhờ những thực tại thiên giới đột nhập vào. Thư thứ hai của thánh Phê-rô gợi lên viễn cảnh này bằng những ngôn từ khải huyền: “Trong khi mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành sẽ cháy tan ra trong lửa hồng. Nhưng theo lời Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2Pr 3: 12-13).
Trong các thư được viết trong cảnh bị giam cầm, thánh Phao-lô sẽ lấy lại cùng viễn cảnh vĩ đại này, bằng những biểu thức ngắn gọn hơn; chẳng hạn như trong thư gởi tín hữu Cô-lô-xê, thánh Phao-lô chúc tụng Đức Ki-tô là thủ lãnh vũ trụ, nhờ Ngài và cho Ngài “Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1: 20). Đây cũng là những điểm nhấn trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô (1: 9-13).

3.Vai trò của Chúa Thánh Thần:

 Tư tưởng của thánh Phao-lô dựa trên thần học Nhập Thể, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, theo đó vai trò của Chúa Thánh Thần không thể nào vắng bóng được. Chính Chúa Thánh Thần đã khởi sự rồi trong chúng ta sự biến đổi này và cho phép chúng ta hy vọng về “một sự giải phóng thân xác chúng ta trong tương lai”. Cũng cách thức như vậy đối với muôn loài muôn vật, tức là toàn thể thế giới hữu hình biệt phân với loài người. Vì thế, tư tưởng của thánh Phao-lô ngược lại với tư tưởng Hy-lạp. Trong khi tư tưởng Hy-lạp mong muốn giải thoát tinh thần khỏi vật chất, thì thánh Phao-lô nhắm đến khôi phục vật chất nhờ Chúa Thánh Thần.

Giáo Hội đã tiếp nhận viễn cảnh của thánh Phao-lô. Công Đồng Vatican II được khơi nguồn cảm hứng từ viễn cảnh này (cũng một phần từ cha Teilhard de Chardin như trong tác phẩm “Cảnh Vực Thần Linh”).

TIN MỪNG (Mt 13: 1-23)

Trong chương này, thánh Mát-thêu tập hợp bảy dụ ngôn, trong đó bốn dụ ngôn: “cỏ lùng”“kho báu”,“ngọc quý” và “chiếc lưới” thuộc nguồn riêng của thánh nhân, còn hai dụ ngôn: “người gieo giống” và“hạt cải” thì có chung nguồn với thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, trong khi dụ ngôn “men trong bột” thì có chung với thánh Lu-ca. Bảy dụ ngôn này hình thành nên một tổng thể thuần nhất: cả bảy dụ ngôn đều có mối liên hệ tới “Nước Trời”. Tin Mừng hôm nay chỉ trích dẫn dụ ngôn “Người Gieo Giống”.

Các dụ ngôn là những thực tại thường ngày dễ thấy được dùng để nói về những thực tại tinh thần vốn cao siêu mầu nhiệm khó nắm bắt được. Vào thời Đức Giê-su, các kinh sư thường sử dụng phương thức này để đánh động sự chú ý của thính giả và khơi dậy những suy tư của họ. Thật ra, các ngôn sứ đã sử dụng phương thức này rồi và truyền thống đã gán cho vua Sa-lô-mon là nhà khai sinh phương thức giảng thuyết bằng dụ ngôn.

1.Người gieo giống chính là Đức Giê-su:

Khi dùng những hình ảnh rất quen thuộc đối với thính giả Ga-li-lê của Ngài, Chúa Giê-su mô tả số phận của mỗi hạt giống tùy thuộc vào vùng đất tiếp nhận nó. Trước hết, hạt giống gặp phải không chỉ những khó khăn nội tại do từ các loại đất: vệ đường chai cứng, đất đầy sỏi đá, đất đầy bụi gai, nhưng còn những chướng ngại đến từ bên ngoài: chim trời, nắng cháy. Tuy thế, “có những hạt giống rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục”. Hình ảnh được diễn tả ở đây rất mạnh, vì ở miền đất Pa-lét-tin, vào những vụ mùa bội thu nhất, sản lượng không vượt quá mười đến mười hai hạt lúa cho mỗi hạt giống.

Qua những gợi ý này, Đức Giê-su muốn đám đông cũng như các môn đệ Ngài hiểu rằng chính Ngài là“người gieo giống” ra đi gieo Lời Thiên Chúa, như thánh Mát-thêu giới thiệu ngay từ đầu: “Hôm ấy, Đức Giê-su từ trong nhà đi ra”. Như người nông dân gieo hạt giống trên khắp cánh đồng với đủ loại đất, Đức Giê-su gieo Lời Hằng Sống của Ngài một cách hào phóng cho hết mọi hạng người, không trừ một ai. Tuy nhiên, chỉ những ai mở rộng lòng mình đón nhận lời Ngài thì lời Ngài mới sinh hoa kết quả.

2.Cách thức tiếp đón Lời:

Các môn đệ không thể hiểu ngay tư tưởng của Đức Giê-su, vì thế các ông hỏi Ngài: “Thưa Thầy, sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?”. Câu trả lời của Đức Giê-su thì thật rõ ràng: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Đây là lần duy nhất và vào dịp duy nhất này mà trong các sách Tin Mừng xuất hiện từ “mầu nhiệm”. Tiếp đó, Đức Giê-su còn trở nên nghiêm khắc hơn khi trích dẫn một câu ngạn ngữ và áp dụng câu ngạn ngữ này vào việc tiếp đón Lời Ngài: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ còn dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, thì cũng sẽ bị lấy mất”. Chỉ ai thành tâm thiện chí mở rộng lòng mình ra trước ánh sáng của Lời Ngài, người ấy càng ngày càng đón nhận nhiều ánh sáng hơn nữa; nhưng nếu ai không màng chi đến ánh sáng của Lời Ngài, người ấy càng ngày càng trở nên tăm tối hơn.

3.Mục đích Chúa Giê-su rao giảng bằng dụ ngôn:

Khi rao giảng bằng dụ ngôn, Đức Giê-su không cố ý làm cho lời dạy của Ngài trở nên bí nhiệm để làm nhụt chí thính giả của Ngài. Trái lại, với những hình ảnh thân quen và những ngôn từ cụ thể, Ngài muốn thính giả của Ngài nắm bắt được những chân lý cao siêu mà Ngài thông truyền cho họ. Quả thật, ngay liền sau đó, thánh Mát-thêu nhấn mạnh như vậy khi trích dẫn Tv 78: 2:

“Mở miệng ra, tôi sẽ đôi lời huấn dụ, 
công bố điều huyền bí thuở xa xưa”.

Tuy vậy, đám đông này lắng nghe lời Ngài, nhưng không thực tâm muốn hiểu đúng sứ điệp của Ngài mà lại theo sở thích của họ, theo những ước muốn của họ, theo những nhu cầu tư lợi của họ. Trước những tâm trí mù lòa của họ, Ngài đã phải thốt lên những lời cay đắng: “Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu”, và Ngài sánh ví đám thính giả này với dân chúng mà ngôn sứ I-sai-a đã gặp rồi vào thế kỷ VIII tCn: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa lành chúng cho lành” (Mt 13: 14-15; x. Is 6: 9-10).

Sấm ngôn I-sai-a này được cả ba Tin Mừng nhất lãm (Mt 13: 14-15; Mc 4: 12; Lc 8: 10) và Tin Mừng Gioan (Ga 12: 40) trích dẫn, cũng như được dùng để kết thúc sách Công Vụ Tông Đồ (Cv 28: 26-27). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng sấm ngôn này đã được ứng nghiệm: việc dân Do thái từ chối là một sự kiện không thể chối cãi trong thời Giáo Hội tiên khởi, vì thế “ơn cứu độ của Thiên Chúa đã được gởi đến cho các dân ngoại” (Cv 28: 28).

Sấm ngôn I-sai-a này được trích từ bài trình thuật về ơn gọi của vị ngôn sứ. Đức Chúa báo trước cho vị ngôn sứ biết rằng sứ mạng của ông sẽ gặp rất nhiều khó khăn, vì ông sẽ phải ngỏ lời với một dân cố tình nhắm mắt bịt tai và rồi thế nào sứ mạng của ông cũng sẽ phải thất bại. Đây là kiểu nói mang đậm sắc thái sê-mít nhằm bày tỏ sự hờn dỗi, nhưng dễ hiểu lầm, như ở Việt Nam chúng ta khi cha mẹ nói với con cái mình với giọng giận hờn: “Đồ ngoan cố cứng đầu, nói mấy cũng không chịu nghe, chết đi cho khuất mắt”. Vì thế, để có thể giúp cho người thời nay hiểu được câu nói bí nhiệm này, có người đề nghị thay mệnh đề “kẻo (less)” bằng “trừ phi (unless)” như sau: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt,trừ phi mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa lành chúng cho lành”. Dù thế nào, hoàn cảnh của vị ngôn sứ cũng tương tự như hoàn cảnh của Đức Giê-su trước lòng chai dạ đá của con người.

4. Những người gieo giống tương lai:

Tương phản với những viễn cảnh bi quan này, Đức Giê-su gặp thấy niềm vui mà niềm tin của nhóm nhỏ môn đệ Ngài đem lại cho Ngài, những người mà Ngài sắp làm cho họ trở thành những người gieo Lời Ngài trong tương lai. Họ sẽ vấp phải những khó khăn tương tự, nhưng trên những mảnh đất tốt họ sẽ thu hoạch một vụ mùa kỳ diệu. Chúa Giê-su lập lại những con số thật choáng ngợp: “kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba mươi”. Bởi vì không ai có thể nghi ngờ về tính hữu hiệu của Lời Chúa. Từ đó, chúng ta có thể hiểu tại sao Đức Giê-su sẽ dùng hình ảnh hạt giống để diễn tả sứ mạng của chính Ngài: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12: 24). Để có được một vụ mùa bội thu, hạt giống cần phải chết đi. Cái chết đem lại một vụ mùa bội thu này sẽ là cái chết của chính Ngài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét