Nửa trái dưa hấu & Bài
học sâu sắc về tình nghĩa
vợ chồng
Người đã kết hôn hay chưa kết hôn đều nên xem!Vào buổi trưa một ngày nọ, tôi tan làm trở về nhà, nóng quá đến nỗi đầu chảy đầy mồ hôi, mở tủ lạnh ra xem, không ngờ bên trong có nửa quả dưa hấu mát lạnh, tôi mừng rỡ và vội lấy ra ăn một cách ngon lành.Đúng lúc này vợ tôi cũng trở về, vừa đi vào cửa nhà cô ấy vừa than thở: “Chết khát mất, nóng chết mất!”, mở tủ lạnh ra, cô ấy ngẩn cả người ra.Tôi bảo với vợ là miếng dưa hấu đó tôi ăn rồi, nét mặt cô ấy thoáng một chút không vui, vội vã cầm ly đi rót nước uống, vừa nhấc ấm nước lên, bên trong cũng không còn một giọt nào.Thế là cô ấy đột nhiên phát cáu: “Anh cũng không biết đun lấy một chút nước, về nhà lâu như thế làm gì ?” Tôi cũng giận dữ: “Sao cái gì cũng đều là tại tôi thế?” Vì chuyện này mà hai chúng tôi chiến tranh lạnh mất một tuần mới hòa giải được.Thứ bảy, tôi một mình trở về nhà bố mẹ tôi, họ vừa thấy tôi liền hỏi: “Sao một tuần nay bố mẹ không nhìn thấy vợ con rồi?” Tôi liền đem câu chuyện giận dữ kể cho họ nghe từ đầu đến cuối. Mẹ tôi nghe xong liền trách mắng tôi, làm việc không nên chỉ có nghĩ đến bản thân mình mà không để ý đến người khác.Tôi không cho là đúng: “Chỉ là ăn hết nửa quả dưa hấu thôi mà, có cái gì ghê gớm đâu.”Bố tôi vừa cười vừa nói: “Con không cần phải biện bạch cho bản thân nữa, ngày mai là chủ nhật, cả hai đứa cùng tới đây một chuyến.”Ngày hôm sau, tôi cùng vợ chở con trở lại nhà bố mẹ tôi.Vừa vào cửa, bố tôi liền sai tôi đi mua dấm chua, đợi đến lúc tôi mua trở về, bố tôi nói vợ tôi đã đưa con ra ngoài rồi, nói xong bố tôi liền bê ra một nửa quả dưa hấu đưa cho tôi rồi nói: “Nhìn con nóng quá đầu chảy đầy mồ hôi rồi, mau ăn miếng dưa hấu giải khát đi.”Nửa trái dưa hấu cũng chừng bốn năm cân, ông đưa cho tôi một cái thìa: “Ăn không hết thì để phần thừa còn lại cho vợ con về ăn”, tôi cầm lấy cái thìa rồi ăn lấy ăn để, ăn chưa đến một nửa, bụng đã căng lên rồi.Lúc cả nhà ăn cơm, bố tôi mang ra hai miếng dưa hấu đặt lên bàn rồi nói với tôi: “Con xem xem chúng có gì khác nhau?”Tôi rất bối rối, cẩn thận nhìn đi nhìn lại, một nửa là tôi vừa mới ăn, một nửa còn lại cũng là đã được ăn, nhìn một lúc lâu, cũng nhìn không ra kết quả gì, đành phải lắc đầu.Bố tôi chỉ vào miếng dưa hấu nói: “Một nửa này là con ăn, còn nửa kia là vợ con ăn, bố đều nói cho hai đứa là, “nếu như ăn không hết, thì để phần thừa còn lại cho người kia ăn”. Con nhìn vợ con ăn như thế nào? Là dùng thìa xúc từ bên cạnh rồi vào phía bên trong, ăn hết một nửa, nửa còn lại để nguyên không động tới. Nhìn miếng của con xem, bắt đầu xúc từ chính giữa, ăn hết phần thịt ở chính giữa, để phần bên cạnh cho người khác ăn, người nào mà chẳng biết phần thịt ở chính giữa ngọt chứ? Từ việc nhỏ này mà xét thì thấy vợ của con có tấm lòng hơn con nhiều.”Mặt tôi bỗng nhiên đỏ lên.Bố tôi nói ý tứ sâu xa: “Cả một đời của hai người, liệu có thể có bao nhiêu việc to tát? Tình cảm vợ chồng thể hiện ở chỗ nào? Là thể hiện ở một giọt dầu, một thìa cơm, một thìa canh trong cuộc sống hàng ngày. Lần trước con vì việc ăn dứa hấu mà cãi nhau với vợ, lại còn bao biện hót như khướu, điều đó rõ ràng là con không đúng. Nếu như đổi lại là vợ con về nhà trước, nhất định nó sẽ để phần cho con một nửa. Đừng xem đây là việc nhỏ, nó có thể phản ánh ra tấm lòng của một người, bên trong miếng dưa chứa đựng một bài học lớn về cách ứng xử trong gia đình, khi trái tim đã nguội lạnh, con phải từng chút từng chút sưởi ấm cho nó, mỗi ngày đều luôn nhớ ủ ấm cho nó. Ngược lại khi trái tim đang ấm áp, con từng muỗng từng muỗng nước lạnh đổ vào nó thì một ngày nào đó nhất định sẽ khiến nó nguội lạnh.”“Con thử suy ngẫm xem, nếu như vợ con cũng giống như con, làm mọi việc đều không nghĩ đến con nữa, lâu dần, con sẽ thấy thế nào?”Thực sự là một câu nói thức tỉnh một người trong mộng như tôi, tôi bỗng nhiên phát hiện ra rằng, thường ngày khi trở về nhà, đôi dép được để gọn gàng, nước trà đã để sẵn trên bàn, chiếc ô được để sẵn ngoài cửa ra vào khi trời mưa, đó đều là thể hiện tình cảm yêu thương của vợ tôi, nhưng còn tôi thì sao, lại cứ tùy tiện, coi như không nhìn thấy, không hiểu được những điều đó mà còn suy bụng ta ra bụng người.Nghĩ ra những điều đó, tôi hổ thẹn vô cùng, tôi vội vàng bưng sủi cảo đã lạnh ra đưa cho vợ: “Cái này không còn nóng nữa rồi, em ăn trước đi!”Vợ tôi cười: “Anh chỉ giả bộ một chút trước mặt bố mẹ thôi.”Bố tôi cũng cười: “Có thể hạ quyết tâm đóng giả như thế cả đời thì là người chồng tốt rồi.”Tình yêu thương phải được thể hiện qua lại giữa đôi bên với nhau, hãy cảm thông với một nửa của bạn, đừng cho rằng mọi chuyện là họ cố tình gây sự với mình, mà hãy suy ngẫm tìm sai sót của bản thân mình.Hạnh phúc không phải là ở trong một căn nhà lớn bao nhiêu mà là bên trong căn nhà có bao nhiêu tiếng cười hạnh phúc.Hạnh phúc không phải là lái một chiếc xe rất sang trọng, mà là người lái xe có thể bình an trở về nhà.Hạnh phúc không phải là yêu một người vô cùng xinh đẹp, mà là yêu một người có vẻ mặt cười sáng lạng.Hạnh phúc không phải là nghe được bao nhiêu lời nói ngọt ngào, mà là lúc tổn thương có thể có người nói với bạn rằng: “Không sao cả, có anh ở đây rồi.” ...... " Bên em còn có anh ".--Lê Quang Thọ
Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015
Nửa trái dưa hấu
Nửa trái dưa hấu & Bài học sâu sắc về tình nghĩa vợ chồng
Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015
Trong Sạch và Ô Uế: Truyền Thống Của Người Phàm và Điều Răn của Thiên Chúa
Trong Sạch và Ô Uế: Truyền Thống Của Người Phàm và Điều Răn của Thiên Chúa
(Máccô 7,1-8.14-15.21-23 – CN XXII TN – B)
Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, và nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài.
1.- Ngữ cảnh
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (7,1-8);
2) Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (7,14-15.21-23).
3.- Vài điểm chú giải
– tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa (2): Giới Pharisêu và kinh sư trách các môn đệ của Đức Giêsu không chịu tuân theo các tập tục truyền thống Do Thái về thanh tẩy. Vậy đây không phải là quan điểm vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự lê-vít (Lv 11–15; x. thêm 19,23-25; 20,7; Đnl 14,3-21; 19; 5,1-4). Lời giải thích của Mc (“nghĩa là chưa rửa”) chứng tỏ ngài viết cho một khối độc giả không quen với những tập tục này. Các câu 3-4 là một giải thích trong ngoặc đơn, cũng vì lý do này.
Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, ta thấy: người ta không thể đụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được chạm đến một tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế; vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen ố về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời sống thông thường (R. de Vaux). Chính khái niệm về “ô uế” và “thánh thiêng” cũng có vai trò trong việc phân biệt Do Thái với các “dân nước” (lương dân). Đây không phải là những khái niệm lý thuyết rút từ Lề Luật, nhưng là những khái niệm diễn tả một kinh nghiệm sống: bình diện của cái “trong sạch” chính là những lãnh vực của sự sống (tượng trưng bằng phượng tự), còn lãnh vực của cái “ô uế” là lãnh vực của sự chết (được tượng trưng bằng các nền phượng tự ngoại quốc).
– rửa tay cẩn thận (3): Từ “cẩn thận” được diễn dịch từ từ ngữ Hy Lạp pygmê (“nắm tay”). Zerw. & Grosv. ghi chú là: ý nghĩa không rõ; dịch sát là: “với nắm tay” [Bản dịch Weymouth: “carefully, diligently” (cẩn thận, chu đáo); BJ: “jusqu’au coude” (tới tận cùi chỏ); NAB: “carefully”; TOB: “soigneusement”; NJBC không dịch nhưng ghi chú: có thể đây là một kiểu nói La-tinh dựa trên pugnus / pugillus là “handful; một nắm, nhúm, bốc, vốc, nghĩa là “với mọt vốc”. Tác giả Mc đang mô tả khối nước được dùng trong nghi thức rửa tay của người Do Thái]. Như vậy, “rửa cẩn thận” có nghĩa là rửa đúng quy cách, theo đúng nghi thức.
– truyền thống của tiền nhân (3): Các “tiền nhân” là các vị tôn sư của Israel kể từ Môsê tại núi Sinai cho đến hôm nay. Tác giả giải thích cho các độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại biết lối thực hành luật trong sạch của người Do Thái bằng cách nêu ra một vài ví dụ chọn lọc. Tuy nhiên, khẳng định rằng mọi người Do Thái đều giữ các quy tắc về trong sạch thì không đúng về mặt lịch sử. Trong thực tế, chỉ người Pharisêu mới đặc biệt bám vào đó, dân thường không quan tâm lắm, còn phái Xađốc đã đả kích việc chuyển các tập tục của hàng tư tế vào đời sống tôn giáo của dân chúng. Thật ra, người Pharisêu đang tìm cách áp dụng luật trong sạch theo nghi thức mà các tư tế trong Cựu Ước phải giữ, cho mọi người Israel, để toàn thể Israel trở thành dân tư tế.
– rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (4): Một vài nhà chú giải cho rằng giọng văn của Mc ở đây có vẻ châm biếm. Nhiều thủ bản thêm “và giường” vào danh mục (x. Lv 15); ở đây, tình cờ chi tiết này bị quên, hay đã bị cố tình bỏ đi vì nghe không thuận.
– đạo đức giả (6): Nghĩa chữ của từ hypokritês là “một diễn viên”, “người đeo một mặt nạ”.
– Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng: Câu trích Is 29,13 này được lấy từ Bản LXX, chứ không từ bản Híp-ri, nhưng cũng có những khác biệt. Có thể Mc (hoặc truyền thống của ngài) đã sử dụng một bản dịch Hy Lạp khác.
– Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa … (8): Lời Đức Giêsu nói đây minh hoạ những gì được hàm chứa trong câu trích. Hẳn là người Pharisêu và các kinh sư sẽ cực lực phản đối lời kết án này, bởi vì chính họ đang thấy là họ có công trong công việc làm cho những giáo huấn không rõ ràng trong Lề Luật trở thành thực tiễn và cụ thể!
– Không có gì từ bên ngoài … (15): Đức Giêsu đã nói theo kiểu một mâshâl, chứ không phải là một tuyên ngôn. Người không chọn đứng về phía “bên trong” để chống lại phía “bên ngoài”, Người không trực diện đối lập với luật của Cựu Ước. Người mời con người đi ra khỏi tình trạng tồi tệ của họ, không phải nhờ những nỗ lực trí tuệ, mà là bằng một sự hoán cải tận căn. Bằng câu nói này, Đức Giêsu khẳng định con người có một tự do phi thường. Như vậy, con người phải có ý thức về trách nhiệm của mình trước mặt Thiên Chúa và loài người.
– những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp… (22): Danh mục này kể ra 12 tật xấu và tội lỗi. Trong phần Tân Ước còn lại, cũng có những danh mục như thế (x. Gl 5,19-21; Rm 1,29-31; 1 Pr 4,3). Trong danh mục Mc, có những từ ngữ tương tự với các danh mục Phaolô. “Thể văn danh mục” là thể văn quen thuộc trong thế giới hy-la và cũng có xuất hiện trong thế giới Do Thái giáo (x. 1 QS 4,9-11).
– Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong … (23): Câu này tóm tắt sứ điệp của phần thứ hai.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8)
Vấn đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên Chúa?
Đức Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm (c. 8). Tất cả lối cư xử của chúng ta đều được quy định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.
* Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)
Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi gian tà phát xuất từ trái tim gian tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con người là có được một trái tim trong sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với Ngài. Khi kể ra những ý hướng xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người (7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải thoát khỏi điều gì để nên trong sạch, tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt 5,8). Các điều được kể ra (tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm theo Mười Điều Răn, cùng với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó (tham lam, ganh tị, xảo trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể nói là một bài bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.
+ Kết luận
Ngày hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các Kitô hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống của loài người, bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, và nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài. Cần phải tức khắc, ngay hôm nay, ngay tại vị trí này, lắng nghe lại các lề luật của Thiên Chúa và đưa ra thực hành.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, chúng ta cũng có thể bị Đức Giêsu trách: chúng ta tự đặt ra cho mình những luật lệ loài người, những luật lệ được tính ích kỷ tạo ra hoặc những luật lệ chúng ta áp đặt cho mình từ bên ngoài. Chúng ta thường để mình đi theo những gì được coi là đáng chuộng, là cần thiết, là tân thời, là hiện đại. Thế giới hiện đại với chủ trương duy vật và khai thác xu hướng tiêu thụ có thể khiến chúng ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa, là đường lối duy nhất bảo đảm cho chúng ta được sống muôn đời.
2. Đối với chúng ta, điều quan trọng là ở trong tương quan đúng đắn với Thiên Chúa: sự trong sạch đích thực hệ tại điều này. Nẻo đường duy nhất giúp ta đạt tới đó là sống không phải theo những quy tắc của loài người, nhưng theo ý muốn của Thiên Chúa. Và như thế có nghĩa là giữ điều răn bên ngoài mà thôi thì không đủ; chính trái tim con người phải quy hướng về thánh ý Thiên Chúa.
3. Cũng nên ý thức về tính đòi hỏi, bó buộc, của các điều răn của Thiên Chúa, vì các điều răn không bảo: Nếu ngươi muốn, ngươi có thể làm điều này điều nọ, nhưng bảo: Ngươi phải làm, ngươi không được làm. Chúng ta nghe Đức Giêsu nhắc lại các điều răn của Thiên Chúa, chúng ta đọc các điều răn ấy ra trên môi miệng, nhưng chúng ta có đưa các điều ấy đi vào trái tim chúng ta chăng?
4. Nếu chúng ta đầy lòng biết ơn Thiên Chúa, chúng ta sẽ luôn tha thiết ca ngợi Ngài, và cũng biết dành chỗ cho người anh chị em cũng như biết đối xử với họ với lòng yêu mến. Chúng ta đi lễ, chúng ta chúc bình an cho nhau, chúng ta nhận Mình thánh Chúa Kitô làm lương thực, chúng tat ham dự biết bao cuộc cử hành, thế nhưng khi gặp trên đường những người mà chúng ta đã ngồi bên cạnh, chúng ta đã bắt tay, có khi đã chia sẻ một chuyến hành hương, chúng ta giả bộ không quen biết họ! Vì vội chạy theo công việc làm ăn của thế giới tiêu thụ? Vì những con người ấy có thể làm nặng lòng chúng ta với những vấn đề của họ, nên cũng là có thể làm cho chúng ta mất những khoản lợi nhuận nào đó mà chúng ta đang theo đuổi? Thế thì chúng ta đặt Luật Thiên Chúa ở chỗ nào trong đời sống chúng ta?
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
Kinhthanhvn.org
VUI HỌC THÁNH KINH THÁNH GIOAN KIM KHẨU
VUI HỌC THÁNH KINH
THÁNH GIOAN KIM KHẨU
Giám mục, tiến sĩ
Ngày 13 tháng 9
Tin Mừng thánh Mátthêu 5,13-16
Tin Mừng
Muối cho
đời và ánh sáng cho trần gian (Mc 9:50; Lc 14:34-35)
13
"Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó
cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta
chà đạp thôi.
14
"Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài
nào che giấu được.15 Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng
đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.16 Cũng vậy, ánh sáng của
anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp
anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
13 "You are the salt of
the earth. But if salt loses its taste, with what can it be seasoned? It is no
longer good for anything but to be thrown out and trampled underfoot.
14 You are the light of the world. A city set on a mountain cannot
be hidden.
15 Nor do they light a lamp and then put it under a bushel basket;
it is set on a lampstand, where it gives light to all in the house.
16 Just so, your light must shine before others, that they may see
your good deeds and glorify your heavenly Father.
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
của hình này là gì?
………………………………………………….
* Bạn
hãy viết câu Tin mừng Mátthêu 5,14a
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. Đức Giêsu nói anh em là gì cho
đời? (Mt 5,13)
a. Men
b. Muối
c. Ánh
sáng
d. Sự an
ủi
a2. Nếu muối trở thành vô dụng, thì
làm gì? (Mt 5,13)
a. Làm
đường đi
b. Để
xây tường
c. Làm
phân bón cho cây
d. Quăng
ra ngoài cho người ta chà đạp
a3. Đức Giêsu nói anh em là ánh
sáng cho ai? (Mt 5,14)
a. Trần
gian
b. Con
người
c. Mọi
người
d. Những
người tin Chúa
a4. Người ta thắp đèn rồi đặt ở đâu
để đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà? (Mt 5,15)
a. Trên
đế
b. Sau
bức vách
c. Dưới
đáy thùng
d. Trong
phòng kín
a5. Khi nhìn thấy những việc tốt
đẹp của anh em làm, người ta tôn vinh ai? (Mt 5,16)
a. Cha
của anh em, Đấng ngự trên trời
b. Thiên
Chúa của anh em
c. Anh
em là người công chính
d. Đấng
giải thoát anh em
B.
b1. Thánh Gioan Kim Khẩu sinh năm
334 tại nước nào?
a. Nước
Thổ Nhĩ Kỳ
b. Nước
Syria
c. Nước
Ai cập
d. Nước
Ba Tư
b2. Thánh Gioan Kim Khẩu được mẹ
ngài truyền đạt cho những điều gì?
a. Một
đức ái nhân hậu,
b. Một
đức tin sắt đá
c. Một
lòng hy sinh hào hiệp
d. Cả a,
b và c đúng
b3. Năm 397, Thánh Gioan Kim Khẩu
được bầu làm giám mục, thánh nhân lưu tâm nghiên cứu về thánh Phaolô tông đồ,
cải tổ hàng giáo sĩ, thiết lập một số qui chế để thánh hóa bản thân, hủy bỏ tận
căn mọi tập tục xa xỉ gây tốn phí tiền bạc, của cải, vật chất. Ngài chống đối
kịch liệt các bè rối Ariô, Novatio vv. Ngài được chọn làm giám mục thành nào?
a. Thành
Constantinople
b. Thành
Rôma
c. Thành
Côrinthô
d. Thành
Antiôkia
b4. Năm 403, Thánh Gioan Kim Khẩu lên tiếng phản đối nữ hoàng đã chiếm đoạt tài
sản của bà góa thành Callitrope nên bị nữ hoàng kết án lưu đày. Nữ hoàng này
tên là gì?
a. Nữ
Hoàng Êlisabét I
b. Nữ
Hoàng Bát Seba
c. Nữ
Hoàng Étte
d. Nữ
hoàng Eudoxie
b5. Thánh Gioan Kim Khẩu qua đời vào
ngày 14/7/407, Chúa thưởng công Ngài bằng vô số phép lạ sau khi Ngài chết. Ðức
Thánh cha Piô X đã nâng Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh và đặt Ngài làm bổn mạng
cho những ai?
a. Những
nhà giảng thuyết.
b. Những
nhà truyền giáo
c. Các
nhà thần học
d. Các
cha giải tội
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Đức Giêsu nói: “Anh em là ánh
sáng cho ai? (Mt 5,14)
02. Ánh sáng của anh em phải chiếu
giải trước mặt ai? (Mt 5,16)
03. Đức Giêsu nói anh em là gì cho
trần gian? (Mt 5,14)
04. "Chính anh em là muối cho
đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì làm cho nó cho mặn lại? (Mt 5,13)
05. Anh em là gì cho đời? (Mt 5,13)
06. Ai đã nói: “Anh em là muối cho
đời, là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,1-16)(Mt 5,1-16)
07. Đèn được thắp đặt trên đế là
đèn để làm gì cho mọi người trong nhà? (Mt 5,15)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì ?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
“Chính
anh em là ánh sáng cho trần gian.”
Tin Mừng thánh Mátthêu 5,14a
VUI HỌC THÁNH KINH
THÁNH GIOAN KIM KHẨU
Giám mục, tiến sĩ
Ngày 13 tháng 9
Tin Mừng thánh Mátthêu 5,13-16
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
:
Thánh
Gioan Kim Khẩu
* Tin
mừng thánh Mátthêu 5,14a :
“Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”.
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1. b. Muối (Mt 5,13)
a2. d. Quăng ra ngoài
cho người ta chà đạp (Mt 5,13)
a3. a. Trần gian (Mt 5,14)
a4. a. Trên đế (Mt 5,15)
a5. a. Cha của anh em, Đấng ngự trên trời
(Mt
5,16)
B.
b1. a. Nước Thổ Nhĩ Kỳ
b2. d. Cả a, b và c đúng
b3. a. Thành Constantinople
b4. d. Nữ hoàng Eudoxie
b5. a. Những nhà giảng thuyết.
III. Ô CHỮ
01. Trần gian (Mt 5,14)
02. Thiên hạ (Mt 5,16)
03. Ánh sáng (Mt 5,14)
04. Muối (Mt 5,13)
05. Muối (Mt 5,13)
06. Đức Giêsu (Mt 5,1-16)
07. Soi chiếu (Mt 5,15)
Hàng dọc : Giám Mục
GB. NGUYỄN
THÁI HÙNG
THÁNH GIOAN KIM KHẨU,
Giám mục,tiến sĩ Hội Thánh
(Saint John
Chrysostom)
Ngày 13/9/2002
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Mỗi vị
thánh đều mang Chúa Kitô trong mình và một cách nào đó các Ngài luôn chóng vánh
giới thiệu Ðức Kitô cho người khác. Thánh là để Chúa phủ lấp toàn bộ con người
mình, để Chúa chiếu sáng xuyên suốt từng ngõ ngách, từng đường tơ,kẽ tóc.Thánh
là họa lại chính Chúa Kitô càng rõ nét bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu,đúng như
lời sách khởi nguyên viết:"Họalại hình ảnh của Thiên Chúa". Thánh
Gioan kim khẩu là một trong muôn vàn vị thánh đã trở nên giống Chúa Kitô.
GIOAN
KIM KHẨU LÀ AI ?
Thánh
nhân sinh tại nước Thổ nhĩ Kỳ vào năm 334 tại Antiokia. Người ta gọi Ngài là
Gioan thành Antiokia. Ngài được mệnh danh là Kim Khẩu: Chrysostome .Miệng
tuôn
toàn những lời quí như vàng.Thánh nhân có tài hùng biện và trí khôn ngoan minh
mẫn hiếm có. Gioan thành Antiokia ngay từ khi còn nhỏ đã được mẹ Ngài giáo dục
với một lòng nhân ái bao la,truyền đạt cho Ngài một đức tin sắt đá và lòng hy
sinh hào hiệp.Năm 373,thánh nhân được tuyển vào chức đọc sách,nhưng tài lợi
khẩu,hoạt bát của Ngài đã làm say mê bao người,từ đó danh tiếng Ngài vang dội
khắp nơi.
ÐỜI
CON NGƯỜI LÀ DO CHÚA
Vì
danh tiếng lẫy lừng nổi bật do lòng đạo đức thánh thiện và tài hùng biện có sức
thuyết phục nhiều người trở về với chúa,người ta nhất loạt tôn thánh nhân lên
chức giám mục,nhưng Ngài khiêm tốn khước từ và chỉ thích ẩn mình,ăn chay,cầu
nguyện.Ý Chúa lạ lùng không ai hiểu thấu,sau bốn năm sống khắc khổ,Ngài lâm
bệnh dạ dầy nặng,buộc Ngài phải trở về Antiokia. Năm 386, thánh nhân lãnh nhận
sứ vụ linh mục và trong cương vị linh mục,suốt 12 năm, thánh nhân đã làm say mê
dân thành Antiokia nhờ lòng sốt sắng, tài ăn nói thuyết phục,miệng tuôn những
lời quí như vàng và đưa rất nhiều người quay về với Chúa do lời giảng dậy của
Ngài.Thánh nhân đả phá những cổ tục mê tín,cuộc sống hào phóng,xa hoa, trụy lạc
của những người giầu và kêu gọi mọi người lưu tâm đến những người nghèo.Chính
thánh nhân nêu gương sáng sống nghèo và giúp đỡ người nghèo.Năm 397,Ngài được
bầu làm giám mục thành Constantinople, thánh nhân lưu tâm nghiên cứu về thánh
Phaolô tông đồ,cải tổ hàng giáo sĩ,thiết lập một số qui chế để thánh hóa bản
thân,hủy bỏ tận căn mọi tập tục xa xỉ gây tốn phí tiền bạc, của cải,vật chất.
Ngài chống đối kịch liệt các bè rối Ariô, Novatio vv.
CHÚA
THƯỞNG CÔNG CHO THÁNH NHÂN
Năm
403, Ngài bị Nữ hoàng Eudoxie kết án lưu đày vì thánh nhân dám lên tiếng phản
đối Eudoxie đã chiếm đoạt tài sản của một bà goá ở Callitrope.Thánh nhân đã
phải chịu biết bao nhiêu đau khổ,cay đắng,chông gai và thử thách vì Chúa. Mọi
người sẽ mãi mãi thán phục lòng bác ái ,tài giảng thuyết và các sách vở giá trị
Ngài đã để lại cho hậu thế.
Cuộc
đời của Ngài có thể ví như một bông hoa đẹp giữa những bông hoa khác muôn
mầu,muôn hương . Bông hoa thơm là chính Ngài bị cầm tù,bị tra khảo,đánh
đập,nhưng hương thơm mãi mãi tỏa ra thơm ngát làm say mê mọi người.
Thánh
nhân qua đời vào ngày 14/7/407, Chúa thưởng công Ngài bằng vô số phép lạ sau
khi Ngài chết. Ðức Thánh cha Piô X đã nâng Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh và
đặt Ngài làm bổn mạng của những nhà giảng thuyết.
Lạy
thánh Gioan Kim Khẩu,xin ban cho chúng con biết dùng miệng lưỡi để ca tụng và
cảm tạ tri ân Thiên Chúa.
Xin
cho chúng con lòng can đảm dám nói lên sự thật,dù sự thật làm người khác mất
lòng.
Xin
ban cho mọi người Kitô hữu biết sống khó nghèo như Chúa.
http://www.simonhoadalat.com/suyniem/saints/Thang9/GioanKimKhau.htm
VUI HỌC THÁNH KINH DANH THÁNH ĐỨC MARIA 12 tháng 9
VUI HỌC THÁNH KINH
DANH THÁNH ĐỨC MARIA
12 tháng 9
Tin Mừng thánh Luca 1, 26-38
Ngày 12 tháng 9
TIN MỪNG
26 Bà
Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến
một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét,27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với
một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ
thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức
Chúa ở cùng bà."29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy
có nghĩa gì.
30 Sứ
thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.31
Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người
sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ
ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.33 Người sẽ trị vì nhà
Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
34 Bà
Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết
đến việc vợ chồng! "
35 Sứ
thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ
rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa.36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu
mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai
được sáu tháng.37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm
được."
38 Bấy
giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho
tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
26 In the sixth month, the
angel Gabriel was sent from God to a town of Galilee called Nazareth,27 to a
virgin betrothed to a man named Joseph, of the house of David, and the virgin's
name was Mary.
28 And coming to her, he said, "Hail, favored one! The Lord
is with you."
29 But she was greatly troubled at what was said and pondered
what sort of greeting this might be.
30 Then the angel said to her, "Do not be afraid, Mary, for
you have found favor with God.
31 Behold, you will conceive in your womb and bear a son, and you
shall name him Jesus.
32 He will be great and will be called Son of the Most High, and the Lord God will give him the throne of
David his father,33 and he will rule over the house of Jacob forever, and of
his kingdom there will be no end."
34 But Mary said to the angel, "How can this be, since I
have no relations with a man?" 35 And the angel said to her in reply,
"The holy Spirit will come upon you, and the power of the Most High will
overshadow you. Therefore the child to be born will be called holy, the Son of
God.
36 And behold, Elizabeth, your relative, has also conceived a son in her old age, and this is the sixth
month for her who was called barren;37 for nothing will be impossible for
God."
38 Mary said, "Behold, I am the handmaid of the Lord. May it
be done to me according to your word." Then the angel departed from her.
I. HÌNH TÔ MÀU
* Chủ đề
của hình này là gì?
………………………………………………
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng thánh Luca 1,38
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
………………………………………………
II. TRẮC NGHIỆM
a1.
Sứ thần truyền tin cho Đức Maria tên là gì? (Lc 1, 26)
a. Sứ thần Gaprien.
b. Sứ thần Micaen.
c. Sứ thần Raphaen.
a2.
Người thiếu nữ được truyền tin tên là gì? (Lc 1,27)
a. Cô Gioanna.
b. Cô Maria.
c. Cô Êlisabét.
d. Cô Anna.
a3.
Trinh nữ Maria cư ngụ nơi thành nào? (Lc 1,27)
a. Thành Giêrusalem.
b. Thành Nadarét.
c. Thành Caphácnaum.
d. Thành Samaria.
a4.
Hôn phu của Đức Maria thuộc dòng dõi của vua nào? (Lc 1,27)
a. Vua Salem.
b. Vua Đavít.
c. Vua Hêrôđê.
d. Vua Pharaô.
a5. "Vâng, tôi đây là nữ tỳ
của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." (Lc 1,38)
a. Cô Mácta.
b. Cô Maria.
c. Cô Êlisabét.
d. Cô Anna.
B.
b1. Thánh Danh Maria có những ý nghĩa:
a. “Biển".
b. “Bà Chúa", “Lệnh Bà”
c. "Lộng lẫy diễm lệ","làm sáng
tỏ"
d. Cả a, b và c đúng
b2. Maria nghĩa hay nhất là "làm sáng
tỏ" vì Mẹ là gì?
a. Bức gương trong, phản chiếu ánh sáng hằng hữu
b. Trung
gian ánh sáng ơn thánh,
c. Rạng đông và là mỹ nữ lồng bóng mặt trời.
d. Cả a, b và c đúng
b3. Anh Chị hãy viết lại Bảy lời của Đức Maria
nói trong cuộc đời Chúa Giêsu :
1. (Lc 1,34).
2. (Lc 1,38).
3. (Lc 1,38).
4. (Lc 1,46-55).
5. (Lc 2,48).
6. (Ga 2,3).
7. (Ga 2,5).
b4. Đức
Giáo Hoàng Innocentê XI nào đã cho phổ biến Lễ kính thánh danh Maria trên khắp
cùng thế giới năm 1683?
a. Đức
Giáo Hoàng Innocentê XI
b. Đức
Giáo Hoàng Lêô XIII
c. Đức
Giáo Hoàng Grêgôriô X
d. Đức
Giáo Hoàng Piô V
b5. Đức Giáo Hoàng đã cho phổ biến này trên khắp
cùng thế giới năm 1683 để cảm tạ tri ân Đức Mẹ, kỷ niệm biến cố gì?
a. vua Ba Lan John
Soboeski đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ vây hãm thành Viênna và đe dọa các nước Tây
Phương.
b. Công Đồng Êphêsô khẳng định tước hiệu: Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa
c.Cuộc
chiến thắng quân Thổ tại vịnh Lê-pan-tô.
d. Biến cố thánh nữ He len tìm được cây thập tự mà Chúa Giêsu bị
đóng đinh.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01.
Tổ tiên của Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua nào? (Lc 1, 32)
02. Đức Maria xưng mình là gì của Chúa ? (Lc
1,38)
03. Sứ thần nói Đức Maria đẹp lòng ai ? (Lc 1,30)
04.
Trinh nữ tại thành Nadarét được sứ thần truyền tin tên là gì? (Lc 1, 27)
05. Thiên Chúa sẽ ban cho Người cái gì của vua Đavít, tổ tiên Người? (Lc 1,32)
06.
Khi nghe sứ thần chào, trinh nữ Maria có thái độ thế nào? (Lc 1, 29)
07. Trinh nữ Maria sẽ sinh hạ 1 con trai, và đứa
trẻ được đặt tên là gì? (Lc 1,31) (Lc 1,31).
08. Người sẽ trị vì nhà ai đến muôn đời? (Lc 1,33)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
V. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Vâng,
tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa
cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói."
Tin Mừng
thánh Luca 1,38
Lời giải
đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
DANH THÁNH ĐỨC 12 tháng 9
Tin Mừng thánh Luca 1, 26-38
Ngày 12 tháng 9
I. HÌNH
TÔ MÀU
* Chủ đề :
Đức
Maria
* Tin
Mừng thánh Luca 1,38
"Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói."
II. Lời
giải đáp trắc nghiệm
A.
a1.
a. Sứ thần Gaprien (Lc 1, 26)
a2.
b. Cô Maria (Lc 1,27)
a3.
b. Thành Nadarét (Lc 1,27)
a4.
b. Vua Đavít (Lc 1,27)
a5. b. Cô Maria (Lc 1,38)
B.
b1.
d. Cả a, b và c đúng
b2. d. Cả
a, b và c đúng
b3. Bảy
lời của đức Maria nói trong cuộc đời Chúa Giêsu :
1. Mẹ quyết
tâm giữ lời khấn trọn đời đồng trinh: "Điều đó xảy đến thế nào được, vì
tôi không biết đến người nam" (Lc 1,34).
2. Mẹ sốt
sắng nhiệt thành phục vụ Chúa: "Này tôi là tôi tớ Chúa" (Lc 1,38).
3. Mẹ trung
thành vâng phục thánh ý Chúa: "Tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền" (Lc
1,38).
4. Mẹ hoan
hỉ chúc tụng Chúa: Linh hồn ngợi khen sự cao cả của Chúa (Lc 1,46-55).
5. Mẹ tỏ ra
mẫu quyền của Mẹ với Chúa Giêsu: "Hỡi Con, sao Con làm như thế? Con thấy
Cha con và Mẹ phải đau khổ tìm Con?" (Lc 2,48).
6. Mẹ yêu
thương thông cảm những nỗi khó khăn người khác: "Họ hết rượu rồi" (Ga
2,3).
7. Mẹ vững
tin quyền phép Chúa: "Người bảo sao, các anh cứ làm như vậy" (Ga
2,5).
b4. a. Đức Giáo Hoàng Innocentê XI
b5. a. vua
Ba Lan John Soboeski đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ vây hãm thành Viênna và đe dọa
các nước Tây Phương.
III. Ô
CHỮ
01.
Đavít (Lc 1,32).
02. Nữ tỳ
(Lc 1,38)
03. Thiên
Chúa (Lc 1,30)
04. Maria
(Lc 1,27).
05. Ngai vàng (Lc 1,32)
06. Bối
rối (Lc 1,29).
07. Giêsu (Lc 1,31).
08. Giacóp (Lc 1,33)
Hàng dọc : Đức Maria
Thánh
Danh Đức Maria 12-9
LỄ
THÁNH DANH ĐỨC MẸ
L.m.
Phêrô, CMC
I. THÁNH DANH MARIA
Thánh Danh Maria theo tiếng Do Thái trong
Cựu ước là Myriam, tiếng Aram là Maryam, tiếng Hy Lạp dịch Cựu ước là Mariam,
tiếng Hy Lạp dịch Tân ước là Maria, tiếng Anh là Mary, tiếng Pháp là Marie,
tiếng Latinh là Maria.
Trong Thánh kinh có tám người mang tên như
Thánh Danh Đức Mẹ:
1. Chị ông Maisen thường gọi là Miriam (Xh
15:20-21; Ds 12:1-10);
2. Một phụ nữ con gái của Ezra (1 Sb 4:17);
3. Maria Mađalêna, người phụ nữ được trừ
khỏi bảy quỉ (Lc 8:2);
4. Maria chị Lagiarô và em của Martha (Lc
10:38-42);
5. Maria mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan (Mc
15:40-47);
6. Maria vợ ông Clopas (Ga 19:25) có lẽ là
mẹ của Thánh Giacôbê và Gioan;
7. Maria mẹ của Thánh Marcô tác giả Phúc âm
II (Cv 12:12);
8. Maria là một Kitô hữu ở Rôma mà Thánh
Phaolô gửi lời chào (Rm 16:6).
II. Ý NGHĨA THÁNH DANH MARIA
Thánh Danh Maria có những ý nghĩa:
1. Theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Do Thái có nghĩa là
"biển". Do đó, Thánh Bênađô gọi Đức Mẹ là "Sao biển". Giáo
hội có Thánh thi "Ave Maris Stella".
2. Cũng theo Thánh Giêrônimô, Maria tiếng Aram là "Marta = Bà
Chúa". Tiếng Latinh là Domina, tiếng Ý là Madona, tiếng Pháp là
Notre Dame, tiếng Anh là Our Lady.
3. Maria tiếng Ai Cập là "mari"
nghĩa là được yêu, là "mara" nghĩa là phương phi, hợp với vẻ thẩm mỹ
của Á Đông là "lộng lẫy diễm lệ".
4. Maria tiếng Ugarit là "mrym"
nghĩa là cao sang, uy nghi, tuyệt vời.
5. Theo nhà Thánh Mẫu học Scheeben, Maria tiếng Do Thái là Miryam
biến thành myrrha maris, stilla maris, stella maris.
6. Maria nghĩa hay nhất là "làm sáng tỏ" vì Mẹ là bức
gương trong, phản chiếu ánh sáng hằng hữu, là trung gian ánh sáng ơn thánh, là
rạng đông và là mỹ nữ lồng bóng mặt trời.
7. Maria có nghĩa Tân Evà đem lại ơn Cứu rỗi, tương phản với Evà
đem lại ác hoạ.
III. CÁC NHÂN ĐỨC CỦA MẸ MARIA
Mẹ Maria có 12 nhân đức, đó là:
1) Ba nhân đức đối thần: Tin, Cậy, Mến.
2) Bốn nhân đức trụ: Khôn ngoan, Công bằng,
Đại đảm, Tiết độ.
3) Ba nhân đức theo lời khuyên Phúc âm:
Thanh khiết, Khó nghèo, Tuân phục.
4) Hai nhân đức theo gương Chúa Giêsu: Hiền
từ và Khiêm nhượng.
IV. BẢY LỜI ĐỨC MẸ NÓI TRONG CUỘC ĐỜI CHÚA
GIÊSU
1. Mẹ quyết tâm giữ lời khấn trọn đời đồng
trinh: "Điều đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người
nam" (Lc 1:34).
2. Mẹ sốt sắng nhiệt thành phục vụ Chúa:
"Này tôi là tôi tớ Chúa" (Lc 1:38).
3. Mẹ trung thành vâng phục thánh ý Chúa:
"Tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền" (Lc 1:38).
4. Mẹ hoan hỉ chúc tụng Chúa: Linh hồn ngợi
khen sự cao cả của Chúa (Lc 1:46-55).
5. Mẹ tỏ ra mẫu quyền của Mẹ với Chúa Giêsu:
"Hỡi Con, sao Con làm như thế? Con thấy Cha con và Mẹ phải đau khổ tìm
Con?" (Lc 2:48).
6. Mẹ yêu thương thông cảm những nỗi khó
khăn người khác: "Họ hết rượu rồi" (Ga 2:3).
7. Mẹ vững tin quyền phép Chúa: "Người
bảo sao, các anh cứ làm như vậy" (Ga 2:5).
V. BẢY NIỀM VUI CỦA MẸ
Thánh Tôma Canterbury có thói quen đọc bảy
kinh Kính mừng kính bảy niềm vui của Mẹ Maria là:
1. Thiên sứ truyền tin cho Mẹ;
2. Mẹ đi thăm viếng Thánh Êlizabeth;
3. Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu tại Bêlem;
4. Các đạo sĩ đến thờ lạy Ấu Chúa Giêsu;
5. Mẹ tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thánh;
6. Mẹ biết Chúa Giêsu sống lại;
7. Ngày Mẹ hồn xác lên trời.
Nhưng một hôm, Mẹ hiện ra với Thánh Tôma Canterbury mà nói: Hỡi
Tôma, lòng sùng kính của con rất đẹp lòng Mẹ, nhưng tại sao con chỉ nghĩ đến
những niềm vui Mẹ đã cảm nghiệm ở dưới đất? Vậy con hãy tưởng nhớ những niềm
vui của Mẹ ở trên trời nữa.
_ Nhưng làm sao mà con biết được?
_ Con cũng đọc bảy kinh Kính mừng kính nhớ bảy niềm vui của Mẹ ở
trên trời:
1. Vinh quang của Mẹ vượt trên vinh quang của tất
cả các Thánh;
2. Ánh sáng của Mẹ chói chang, soi sáng các tầng trời;
3. Mẹ là Nữ Vương Thiên đàng;
4. Lời cầu xin của Mẹ luôn được Chúa nhấp nhận;
5. Thiên Chúa ban thưởng những ai sùng kính Mẹ;
6. Mẹ Maria được gần nhất Chúa Ba Ngôi;
7. Niềm vui Thiên đàng của Mẹ cho đến muôn thuở
muôn đời.
VI. NIÊN SỬ CUỘC ĐỜI ĐỨC MẸ
Niên sử cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn dựa theo niên sử cuộc đời Chúa
Giêsu Con của Mẹ:
Trước Chúa giáng sinh
- Năm 23/20 Sinh nhật Đức Mẹ, ái nữ của Thánh Gioakim và Thánh
Anna.
- Năm 20/17 Đức Mẹ dâng mình vào đền thờ.
- Năm 11/8 Đức Mẹ đính hôn với Thánh Giuse (Mt 1:16; Lc 1:27).
- Năm 7 Thiên sứ Gabrie truyền tin cho Đức Mẹ (Lc 1:26-38).
Đức Mẹ mang thai Chúa Giêsu (Mt 1:18-25).
Đức Mẹ đi viếng thăm bà Thánh Êlizabeth (Lc 1:39-56).
- Năm 7/6 Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu tại Bêlem (Lc 2:1-9).
Đức Mẹ đưa Chúa Giêsu chịu phép cắt bì (Lc 2:21).
Đức Mẹ lên đền tịnh tẩy và dâng Con (Lc 2:22-24).
Cụ già Simeon nói tiên tri về Chúa Giêsu và Mẹ (Lc 2:25-35).
Cụ bà Anna nói tiên tri về Chúa Giêsu (Lc 2:36-38).
- Năm 6/4 Ba vua đến thờ lạy Ấu Chúa (Mt 2:1-11).
Đức Mẹ và Thánh Giuse đem Con trốn sang Ai Cập (Mt 2:13-14).
- Năm 4 (?) Đức Mẹ và Thánh Giuse đem Con trở về Nagiarét (Mt
2:19-23).
Sau Chúa giáng sinh
- Năm 6 Đức Mẹ và Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu trong đền thờ
(Lc 2:41-50).
Đức Mẹ và Thánh Giuse sống với Chúa Giêsu tại Nagiarét (Lc 2:51).
- Năm 27/28 Mẹ với Chúa Giêsu đi dự tiệc cưới Cana
(Ga 2:1-11).
- Năm 30 Mẹ Maria trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu (Mt
12:46-50; Mc 3:31-35; Lc 8:19-21; Ga 2:12-13).
Chúa Giêsu gián tiếp ca ngợi đức tin của Mẹ (Lc 11:27-28).
- Năm 30 Mẹ Maria dưới chân thánh giá trên đồi Canvê (Ga
19:25-27).
Mẹ Maria và các tông đồ tại nhà Tiệc ly (Cv 1:14).
Mẹ Maria lên trời với Chúa Giêsu Con của Mẹ.
VII. NHỮNG BIỂU TƯỢNG ĐỨC MẸ
1. Rượu; hương dầu thơm (Dc 1:1-3).
2. Lều trại Kedar; trướng gấm của Salem (Dc 1:5).
3. Mặt trời; vườn nho (Dc 1:6).
4. Cam tùng toả mùi thơm nức (Dc
1:12).
5. Hoa thuỷ tiên cánh đồng Saron; hoa huệ thung lũng sâu (Dc
2:1).
6. Bồ câu nơi kẽ đá (Dc 2:14).
7. Cột khói ngát trầm hương (Dc 3:6).
8. Mắt bồ câu (Dc 4:1).
9. Tháp lầu Đavid (Dc 4:4).
10. Mật ong nhỏ giọt (Dc 4:11).
11. Cột bạch ngọc (Dc 5:15).
12. Đoàn quân dàn trận (Dc 6:10).
13. Rạng đông; mặt trăng; mặt trời (Dc 6:10).
14. Môi miệng Đấng Tối Cao (Hc 24:3).
15. Cột mây (Hc 24:4).
16. Ánh sáng không mờ phai (Hc 29:6).
17. Vòm trời; vực sâu (Hc 24:8).
18. Cây trắc diệp trên núi Hermon (Hc 24:13).
19. Cây cảm lãm trong cánh đồng; cây tiêu huyền
bên bờ nước (Hc 24:14).
20. Cây quế và dầu thơm ngát (Hc 24:15).
21. Xạ hương man mác (Hc 24:15).
22. Hòm bia Thiên Chúa (Xh 25: 10-16).
23. Hoa hường mầu nhiệm (Dc 2:1).
24. Vườn địa đường (St 2:8-14).
25. Tàu Noe (St 6:14-16).
26. Đền thờ Salomon (1V 6:1-37).
27. Chiếc thang Giacóp (St 28:12).
VIII. BẢY PHỤ NỮ TIỀN ẢNH ĐỨC MẸ
Theo các Giáo phụ, những phụ nữ sau đây trong Cựu ước là những
tiền ảnh Đức Mẹ:
1. Bà Sara vợ của tổ phụ Abraham, son sẻ và đã cao niên mà được
Chúa cho hạ sinh một con trai là Isaac, trưởng tộc một đoàn dân đông đảo (St
21:7-8). Mẹ Maria sinh hạ một cách lạ lùng Chúa Giêsu là trưởng tử một đoàn em
đông đúc.
2. Bà Rakel có một sắc đẹp dịu hiền khiến cho Giacóp sẵn lòng làm
rể ông Laban mười bốn năm để cưới làm vợ (St 29:17). Sắc đẹp tâm hồn Mẹ Maria
khiến Thiên Chúa tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Con của Người nhập thể Cứu thế.
3. Bà Miriam là chị ông Maisen. Bà đã cứu em
khỏi bàn tay sát hại của vua Pharaon, Ai Cập, đã được đặc ân nói tiên tri, là
một trong những phụ nữ đầu tiên qua biển đỏ khô chân, đã cất tiếng ca ngợi cám
ơn Chúa (Xh 15:20). Mẹ Maria đã cộng tác với Con Mẹ cứu nhân loại khỏi tội lỗi
và tử thần.
4. Bà Deborah, dưới thời quan án của Israel,
đã hạ sát Sisơra, đứng cản địch quân Canaan (Tl 4:4). Mẹ Maria đã chiến thắng
Satan địch thù của dân thánh Chúa.
5. Bà Giuđitha vừa có sắc đẹp vừa có sức
mạnh tinh thần. Bà đã hạ sát Holoferne, hùng tướng của Philitinh, để cứu dân
thành Bethulia. Toàn dân ca tụng bà: "Bà là vinh quang của Giuđêa, là niềm
vui của Israel, là niềm hãnh diện của dân tộc chúng tôi" (Gđt 15:9). Mẹ
Maria đã vinh thắng trên Satan và đạp nát đầu nó, và đem lại vinh dự cho Thiên
Chúa, hân hoan cho Thiên Đàng, và niềm hãnh diện cho toàn thể dân Chúa chọn.
6. Bà Esther là hoàng hậu của vua Assuerô
nước Ba tư, đã cứu dân Israel khỏi nạn diệt vong (Et 2:17). Mẹ Maria là Nữ
Hoàng đã cứu dân thánh Chúa khỏi nạn đoạ trầm.
7. Tân Evà. Bà Evà đã làm cho loài người
phải sa đoạ, thì Mẹ Maria là Tân Evà đã làm cho loài người được phục hồi (Thánh
Giustinô).
IX. NHỮNG TƯỚC HIỆU MẸ MARIA
1. Trạng Sư cùng với Chúa Giêsu là Trạng Sư
để bầu chữa cho loài người trước toà Chúa Cha. Tước hiệu này được Giáo hội dùng
từ thời Trung cổ trong kinh Lạy Nữ Vương và các văn kiện của Thánh Bênađô.
2. Đấng Đồng Công. Các Đức Giáo hoàng Lêô
XIII, Piô X, Piô XI, Piô XII và Công đồng Vatican II đã minh chứng Mẹ Maria đã
đặc biệt đồng công cộng tác với Chúa Kitô trong công trình Cứu chuộc loài
người. Riêng Đức Piô XI đã trực tiếp gọi Mẹ là Đấng Đồng Công (Coredemptrix).
3. Mẹ rất thánh. Mẹ là Mẹ toàn thể loài
người vì Mẹ sinh ra Chúa Kitô là đầu, mà mọi tín hữu là chi thể của Nhiệm Thể
Chúa Kitô, nên Giáo hội gọi Maria là Mẹ rất thánh của Chúa và của loài người.
4. Nữ tử Sion. Tiên tri Isaia và Mica gọi
thành Giêrusalem là "con gái Sion". Tiên tri Giêrêmia gọi "con
gái Sion" là dân thành Giêrusalem, ám chỉ toàn dân thánh Chúa. Trong sách
Khải huyền, đoạn 12, Mẹ Maria được ám chỉ là "con gái Sion" sinh ra
một dân tộc mới mà Đầu là Con Trai chiến thắng Satan.
5. Gương mẫu. Công đồng Vatican II gọi Mẹ
Maria là gương mẫu tuyệt vời và hiếm có, là mẫu mực của Giáo hội về đức tin,
đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô (LG, 63).
6. Nữ tỳ của Chúa. Chính Mẹ Maria đã xưng
mình là "nữ tỳ" của Chúa khi thiên sứ truyền tin cho Mẹ (x. Lc 1:38),
và Mẹ đã tự phát trong Ca Ngợi khen: "Chúa đã đoái nhìn thân phận thấp hèn
tôi tớ của Người" (Lc 1:48).
7. Đấng phù hộ các giáo hữu. Đức Piô V thêm
vào kinh cầu Đức Bà câu: "Đức Bà phù hộ các giáo hữu" năm 1571 để cám
tạ Mẹ đã giúp đạo binh Công giáo chiến thắng quân Hồi giáo ở vịnh Lepante, và
để kỷ niệm Mẹ dẹp tan bè rối Albigensê nhờ kinh Mân côi hồi thế kỷ XII. Năm
1815, Đức Piô VII lập lễ Đức Mẹ phù hộ. Đức Mẹ phù hộ cũng là bổn mạng dòng
Salêdiên, của Úc châu và Tân Tây Lan.
8. Đấng Vô nhiễm. Mẹ Maria đã được đặc ân
đầu thai vô nhiễm nguyên tội mà Đức Piô IX đã định tín năm 1854. Và Mẹ đã hiện
ra tại Lộ Đức năm 1858 với Thánh Bernađetta và xưng mình là "Đấng Vô nhiễm
thai".
9. Đấng Trung gian. Tước hiệu Mẹ trung gian
đã được dùng bên Đông phương thế kỷ VI và bên Tây phương thế kỷ IX. Từ thế kỷ
XVII tước hiệu này được dùng khắp nơi trong Giáo hội. Mẹ trung gian vì Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa được đầy ơn đứng giữa Thiên Chúa và loài người; vì Mẹ cộng tác với
Chúa Kitô để giao hoà loài người với Thiên Chúa, và vì Mẹ là Đấng ban phát mọi
ơn lành cho con cái Mẹ.
10. Mẹ Thiên Chúa. Đầu tiên Thánh Hippolitô
đã tuyên đọc Mẹ Maria là "Mẹ Thiên Chúa". Năm 431 Công đồng Êphêsô
tuyên tín Mẹ là "Mẹ Thiên Chúa" để luận án bè rối Nestoriô. Mẹ Maria
sinh ra Chúa Giêsu. Mà Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Do đó, Mẹ Maria là Mẹ Thiên
Chúa.
11. Mẹ Giáo hội. Công đồng Vatican II dạy:
Giáo hội Công giáo dâng lên Mẹ Maria tình con thảo như đối với người Mẹ rất dấu
yêu (LG, 53). Năm 1964, Đức Phaolô VI tuyên ngôn: Mẹ Maria là "Mẹ của Giáo
hội". Năm 1980, câu "Mẹ Maria là Mẹ Giáo hội" được thêm vào kinh
cầu Đức Bà.
12. Mẹ thương xót. Tước hiệu Mẹ thương xót
đã có từ thế kỷ III. Nhiều vị Thánh đã kêu cầu Mẹ thương xót. Thánh Đamianô,
Thánh Bênađô, và Thánh Anphong kêu cầu Mẹ thương xót bằng kinh Lạy Nữ Vương. Mẹ
hiện ra với Thánh Brigitta và nói: "Mẹ là Nữ Vương Thiên đàng, là Mẹ
thương xót. Mẹ là niềm vui cho người công chính, là cửa cho tội nhân đến cùng
Chúa. Không có người tội lỗi nào mà vô phúc ở ngoài tình thương xót của Mẹ.
Không có người nào bị Chúa ruồng bỏ đến nỗi không trở về với Người và được
Người thương xót nếu họ kêu xin Mẹ hộ giúp. Mọi người đều gọi Mẹ là Mẹ thương
xót. Lòng thương xót của Con Mẹ đối với loài người cũng làm cho Mẹ thương xót.
Mẹ cảm thương mọi người và tha thiết cứu giúp các tội nhân".
13. Nữ Vương hoà bình. Năm 1917, khi thế
giới bị Đệ nhất Thế chiến tàn phá, Đức Bênêđictô XV thêm vào kinh cầu Đức Bà
câu "Nữ Vương ban sự bình an". Mẹ khuyên nhủ con cái Mẹ hãy thực thi
công bình và bác ái để họ được bình an trong Chúa Kitô.
14. Toà khôn ngoan. Tước hiệu Mẹ là Toà khôn
ngoan có từ thời các Thánh Giáo phụ như Thánh Au-gustinô. Mẹ là ngai toà khôn
ngoan, là đền thờ Đấng Khôn Ngoan, vì Mẹ hằng suy niệm trong lòng những mầu
nhiệm của Chúa Giêsu Con Mẹ (Lc 2:19, 51).
15. Mẹ hằng cứu giúp. Mẹ Maria là Mẹ đầy
lòng từ bi thương xót, hằng bênh vực chở che cứu giúp mọi người trong những nỗi
gian nan cơ khổ. Từ thế kỷ III, người ta đã kêu cầu Mẹ cứu giúp với kinh
"Chúng con chạy đến cùng Mẹ". Đức Lêô XIII đã giải thích rõ ràng. Và
Dòng Chúa Cứu Thế chuyên rao giảng về Đức Mẹ hằng cứu giúp.
X. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Giáo hội Tây Ban Nha đi tiên phong trong
việc mừng lễ Thánh Danh Maria, và được Toà thánh phê chuẩn năm 1513. Đức
Innocentê XI truyền dạy mừng lễ này khắp Giáo hội năm 1683 để cảm tạ Mẹ trợ phù
Gioan Sobieski, vua Balan, chiến thắng quân Hồi Thổ Nhĩ Kỳ tại Vienna, và được
mừng ngày 12 tháng 9, sau lễ Sinh nhật Đức Mẹ bốn ngày, cũng là ngày chiến
thắng Vienna.
Lễ Thánh Danh Mẹ chỉ là lễ thường, nên đã bị
bãi bỏ năm 1970, nhưng năm 1975 được hồi phục là một lễ Votiva (ngoại lịch).
XI. LỜI CÁC THÁNH
- Thánh Êphrem: Danh Thánh Maria là chìa
khoá mở cửa Thiên đàng.
- Thánh Ambrôsiô: Lạy Maria, Thánh Danh Mẹ
là một thuốc dầu quí giá toả hương ơn Thánh Chúa. Xin Mẹ cho thuốc dầu Cứu rỗi
vào tận thẳm cung trong linh hồn chúng con.
- Thánh Phêrô Kim ngôn: Danh Thánh Maria
biểu lộ đức Trinh khiết.
- Thánh Isiđôrô Sévilla: Maria có nghĩa là
Ánh sáng, vì bởi Mẹ sinh ra Chúa Kitô là Ánh sáng thế gian.
- Thánh Germanô: Lạy Mẹ Thiên Chúa, ước chi
Thánh Danh Mẹ là tiếng sau cùng phát ra từ môi miệng con.
- Như hơi thở không những là một dấu hiệu,
mà còn là căn do của sự sống, Danh Thánh Maria luôn trên môi miệng những tôi tớ
Thiên Chúa, chứng tỏ rằng họ thực sự sống động, đồng thời phát sinh và gìn giữ
sự sống của họ và cứu giúp họ mọi lúc.
- Thánh Mêthôđiô: Lạy Mẹ Thiên Chúa, Thánh
Danh Mẹ tràn đầy ơn thánh và phúc lành của Thiên Chúa.
- Thánh Antôn: Danh Thánh Maria là niềm vui
trong cõi lòng, là mật ngọt trong miệng, là âm điệu vui tai của những tôi tớ
Mẹ.
- Thánh Bônaventura: Lạy Mẹ Maria, Thánh
Danh Mẹ huy hoàng tuyệt diệu, vì những người kêu tên Mẹ lúc chết không phải sợ
mọi quyền lực của hoả ngục. Người ta không sợ đạo binh thù địch hùng mạnh như
những quyền lực hoả ngục sợ Danh Thánh Mẹ và sự che chở của Mẹ.
- Như sáp tan chảy trước lửa, ma quỉ mất
ngụy lực đối với những linh hồn tưởng nhớ và sốt sắng kêu cầu Thánh Danh Mẹ.
- Danh Thánh này ngọt ngào rất xứng với một
Trinh Nữ thánh thiện dịu dàng, vì Maria có nghĩa là Biển đắng, là Sao biển, là
Đấng sáng soi. Maria được hiểu là Bà Chúa. Maria là Biển đắng cho ma quỉ, là
Sao biển cho người đời, là Đấng sáng soi cho các thiên thần, là Bà Chúa mọi thụ
tạo.
- Thánh Tôma: Maria có nghĩa là Sao biển, vì
như thuỷ thủ được sao biển hướng dẫn vào hải cảng, các Kitô hữu tới vinh quang
nhờ sự cầu bầu Hiền Mẫu của Mẹ Maria.
- Chân phúc Henri Susô, C.P.: Khi đọc tên Mẹ
Maria, tôi cảm thấy bừng lên tình mến và niềm vui đến nỗi trong nước mắt sung
sướng tôi đọc tên cao đẹp này, tôi cảm thấy tim tôi như thoát ra khỏi ngực, vì
tên dịu ngọt này giống như tảng mật ong tan ra trong chiều sâu thẳng của linh
hồn tôi.
- Thánh Bênađinô: Lạy Đức Nữ Trinh vinh
hiển, xin Mẹ cho con sức mạnh, tài năng và lợi khẩu để con loan truyền vinh
quang của Thánh Danh Mẹ cho giáo dân và con cái của Mẹ.
- Thánh Antôninô: Thánh Danh Maria là niềm
vui cho tim con, là mật ong cho môi miệng con, là nhạc điệu cho tai con.
- Thánh Tôma Kempi: Quỉ dữ khiếp sợ Nữ Vương
thiên đàng đến độ khi nghe tên Mẹ, chúng trốn chạy như bị lửa hồng.
- Thánh Canisiô: Sau tên rất thánh và rất
đáng kính của Chúa Giêsu, không có tên nào vinh hiển và quyền năng hơn tên Mẹ
Maria. Khi nói đến tên này, các thiên thần vui mừng, các quỉ dữ run giùng. Kêu
xin tên này, các tội nhân được ơn phúc và ơn tha thứ.
- Thánh Lêonarđô Fort Maurice: Thường tên
ngọt ngào Mẹ Maria đọc trên môi, bạn phải hình dung một kỳ công của quyền năng
Thiên Chúa, rất tuyệt hảo và tuyệt vời đến nỗi cánh tay Đấng Toàn năng không
thể tác tạo sự gì hoàn hảo hơn trong mẫu mực một thụ tạo tinh tuyền.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)