Các Văn Kiện Cấm Đạo (1)
Lm. Mai Đức Vinh
Để viết chương sách này, chúng tôi phải tham khảo nhiều tác phẩm liên quan đến Lịch Sử Việt Nam và Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt trong những thế kỷ cấm đạo hay những triều đại vua Lê chúa Trịnh và chúa Nguyễn, triều đại nhà Tây Sơn và triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên, tác phẩm chúng tôi dùng nhiều nhất, trích dẫn nhiều nhất, vẫn là bộ sách ba cuốn của linh mục Vũ Thành, bộ DÒNG MÁU ANH HÙNG (1). Lý do, vì duy nhất chỉ nơi bộ sách này chúng tôi mới tìm ra nhiều ‘nội dung’ của các sắc lệnh hay chỉ dụ cấm đạo của vua chúa và nội dung các kiến nghị của quan triều các cấp. Và để giữ tính cách khách quan, chúng tôi chỉ nêu lên các sự kiện và bản văn có lịch sử tính còn ghi lại. Việc ‘phê bình lịch sử’ vượt khả năng của chúng tôi và ở ngoài tiêu đề của chương sách ‘Các Văn Kiện Cấm Đạo’. Vì thế, khi đề cập đến một văn kiện cấm đạo, chúng tôi trình bày đơn giản, mục đích để độc giả nắm bắt dễ dàng: trong mỗi văn kiện, chúng tôi nêu bật - ‘nội dung văn kiện cấm đạo’, - ‘nguyên nhân đặc thù thúc đẩy việc dâng kiến nghị, việc ra sắc dụ hay chỉ dụ cấm đạo’, - ‘những vụ việc nổi bật xảy ra sau việc ban hành mỗi văn kiện cấm đạo’. Với lòng biết ơn chân thành, chúng tôi mong ước các nhà sử học bổ túc cho những thiếu sót gặp thấy trong chương sách này.
I. NHỮNG VĂN KIỆN CẤM ĐẠO CỦA CHÚA TRỊNH TẠI MIỀN BẮC HAY ĐÀNG NGOÀI (3)
Theo sử gia Trần Trọng Kim, “Đầu thế kỷ XVI, vì vua nhà Lê hoang dâm vô độ, bỏ việc chính trị đổ nát, cho nên trong nước loạn lạc, nhà Mạc mượn dịp mà làm sự thoán đoạt. Nhà Lê tuy đã mất ngôi, nhưng lòng người còn tưởng nhớ đến công đức của vua Thái Tổ và vua Thánh Tông, cho nên lại phò con cháu nhà Lê trung hưng lên ở phía nam, lập ra một triều đình riêng ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An để chống nhau với nhà Mạc. Ấy là thành ra Nam Triều và Bắc Triều. Hai bên đánh nhau suốt sáu mươi năm trời. Đến khi nhà Lê có họ Trịnh giúp đỡ, dứt được nhà Trịnh, tưởng giang sơn được thống nhất như cũ. Ai ngờ, họ Trịnh và họ Nguyễn sinh lòng ghen ghét nhau, rồi mỗi họ hùng cứ một phương, chia nước ra làm hai mảnh: họ Trịnh ở xứ Bắc và họ Nguyễn ở xứ Nam. Giang sơn lại thêm một thời Nam Bắc phân tranh” (2)
Chính trong bối cảnh đó mà hạt giống Tin Mừng được gieo vào và lớn lên giữa bao nhiêu gian lao chất chứa trong những cuộc bắt đạo. Trước tiên chúng tôi nêu lên những văn kiện tức là kiến nghị, sắc lệnh trục xuất hay sắch lệnh bắt đạo trong suốt thời của chúa Trịnh tại miền Bắc.
1. Chúa Trịnh Tráng (1627-1658)
* 1629, sắc lệnh cấm đạo đầu tiên (4)
Nội dung sắc lệnh:
Rất tiếc, chúng ta không có hết bản văn của sắc lệnh, ngoại trừ đoạn sau đây: “Hoàng thượng sắc dụ cho nhân dân biết, các Tây Giang Đạo Trưởng ở trong triều trẫm không có dạy nhân dân những đạo lý sai lầm hại dân hại nước, nhưng để đề phòng điều có thể xẩy ra sau này, hoặc những âm mưu hiện đang ngấm ngầm xếp đặt mà Trẫm chưa điều tra ra, Trẫm cấm ngặt từ đây các thần dân của Trẫm không được đi lại với các Đạo Trưởng và tin theo đạo đó nữa” (DMAH 1 tr. 108).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Ghen tị của lương dân khi thấy các thừa sai, nhất là cha Đắc Lộ thu hút đông dân theo đạo.
2) Các bà vuơng phi lo cho số phận. Một bà đã sai một quan đến cảnh báo cha Đắc Lộ: “Hỡi các Tây Giang Đạo Trưởng, sao các ngươi lại đến giảng trong nước ta một đạo lý trái với tục đa thê trong nước ta? Các ngươi chỉ cho phép thần dân của ta được có một vợ một chồng khi mà ta muốn có thêm nhiều tôi trung. Từ nay, cấm các ngươi không được truyền bá đạo sai trái ấy nữa. Nếu bất tuân lệnh ta, thì các ngươi phải biết rằng mất đầu thì cái chân không thể đứng vững được, nghĩa là ta sẽ trừ diệt nguyên nhân sâu xa ra khỏi nước ta” (DMAH 1 tr.107).
3) Vì có lời vu cáo: các cha liên lạc với nhà Mạc và chúa Nguyễn ở miền Nam.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Cả bốn tháng trời các cha không dám ra khỏi nhà.
2) Năm 1629 hai cha bị trục xuất xuống miền Nam để đi về Áo Môn (Ma cao).
3) Ba tân tòng xưng đạo anh dũng: ông Phanxicô, hai thanh niên Phanxicô và Daria.
4) Năm 1630, cha Đắc Lộ bị trục xuất mang theo lá thư giáo dân miền Bắc kính đệ Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII.
5) Vì có thêm những lời vu khống của các sư sãi vào lúc mất mùa vì hạn hán, chúa Trịnh Tráng càng gia tăng việc cấm đạo, phá huỷ đền các nhà thờ, quấy nhiễu các họ đạo.
2. Chúa Trịnh Tạc (1658-1682)
* 1658, lệnh trục xuất 6 cha dòng Tên và giam lỏng 2 cha mới tới. (Rất tiếc không tìm ra bản văn)
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Vì là người sùng đạo Nho, chúa Trịnh Tạc cấm đạo Công Giáo để nâng đạo Nho lên.
2) Vì chúa muốn cấm đạo Công Giáo theo gương nước Trung Hoa và nước Nhật.
3) Vì những vu cáo: người Công Giáo bỏ bê việc cúng thần làng và thờ tổ tiên.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Sắc lệnh được thi hành đúng mức.
2) Ông Benoit làng Kiên Lao nêu cao lòng nhiệt thành sống đạo và truyền đạo.
3) Có Sao Chổi xuất hiện, cả triều đình lo sợ, chúa thu hồi lệnh cấm đạo.
* 1669, ba sắc lệnh:
Nội dung ba sắc lệnh:
- 13.5, chúa truyền cho ông trấn thủ Nam Định là Gia Thước ra công cấm đạo. – 3.6, chúa ra lệnh cho ông Gia Tai soạn sắc lệnh chống đạo Công Giáo theo những lời các quan tố cáo. – 29.6 chúa lại thúc quan Tiết Chế phải thi hành nghiêm túc sắc lệnh để nhổ tận gốc đạo Gia Tô (DMAH 1 tr.122).
Nguyên do đặc thù xui khiến:
1) Hoạn quan Cao Cát nài xin chúa Trịnh phải hành động như vua nước Nhật để nhổ tận rễ đạo Công Giáo. Bằng không người ta coi thường lệnh của chúa.
2) Hội đồng cố vấn tố cáo rằng: Đạo Hoa Lang là đạo lừa dối dân chúng, nhất là dân chúng ngu dốt.
3) Vu khống: Các đạo trưởng tụ họp dân nam nữ và làm những chuyện vô luân.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Cha Deyduer và 3 thày giảng bị bắt.
2) Nhiều đồ đạo bị tịch thu và thiêu đốt
3. Chúa Trịnh Căn (1682-1709)
* 1696, sắc lệnh cấm đạo.
Nội dung sắc lệnh:
“Đạo Hoa Lang là một thứ đạo giả dối đầy lầm lạc nghịch lại với lý lẽ, dụ dỗ dân chúng và đã bị các tiên vương nghiêm cấm nhiều lần. Trẫm lấy làm ngạc nhiên vẫn còn nhiều người, nam cũng như nữ, dễ dàng bị lôi kéo theo. Vì vậy trẫm cấm những cái xấu xa và nghịch lý sau đây: Từ rày về sau, nếu các đạo trưởng lén lút tập họp dân chúng để giảng đạo và nếu có người nào đem lòng tin theo con đường lầm lạc này, thì các quan tại kinh đô phải xem xét cẩn mật, các quan trấn thủ và các quan án tại các tỉnh phải trông chừng chu đáo trong địa hạt của mình. Nếu bắt được đạo trưởng thì phải xét xử theo luật, còn giáo dân khi bị bắt thì phải đánh đàn ông 50 roi lớn, đàn bà 50 roi nhỏ, và cắt tóc đàng sau gáy. Nhà nào chứa chấp đạo trưởng, nếu đạo trưởng là người Âu châu sẽ bị phạt nặng hơn là đạo trưởng và thày giảng Việt. Về các nhà thờ và đồ đạo phải thiêu hủy hết để tận diệt hoàn toàn giáo phái hư hỏng này. Lệnh này phải được triệt để thi hành, quan án nào chểnh mảng để cho giáo phái này còn tồn tại sẽ bị trừng phạt xứng đáng”. Ngày 10 tháng 7 năm thứ mười bảy Hoàng Đế trị vì. Sắc lệnh được niêm yết tại hoàng cung ngày 15.7 tức ngày 12.8.1696 Dương Lịch (DMAH 1 tr. 134).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Lương dân tố cáo: người Công Giáo không chịu góp tiền xây chùa hoặc cúng thần làng.
2) Các quan cấp tổng và làng tố cáo: người Công Giáo họp đông đúc cầu nguyện, nhất là khi có đám tang.
3) Lương dân tố cáo: người công gìáo đeo ảnh tượng ra bên ngoài, như để nhạo đức Phật.
4) Ngày 20.7.1696, một tàu Hòa Lan cập bến với hai cha thừa sai và nhiều kiện đồ đạo bị phát giác.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Cha sở làng Kiên Lao, một xứ lớn với 4.000 giáo dân, bị lính đến xét nhà và bắt cha với 3 hòm đồ đạo. 200 bà giáo dân cầm giao, gậy đến đánh nhau với quân lính để giải cứu cha sở và lấy lại 3 hòm đồ đạo. Tức giận, quan phủ cho 30 quân lính với đầy đủ khí giới, về làng Kiên Lao bắt lại cha sở và lấy lại 3 hòm đồ đạo.
2) Ông Emmanuel và ông Jérôme, người làng Kiên Lao bị bắt và can đảm tuyên chứng đức tin
3) 32 trưởng gia đình làng Vang Va đã cương quyết tuyên xưng đức tin. Quan trấn thủ thán phục nên chỉ đánh đòn nhẹ nhàng và bắt nộp ít tiền phạt rồi cho về.
4) Dựa vào sắc lệnh cấm đạo: các quan cố bắt nhiều giáo dân ‘để đòi tiền chuộc’, quân lính lo lục soát các gia đình Công Giáo mong ‘tịch thu vải vóc, lụa là…’, lương dân ùa theo đốt phá nhà thờ.
5) Cô Lucia 14 tuổi, can đảm tuyên xưng đức tin. Vì thế, dù còn nhỏ tuổi, cô cũng bị tra tấn đến nhừ tử. Thấy cô kiệt sức quan mới thả cho về. Về gia đình được 13 ngày, cô qua đời. Mọi người coi cô là anh hùng tử đạo.
4. Chúa Trịnh Cương (1682-1709)
* 1721, sắc lệnh cấm đạo
Nội dung sắc lệnh:
“Đạo Hoa Lang đã lạm dụng tình hữu nghị để lừa dối những người ngu dại, dụ dỗ nhiều người khác tin theo. Người nào tin theo là làm nghịch lại đạo giáo của quốc gia, nghịch lại lương tri, và hơn nữa còn muốn xóa bỏ đạo lớn. Từ trước các vị cố vấn khôn ngoan và sáng suốt đã nghiêm cấm đạo này, nhưng các người đứng đầu đã không chịu từ bỏ lại còn tăng thêm số người theo đạo nữa. Nếu chúng ta không trừ diệt, dần dần người dân sẽ theo phái giáo này, vì chưng lòng người dễ chiều theo và sợ rằng sẽ đem đến nguy hại cho quốc gia. Vì vậy cần phải chấm dứt mọi tiến triển của đạo này và chấn chỉnh trật tự chung. Vậy các tín hữu đã theo đạo phải sửa sai lầm lỗi. Nếu ở kinh thì phải nộp sách và đồ đạo tại các phường trưởng, còn ở miền quê thì nộp cho các xã trưởng để đem đốt trước mặt mọi người. Ngoài ra các tín đồ còn phải viết tờ xuất giáo từ bỏ tà đạo và trở về đường ngay trong thời hạn một tháng. Hết thời hạn, nếu bắt được người nào còn theo đạo này hoặc tàng trữ đồ đạo, thì cho phép phường trưởng, xã trưởng hay bất cứ ai được tố cáo với quan án. Sau khi đã bắt và xét xử, và nếu thấy có tội trạng thì giao nộp cho quan trấn để cắt tóc đàng sau gáy, thích bốn chữ ‘Học Hoa Lang Đạo’ vào mặt để làm gương cho các người khác còn mù quáng tin theo. Mỗi người bị kết án phải nộp tiền phạt là 100 quan tiền để thưởng công cho người cáo giác. Còn phần 3 đạo trưởng ở khu phố thuộc xứ nam thì phải trục xuất về nguyên quán, không cho phép trở lại xứ này nữa. Về phần người Bồ Đào Nha còn trốn tránh trong các xứ để giảng dạy đạo thì các quan trấn có thêm vụ lùng bắt và giải về triều đình để diệt trừ tà đạo này. Để danh chính ngôn thuận, các quan phải công bố sắc lệnh này”. Ban hành năm thứ tám triều đại Vĩnh Thịnh, ngày 22.03 (27.4 Dương Lịch) và công bố ngày 16.4 (10.5 Dương Lịch) (DMAH 1 tr.140).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến.
1) Một nhà sư pháp danh là Cháy, một trong các cố vấn thế giá của chúa Trịnh Cương, ráo riết đề nghị cấm đạo Hoa Lang để chấn hưng đạo Phật. Đây là lý do chính.
2) Sư Cháy và nhiều quan triều cho rằng đạo Hoa Lang khinh bỉ thần phật và coi thường kỷ luật nhà nước, lại mỗi ngày một phát triển.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Hai thày giảng Phêrô Hiệp và Piô Mỹ Lộc can đảm giữ đức tin, không đạp ảnh.
2) Ba thừa sai bị bắt giải về kinh: Đức Cha Bourges, Đức Cha phó Belot và thừa sai Guisain. Các ngài phải đối chất với hội đồng cố vấn về 14 câu hỏi.
3) Để trốn tránh, khỏi bị bắt, nhiều linh mục và thày giảng phải tàng hình làm người chèo thuyền, buôn bán trên sông hay làm thày lang chữa bệnh.
4) Về luật buộc ‘viết giấy xuất giáo’, thì nhiều người Công Giáo chung nhau viết một tờ khai rằng: ‘Chúng tôi không tin theo Hoa Lang nhưng chỉ thờ phượng Đức Chúa Trời mà thôi’.
5) Riêng tại địa phận Đông Ký có 304 người bị thích chữ ‘Học Hoa Lang Đạo’, 11 nhà xứ và 183 nhà thờ bị tàn phá.
6) Cha Giuse Phước quê Thanh Hóa bị kết án tù chung thân năm 1717 và đã tạ thế ngày 10.02.1732.
* 1721, sắc lệnh cấm đạo:
Nội dung sắc lệnh:
Nhân danh chúa Trịnh Cương, các quan án và năm quan hội đồng cố vấn truyền lệnh cho các trấn thủ: “Đạo Hoa Lang đã làm xáo trộn thế giới và lừa dối thần dân. Các năm trước đã ra lệnh rất nghiêm nhặt, trục xuất đạo trưởng, tháo gỡ nhà thờ và thiêu hủy ảnh tượng với mục đích trừ diệt tận gốc rễ sự dữ này ra khỏi lòng người dân. Thế nhưng thói tục mù quáng này chưa trừ được hết, vẫn còn đạo trưởng lén lút trong nước, đi khắp các tỉnh dựng nhà hội họp giảng đạo. Vì vậy, cần phải tìm mọi cách loại trừ bằng được đạo giáo nguy hiểm này. Các trấn thủ phải sai lính đi lùng các huyện và làng xem đâu có nhà hội thì phải kê khai rõ ràng, tên gia đình chứa chấp, đoạn bắt trói giải về kinh đô. Các trấn thủ cũng phải lùng xem có những người nào theo đạo này hoặc nghe biết nơi nào khác có nhà hội họp giảng đạo, đồ đạo tàng trữ, thì phải viết giấy tâu về kinh. Nếu lời khai là đúng với sự thật sẽ được trọng thưởng những đồ vật và ruộng vườn của người bị tố giác…”. Bảo Thái năm thứ hai, ngày 19.10 (8.12 Dương Lịch) (DMAH 1 tr.151).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Năm 1720, một học sinh dòng các cha Đa Minh tại Lục Thủy tên là Văn Sao bị loạn trí. Khi bị loại khỏi trường, anh tự xưng là vua Miền Bắc và xúi dân nổi loạn… Anh bị chính quyền bắt giam và điều tra. Anh tố giác 3 cha Đa Minh Tây Ban Nha là lãnh tụ phản loạn, và 4 trụ sở là sào huyệt… Vì thế, các cha phải ẩn trốn khắp nơi, người giữa đồng lúa, người trong nghĩa trang, người sau lẫm lúa…
2) Dựa vào sự kiện trên, nhà sư Cháy, bấy giờ là chủ tịch hội đồng cố vấn, vận động với chúa Trịnh Cương và họp bàn với các quan trong cung triều, ra sắc lệnh cấm đạo trên đây.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Cuộc cấm đạo năm 1722 chĩa mũi dùi vào địa phận Đông Ký thuộc các cha dòng Đa Minh.
2) Trong những cuộc càn quét họ bắt được nhiều đồ lễ và bắt giam nhiều giáo dân. Thấy các giáo dân bị tra tấn dã man, thày già Lễ đã ra mặt tự nhận đồ lễ đó là của mình quản lý. Thày xin chịu tội và xin cho giáo dân được trả về gia đình… Vì thày ‘thà chết chứ không bỏ đạo’, nên thày bị hành nhục quá lẽ và đã chết rũ tù ngày 28.1.1722, thọ 70 tuổi.
3) Cuộc tử đạo của 2 cha dòng Tên và 9 giáo dân tại miền Bắc, năm 1723. Hai cha dòng Tên là cha J.B.Messari và cha Francois Marie Bucharelli cùng ba thày Ambrosio Đào, Emmanuel Điền, và Philippe Mi bị bắt ở Quảng Yên gần biên giới Trung Hoa. Trong số giáo dân, nổi bật là cụ già Luca Thu. Cụ luôn khảng khái tuyên bố: “Tôi kính vua chúa và không bao giờ khinh khi luật quốc gia, nhưng tôi quyết tâm tôn thờ một vị Vua cao cả trên trời”. Cụ bị hành hạ suốt hai năm tù, và sau cùng bị chém đầu.
5. Chúa Trịnh Doanh (1740-1769) (5)
* 1754, sắc lệnh cấm đạo
Nội dung sắc lệnh:
“Nhân danh chúa Trịnh Doanh, Hội dồng các quan truyền lệnh cho các quan huyện như sau: Đạo Hoa Lang lầm lạc nghịch lại lý trí, mê hoặc lòng dân và còn truyền bá lan rộng đạo lý sai lầm. Các năm trước hội đồng đã gửi các sắc lệnh ngăn cấm để chặn sự xâm nhập của đạo này, nhưng vẫn còn có người tiếp tục làm hư hại người khác. Vì vậy quan trấn các phủ huyện phải bí mật điều tra. Nếu bắt được đạo trưởng thì phải giải họ về kinh, các tín hữu thì phải trừng phạt, hoặc lưu đày, hoặc tạp dịch trong các chuồng thú vật, hoặc đánh đòn. Nếu các quan chểnh mảng nhiệm vụ này sẽ bị trừng phạt, ai nhiệt thành sẽ được trọng thưởng” (DMAH 1 tr. 189-190).
Nguyên do đặc thù xui khiến:
1) Có lẽ vì thấy, từ năm 1748, có nhiều quan quân theo đạo Công Giáo, do ảnh hưởng các cha dòng Tên giỏi thiên văn, toán học, nên chúa Trịnh Doanh và hội đồng cố vấn sốt ruột, sợ hãi và sinh lòng ghét đạo.
2) Có lẽ vì thấy các làng Công Giáo công khai tụ họp, lễ lạy mỗi ngày một đông… khiến lương dân ganh tị khiếu nại lên các quan trấn và lên chính chúa Trịnh Doanh.
3) Nên ngay năm 1750 chúa Trịnh Doanh đã lặp lại các lệnh cấm đạo cũ. Và cụ thể, năm 1751, chúa không cho các thừa sai từ Macao tới được xuống khỏi tàu, đặt chân lên đất.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Nhiều nhà thờ bị phá hoặc bị bán cho dân hay thưởng cho người ‘có công tố cáo’.
2) Giáo dân không được tụ họp và buộc dựng cây nêu trước nhà.
3) Các linh mục và thày giảng phải trốn tránh.
4) Cha Đóa bị bắt với 4 người nhà, cha Cai bị bắt tại Bố Chính với bốn giáo dân, một số chủng sinh Thanh Hóa bị bắt, một cha dòng Đaminh bị bắt ở giáo phận Đông Ký.
5) Năm 1765, nhân vụ kết án một nhà sư phạm pháp và triệt hạ một số chùa chiền, chúa Trịnh Doanh lại ra lệnh cấm đạo. Vì thế ba linh mục: cha Orta dòng Tên, cha Đóa dòng Đaminh và cha Hiên bị bắt.
6. Chúa Trịnh Sâm (1767-1782).
* 1773, sắc lệnh cấm đạo
Nội dung sắc lệnh:
“Hội đồng tòa án công bố sắc lệnh của hoàng thượng cho các quan khắp nơi trong nước được biết để tuân hành. Khắp nơi tà đạo dùng lời nói lừa gạt nghịch lại với luật lệ và thói tục quốc gia nên cần phải nghiêm cấm. Tà đạo ấy là đạo Hoa Lang, giảng dạy những điều kỳ quặc và nói về các tật xấu cũng như các nhân đức làm cho người nghe cảm động vì những lời nói dối trá ấy. Những người theo tà đạo, không những hủy hoại luật lệ mà còn xúc phạm đến cả đạo lý quốc gia nữa. Từ lâu đời đã có nhiều sắc lệnh cấm đạo này. Các sắc lệnh đã truyền cho các quan trấn phải hết lòng bắt bớ các người tin theo. Không những các người mê muội tin theo mà mỗi ngày con số các tín hữu còn tăng thêm khắp mọi miền, che giấu cho nhau. Chắc chắn rằng đạo đó là một lừa dối, không thể để cho tiếp tục bành trướng thêm. Vậy các quan phải tuân theo lệnh hoàng thượng, chấn chỉnh tục lệ quốc gia và loại trừ các thói xấu. Do đó hoàng thượng ra lệnh cấm đạo này vì đó là tà đạo. Các người đã trót theo thì phải sửa lầm lỗi, mang nộp các sách đạo và thiêu hủy hoàn toàn. Các nhà hội họp và nhà thừa sai phải phá hủy. Ai bắt gặp đạo trưởng ở đâu đều được quyền bắt giữ và giao cho quan trấn tại kinh đô hoặc giao cho quan sở tại. Sau khi hội đồng tòa án xem xét tội phạm sẽ ra án. Hạn cho hai tháng để các người học đạo được thay đổi việc học. Tại các trường bất cứ ở đâu, phải nghiêm cấm việc giảng dạy đạo nói trên. Sau thời hạn hai tháng còn bắt gặp thừa sai hoặc người dạy đạo trong bất cứ nơi nào, cả những người nghe theo hay thực hành đạo, các quan sở tại và mọi người biết phải tố cáo với quan trấn thủ. Quan trấn thủ sẽ sai lính đến bắt các người đứng đầu cũng như các tín đồ để giao nộp cho tòa xét xử xứng tội phạm. Nếu quan hay xã trưởng để cho thày đạo giảng dạy trong lãnh thổ của mình mà không tố giác sẽ bị bắt giam. Người nào tố cáo sẽ được trọng thưởng. Nếu làng xã nào không ngăn cấm hoặc tố cáo hoặc có người khác tố cáo đúng sự thật thì người tố cáo được thưởng và miễn tạp dịch ba đời, làng xã bị tố cáo sẽ bị nộp thuế gấp mười lần. Nếu người tố cáo thuộc làng khác thì làng ấy được giảm thuế. Đó là cách phải đối phó với đạo Hoa Lang để uốn nắn lòng người”. Ngày 28.09 năm vua Cảnh Hưng thứ IV (14.11.1773) (DMAH 1 tr. 203-204).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Thực tế, trước năm ra sắc lệnh (1773), chúa Tịnh Sâm đã tiếp tục bắt đạo theo các vị tiền bối của ông. Bằng chứng, cha Giaxintô Castanêđa (Gia), cha Vinhsơn Lê Quang Liêm đã bị bắt và được tử đạo ngày 07.11.1773.
2) Có lẽ chúa Trịnh Sâm tức giận về cuộc tranh luận theo lời yêu cầu của bà Thượng Trâm, mẹ của hoàng tử Sáu, chú của chúa Trịnh Sâm, giữa hai cha Gia và Liêm với một nhà sư và một thày đồ nho. Cuộc tranh luận tay tư này sau thành tập sách ‘Hội Đồng Tứ Giáo Danh Sư’.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Khi sắc lệnh được công bố, các quan chia thành hai phe: Phe quan già cho rằng bắt đạo chỉ mở cơ hội rối loạn và cướp bóc thêm, phe quan trẻ bao dung, cho tự do tôn giáo.
2) Nhiều quan quân và lương dân thừa cơ hội để làm tiền.
3) Ở Nghệ An, một linh mục và hai thày giảng bị bắt và phải nộp 800 quan tiền để được trả tự do.
4) Nhiều tu viện Mến Thánh Giá bị phá và bị giải tán.
5) 42 giáo dân bị bắt và bị khắc chữ ‘Học Hoa Lang Đạo’ trên má.
6) Năm 1777, thày Đaminh Thu, 30 tuổi, bị bắt và bị xử trảm tại kinh đô.
7) Năm 1782 chúa Trịnh Sâm tạ thế và loạn Kiêu Binh phá tan sự nghiệp của dòng họ Trịnh.
II. NHỮNG VĂN KIỆN CẤM ĐẠO CỦA CHÚA NGUYỄN TẠI MIỀN NAM HAY ĐÀNG TRONG
Dưới danh nghĩa phò nhà Lê, trong suốt thế kỷ XVII, các chúa Trịnh hùng cứ miền Bắc, và chúa Nguyễn cai trị miền Nam. Theo linh mục Vũ Thành, ‘Nguyễn Hoàng (1558-1613) cũng gọi là chúa Tiên, được Trịnh Kiểm cho coi Thuận Hóa từ năm 1558, mười năm sau xin coi thêm Quảng Nam. Tại Quảng Nam ngoài Dinh Chiêm còn có hai đô thị buôn bán quan trọng là Hội An (Faifo) và Cửa Hàn (Y Turan). Hai nơi có sông thông với nhau làm thành một khu thương mại phồn thịnh. Tại Hội An có hai phố, một dành cho người Trung Hoa Minh Hương trốn nhà Thanh sang lập nghiệp, và một dành cho người Nhật trốn tránh cuộc bắt đạo ở Nhật. Mỗi khu phố có quan và tổ chức riêng theo phong tục của họ, đồng thời nộp thuế cho chính phủ.
Trong năm 1604 Nguyễn Hoàng phân chia lại các huyện trong lãnh thổ của mình như sau: “Trấn Thuận Hóa có hai phủ là Điện Bàn và Quảng Bình. Trấn Quảng Nam có ba phủ là Thăng Hoa, Quảng Nghĩa và Hoài Nhân. Các vị thừa sai thường viết Thuận Hóa là Sinoa và Quảng Nam là Cacham. Năm 1613, Nguyễn Phước Nguyên cầm quyền thay cha, rất mộ mến Phật giáo nên được gọi là chúa Sãi, bỏ lệ triều cống và tự xưng vương” (DMAH 1 tr.8-9).
1. Chúa Sãi tức Nguyễn Phúc Nguyên (1615-1635)
* 1617, lệnh trục xuất
Nội dung sắc lệnh (Tiếc là không tìm ra)
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
Năm 1617 có đại hạn hán tại Nam Việt, các thày sư coi các chùa miếu đổ tội cho cha dòng Tên là Buzomi và Pina làm các thần giận không cho mưa nữa. Họ đòi giết hai cha để tế thần, nhưng chúa Sãi mến phục hai cha, không nỡ giết mà chỉ xin ‘trục xuất tạm’ hai cha trong vòng vài năm.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Các cha công khai lên tàu để đi Macao, nhưng rồi lại lén lút trở lại và được quan phủ Qui Nhơn đón về săn sóc.
2) Để cứu vãn tình thế, Macao vội cho một tàu buôn chở nhiều hàng hóa và hai cha khác là Marquez và Borri tới. Thấy vậy, chúa sãi lại cho phép tự do giảng đạo.
* 1625, lệnh trục xuất
Nội dung sắc lệnh:
“Trước hết tất cả các cha đang ở Quảng Nam, Qui Nhơn hoặc bất cứ nơi nào, phải tập trung về Hội An và không được ra khỏi khu phố dành cho người Nhật, không được xây nhà thờ hay nhà gì khác. Cũng không ai được lấy lẽ mình là người Công Giáo để bỏ bê các lễ lạy trong làng. Còn các Kitô hữu thì không được đeo tràng hạt ở cổ hay treo trong nhà, phải tháo cất các ảnh Chuộc Tội ngoài đường vào trong nhà” (DMAH 1 tr.12).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Thấy bốn cha và ba thày làm việc hăng say và thành công, rửa tội cho nhiều người, xây nhiều nhà thờ, tổ chức và sinh hoạt quy củ, các sư sãi và một số quan lại tức tối, ghen tương… tố cáo ‘các cha dùng phép phù thủy chiêu mộ nô lệ cho Vua Bồ Đào Nha. Họ xin với quan trấn tâu với chúa trục xuất các cha ra khỏi vùng đất Mặn, nếu không Trời sẽ phạt.
2) Hai nhà sư thông thái đến xin tranh luận với các cha về việc cúng giỗ tổ tiên… Sau đó họ tố cáo rằng: Đạo Công Giáo bỏ bê việc thờ cúng tổ tiên và các tục lệ trong làng.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Sắc lệnh công bố tại trấn Quảng Nam vào tháng 12.1629, nhưng vì cha Pina ra khơi lấy đồ và bị chết đuối, nên giáo dân xin quan trấn triển hạn thi hành 100 ngày để họ lo việc an táng cha Pina thương mến của họ.
2) Hết hạn, thày Manuelô được sai đi các nơi khuyên giáo dân đem ảnh Thánh Giá vào nhà kẻo các sư sãi lại tố cáo là ‘giáo dân không tuân theo sắc lệnh’.
3) Tại Quy Nhơn họ đạo Nước Mặn, quan sở tại cấm đạo khắt khe, nên giáo dân tâu lên triều đình. Các quan đại thần cho biết: ý của chúa Sãi là cấm đeo ảnh ra ngoài áo chứ không cấm theo đạo Kitô.
4) Quan trấn thủ Phú Yên đã không công bố, không thi hành sắc lệnh, lại công khai biện hộ cho đạo Kitô nữa.
5) Nhiều quan lại, nhiều nhà trí thức đã đón nhận đức tin và nhiệt tình xây dựng Giáo Hội, trong đó có bà Minh Đức Vương Thái Phi và quan cố vấn Phaolô.
6) Vào năm 1626, con trưởng chúa Sãi chết, dân chúng cho rằng ‘đó là Trời phạt’, nên nhiều người xin trở lại.
7) Năm 1627, nhờ ảnh hưởng của bà Maria Minh Đức Vương Thái Phi và các quan lại Công Giáo, cha Buzomi đã lập một họ đạo mới và xây nhà thờ ngay tại kinh đô. Cũng năm này, cha Alexandre de Rhodes và cha Marquez đi mở giáo đoàn mới tại Bắc Việt.
* 1629, lệnh trục xuất
Nội dung của lệnh trục xuất:
Ngày 10.8.1929, một quan cao cấp Quảng Nam rất ghét đạo đã nhân danh chúa Sãi, tuyên bố trước tòa án với hai cha Buzomi và cha Borri và hai thày giảng: “Chúa thượng đã nhân từ cho các ngươi được trở lại, nhưng các ngươi nên nhớ đó là để các ngươi giúp người Bồ Đào Nha chứ không phải để giảng đạo cho người Việt. Dù có đống vàng các người cũng không được đặt chân ở lại nước này đâu. Bởi vì lòng thảo kính đối với tổ tiên và cha mẹ quý giá hơn vàng bạc, trong khi đó các ngươi lại đến hủy diệt và cấm đoán. Hơn nữa các ngươi còn phạm đến các thần thánh khiến các Ngài trừng phạt không cho mưa và dân chúng phải đói kém, dịch tễ. Các ngươi còn làm cho tín đồ khóc lóc trước một người chết ô nhục, đó là một việc man rợ và đáng khinh miệt, chứng tỏ các ngươi thích thú máu của dân ta và thích nhìn thấy dân ta bị hành hạ vì vâng lời các ngươi. Dù đúng hay không thì lễ phép của chúng ta là văn minh và thiêng liêng, còn lễ phép của các ngươi là mọi rợ, vì thế không thể chấp nhận được dù riêng tư ở nhà” (DMAH 1 tr. 15-16).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Dân lương và nhất là các quan lại ghét đạo, đã tỏ ra bất bình vì thấy người Công Giáo ‘sống đạo bên ngoài cách rầm rộ, trái lệnh của chúa Sãi’. Nhất là dịp lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh.
2) Nên từ 1628, họ đã thúc chúa Sãi trừng phạt những người còn công khai giữ đạo. Nhiều giáo dân bị hành hạ và giam tù.
3) Năm 1629, trời hạn hán và dịch tễ, các quan và các sư sãi đổ tội cho các thừa sai. Họ yêu cầu chúa Sãi trục xuất các ngài ra khỏi nước.
4) Chúa Sãi chờ đợi tàu Bồ Đào Nha chở súng đại bác tới để dùng tiến đánh chúa Trịnh. Nhưng tàu Bồ Đào Nha lại bị thương thuyền Hòa Lan cướp mất ngoài khơi.
5) Các sư sãi và quan coi vùng thương mại An Mi tố cáo và đòi chúa Sãi trục xuất các thừa sai.
Vụ việc nổi bật theo sau:
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Các thừa sai ở Quảng Nam bị bắt đưa về Hội An.
2) Các thừa sai ở Quy Nhơn bị tập trung và giam lỏng trên một đảo nhỏ, đợi tàu chở về Macao.
3) Cha Luiz, cha Fontes, thày Riberô và một số thày giảng tìm cách giả dạng trốn lại. Nhưng khi tới bờ biển Phú Yên lại bị bọn cướp tấn công. Chúng giết hai thày giảng, đánh nhừ tử những vị khác. Quan trấn Phú Yên và giáo dân đến ủy lạo các ngài.
* 1630, lệnh trục xuất
Nội dung sắc lệnh:
Một quan từ Thuận Hóa đến Cửa Hàn công bố lệnh của chúa Sãi cho các linh mục tập trung trước tòa án: “Chúng tôi người phương đông, các ông người phương tây, xa cách nhau nửa bán cầu. Các ông về nước mà rao giảng đạo thì hợp lý hơn, còn chúng tôi quyết giữ truyền thống cha ông đã truyền lại. Điều này các ông không biết hay đúng hơn không muốn biết nên bị trục xuất mà không chịu đi khỏi, ra đi ngày hôm trước hôm sau trở lại. Các ông nên biết rõ ý định của chúa Sãi là dù tầu buôn có đến hay có dâng nhiều lễ vật cao ngất như núi cũng không kiếm được một miếng đất để đặt chân” (DMAH 1 tr.17).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Tháng 1.1630 một chiếc tàu Bồ Đào Nha cập bến và được chúa Sãi tiếp đón niềm nở, nhưng có lẽ vì tàu không chở súng đại bác tới như chúa đang chờ đợi, nên chúa Sãi và các quan đổi thái độ.
2) Thêm vào đó là vì sự xúi dục của mấy nhà sư có thế lực và của quan trách nhiệm về khu vực người ngoại quốc vốn ghét đạo, chúa sãi mới chấp thuận ‘việc trục xuất các thừa sai khi tàu buôn rời cửa Hàn’.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Các thừa sai đang trốn ở Phú Yên rất thất vọng.
2) Lên tàu đi về Macao, nhưng lợi dụng lúc đêm tối hai thừa sai dùng thuyền nhỏ trở lại Việt Nam: một cha làm việc tại Quảng Nam và Quảng Nghĩa, một cha tại Qui Nhơn và Phú Yên.
3) Hai linh mục Nhật Bản trá hình ở lại giúp người Công Giáo Nhật ở Hội An.
4) Cha Buzomi bị vua Chàm bắt giam, nhưng đã đút tiền để được tự do.
* 1635, lời nói chân tình, hòa đồng và tôn trọng tự do tôn giáo của chúa Sãi:
Lời của chúa Sãi:
Với người Bồ Đào Nha: “Trẫm đã không khéo nên nghe lời các quan. Trẫm luôn là bạn của các người Bồ và vì thế cũng mộ mến Chúa của người Bồ nữa. Là bạn, các ông cũng nên kính trọng các thần của nước trẫm nữa, đừng bắt chước các thừa sai giảng lời chống lại các thần, cấm thờ kính hay dẹp bỏ các tượng thần’.
Với cha Buzomi và các thừa sai: ‘Từ đây về sau các thần dân được tự do giữ đạo nào lương tâm họ thấy là phải, đạo Thiên Chúa hoặc đạo ông bà, nhưng đạo này không được chống đạo khác. Nếu người nào vi phạm trẫm sẽ trừng phạt nặng nề. Với tự do trẫm ban cho, mọi người phải hòa thuận. Các thừa sai cứ việc đến nước của trẫm, 100 người cũng được. Trẫm quý tất cả, nhưng trên hết là cha Buzomi vì nhân đức và khôn ngoan của cha. Trẫm muốn gặp lại con người đức hạnh như thế” (DMAH 1 tr.18).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Không sử liệu nào cho biết vì sao chúa Sãi có những ‘lời dễ thương như vậy’. Hai giả thiết: có lẽ tàu Bồ Đào Nha đã chở súng đại bác tới. Có lẽ về cuối đời chúa Sãi vốn đã có bản tính tốt lành và tâm trí thông minh, nay trở nên tốt lành và hiểu biết sâu xa hơn.
2) Chúa Sãi không muốn các thừa sai, khi giảng đạo, cũng như thương gia Bồ Đào Nha trong việc tiếp xúc buôn bán, nói hay làm việc gì xúc phạm đến đạo thờ thần, kẻo lương dân và các quan buồn bực, khiếu nại đến chúa Sãi.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Nhiều tàu buôn Bồ Đào Nha cập cửa Hàn.
2) Cha Buzomi đi Macao chữa bệnh, nhưng sau được vời về.
3) Chúa Sãi cho người bồ thêm đất tại cửa hàn: họ cất nhà ở, làm nhà thờ và tự tổ chức, cai trị theo phong tục riêng của Bộ.
4) Tháng 11.1635 chúa Sãi băng hà, tướng Nguyễn Phúc Loan kế vị, ông không ưa Công Giáo bao nhiêu.
2. Thượng Vương tức Nguyễn Phúc Loan (1635-1648)
Thượng Vương tức là tướng Nguyễn Phúc Loan, cũng gọi tắt là chúa Thương, tính tình đa nghi và cứng cỏi, ít tiếp xúc với các thừa sai nên không ưa Công Giáo. Chính trong thời của ông, Giáo Hội đau khổ và đổ máu nhiều. Thực thế, ngay khi vừa lên ngôi, chúa Thượng Vương đã ra lệnh cấm đạo.
* 1635, lệnh trục xuất
Nội dung sắc lệnh:
Chúa Thượng Vương “Các thừa sai dù nhiều hay ít, tất cả đều phải rời khỏi nước và không bao giờ được trở lại. Hơn nữa các cha đã xa quê hương lâu năm rồi cần phải về thăm xứ sở’ (DMAH 1 tr. 20).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Dĩ nhiên chúa Thượng có chung những thành kiến về đạo Công Giáo như hầu hết các vua chúa và quan lại thời bấy giờ: Đạo Hoa Lang, đạo ngoại quốc, tà đạo… Đạo trái với đạo Phật, đạo Khổng, đạo thờ Tổ Tiên… Đạo ngược với tam cương, ngũ thường… Đạo làm xáo trộn trật tự xã hội vốn có… Vậy cần phải tiêu diệt tận rễ để bảo vệ ‘đạo lý truyền thống và xã tắc’.
2) Chúa không chấp nhận được khi nhìn thấy ảnh Chúa Giêsu chết trên Thánh Giá, chúa cho đó là ‘một tên nghịch tặc bị hành hạ ghê gớm’…
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Cha Đắc Lộ trở lại miền Nam và 4 lần bị trục xuất (1640-1645).
2) Thày giảng Anrê Phú Yên bị bắt và đã trở thành vị tử đạo đầu tiên tại Việt Nam (1644).
3) Tại Qui Nhơn, 36 người bị bắt, bị đe dọa và đánh đòn. Một người tuyên bố bỏ đạo còn 35 người anh dũng ‘sẵn sàng chết vì Chúa’, nhưng sau cùng quan chỉ ra lệnh đánh đòn rồi trả về.
4) Cuộc xưng đạo của hai thày giảng Inhaxiô và Vicentê. Cả hai được phúc tử đạo ngày 15.7.1645
5) Việc xưng đạo anh dũng của 6 giáo dân Quảng Bình và cuộc tử đạo can đảm của hai ông trùm Augustinô và Alexi vào ngày 04.07.1646.
3. Hiền Vương tức Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
Chúa Thượng băng hà 19.03.1648, con là Nguyễn Phúc Tần lên thay, lấy hiệu là Hiền Vương, gọi tắt là chúa Hiền. Ông là người có óc chinh phục, tính tình kiêu căng và nhiều tham vọng. Ông gây chiến với chúa Trịnh ở Bắc và chiếm đất Chiêm Thành ở miền Nam. Ông thân với người Bồ Đào Nha để mua súng ống, nhưng lại rất nghi kỵ đạo Công Giáo. Thời này, lịch sử Giáo Hội cũng ghi thêm nhiều biến cố lớn: nhiều người tử đạo, Hội Thừa sai Ba Lê chính thức làm việc tông đồ tại Việt Nam, Dòng Mến Thánh Giá được chính thức thành lập.
Chúng tôi không có được một bản văn chính thức nào về các sắc lệnh cấm đạo của chúa Hiền. Chúng tôi chỉ biết rằng:
1) Năm 1658: Vì đặt mua súng ống và hàng hóa với các tàu buôn Bồ Đào Nha, nhưng chờ đợi ba năm mà không nhận được, lại thêm những lời vu khống và tố cáo của các sư sãi và một số quan lại, chúa Hiền đã nổi giận và ra lệnh cấm đạo: ‘Cấm các bề tôi không được làm thày dạy giáo lý hay làm môn đệ của các thừa sai. Mọi người khác không được đổi đạo cũ mà theo đạo mới. Người nào còn bất tuân lệnh sẽ không được tha nữa’. Giáo dân không sợ hãi, vẫn bình tĩnh sống đạo. Chỉ ông Phêrô Nết là quản gia của bà Maria Minh Đức Thái Phi, chuyên lo dạy giáo lý, phục vụ họ đạo, thăm viếng bệnh nhân, người nghèo… đã bị bắt và bị xử tử.
2) Năm 1661: Hiền Vương thua trận chúa Trịnh Tạc và năm sau lại bị bão lớn, mất hết mùa màng. Chúa Hiền nghe sư sãi, cho rằng: ‘vì người Công Giáo bỏ bê việc thờ cúng nên các thần giận’, đã ra lệnh bắt đạo triệt để tại các trấn. Hậu quả là tại Quảng Nam 4 giáo dân, Gioan Vương, Alexi Đậu, Toma Nhuệ và Gioan Nghiêm đã anh dũng chết vì đức tin.
3) Năm 1664: Hiền Vương tiếp tục bắt đạo và ra lệnh trục xuất các thừa sai. Trong một buổi hội các quan tại triều do Hiền Vương chủ tọa, quan phò mã phát biểu: “Đạo Hoa Lang là một đạo hủy hoại quốc gia. Chúng tôi nghe nói bên Nhật, hoàng đế đã tận lực bắt đạo. Chúng ta cũng cần phải làm một lần để tận diệt. Phải trục xuất các vị thừa sai và giết những người Việt ngoan cố giảng đạo như bên Trung Hoa đã làm”. Thêm vào đó, đầu tháng 12, lại có sao chổi xuất hiện, và người ta tin ‘đó là điềm xấu, chiến tranh và dịch tễ’. Tất cả đã thúc đẩy Hiền Vương tiếp tục cấm đạo… Nhiều giáo dân bị bắt, bị hành hạ. Nhiều giáo dân can đảm tuyên xưng và chết vì đức tin, trong đó có ông trùm Michel, và quý ông Simeông, Vincentê, Gioan bị chém đầu, bà Monica và bà Aghata bị voi giày. Tất cả các thừa sai bị bắt tập trung tại Hội An đợi ngày trục xuất, nhưng sau ‘dâng tiền cho các quan’ và được ở lại.
4) Năm 1665: Hiền Vương ra lệnh cho người Nhật ở Hội An làm tờ xuất giáo. Hầu hết đã tuân theo. Quan trấn Quảng Nam cũng muốn bắt người Công Giáo Việt Nam làm tờ xuất giáo như người Nhật. Lại một lần nữa giáo dân Quảng Nam gặp nhiều khốn khó. Chính Hiền Vương ra lệnh xử tử 7 người ‘chúa cho là gan lì, cứng đầu’. Trong số 12 anh hùng tử đạo Quảng Nam trong dịp này, nổi tiếng là ba em nhỏ Raphael và Têphanô 12 tuổi, Luxia 10 tuổi và cô Gioanna 17 tuổi. Tất cả chết can đảm vì bị voi giày… Cũng năm 1665, 4 giáo dân Quảng Nghĩa đã bị đưa về Hội An xét xử và bị ‘kết án voi giày’: ông Toma Tin, Toma Nghe, Benoit và Dominicô (DMAH 1 tr. 43-65).
5) Năm 1670: Hiền vương tỏ ra cởi mở với các thừa sai Pháp. Đặc biệt chính năm 1670, Đức Cha Lambert de la Motte cùng ba thừa sai Pháp tới Việt Nam. Nhưng chúa Hiền vẫn không rút lại lệnh cấm đạo, nên có nhiều giáo dân bị bắt, bị hành hạ đến chết, trong đó có quan Dominicô Thu Hạp năm 1674 và thày giảng Gioan Kim Lau bị chặt đầu năm 1679, cả hai trường hợp không có tòa án xét xử.
4. Ngãi Vương tức Nguyễn Phúc Trần (1687-1691)
Hiền Vương tạ thế 1687. Nguyễn Phúc Trần lên kế vị lúc 39 tuổi, là người có tính khoan dung và yêu kẻ sĩ nên được tôn xưng là Ngãi Vương. Ông rất quen thân với cha Costa dòng Tên và cha Vachet thuộc hội Thừa Sai Balê. Nhưng vì nhiều sức ép, Ngãi Vương đã ra sắc lệnh cấm đạo, năm 1690:
* 1690, sắc lệnh cấm đạo
Nội dung sắc lệnh:
Trước những khiếu nại của dân và lo lắng của các quan, một hôm Ngãi Vương đã nói với các quan: “Các ngươi đừng lo lắng, đầu năm mới ta sẽ ra lệnh cấm đạo và trục xuất tất cả các thừa sai. Nếu sau lệnh cấm còn thấy linh mục nào ngoài hai cha Pierre (Langlois) và Barthelemy (Acosta) là thày thuốc ta đã cho phép, thì ta sẽ đày họ cho chết khốn nạn trong hoang đảo”. Và sắc lệnh ban hành ngày 18.01.1680 gồm những điểm sau đây:
1) Đạo Công Giáo là đạo Hoa Lang, dạy những điều dối trá và nguy hại.
2) Các quan lớn bé nếu theo đạo sẽ bị giáng chức, người dân theo đạo phải thề từ bỏ.
3) Phải tố cáo khi thấy ‘một tụ họp ba bốn người để hành đạo’. Nếu có thực, người tố cáo sẽ được thưởng.
4) Các nhà thờ phải biến thành nhà ở hay phải tháo gỡ đi (DMAH 1 tr. 67-68)
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Một người viết thư tố cáo Đức Cha Lambert de la Mothe, lúc ở Siam, là đầu mối nhiều sự lộn xộn.
2) Bốn lịch mục mới thụ phong về nước với những hòm đồ đạo mà không chịu để quan thuế khám xét.
3) Một bà Công Giáo Nhật, vì lộng quyền tại nhà thờ Hội An, đã bị các cha xua đuổi, nên đã tức giận và tố giác Labbé làm gián diệp cho chúa Trịnh ở miền Bắc.
4) Các cha dòng Tên ở kinh đô cho trình diễn một kịch khôi hài mang tên ‘Ông vua phong cùi’, xúc phạm đến nhà vua, cũng như mấy bản kịch khác chế diễu các thần phật…
5) Nhiều sĩ quan và binh sĩ trở lại đạo.
6) Nhiều quan lại, sư sãi và lương dân bực tức về những sự kiện trên đã nài xin Ngãi Vương ra lệnh cấm đạo như trên.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Mượn lệnh nhà vua, nhiều quan làm tiền giáo dân, nhiều làng lương dân xách nhiễu làng Công Giáo.
2) Nhiều gia đình Công Giáo hoảng sợ phải giấu ảnh, đổi bàn thờ Chúa ra bàn thờ ông bà, nhiều làng phải phân tán và trốn lánh… Vì trời nóng nực, hai em bé đã chết trên tay mẹ khi chạy trốn…
3) Tại Dinh Cát một giáo lý viên đã bị phơi nắng 9 ngày và nộp tiền phạt mới được thả về.
4) Tại Quảng bình, bà Martha Mạc bị treo ngược đầu xuống đất, nhưng vẫn can đảm tuyên xưng: “Các quan cứ hành hạ thêm nữa đi để tôi được chết. Tôi hài lòng vì nhờ đó tôi đến với Chúa Giêsu…”
5) Tại Mười Dinh, nhiều binh sĩ Công Giáo anh dũng tuyên xưng đức tin, nhưng chỉ bị khiển trách rồi cho về quân ngũ.
5. Minh Vương tức Nguyễn Phúc Chú (1691-1725)
Ngãi Vương nắm ngôi vừa chẵn 4 năm thì băng hà năm 1691, thọ 43 tuổi. Nguyễn Phúc Chú lên kế nghiệp lấy hiệu là Minh Vương. Ông nổi tiếng văn võ kiêm toàn, chiêu đãi nho sĩ và sùng mộ đạo Phật, chính ông đã quy y. Vì thế ông ghét đạo Công Giáo.
* 1698, lệnh triệt hạ nhà thờ
Nội dung sử liệu:
Ngay từ 1692, đã có lần Minh Vương nói với các quan đến than phiền rằng ‘tại nhà cha Langlois giáo dân tụ họp đông đảo’: “Ta sẽ chém cha Pierre Langlois ra từng mảnh xem ông ta còn giảng đạo được nữa không, và giáo dân còn chỗ nào mà tụ họp nữa không?”.
Nhưng qua năm 1698, Minh Vương mới ra lệnh nghiêm khắc “triệt hạ các nhà thờ để họ không còn nơi nào tụ họp nữa, đồng thời sẽ xử tử những giáo dân còn cố chấp vi phạm, và giáng chức những sĩ quan hay những quan chức bất tuân lệnh”. Minh Vương nói rõ “sẽ triệt hạ trước tiên hai nhà thờ ở Kinh Đô, mà trước hết là nhà thờ cha Langlois quản nhiệm”. Hai quan được Minh Vương ủy nhiệm thi hành là Hưu Cam và Ta Kang.
Ông Ta Kang dẫn 14 đội lính có khí giới đến bắt cha Langlois ra tòa và tuyên bố: “Tôi có lệnh của Minh Vương phá hủy nhà thờ của cha, thiêu các ảnh tượng, thông báo cấm mọi cuộc họp và cấm cha không bao giờ được giảng đạo cho người Việt Nam nữa. Cha đáng chết nhưng Minh Vương đã rộng lượng tha mạng sống và không phá hủy nhà của cha. Minh Vương cho phép cha giữ đạo kín đáo và tiếp tục làm nghề thuốc cứu chữa người nghèo khó và ốm yếu như cha vẫn làm từ xưa tới nay. Cha phải biết đó là đặc ân của Minh Vương và cha liệu đó mà xử sự cho khôn khéo”.
Cha Langlois khiêm tốn đáp lại: “Tôi rất biết ơn Minh Vương đã rộng lượng đối với tôi, song tôi ước ao được chịu khổ và chết vì Chúa Giêsu. Tôi nhìn nhận rằng, chính vì ước muốn rao truyền đạo chân thật mà tôi đã không nề quản những gian lao để đến Nam Việt này. Trong mọi việc, tôi không bao giờ bỏ qua việc làm cho mọi người nhận biết Chúa thật trời đất và tìm kiếm ơn rỗi linh hồn. Tôi không thể không rao giảng cho những người muốn nghe tôi. Nếu Minh Vương và các quan triều hiểu biết về đạo Kitô và những lợi ích do đạo mang lại thì tôi dám quyết các vị sẽ có thái độ khác đối với vị thừa sai giảng đạo. Các vị đã nghe biết đạo dạy người ta phải thờ phượng yêu mến Chúa tể trời đất và mọi người mọi vật, đạo cũng dạy phải vâng phục các đấng bề trên và phải hết sức làm lành lánh dữ. Từ khi tôi đến xứ này, tôi đã hoàn toàn sống theo như đạo dạy và các vị biết rõ như thế. Tôi đã tận tụy làm việc vất vả, hết lòng làm việc bác ái với mọi người không kể lớn bé sang hèn. Tôi mở rộng cửa ngày cũng như đêm cứu giúp người khác. Cho tới nay không có ai kiện cáo tôi điều gì trước mặt triều đình, trái lại họ còn ca ngợi những công việc tôi đã làm. Thế mà hôm nay tôi bị đối xử như một tên trộm cướp”.
Quan vội ngắt lời cha Langlois: “Đủ rồi, người ta không phiền trách cha về những việc tốt cha làm cho người nước Nam, người ta chỉ trách là có nhiều người đến hội họp ban đêm và cha quá hăng say làm việc cho họ trở thành Công Giáo. Minh Vương không muốn các thần dân bỏ đạo của cha ông để theo đạo cha giảng dạy. Minh Vương là chủ nước này, mọi người dân phải vâng phục”. Nói rồi ông ra lệnh cho lính rút lui và trả tự do cho cha Langlois (DMAH 1 tr. 70-73).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Minh Vương sốt ruột và tức giận vì thấy dân chúng theo đạo mỗi ngày một nhiều và hội họp đọc kinh, cử hành thánh lễ mỗi ngày một đông, nhất là vào ngày lễ Giáng Sinh và Phục Sinh.
2) Lương dân cũng đồng tình với Minh Vương về điểm trên đây. Vì thế làng Thương Lo đã làm đơn kiện và còn vu khống là dân Công Giáo đã bẻ gẫy tay Phật và ăn cắp đồ trong chùa. Minh Vương cho quan điều tra thì ‘tay phật đã gãy từ mười mấy năm về trước’ và ‘chỉ mất vài nén hương, không biết ai là thủ phạm’.
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Hầu hết các nhà thờ thuộc các tỉnh đều bị phá gỡ trong những ngày tiếp theo.
2) Ngày 2.11.1698 xảy ra một cơn bão lớn làm tốc mái cung điện, bể đổ nhiều chùa chiền và nhà ở, nhận chìm nhiều thuyền bè đánh cá… Minh Vương sợ, coi là Trời phạt, nên cho phép dựng lại các nhà thờ.
* 1700-1725, có nhiều cuộc cấm đạo, đặc biệt tại các tỉnh Kinh Đô, Hội An, Nha Trang, Nha Ru, Đồng Nai, Quảng Nam, Quảng Bình, Dinh Cát, Văn Cui.
Nhiều giáo dân bị bắt, bị giam tù. Không có lý do gì độc đáo ngoại trừ ‘lương dân và sư sãi kiện lên Minh Vương về việc dân Công Giáo tụ họp đông đảo khắp nơi’. Nhiều giáo dân anh dũng xưng đạo:
1) Năm 1700: tại kinh đô có 22 người bị bắt trong đó có 3 cha dòng Tên, Antôn Arnedo, Giuse Candone, Phêrô Belmonte; và hai thừa sai Pháp là cha Langlois và Cappony. Tại Hội An, 42 người bị bắt cùng với ba cha, là Nicolas de Fonseca, Sennemandô và Maurô. Trong số 42 giáo dân chỉ có 10 người bền vững đến cùng. Minh Vương ra lệnh: ‘những người chối đạo bị chặt ngón tay, gọt trọc đầu, đánh đòn rồi mới được trả tự do, và những người cương quyết giữ đức tin bị kết án bỏ đói cho đến chết’. Tại Nha Trang, Nha Ru và Đồng Nai, nhiều giáo dân bị bắt như ông Laurent Hanh, ông Antoine An, ông Dominique Ben, bà Agnès Bưởi, chú bé Anrê, bà Elisabeth… Họ đã anh dũng ‘không đạp ảnh’ nên bị ‘kết án bỏ đói đến chết’.
2) Năm 1713 (?): 10 giáo dân Quảng Nam, bà Nenoit, bà Anna, ông Bartheolomêô Miêu, ông bà Phêrô và Maria Thanh, ông Toma Vinh và bà Monica Sum đã can tràng ‘không đạp ảnh và tuyên xưng đức tin, chịu những trận đòn hung dữ’… và sau cùng chết vì đạo vào quãng năm 1713. Cùng năm 1713, nhiều giáo dân Quảng Bình và Dinh Cát bị bắt. Nhưng đáng chú ý nhất là sĩ quan Phaolô Kiên. Sau đây là hai sử liệu về cuộc đối đáp giữa sĩ quan với Minh Vương:
+ Minh Vương nghiêm khắc hỏi ông Kiên: “Ông cai, ta không muốn các thần dân trong toàn quốc theo đạo. Tại sao, ông đã biết lệnh mà không tuân theo? Ngươi thật đáng chết. Ngươi hãy chọn ngay bây giờ: một là bỏ đạo ngoại lai đó, hai là phải chết! ”. – Ông Kiên vững vàng thưa: “Thưa chúa thượng, thần sẵn sàng tuân lệnh trong mọi sự miễn là lương tâm thần không trách cứ. Chỉ có đạo Kitô mới bắt được thần không tuân lệnh bởi vì nếu theo lệnh chúa thượng thì thần phải bỏ đạo và làm ngược lại Chúa Trời Đất, và như thế thần đánh mất cả mạng sống, cả linh hồn. Thần theo đạo ngay từ còn bé do cha mẹ truyền dạy và đó là một ơn lạ rất đặc biệt của Chúa Trời ban cho. Thần quý trọng đạo hơn cả mạng sống để không bất xứng với hạnh phúc đời đời mà Chúa Trời thưởng cho những ai trung thành đến cùng”. Nghe vậy các quan tức giận, cho là ông Kiên phạm thượng, họ xin Minh Vương phân thây ra từng mảnh. Nhưng Minh Vương ra lệnh chém đầu ông Kiên tại quê hương ông để làm gương cho người khác.
+ Trước mặt 21 người đàn ông và 5 người đàn bà của làng Van Cui thuộc Dinh Cát bị bắt giải tới Minh Vương, Minh Vương hỏi: “Tại sao các ngươi nổi loạn không chịu vâng phục lệnh ta và chống lại đạo tổ tiên? Các ngươi không biết rằng ta đã ra lệnh cấm mọi thần dân không được theo đạo ngoại quốc đó sao? Thế mà các ngươi còn cả gan theo đạo đó, không sợ phạm tội khi quân. Hôm nay các ngươi phải công khai tuyên bố bỏ đạo hoặc nguyền rủa Giêsu hoặc phải chết”. Họ hiên ngang thưa lại: “Chúa thượng vạn tuế! Chúng tôi hiên ngang tuyên xưng rằng chúng tôi hết lòng vâng mệnh chúa công, chỉ trừ một điều về tôn giáo là chúng tôi trái lệnh. Chúng tôi thà chịu chết chứ không nguyền rủa thánh danh Chúa Giêsu là Chúa Trời Đất mà chúng tôi thờ lạy”. Nghe vậy, Minh vương tức giận, ra lệnh chém đầu tất cả. Nhưng các quan can ngăn, Minh Vương bắt đàn ông đi khổ sai chung thân, đàn bà bị đánh đòn rồi cho về. Trong số đàn ông, có 5 binh sĩ mà ông Phó là quân nhân giỏi nhất, Minh Vương muốn giữ ông lại, bèn dụ dỗ riêng ông: “Này Phó, tại sao, ngươi làm phiền lòng ta như thế? Hãy rủa thầm tên Giêsu trong lòng thôi rồi ta tha cho ngươi ở lại trong binh ngũ”. – Ông Phó anh dũng trả lời: “Thưa chúa thượng, sao chúa lại truyền lệnh quái ác như vậy? Giả sử các quan trong triều có cho tôi tất cả vàng bạc trên thế gian hoặc đe dọa tôi phải chết để bắt tôi nguyền rủa chúa công tôi cũng không bao giờ làm, bởi vì chúa công là người tôi phải tôn kính cho đến trọn đời. Lòng tôn kính của thần đối với chúa công trung kiên cho đến chết, thì làm sao thần có thể nguyền rủa Chúa Giêsu là Chúa Trời Đất, Đấng dựng nên muôn loài và nắm giữ trong tay quyền sinh sống của mọi người. Chúa công muốn làm gì thần tùy ý chúa công, nhưng thần xin chúa công đừng bắt thần phạm tội ác chống lại Đức Chúa Trời, thần sẽ chẳng bao giờ làm”. Nghe vậy, Minh Vương ra lệnh tịch thu tài sản và đày ông Phó đi khổ sai (DMAH 1 tr.70-92).
6. Ninh Vương (1725-1738)
Minh Vương tạ thế 1725 và Ninh Vương lên kế nghiệp. Ninh Vương là người có nhiều thiện cảm với đạo Công Giáo. Ban đầu còn nghe các quan xúi dục ra lệnh trục xuất các thừa sai và nghiêm phạt những người chứa chấp các ngài. Nhưng dần thay đổi ý kiến, không những không bắt đạo mà còn thanh trừng những quan đại thần nào lộng quyền chủ mưu bắt đạo Công Giáo. Mười ba năm dưới thời Ninh Vương đạo Công Giáo được bình yên. (DMAH 1 tr. 91-92).
7. Võ Vương tức Nguyễn Phước Khoát (1738-1765)
Tân vương là người thông minh, cương nghị, tham lam, tàn nhẫn, việc gì muốn làm là nhất quyết làm cho bằng được. Ông mến chuộng nghệ thuật và khoa học. Từ năm 1741, Võ Vương đã lần lượt chọn cha Jean Sieert rồi cha Koefler làm ‘thày toán học’ trong triều.
• 1750, sắc lệnh cấm đạo và trục xuất các thừa sai
Nội dung sắc lệnh:
Võ Vương trao cho ông Cai Ai Tin soạn sắc lệnh. Ngày 6.5.1750, sắc lệnh được loan báo trên toàn quốc: “Các thừa sai Âu châu đã giảng dạy một thứ đạo làm cho các tín hữu thành điên dại tin vào lời họ. Nhà vương ra lệnh cấm đạo này và không muốn các tín hữu tụ họp nữa. Các trấn thủ phải bắt các thừa sai giải về kinh đô hoặc Quảng Nam. Nhà vương cũng muốn rằng tất cả các nhà thờ phải triệt hạ, vật dụng trao cho làng sở tại để xây chùa hoặc nhà hội. Lệnh cũng truyền cho các tín hữu phải nộp các ảnh tượng, tràng hạt và sách đạo. Bắt tất cả các thày giảng đang ở các sở truyền giáo, tịch thu các tài sản của các thừa sai Âu châu, nếu có gì đáng giá thì đưa về kinh đô, còn lại phải lưu trữ cho đến khi có lệnh. Còn đất đai, theo lệnh của nhà vương, sẽ làm của chung trong làng”. (DMAH 1 tr.96)
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Cuộc cấm đạo bên Trung Hoa và tại miền Bắc Việt làm cho triều đình miền Nam nghi ngờ các thừa sai ngoại quốc. Võ Vương đã nói nhiều lần: “Hoàng đế Trung Hoa làm theo điều ông ta suy nghĩ, còn trẫm làm theo điều trẫm nghĩ”.
2) Các thương gia ngoại quốc có những hành động xấc ngược, chọc giận các quan. Như ông Le Poivre, một thương gia Pháp, vì không hài lòng trong việc điều đình, đã bắt ông Michael Khương làm con tin. Triều đình liền bắt giam 3 thừa sai cho đến khi ông Michael được trả về.
3) Triều đình bắt được nhiều thư gửi từ Macao, có thư tiếng Việt, có thư tiếng Latinh, có thư tiếng Bồ Đào Nha. Các thừa sai được mời tớì dịch các thư tiếng ngoại lại tỏ ra không chân thực, nên triều đình nghi ‘là những thư xúi dục dân chúng nổi loạn’.
4) Ngày 24.4.1750 triều đình hội lại tìm cách đối phó. Đa số các quan chọn giải pháp ‘trục xuất các thừa sai’ vì những lý do: 1- Để cho ngoại quốc lập đạo trong nước ta là điều phi lý. 2- Các thừa sai không ích lợi gì cho quốc gia. 3- Các tín hữu quá gắn bó với các thừa sai. 4- Một ngày nào giáo dân đông số, đạo mới sẽ áp đặt trên quốc gia. 5- nhà thờ được dựng lên khắp nơi, có nghĩa là các thừa sai biết được hết ngóc ngách, tất sẽ báo cáo cho ngoại quốc. Một hình thức gián điệp.
5) Người Trung Hoa sống tại miền Nam vu khống với Võ Vương là nhiều thừa sai chứa võ khí trong nhà.
6) Chung kết là Võ Vương trao cho quan Cai Ai Tin soạn sắc lệnh cấm đạo.
Vụ việc nổi bật theo sau.
1) Các quan trấn cho lính đi bắt các thừa sai tập trung về Kinh Đô và Quảng Nam. Họ đến tận nhà Đức Cha Lefèvre đọc sắc lệnh và thi hành từng điểm.
2) Nhiều quan lại và lương dân lợi dụng tình thế xách nhiễu giáo dân để làm tiền và lấy đồ đạc.
3) Tháng 8.1750, 27 thừa sai và 2 Đức Cha phải lên tàu Bồ Đào Nha về Macao.
4) Tại Nha Ru, 11 người trong đó có Đức Cha Bennetat và 5 thừa sai bị bắt, đồng thời có 12 thày giảng dạy giáo lý ở các nhà thờ cũng bị bắt. Tất cả đều bị giải nộp về Quang Nam.
5) Khoảng 200 nhà thờ bị phá gỡ, nhiều đồ đạo bị tịch thu va thiêu hủy.
6) Năm 1752 một số thừa sai và Đức Cha Bennetat trở lại với điều kiện ‘sống, nhưng không giảng đạo’. Thế nhưng, một năm sau, 1753 lại có lệnh trục xuất mới (DMAH 1 tr.93-100).
8. Thời Đinh Vương tức Nguyễn Phúc Thuần (1765-1776)
Võ Vương chết không chỉ định người kế vị. Quyền nằm hết trong tay Trương Phúc Loan. Ông này đưa công tử thứ 16 là Nguyễn Phúc Thuần lên trị vì, lấy danh hiệu là Đinh Vương. Theo Đức Cha Piguel, triều đình có 4 quan đại thần thì 3 ông có nhiều thiện cảm với đạo Công Giáo. Thế nhưng, Đinh Vương trị vì vừa được hai năm đã ra sắc lệnh cấm đạo.
* 1767, sắc lệnh cấm đạo và trục xuất các thừa sai
Nội dung sắc lệnh:
“Chúa truyền cho quan án Phan Than, chưởng cơ cai đội Dang, ký lục Phương và cai bộ Khinh soạn sắc lệnh. Từ trước việc cai trị vẫn theo đạo tự nhiên nhân bản, nhưng ít lâu nay đạo Giatô giống như giáo phái Dương Mạc dùng lời hứa hẹn và hình phạt để lừa dối lòng người, vì thế các tiên vương đã nghiêm ngặt cấm đoán mà dân chúng vẫn không chừa bỏ. Nay ta thấy cần phải lặp lại lệnh cấm đạo Kitô và tra xét các nơi để loại trừ hẳn đạo này. Hiện nay dân chúng đang trở lại đạo mới, hội họp tại các nhà thờ. Các quan phải cần mẫn điều tra trong hạt của mình, nếu có những người tụ họp và giữ đạo thì phải bắt và đem ra tòa xét xử, bắt chối đạo bằng lời nói hoặc bằng việc đạp lên ảnh tượng. Người nào còn cố chấp tin theo đạo thì phải giam tù và thông báo về triều đình để duyệt án. Người có chức tước thì phải giáng trật, thường dân thì phải lưu đày chăn voi suốt đời. Có như thế quốc gia mới hưng thịnh” (DMAH 1 tr. 101).
Nguyên nhân đặc thù xui khiến:
1) Giáo dân tụ họp dâng lễ, đọc kinh nhiều ngày trong một năm, mỗi ngày giáo dân tụ họp một thêm đông.
2) Triều đình rất sợ giáo dân ‘bùng lên’ gây xáo trộn trong nuớc.
3) Các thừa sai nhập cảnh đông và ‘giảng đạo quá công khai’
Vụ việc nổi bật theo sau:
1) Các quan đồng loạt thi hành nghiêm chỉnh sắc lệnh khiến Giáo Hội trải qua những năm chao đảo: linh mục, giáo dân trốn tránh, nhiều người đạp ảnh chối đạo, nhiều người can tràng tuyên xưng, chấp nhận đi đày, đi cắt cỏ nuôi voi…
2) Năm cha thừa sai họp nhau ở Thọ Đúc để bàn kế hoạch hoạt động. Tiếc rằng có một thày giảng bị cảnh cáo về ‘cách ăn nết ở’, đã đi báo cho quan tuần. Quan đến bắt được 2 cha, còn 3 cha khác trốn thoát.
3) Nhiều thừa sai chạy trốn qua Cao Miên.
4) Năm 1768 có vụ lộn xộn ở Hà Tiên, Đinh Vương ra lệnh thiêu hủy 4 nhà thờ và bắt tù 5 thừa sai.
5) Năm 1771, Đức Cha Piguel và cha Boiret lén tổ chức lễ Phục Sinh thật trọng thể.
http://catechesis.net/index.php/su-giao-hoi/lich-su-giao-hoi-vn/781-cac-van-kien-cam-dao-1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét