VUI HỌC THÁNH KINH
THÁNH ĐAMINH
Ds 20, 1-13
Tin Mừng thánh Luca 5, 1-11
Ngày 8
tháng 8
Tin Mừng
Đức Giê-su
kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4:18 -22; Mc 1:16 -20 )
1 Một hôm,
Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người
để nghe lời Thiên Chúa.2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những
người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.3 Đức Giê-su xuống một
chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ
một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.
4 Giảng
xong, Người bảo ông Si-môn: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt
cá."5 Ông Si-môn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà
không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."6 Họ đã làm
như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.7 Họ làm hiệu
cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã
đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
8 Thấy
vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: "Lạy Chúa, xin
tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! "9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được,
ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.10 Cả hai
người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng
kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: "Đừng sợ, từ nay anh
sẽ là người thu phục người ta."11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết
mọi sự mà theo Người.
1 While
the crowd was pressing in on Jesus and listening to the word of God, he was
standing by the Lake
of Gennesaret .
2 He saw
two boats there alongside the lake; the fishermen had disembarked and were
washing their nets.
3
Getting into one of the boats, the one belonging to Simon, he asked him to put
out a short distance from the shore. Then he sat down and taught the crowds
from the boat.
4 After
he had finished speaking, he said to Simon, "Put out into deep water and
lower your nets for a catch."
5 Simon
said in reply, "Master, we have worked hard all night and have caught
nothing, but at your command I will lower the nets."
6 When
they had done this, they caught a great number of fish and their nets were
tearing.
7 They
signaled to their partners in the other boat to come to help them. They came
and filled both boats so that they were in danger of sinking.
8 When
Simon Peter saw this, he fell at the knees of Jesus and said, "Depart from
me, Lord, for I am a sinful man."
9 For
astonishment at the catch of fish they had made seized him and all those with
him,10 and likewise James and John, the sons of Zebedee, who were partners of
Simon. Jesus said to Simon, "Do not be afraid; from now on you will be
catching men."
11 When
they brought their boats to the shore, they left everything and followed him.
I. HÌNH TÔ
MÀU
* Chủ đề của hình này là gì?
……………………………………………..
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Luca 5,10
……………………………………………..
……………………………………………..
……………………………………………..
……………………………………………..
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1.
Đức Giêsu ngồi trên thuyền của ai để giảng dạy dân chúng? (Lc 5, 3)
a. Ông Simon
b. Ông Giacôbê
c. Ông Gioan
d. Tôma
a2.
Sau khi giảng dạy xong, Đức Giêsu bảo ông Simôn điều gì? (Lc 5,4)
a. Con hãy tin Thầy
b. Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cả
c. Con hãy đi theo Thầy
d.
Con thật hạnh phúc vì được chúa cha mạc khải cho
a3.
Khi nghe Đức Giêsu nói, ông Simon đã nói gì? (Lc 5,4)
a. Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống
b. Thầy biết con yêu mến Thầy
c. Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới
d. Thầy đi đâu con cũng theo Thầy.
a4.
Khi chứng kiến phép lạ lưới đầy cá, ông Simon đã có hành động gì? (Lc 5,8)
a. Sấp mặt dưới chân Đức Giêsu
b. Chạy tới ôm chân Đức Giêsu
c. Quỳ xuống cầu nguyện
d. Giơ 2 tay lên tạ ơn Thiên Chúa
a5.
Khi chứng kiến phép lạ lưới đầy cá, những người hiện diện với ông Simon có thái
độ gì? (Lc 5,9)
a. Bối rối
b. Vui mừng
c. Kinh ngạc
d. Lo lắng.
B.
b1. Thánh Đa Minh sinh năm 1170 tại
Caleruega, thuộc dòng tộc vị vọng Guzman thuộc nước nào?
a.Tây Ban Nha
b. Bồ Đào Nha
c. Y Pha Nho
d. Pháp
b2. Đây là những dấu lạ xảy ra khi người mẹ mang thai và
trong ngày lễ rẳ tội của cậu bé Đa Minh :
a.
Người mẹ mơ cho chào đời một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa
đến khắp thế giới
b.
Người đỡ đầu trông thấy trên trán chú bé một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung
quanh
c.
Người bố nói được sau thời gian dài bị câm
d. Chỉ có a và b đúng.
b3.
Thánh Đa Minh là Đấng sáng lập Dòng nào?
a. Dòng Giảng Thuyết
d. Dòng Tên
c. Dòng Phan Sinh
d. Dòng Đa Minh
b4. Để chống lại lạc giáo Albigensê,
cha thánh Đa Minh đã phổ biến kinh gì?
a. Kinh Chuỗi Lòng Thương Xót
b. Kinh Mân côi
c. Kinh Bảy Sự Thương Khó Đức Mẹ
d. Kinh Cầu Chịu Nạn
b5. Năm 1221, trước khi lâm chung,
cha Đa Minh nói lời trăn trối với
con cái mình là :
a.
"Anh em yêu dấu, gia sản cha để lại cho anh em : Hãy sống bác ái, khiêm
tốn và khó nghèo tự nguyện".
b. "Hãy hăng say giảng thuyết”
c. “Chuyên cần cầu nguyện”
d. Cả a, b và c đúng
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Với Đức Giêsu, ông Phêrô làm gì khi ông sẽ thả
lưới? (Lc 5, 5)
02. Ông Phêrô nhận mình là người thế nào?
(Lc 5, 8)
03. Dân chúng chen lấn đến gần Đức Giêsu để nghe
lời của ai? (Lc 5, 1)
04. Khi chứng kiến mẻ cá vừa bắt được, ông Simon
và tất cả những người ở đó đều thế nào?
(Lc 5, 9)
05. Đức Giêsu xuống thuyền của ai? Simon (Lc 5, 3)
06. Đức Giêsu bảo ông Simon chèo ra chỗ nào mà thả
lưới bắt cá? (Lc 5, 4)
07. Ai nói với ông Simon: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ
là người thu phục người ta”. (Lc 5, 11)
Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
"Lạy
Chúa,
xin tránh xa
con, vì con là kẻ tội lỗi! "
Tin Mừng thánh Luca 5,8b
VUI HỌC THÁNH KINH
THÁNH ĐAMINH
Ngày 8
tháng 8
I. HÌNH TÔ
MÀU
* Chủ đề :
Thánh Đa
Minh và Đức Maria
* Tin Mừng thánh Luca 5,10 :
"Đừng sợ,
từ nay anh sẽ là người thu
phục người ta."
II. TRẮC NGHIỆM
A.
a1.
a. Ông Simon (Lc 5, 3)
a2.
b. Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt
ca (Lc 5,4)
a3.
c. Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới
(Lc 5,4)
a4.
a. Sấp mặt dưới chân Đức Giêsu (Lc
5,8)
a5.
c. Kinh ngạc (Lc 5,9)
B.
b1. a.Tây Ban Nha
b2. d. Chỉ có a và b đúng.
b3.
a. Dòng Giảng Thuyết
b4. b.
Kinh Mân côi
b5. d.
Cả a, b và c đúng
III. Ô CHỮ
01. Vâng lời (Lc 5, 5)
02. Tội lỗi (Lc 5, 8)
03. Thiên Chúa (Lc 5, 1)
04. Kinh ngạc (Lc 5, 9)
05. Simon (Lc 5, 3)
06. Nước sâu (Lc 5, 4)
07. Đức Giêsu (Lc 5, 11)
Hàng dọc : Linh Mục
GB. NGUYỄN
THÁI HÙNG
THÁNH ĐA MINH
Lm. Đào
Quang Chính, OP
Ngày nay,
các linh mục đều là những nhà giảng thuyết, nhưng cách đây hơn 800 năm, chỉ các
bậc giám mục trở lên mới có quyền giảng! Nói như vậy để chúng ta hiểu tại sao
dòng Đa Minh được gọi là dòng giảng thuyết, và đặc sủng của dòng Đa Minh quả là
một cuộc cách mạng to lớn vào thời đó.
Đa Minh
sinh năm 1170 tại Caleruega, thuộc dòng tộc Guzman, nên được gọi là Đa Minh
Guzman. Guzman là một dòng tộc vị vọng tại Tây ban nha vào thời trung cổ. Thân
phụ ngài là ông Felix, một kiếm sĩ "tuyệt vời và dịu dàng." Bà cố là
Joanna d'Aza, xuất thân từ gia đình cao quý. Bà cố đạo đức và được đức giáo
hoàng Leo XII tuyên phong chân phước. Bên cạnh Đa Minh, bà cố còn có một người
con nữa cũng là chân phước dòng Đa Minh: Mannes. Thực là gia đình đạo hạnh: một
thánh, hai chân phước. Cũng nên biết rằng, người anh lớn của Đa Minh, linh mục
triều, suốt đời làm việc trong nhà thương giúp đỡ người nghèo
Nhiều dấu
lạ xẩy ra khi Đa Minh chào đời. Theo thánh Jordan Saxony, vị ký lục về cuộc đời
Đa Minh kể lại, thì khi đang mang thai, bà cố mơ thấy mình cho chào đời một con
chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới. Rồi trong ngày
thánh nhân rửa tội, mẹ đỡ đầu trông thấy trên trán chú bé một ngôi sao sáng,
chiếu tỏa chung quanh. Do đó tại sao ngày nay khi tạc tượng thánh Đa Minh,
người ta cũng tạc luôn tượng con chó đang ngậm đuốc sáng nằm dưới chân, còn
trên trán ngài thì có ngôi sao sáng.
Cuộc đời
thánh nhân lúc còn nhỏ cũng bình thường như chúng ta. Năm lên bẩy, ngài được
gửi đến ở với cậu là linh mục đang coi xứ gần Caleruega. Năm 14 tuổi, chú từ
giã gia đình và bố mẹ để lên học tại Palencia ,
là trường học nổi tiếng nhất tại Tây ban nha lúc bấy giờ. Ngay từ hồi nhỏ, chú
đã biết dung hòa việc học hành với đời cầu nguyện và các bổn phận tông đồ. Có
những lần chú đã bán các sách học để
gíup đỡ người nghèo. Sách vở lúc chưa có nhà in, là những phẩm vật rất
quý giá, nhưng người nghèo với chú còn quý giá hơn. Cũng đã hai lần chú muốn
bán mình để có tiền chuộc những người bị bắt làm nô lệ. Phải chăng đó là dấu
hiệu cho thấy chú sẽ dung hòa đời sống chiêm niệm và hoạt động trong tương lai?
Hết trung
học, chú xin đi tu và có lẽ được truyền chức vào năm 1194. Sau đó, cha Đa Minh
xin làm kinh sĩ tại nhà thờ chính tòa Osma. Kinh sĩ có bổn phận chuyên lo đọc
kinh thay cho toàn giáo phận, nhất là thay cho các linh mục hoạt động. Hội kinh
sĩ theo tinh thần tu luật của thánh Augustine, sống đời ẩn thân. Với lòng đạo
đức và khôn ngoan, cha Đa Minh trở nên rường cột cho hội. Vì vậy, chỉ 2 năm
sau, cha được chỉ định làm bề trên hội kinh sĩ. Đây là một vinh dự lớn lao cho
1 linh mục trẻ. Kinh sĩ Đa minh thường mang trên tay sách phúc âm theo thánh
Matthêu, các thư của thánh Phaolô và
sách các giáo phụ.
CHUẨN BỊ
LẬP DÒNG
Vào năm
1213, đức cha địa phận và Đa Minh được ủy thác sứ mạng thu xếp cuộc hôn nhân của hoàng tử xứ Marches và công chúa Đan
mạch. Trên đường đi Đan mạch, hai ngài phải băng qua miền nam nước Pháp. Có lẽ
cuộc du hành này đã thay đổi cuộc đời Đa Minh. Tại Toulouse, trong một quán
trọ, ngài đã nhận ra rằng, người chủ quán trọ là một người bỏ Công giáo theo
nhóm Albigensê. Cũng nên biết từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, nhóm Albigensê đã
rất thành công trong việc thuyết phục người khác theo họ. Vào thời đại mà giáo
hội miền nam nước Pháp bị tục hóa, khi các giám mục xa cách dân chúng, ăn mặc
sang trọng, đi trên xe tứ mã, sống đời xa hoa, thì triết lý của Albigensê, dựa
theo tinh thần lạc giáo Manikêu, quả là hấp dẫn với một số người. Gọi họ là
Albigensê vì nhóm này khởi nguồn từ một thành phố miền nam Pháp tên là Albi. Họ
chủ trương nơi con người có hai thái cực: tốt do Chúa tạo nên, xấu do Satan
chiếm đoạt. Để loại trừ Satan, con người cần diệt dục, không nên lấy vợ, lấy
chồng, không ăn thịt, cá và chỉ ăn rau cỏ. Cuộc sống càng đơn sơ, càng trở về
với thiên nhiên càng tốt. Trong khi các giám mục địa phương, linh mục
Cistercien ăn mặc sang trọng, thì giáo sĩ nhóm Albigensê ăn vận đơn sơ, đi chân
không, mặc quần áo đơn giản. Do đó, họ có một bề ngoài gần gũi với đức khó
nghèo của Thánh Kinh hơn. Điều quan trọng hơn cả là về tín lý họ chối bỏ 3 ngôi
Thiên Chúa. Miền nam Pháp, Ý và Tây ban nha bị ảnh hưởng rất mạnh của nhóm này.
Đa Minh để
cả đêm nói truyện với người lạc giáo. Ngài nhận thấy ông chủ quán là người có
lòng thành nhưng bị nghe tuyên truyền sai lạc. Đến sáng, sau khi cầu nguyện hồi
lâu thì bỗng dưng người chủ quán đổi lòng. Ông xin trở lại Công giáo. Việc trở
lại này đã trở thành động lực lớn thúc đẩy Đa Minh lập dòng tu chuyên lo truyền
giáo. Truyền thống kể lại rằng chính tại nhà này, Đa Minh đã cầu nguyện bằng
phương cách sắp xếp những ý tưởng Thánh Kinh thành một chuỗi giúp cho ngay cả
người đơn sơ cũng có thể lãnh hội được. Đây là bước khởi nguồn của tràng hạt
Mân Côi sau này.
Chuyến đi
của đức giám mục và của Đa Minh thành công tốt đẹp. Hai vị trở về báo Tin Mừng
cho nhà vua và chuẩn bị hôn lễ. Nhà vua lại cử đức giám mục và Đa Minh lên
đường đón công chúa cho hoàng tử của mình, nhưng lần du hành thứ hai này mang
nhiều nét buồn. Hai vị đến hoàng cung đúng lúc nghe tin công chúa mới lìa đời.
Sau đó hai vị cùng sang Roma thăm giáo đô. Cũng nên biết, giám mục địa phận
Osma, đức cha Diego, là một nhân vật đạo
đức và đặc biệt. Ngài đã làm trưởng hội kinh sĩ tiền nhiệm của Đa Minh. Nhận
thấy có nhiều người lạc giáo, khi triều kiến đức giáo hoàng, ngài xin từ nhiệm
giám mục để có thêm thời giờ chuyên lo
truyền giáo. Tấm gương sáng càng khiến Đa Minh hăng hái hơn thi hành ước mộng.
Tuy nhiên, đức giáo hoàng Innocent III không đồng ý. Ngược lại ngài ủy thác hai
vị sang miền Languedoc ,
hợp lực cùng với các tu sĩ Cistercien chống lại nhóm Albigensê. Đức cha Diego,
ngay khi nhận nhiệm vụ mới, ra lệnh cho các tu sĩ Cistercien phải sống đời khó
nghèo. Kết quả trông thấy thực rõ rệt. Số người xin trở lại Công giáo tăng lên
rất nhanh. Riêng Đa Minh thì còn dành nhiều thời giờ để tranh luận với nhóm lạc
giáo. Không cãi nổi với nền thần học chắc chắn, sự thông thái và lý luận sâu sắc
của Đa Minh, những người lạc giáo đe dọa giết ngài. Không sợ, Đa Minh tiếp tục
rao giảng Tin Mừng cách can đảm. Ngài chọn Prouille làm trụ sở chính rồi từ đó
đi đến các miền Fanjeaux, Montpellier , Servian, Beziers , và Carcassonne .
Chính tại Prouille vào năm 1206 mà thánh nhân đã lập hội dòng nữ Đa Minh đầu
tiên. Ngài biết có nhiều phụ nữ nhiệt thành nhưng vì lầm lạc đã theo nhóm Albi.
Họ cần được nâng đỡ. Sau khi trở lại, các phụ nữ này đã xây nhà dòng và chuyên
giáo dục các trẻ Công giáo. Đây là cơ sở đầu tiên của dòng nhì Đa Minh trên thế
giới.
Năm 1208
đáng được coi là năm "bản lề" của Đa Minh. Vào ngày 15 tháng 1, cha
Pierre de Castelnau, vị tông tòa dòng Cistercien bị ám sát chết. Thánh Simon de
Montfort quyết định mở cuộc thánh chiến chống lại nhóm Albigensê. Riêng Đa Minh
thì thương xót những người lạc giáo hơn là ghét bỏ họ. Ngài cũng quyết định mở
cuộc thánh chiến nhưng không trên mặt trận võ khí mà trên mặt trận truyền giáo.
Chính ngài đã gặp thánh Simon và hai người trở thành bạn thân đến mãn đời.
PHỔ BIẾN
KINH MÂN CÔI
Trận thánh
chiến rất thành công cho quân đội Công giáo. Các sử gia nói rằng nơi những trận
chiến này kinh Mân côi được đọc lần đầu tiên, kinh Mân côi trở thành khí giới
thiêng liêng bảo vệ đạo.
Cuộc đời
và sự thánh thiện của thánh nhân nổi bật đến độ ba giáo phận xin ngài làm giám
mục: năm 1212, địa phận Bezier; rồi địa phận St. Lizier, cuối cùng vào năm 1215
là địa phận Navarre .
Nhưng Đa Minh tuyệt đối xin từ chối những vinh dự trên. Tấm gương của đức giám
mục địa phận Osma là Diego vẫn còn in đậm trong tâm trí. Ngài nói nếu bị ép làm
giám mục, ngài sẽ trốn đi ngay dù trong đêm tối!
Tuy nhiên,
không phải lúc nào Đa Minh cũng rao giảng thành công đâu. Vào những năm 1213 và
1214 lịch sử ghi lại ngài truyền giáo tại miền Carcassonne, nhưng rất ít người
trở lại và ngược lại bị nhiều chống đối.
DÒNG TU
MỚI
Đến năm
1214 ngài trở về Toulouse ,
Pháp quốc. Tại nơi đây ngài thực hành quyết định thành lập dòng tu chuyên lo
giảng thuyết. Nổi tiếng đạo đức và khôn ngoan nên nhiều thanh niên ngưỡng mộ
tìm đến với ngài. Sau khi đức cha Toulouse
cho phép, Đa Minh tập họp những môn đệ đó thành một cộng đoàn. Đến năm 1215,
ngài chính thức theo giáo luật thành lập nhà dòng trong giáo phận Toulouse với mục đích
truyền bá đức tin và luân lý chân chính. Cũng trong năm này ông Pierre Seilan,
một người giầu có miền Toulouse ,
đi theo thánh Đa Minh. Pierre
dâng tặng cho thánh nhân nhiều sở hữu. Nhờ vậy ngày 25 tháng 4 năm 1215, tu
viện đầu tiên của dòng được thành lập.
Thoạt đầu,
dòng chỉ mang tính cách là "dòng địa phận". Đa Minh mong muốn dòng
mới sẽ đi truyền bá Tin Mừng khắp thế giới. May mắn thay, vào tháng 11 năm
1215, công đồng chung tại Roma được triệu tập nhằm mục đích "sửa chữa
những đồi phong bại tục, dẹp tan lạc giáo và củng cố đức tin chân chính."
Điều khoản giáo luật số X của công đồng còn khiển trách cách mạnh mẽ một số
giám mục đã quên lãng bổn phận rao giảng, và khuyến khích việc ủy thác cho một
số vị có khả năng rao giảng lời Chúa. Những lời tuyên bố đó đúng với tôn chỉ
dòng Đa Minh. Tuy nhiên, nên lưu ý rằng, khi công đồng đề nghị "một số vị
có khả năng" không có nghĩa là nói đến các linh mục, hoặc cụ thể hơn, các
linh mục dòng Đa Minh, một dòng tu còn non trẻ.
Trong khi
chân trời mới mở rộng cho Đa Minh, thì một biến cố khác không vui xẩy ra: Công
đồng chung cấm việc lập thêm dòng tu mới! Không nản lòng, Đa Minh triệu tập các
anh em, thông báo quyết định của đại công đồng. Các tu sĩ Đa minh, cùng đồng ý
là, thay vì dùng tu luật mới, thì sẽ theo tu luật thánh Augustino. Cho đến nay,
tu luật thánh Augustinô vẫn là tu luật nền tảng của dòng, và các tu sĩ Đa Minh
vẫn phải học tu luật thánh Augustinô trước khi học hiến pháp dòng. Tháng 8 năm
1216, Đa Minh xin phép gặp đức giáo hoàng, và ngày 22 tháng 12 cùng năm, đức
giáo hoàng chính thức chuẩn y dòng tu có tên hiệu "Dòng giảng
thuyết". Cũng nên nhắc nơi đây câu truyện rất thú vị. Một hôm, đức giáo
hoàng trong giấc mơ, thấy đền thờ Latêranô bị nghiêng, thì có hai thanh niên
bước đến kề vai nâng đỡ. Buổi sáng cùng ngày, ngài có hẹn gặp hai tu sĩ tên là
Đa Minh và Phanxicô. Nhớ lại giấc mơ, nhìn lại khuôn mặt, ngài biết ngay rằng
đây là dấu hiệu mà Chúa báo trước cho ngài: hai tu sĩ trẻ này sẽ là người nâng
đỡ giáo hội. Vào thế kỷ 13, đền thờ Lateranô chính là biểu tượng của giáo hội
như đền thờ thánh Phêrô thời nay. Trong thời gian ngắn ở tại Roma, đức giáo
hoàng cũng nhờ thánh Đa Minh đi giúp tái lập truyền thống nghiêm ngặt nơi các
nhà dòng nữ. Đa Minh đã làm cho đức giáo hoàng rất hài lòng trong việc giúp
thăng tiến đời sống tinh thần tại các nhà dòng này.
ĐẶC SỦNG
CỦA DÒNG
Đến ngày
15 tháng 8 năm 1217, Đa Minh trở về Prouille thông báo Tin Mừng cho các anh em.
Ngay sau đó, Đa Minh đưa ra một quyết định được coi là táo bạo: Ngài sai 17 môn
đệ đi truyền giáo toàn miền Âu châu và nhất là giảng thuyết tại các trường đại
học. Tuy có một số người phản đối, cho rằng các tu sĩ còn quá non trẻ, nhưng
thời gian đã cho thấy quyết định của Đa Minh hoàn toàn đúng. Thứ nhất, ngài tin
tưởng các môn đệ của mình; thứ hai Chúa Thánh linh đã không ngừng làm việc nơi
17 tu sĩ Đa Minh đầu tiên, đến nỗi chỉ một năm sau, vào ngày 3 tháng 12 năm
1218, đức giáo hoàng Honorio III viết
tông thư giới thiệu dòng cho toàn thể các giám mục, viện phụ, bề trên tu viện,
xin các vị nâng đỡ và cùng làm việc chung với anh em trong dòng. Truyền giáo
nơi các trường đại học trở thành một đặc sủng của dòng. Đa Minh muốn các tu sĩ
có một trình độ cao về học vấn. Có lẽ hướng đi đó do kết quả thánh nhân thâu
thập được khi làm việc tại trường đại học Palencia .
Cho đến nay, đây vẫn là một trong những đặc điểm của dòng. Trong thời ban sơ,
đa số tu viện đều được thành lập chung quanh trường đại học, vừa để dễ làm việc
mục vụ, vừa để dễ cho các anh em đi học. Các trường đại học Paris
(Pháp quốc) và Bologna (Tây ban nha) đã là những nơi "thử
lửa" đầu tiên của dòng.
Tại Roma,
đức giáo hòang Honoriô, thích thú trước những thành công của anh em thuyết
giáo, dành tu viện Santa Sabina cho dòng Đa Minh chịu trách nhiệm. Ngày nay
Santa Sabina là nhà Mẹ của toàn dòng. Đến năm 1218, trong văn thư ngày 2 tháng
12, đức giáo hoàng còn ủy thác đền thờ Saint Sixtus dưới quyền cai quản của
dòng và dành cho Đa Minh chức nghiêm sư thánh điện, tức là nhà thần học của đức
giáo hoàng. Dòng Đa Minh giữ chức vụ này cho đến ngày nay.
Vẫn ôm
giấc mộng truyền giáo, Đa Minh không muốn vì công việc điều hành mà quên mộng
ước. Cuối năm 1218, ngài chỉ định cha Reginal de Orleans làm tổng đại diện, còn mình thì cùng
với nhiều anh em đi sang các thành phố khác. Các tu viện đầu tiên của dòng được
thành lập tại Bologna, Prouille, Toulouse, Fanjeaux, sau đó tới Lyons, Segovia, Limoges, Barcelona và nhiều
thành phố bên Ý... Tháng 2 năm 1219, đan viện nữ Đa minh, tức là dòng nhì được
thành lập tại Madrid ,
Tây ban nha. Cũng trong năm đó, đức giáo hoàng Honoriô đã ban cho ngài tước
hiệu "Bề trên tổng quyền" hoặc bề trên cả (Master General), là danh
xưng mà các vị thừa kế giữ cho đến nay. Qua năm 1219, nhân đại hội dòng lần đầu
ở Bologna , Đa
Minh từ chức bề trên tổng quyền để có nhiều thời giờ đi truyền giáo. Đương
nhiên, đơn xin bị từ chối. Tuy nhiên, không gì có thể cản trở Đa Minh truyền
giáo. Cùng với các anh em dòng, ngài mở nhiều mặt trận: lịch sử ghi lại, qua
phép lạ và lời giảng dậy, Ngài đã chinh phục hơn 100,000 người trở lại cùng
Chúa. Theo cha Lacordaire thì tại Lombardy , Đa
Minh đã thành lập hội "Đạo Binh Chúa Giêsu" (Militia of Jesus
Christ), tức là huynh đoàn Đa Minh hoặc dòng ba Đa Minh bây giờ. Trước những
thành công liên tục, vào năm 1221, ngài một lần nữa phải triệu tập công đồng
chung toàn dòng lần thứ 2 tại Bologna .
Sau đó ngài đi thăm đức hồng y Ugolino, một ân nhân của dòng. Trên đường trở về
lại Bologna , Đa
Minh bị bệnh, và sau ba tuần chịu đựng cách can đảm, thánh nhân qua đời giữa
các anh em. Ngay sau khi qua đời, nhiều người đã đến cầu khấn cùng ngài. Mười ba
năm sau, đức giáo hoàng Gregorio, vào ngày 13 tháng 7 năm 1234 tuyên dương ngài
lên bậc hiển thánh.
LINH ĐẠO
CỦA THÁNH ĐA MINH
"Contemplare,
contemplata aliis tradere". Bên cạnh việc truyền giáo qua giảng thuyết, Đa
Minh nổi tiếng vì linh đạo đặc biệt của ngài. Linh đạo này là "hãy chiêm
niệm và mang kết quả của sự chiêm niệm đó đến cho tha nhân". Như chúng ta
đã biết, dòng Đa Minh là một hội dòng "pha", nghĩa là vừa hoạt động,
vừa chiêm niệm. Trước đó, các linh mục triều hướng nhiều về hoạt động; còn linh
mục dòng khổ tu thì theo tiến trình: "học tập - cầu nguyện - chiêm niệm -
(trở về) học tập". Đa Minh đề ra phương cách mới: "học tập - cầu
nguyện - giảng thuyết - chiêm niệm - (trở về) giảng thuyết - học tập".
Linh đạo này về sau được thánh Thomas khai triển và trở nên nổi tiếng với câu
châm ngôn "Contemplare, contemplata aliis tradere." Sống đúng theo
câu châm ngôn trên, cuộc đời của thánh Đa Minh được giáo hội ca tụng là ngài
chỉ "nói với Chúa, về Chúa và trong Chúa." Làm sao một người có thể
làm được như vậy? Chúng ta có thể làm được không? Được. Tất cả những gì Đa Minh
thấy trên đường rao giảng đều là phương tiện ca tụng Chúa, để chiêm niệm và
chia sẻ sự chiêm niệm đó cho tha nhân. Ở trên chúng ta đã biết, sách Phúc Âm
ngài thường mang theo là sách của thánh Matthêu. Như Matthêu thuật lại nhiều
chi tiết về cuộc đời của Chúa Giêsu, thì
Đa Minh cũng thấy mọi biến cố trong cuộc sống, đều là phương cách giúp chiêm
niệm và rao giảng Tin Mừng. Lòng nhiệt thành với việc rao giảng Tin Mừng của Đa
Minh mạnh đến nỗi trong tông thư tuyên dương hiển thánh cho ngài, đức giáo
hòang Gregory đã tuyên bố rằng không ai ngạc nhiên gì về sự thánh thiện của Đa
Minh đáng nêu gương cho mọi người như sự thánh thiện của hai thánh tông đồ
Phêrô và Phaolô!
Lậy Cha
thánh Đa Minh, xin cầu cho chúng con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét