Trích sách Làm sao đọc Phúc
Âm mà không mất đức tin, Linh mục Alberto Maggi (Comment lire l’
Évangile sans perdre la foi. Nhà xuất bản Fides, Pháp).
Vậy Đức Giêsu trở lại Cana miền
Galilê, là nơi Người đã làm cho nước hoá thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận
vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh tại Caphácnaum. Khi nghe tin Đức
Giêsu từ Giuđê đến Galilê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó
sắp chết. Đức Giêsu nói với ông: “Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì
các ông sẽ chẳng tin đâu!” Viên sĩ quan nói: “Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho,
kẻo cháu nó chết mất! “Đức Giêsu bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống.” Ông tin vào
lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về. Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã
đón gặp và nói là con ông sống rồi. Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào
giờ nào. Họ đáp: “Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt.” Người cha
nhận ra là vào đúng giờ đó, Đức Giêsu đã nói với mình: “Con ông sống”, nên ông
và cả nhà đều tin. Đó là dấu lạ thứ hai Đức Giêsu đã làm, khi Người từ miền
Giuđê đến miền Galilê. (Ga 4: 46-54)
Nếu các “dấu lạ” Chúa Giêsu làm và
được Phúc âm kể lại là dấu hiệu thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân
loại thì những người chờ dấu lạ để biết uy quyền không đón nhận (Ga 2: 18):
“Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, thì chúng tôi lại
rao giảng một Đấng Kitô bị đónh đinh.” (Cr 1:22-23). Những người khao khát
chuyện phi thường, không thể nhận biết Chúa Giêsu trong những chuyện bình
thường, họ van nài Chúa Giêsu cho họ “một dấu hiệu đến từ trời” (Mt 16: 1-).
Cũng như tiên tri Êlia, họ tìm Chúa trong “gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá
tảng, trong động đất và trong lửa” mà không thấy Chúa ở trong “tiếng gió hiu
hiu” (1 V 19: 11-12). Với những người đòi “phép lạ” Chúa Giêsu mời gọi họ “hối
cải”. Lời giảng dạy của Chúa không có chỗ cho những mong chờ những chuyện phi
thường đến từ trên cao; nhưng đúng hơn là lời mời gọi thực hành tình yêu trung
tín với Chúa mà ai cũng có thể làm được: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn;
Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần
truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù,
các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25: 35-36) Không cần phải thấy Chúa Giêsu làm ra
thật nhiều bánh: chỉ cần rộng lòng chia sẻ (Mt 14: 13-21). Không cần phải kêu:
“Xin Thiên Chúa cứu con!” (Mt 8: 25) Chỉ cần nhận biết ơn cứu rỗi đã được thực
hiện và đi loan báo ơn cứu rỗi (Mc 16: 16). Vì thế người ta không bao giờ thấy
trong các phúc âm danh từ “phép lạ” trong tiếng Hy-lạp và lúc nào Chúa Giêsu
cũng từ chối một cách ngắn gọn lời yêu cầu xin thấy những “điềm thiêng dấu lạ”.
Những điềm thiêng dấu lạ này nhắc nhở đến các tai ương mà ông Môsê làm trên đất
Ai Cập (Xh 7: 3-9) và dưới mắt Chúa Giêsu là: “những Kitô giả và ngôn sứ giả
xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa
gạt cả những người đã được tuyển chọn, nếu có thể” (Mt 24: 24), đó không phải
là những việc Chúa Giêsu làm.
Để chỉ định những việc của Chúa
Giêsu, các thánh sử hay nói đến “dấu chỉ” và “công việc” để nói lên các hành vi
củng cố đời sống nội tâm, hiệp thông để có khả năng yêu thương như Chúa Giêsu.
Các hành vi này không phải là những hành vi chỉ có Chúa Giêsu mới làm được,
nhưng là một khả năng mà các tín hữu có thể thực hiện được nhờ lòng tin vào
Chúa Kitô: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm
được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy
đến cùng Chúa Cha. (Ga 14: 12)
Ai phải đi xuống?
Như thế giai đoạn thụ động chờ phép
lạ để đưa thế giới vào hành động để biến đổi thế giới trong đoạn Phúc âm thánh
Gioan chỉ có tính tượng hình.
Thánh sử viết: “Có sĩ quan cận vệ
nhà vua có người con trai đau ở Caphácnaum …”. Thánh sử không viết có một người
cha có đứa con trai duy nhất … nhưng sĩ quan cận vệ nhà vua, một viên chức.
Người chủ chốt của câu chuyện được định danh qua chức vị của ông chứ không nêu
là người chồng, người cha. Qua hình ảnh này, được giữ vô danh một cách cẩn
thận, đương sự có chức vụ cao trong xã hội, thánh sử giới thiệu một người có uy
quyền. Ông này được tin – hơi trễ – con ông sắp chết. Khi biết Chúa Giêsu đang
ở trong vùng Cana, Galilê, ông đến gặp Người và xin Người “xuống cho, kẻo cháu
nó chết mất!” Thánh sử cho hay đứa con này sắp chết, ông không nói chính xác nó
bệnh gì bởi vì bệnh của nó, sau này thánh sử cho biết, đó là bệnh “cận vệ nhà
vua.” Một người quan trọng có địa vi cao trong xã hội, sĩ quan cận vệ không van
cầu một người thấp hơn mà một người cao hơn, uy quyền hơn: Chúa Giêsu, Đấng
Thiên Sai, Con Một Thiên Chúa. Ông xin Người “xuống”, xuống để can thiệp nhanh
chóng, hiệu quả cho con trai ông sắp chết.
Lời khiển trách chua chát của Chúa
Giêsu nói với người cha đang có con gần chết có vẻ như không đúng: “Các
ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!” Chúa Giêsu
không trả lời thẳng vào đương sự mà dùng đại danh từ “các ông” số nhiều ở đây,
Người nói với tất cả những ai thấy mình trong hình ảnh người sĩ quan cận vệ:
những người tìm giải pháp từ bên ngoài, dù đắt giá, khó khăn, điềm thiêng dấu
lạ chỉ dành riêng cho họ. Không thể nào có khả năng hướng nội nhìn lại mình, họ
không nghĩ ra phương thuốc có thể rất đơn giản, ở tầm tay nhưng buộc họ phải
nhìn tận sâu thẳm vào tâm hồn họ, nơi tầm nhìn, lúc đó, không còn là những gì
đẹp nhất vì Chúa Giêsu cho những người đi tìm dấu lạ là “thế hệ gian ác và
ngoại tình” (Mt 16: 4).
Viên sĩ quan cận vệ không hiểu lời
trách cứ của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu mời gọi ông đừng tìm điềm thiêng dấu lạ từ
trên cao. Ông năn nỉ: “Xin Ngài xuống cho, kẻo nó chết mất!” Không phải là lời
yêu cầu nhưng là một mệnh lệnh: “Xuống… chữa… lành”, kéo dài sự hiểu lầm, ông
cứ xin Chúa Giêsu và Chúa Giêsu thì cứ mong chờ ở ông. Trong lúc đó, thời gian
dậm chân, con ông sắp chết, viên sĩ quan xin Chúa Giêsu can thiệp, Chúa Giêsu
không ra tay. Viên sĩ quan phải nói “kẻo nó chết mất” để đưa Chúa Giêsu gánh
trách nhiệm này. Nếu con ông chết là lỗi của Chúa! “Nếu Thầy ở đây thì em con
đã không chết!”, Mácta cũng đã trách Chúa như thế (Ga 11: 21); “Chúng ta chết
đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (Mc 4: 38).
Uy quyền bất lực
Để trả lời cho mong chờ một sự kiện
phi thường mà ông xin, Chúa Giêsu trả lời: “Chính ông phải xuống! Con ông
sống!” Lời mời gọi này là nút thắt của vấn đề, là nguyên do của căn bệnh đứa
con trai viên sĩ quan cận vệ: “Đi xuống!” Viên sĩ quan xin Chúa Giêsu “xuống”
từ ngôi uy quyền cao cả để làm phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu không thể nào làm.
Người đứng “trên cao” không phải là Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu “đến không phải để
được phục vụ mà để phục vụ”, mà là viên sĩ quan cận vệ. (Mt 20: 28). Chính ông
mới là người phải đi xuống, phải bỏ địa vị ưu tiên, bởi vì các chức vị cao
sang, dù huy hoàng đến đâu cũng không mang lại sự sống và một người con, nếu nó
không nhận sự sống từ người cha thì nó không thể nào tồn tại, nó chết. Quen với
các quan hệ theo thứ trật cấp trên cấp dưới, viên sĩ quan dùng chữ “cháu nó” để
nói về đứa con của mình, một chữ có nghĩa là “đầy tớ” trong ngôn ngữ Hy lạp khi
nói đến thế thấp kém, tuần phục của người con đối với người cha. Chúa Giêsu nhắc
lại cháu nó là “con” ông, một chữ nói lên sự bình đẳng, liên kết hiệp thông
giữa cha và con.
Chúng ta sẽ hiểu câu chuyện năng
động hơn nếu chúng ta nắm rõ văn hóa thời đó, thời mà sự sống được người cha
truyền lại là chính, vì thế trong ngôn ngữ Hêbrơ, không có danh từ “cha mẹ” mà
chỉ có “cha” và “mẹ”, với các vai trò khác hẳn nhau: cha là người “sinh” ra
con, mẹ là nuôi dưỡng và “đem ra đời”, (Is 45: 10) Nguyên do căn bệnh chết của
người con là sự thiếu quan hệ với người cha. Và thánh sử nhấn mạnh đến khía
cạnh đau thương của hoàn cảnh khi nói đó là đứa con trai duy nhất của ông.
Trách nhiệm nặng của viên sĩ quan là để vai trò trong xã hội của mình cuốn hút,
vì “phẩm giá” ông hy sinh tình “phụ tử.” Và bây giò ông ý thức, dù quyền cao
chức trọng, ông cũng không cứu được con. nhưng lòng hối cải đã giúp ông: “Ông
tin vào lời Đức Giêsu nói với mình và đi xuống.” Chúa Giêsu mời gọi ông thiết
lập một quan hệ với người con đang bị bệnh, đừng chờ phép lạ từ trên cao như
“man-na từ trời” xuống để nuôi dưỡng và đem lại sự sống cho con mà chính mình
phải trở thành bánh cho những ai đang đói.
Khi mọi người hỏi Chúa Giêsu “làm
được dấu lạ nào để chúng tôi thấy để tin” (Ga 6: 30), Chúa Giêsu mời gọi họ
trước hết phải tin để sau đó trở nên dấu hiệu có thể thấy được. Thay vì chờ từ
trên cao “các điềm thiêng dấu lạ”, viên sĩ quan hiểu chính ông phải là dấu hiệu
sự sống cho con ông. Người mời Chúa “xuống” đầu tiên hiểu rằng vì mình “tự cho
mình ở trên cao” nên đã làm cho con bi bệnh, vì thế nên ông phải xuống, từ bỏ
chức vị cao quá của mình để trở thành một người bình thường. Chỉ chính lúc đó,
lúc ông đi xuống, thì thánh sử Gioan mới gọi ông là “ông”. Khi bỏ địa vị và uy
quyền, ông mới bắt đầu chuyển biến, ông không còn là viên sĩ quan mà là một
người có lòng tin “Ông tin…” và nhân vật quan trọng trở thành một người bình
thường. “Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói con ông sống
rồi.” Ông tiếp tục đi xuống, ông đứng ngang tầm với người bệnh và người này lấy
lại sự sống.
Rõ ràng bệnh của người con là sự
vắng mặt của người cha, người đáng lý phải trao truyền sự sống cho con thì
không còn nữa. Ông chỉ là một nhân vật, xa xôi, ông không thể nào trao truyền
gì ngoài cái chết. Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào, họ nói:
Hôm qua vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt. Và người cha nhớ lại đó chính là
giờ Chúa Giêsu nói: “Con ông sống.” Và ông tin, cả nhà đều tin. Không những
tình trạng người con khả quan hơn nhưng nó được lành. Bởi vì viên sĩ quan
“xuống”, trước hết là trở thành một “người”, rồi cuối cùng là “cha” truyền sự
sống cho con để người con ngang hàng với mình. Đây là lần đầu tiên trong câu
chuyện, chữ “gia đình” xuất hiện mà trước đây chữ này chưa có, bởi vì người ta
không thể dùng chữ này nơi nhà của viên sĩ quan bề thế, vì khi là sĩ quan, mọi người
phải tuân lệnh ông. Viên sĩ quan đến gặp Chúa để xin chữa lành cho con ông thì
hóa ra chính ông là người bệnh cần được chữa lành.
Ignace Trần An Huy dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét