HIỆN RA CÙNG TÔMA
SUY NIỆM CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
(Ga 20,19-31)
1. Chương 20 của phúc âm thứ tư được cấu tạo thành một khối duy nhất về phương diện văn thể và đề tài. Nó kể lại vài lần hiện ra của Đức Kitô phục sinh ở Giêrusalem. Ý chính của chương này: việc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng.
Khi đã để ý đến yếu tố văn thể và giáo thuyết, chúng ta có thể thấy chương 20 được hình thành như sau:
Phần thứ nhất: buổi sáng Phục sinh (20,1-18)
– Đoạn 1: viên đá được lăn ra và ngôi mộ trống (c.1-10); xem Mt 28,1-10; Mc 16,1-8; Lc 14,1-10.
– Đoạn 2: Đức Kitô hiện ra với Maria Madalena (c.11-18; xem Mt 28,9tt; Mc 16,9)
Phần thứ hai: hiện ra cùng các môn đệ (20,19-21)
– Đoạn 1: hiện ra ngày phục sinh của Đức Kitô sống lại cho các môn đồ (c.19-23; x. Mc 16,14; Lc 24,36-49; 1Cr 15,5)
– Đoạn 2: hiện ra sau tám ngày cho Tôma, kẻ cứng tin (c.24-49)
Kết cục: (20,30-31)
Nhìn sơ qua, chúng ta thấy không những hai phần này được đặt gần nhau mà còn được cấu tạo một cách gần như đồng nhất, Tôma chiếm một chỗ quan trọng phần thứ hai. Trong lúc Maria Madalena, trong một giây phút buồn phiền, đã khóc khi thấy mồ trống, Tôma, cách tự phát nhưng bồn chồn, đã hồ nghi thực thể của Chúa Giêsu phục sinh. Vắng mặt khi Phêrô và môn đệ dấu yêu khám phá ra mồ trống và khi Gioan biểu lộ đức tin vào sự phục sinh của Đức Kitô (c.8-9), Maria tuyên xưng đức tin khi Chúa tự mạc khải cho bà (c. 18). Cũng thế, vắng mặt khi Chúa hiện ra ngày phục sinh khi các môn đệ tụ họp, Tôma đã tin cách phấn khởi khi Chúa Giêsu chiếu cố hiện ra với ông tám ngày sau.
Trong cả hai phần, sự kiện hay dịp sờ đến thân xác phục sinh Chúa đều được đặt nổi bật (đối với Maria, x.câu 17; với Tôma x.câu 25 và 27) với một cảm giác thật nhân bản. Ngoài ra đức tin của Maria đã làm bà được sứ mệnh loan báo cho các tông đồ sự sống lại (c.18), trong lúc việc tuyên tín của Tôma khai mào đức tin của những người không thấy mà tin (c.29).
Cuối cùng, mỗi đoạn đều nhắm đến kiệc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng: môn đồ dấu yêu tin khi nhìn thấy tấm khăn liệm và dải vải (c.8), Maria tin khi nghe giọng nói quen thuộc của thày gọi tên bà (c.0, các môn đồ tin khi ngắm nhìn tay và cạnh sườn của Đức Kitô (c.20), cuối cùng Tôma tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô phục sinh (c.29) khi nhìn thấy tay chúa và thọc tay ông vào cạnh sườn Ngài (cc.25 và 27). Những tương hợp này chứng tỏ có sự đồng nhất trong việc sắp xếp và khai triển toàn bộ chương 20. Tuy nhiên bắt đầu phần thứ hai, đức tin vào Đức Kitô phục sinh có những chiều kích rộng lớn hơn. Thật vậy, ngoài các vị tông đồ, toàn thể Giáo hội được nổi bật nhờ được sai đi truyền giáo và nhờ việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng thế, đức tin của một Tôma cứng lòng nhưng đã ăn năn gợi lên đức tin của tất cả các tín hữu sau này.
2. “Đoạn Ngài phán cùng Tôma: hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta; Hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở như người cứng tin mà là như người thành tín” (c.27). Phần đầu của câu nói hay là một sự hạ cố đến Tôma hầu như làm ta khó chịu. Chúa Giêsu chấp nhận thách thức mà Tôma đã đòi cho kỳ được: sờ đến Ngài để đảm bảo đó không phải là một hữu thể tưởng tượng nhưng là một con người thật, sống động. Ngược lại, phần thứ hai hàm chứa một lời khuyến cáo đích đáng. Tôma phải trở nên một tín hữu thật sự trong thực thể của Chúa Giêsu phục sinh.
Không có gì trong bản văn cho thấy là vị tông đồ hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và thi hành điều mà thày dạy làm. Lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu đã đủ cho ông. Vì thế Toma trả lời và nói: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”. Lời tuyên xưng đức tin rạng rỡ này, lời xác quyết nặng về phương diện Kitô học phát xuất từ miệng Tôma cứng tin, nói lên sự hiển nhiên của việc phục sinh.
Từ đầu cho đến giờ, không có ai trong phúc âm Gioan gán tước hiệu này cho Chúa Giêsu Kitô. Một cách bộc phát và phấn khởi, Tôma phát biểu đức tin hoàn toàn của mình vào thiên tính của Đức Kitô. Lời tuyên xưng đức tin này là chóp đỉnh, là cao điểm của toàn thể phúc âm thứ tư. Câu “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”, vì nặng phần giáo thuyết, đã làm các nhà chú giải để ý nhiều. Tước hiệu “Chúa” (Curios) đã được nghiên cứu rất nhiều. Chỉ cần nhắc lại ở đây là nhiều lần các sách Tân ước đã gán tước hiệu Curios cho Chúa Kitô. Nhưng trong mỗi trường hợp, cần phải xét kỹ để có thể xác định một cách rõ ràng nội dung Kitô học của tước hiệu đó.
Đức Kitô cũng được gọi là Thiên Chúa , nhất là trong các thư mục vụ (Có lẽ trong Rm 9,5 nữa), trong lúc thánh Gioan chỉ gán tước hiệu này hai lần trong 1,1.18 (x.5,18; 10,53). Trong trường hợp chúng ta đây, hai tước hiệu “Chúa” và “Thiên Chúa ” đều được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu. Để xác định ý nghĩa đích thực của hai tước hiệu này, một vài tác giả đã nói rằng văn chương ngoại giáo đã dùng tước hiệu đó (Deisman), đặc biệt trong việc sùng bái các hoàng đế vào thời đầu tiên của Kitô giáo (Bauer). Tuy nhiên, hầu như chắc chắn rằng môi trường của câu nói này phải được tìm trước hết trong văn chương Do thái và Thánh kinh. Thật vậy, câu nói này được tìm thấy nhiều lần trong bản dịch Hy lạp 70 (xem nhất là 2S 7,28; 1V 18,39; Tv 30,2; 35,5.24; 125,15; 138,1; Ga 18,17). Có ý nói là Tôma tôn thờ Đức Kitô, Chúa Con, với những lời mà người Do thái có thói quen dành để tôn thờ Thiên Chúa. Như thế, Tôma đi trước thánh Stephano, người khi chịu tử đạo, sẽ phó dâng tâm hồn mình cho Chúa Giêsu như cho Thiên Chúa (Cv 7,59).
3. Theo từ ngữ nay thành cổ điển của Origène, phúc âm thứ tư là “phúc âm thiêng liêng” (x. Eusèbe de Kesarée, Hist.Eccl. VI,14,7). Hơn cả phúc âm nhất lãm, thánh Gioan, thần học gia, đã nhấn mạnh đến các thực thể cao quí nhất cấu tạo nên đời sống Kitô hữu: tin, đời sống thần linh, ân sủng, ánh sáng. Ông có tài hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của các sự kiện và biến cố cùng khám phá ra những mầu nhiệm linh thiêng của chúng. Tất cả đều xảy ra trên bình diện cao quí của tâm hồn, của việc chúng ta được kết hợp trong ân sủng với Chúa Cha nhờ Đức Kitô. Tuy nhiên, sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta dù cao quí đến đâu, cũng không xóa bỏ được bản tính cùng thực tại thể lý. Cần phải luôn lặp lại điều này: Gioan không giảng đến một thần học thiêng liêng mà không liên quan đến lịch sử; sứ điệp thiêng liêng của ông giả thiết và đòi hỏi phải có các chứng nhân mắt thấy tai nghe.
Như thế, một khi đã để ý đến công trình khảo cứu hiện thời của khoa phê bình văn hình sử (Formgeschichte), và độc lập với mọi cuộc tranh luận về sự sống lại như một sự kiện lịch sử, chúng ta không thể hoài nghi là chính Gioan đã lưu tâm nhiều đến các chứng từ liên quan đến những lần hiện ra của Đức Kitô.
Những lần hiện ra của Đức Kitô ngày phục sinh và 8 ngày sau, việc nhấn mạnh đặc biệt về sự kiện Chúa Giêsu chỉ các thương tích và cạnh sườn Ngài cho các môn đệ và cho Tôma, chúng tỏ cách rõ ràng rằng đối với Gioan, Đức Kitô vinh hiển và Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết là một. Gán cho những trình thuật của Gioan về các lần hiện ra một ý nghĩa hoàn toàn tượng trưng là cưỡng chế bản văn. Vì thế chúng ta không chấp nhận lời chú giải nổi tiếng của Bultmann: “Bài tường thuật về Tôma cũng như bài tường thuật về Maria Madalena… chỉ có một giá trị tương đối…(chúng ta phải coi chúng) như là một lời trong đó các biến cố được kể lại đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho cộng đoàn” (R.Bultmann, The Gospel of John, Oxfort, Elackwell,1971 tr.696).
Lời xác quyết này lại càng đáng ngạc nhiên và gây sửng sốt khi tác giả phúc âm thứ tư, hơn các phúc âm nhất lãm, đặc biệt làm nổi bật tính cách thể lý của thân xác Đức Kitô trong những lần hiện ra. Tại sao Gioan, thần học gia, tác giả phúc âm có tính cách thiêng liêng nhất, lại nhấn mạnh nhiều đến đặc tính nhân loại của Đức Kitô sau khi sống lại? Ngoài ra chúng ta phải thành thật tự hỏi tại sao Gioan suốt cả cuốn phúc âm, thường chú trọng đến vinh quang hiển nhiên và thần linh của Đức Kitô, lại tránh ám chỉ đến vinh quang này trong những lần hiện ra, ngược hẳn với Mt? Khó có thể tìm ra câu trả lời. Đây là câu trả lời: vì Gioan – tác giả phúc âm thiêng liêng nhất, tự cảm thấy cần phải nhấn mạnh phải đến sự kiện Đức Kitô đi vào vinh quang bên cạnh Chúa Cha, nhưng đến mọt sự kiện khác đã đánh động ông nhất với tư cách là nhân chứng tận mắt: Đức Kitô giờ đây, cũng như trước khi tử nạn, tiếp tục tiếp xúc cá nhân với các môn đồ của Ngài, với Tôma.
4. “Còn nhiều dấu lạ khác nữa…”: Gioan, khi kết thúc tác phẩm của ông, biết rằng tác phẩm đó chưa chấm dứt. Nhưng có khi nào người ta viết cạn ý một quyển sách không? hay hơn nữa, có bao giờ có thể minh chứng xong xuôi đức tin của ta không? Chúa Giêsu đã nói trong bài tạ từ: “Thày còn nhiều điều phải nói với các con…” (Ga 16,2). Với hình ảnh Chúa Giêsu ao ước mạc khải Chúa Cha cho thế gian – thế gian với tinh thần ích kỷ hay với tâm hồn quá tự mãn để có thể đón nhận đức tin – Gioan nóng lòng trình bày cho độc giả con người của Chúa Giêsu trong chiều kích thật sự của Ngài, con người gây nhiều ngạc nhiên vì là thần linh, Gioan có cảm tưởng tác phẩm của mình chỉ là nét phác họa đơn sơ. Không phải là ông không nói hết: thật ra còn nhiều dấu lạ khác…(x. Hđ 43,27; 1M 9,22), nhưng nhất là vì trình thuật không bao giờ có thể trình bày đủ.
Cuối cùng, ông có thể làm gì nếu không phải là thuật lại các dấu chỉ? Chúng ta hãy nhớ lại các dấu chỉ có tính cách thiên sai ở phần đầu trong đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm này hiểu rộng ra: nó bao gồm những phép lạ (dấu chỉ và công việc 12,37) cũng như lời nói và cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên một khối (12,38); cả hai soi sáng cho nhau vì phép lạ và lời nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con người thiêng liêng của Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể dừng lại nơi những biểu lộ bên ngoài và kêu lên: “Phi thường thay, những phép lạ đó. Ý nghĩa tôn giáo sâu xa thay, những lời nói đó”. Bao lâu lời nói và phép lạ không gợi được cho độc giả con người thiêng liêng của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục đích. Gioan, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sáng suốt, biết chắc rằng thực tại trổi vượt hơn hình ảnh được diễn tả. Vì thế ông tha thiết kêu xin độc giả đừng dừng lại nơi dấu chỉ, nhưng phải đạt đến sự vật được dấu chỉ diễn tả, như ông đã làm dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Độc giả cần phải có đức tin, phúc âm không được viết ra như một lời biện hộ gởi đến người không tin, trong trường hợp này, Gioan có lẽ chứng tỏ mình thiếu chiến thuật. Thật vậy, cho dù dán mắt vào các sự kiện, ông không quan sát chúng trên phương tiện thuần lý, nhưng dưới ánh sáng của đức tin do Thánh Thần cổ võ và soi sáng. Gioan cho các tín hữu đã tin, nhưng ông báo cho biết không bao giờ họ đi đến mút cùng đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao hàm một thực thể không bao giờ cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ lòng tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách đã được đưa ra ánh sáng trong phần đầu của phúc âm (Ga 2-4) và được củng cố do phản ứng đức tin đầu tiên của cộng đoàn Kitô hữu (Cv 2,36), người Kitô hữu phải đào sâu lòng tin vào tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mạc khải vào giờ tôn vinh. Và đức tin càng đâm rễ sâu, thì sự sống thần linh và không thể phá hủy càng được trao ban nhờ danh – hay con người – Chúa Giêsu, vì Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu danh Người (17,11-12) và quyền thông sự sống thần linh vĩnh cửu. Ai tin vào danh Chúa Giêsu thì nhờ Ngài sẽ được sống muôn đời (1,12; 3,15-18; 12,50; 1Ga 5,13)
Không! Tin mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu chỉ, phúc âm vẫn còn là như vậy bao lâu lòng tin của độc giả chưa đạt đến đích. Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi người tín hữu thấy vinh quang của Chúa Giêsu mà Chúa Cha ban cho Ngài khi Ngài trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh đã hiện hữu trước mọi thời gian (17,24)
KẾT LUẬN
Từ đây đức tin không dựa trên cái nhìn, nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy; chính nhờ đức tin này mà các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Kitô phục sinh (17,20).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phản ứng của Toma khi thấy các tông đồ báo tin cho ông việc Chúa Giêsu hiện ra cho chúng ta thấy khía cạnh đầu tiên trong hoạt động của “thế gian”. Vì việc sống lại của Chúa Giêsu vừa khó tin vừa gây bực bội, nên ta thường bị cám dỗ không chấp nhận. Cũng thế, Tôma giới hạn tri giác về thực tại và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay của khả năng suy tư. Những gì ông không thể hiểu, không thể sờ đến, đo lường, đều bị ông từ chối. Đó là tinh thần của thế gian muốn kéo lôi tất cả đến với nó và chỉ chấp nhận những gì nó chứa đựng.
2. Đức tin luôn bao hàm sự liều lĩnh, bởi lẽ nó không tự áp dụng bằng kinh nghiệm hay lý luận. Đức tin trở nên khó khăn đối với Tôma, thì cũng khó khăn đối với tất cả chúng ta. Đức tin dạy điều khó tin vì giả thiết một sự vượt quá thường xuyên con người chúng ta, vì đức tin là một sự tăng trưởng, một bước tiến đến Đấng nào đó luôn bí ẩn, luôn gây ngạc nhiên.
3. Đức tin không những là một sự liều lĩnh mà còn là một cuộc chiến, một trận đấu. Đức tin không có gì là thoải mái tiện nghi; nếu đức tin xây dựng và tái tạo chúng ta, điều đó có thể thực hiện nếu chúng ta biết từ bỏ chính mình. Thế gian mà đức tin sẽ toàn thắng không phải là một thực thể trừu tượng, xa vời. Thế gian đó, là chính chúng ta với những sợ hãi, lo âu, khoe khoang, ghen ghét, tham vọng và quyến luyến. Bao lâu còn bám chặt thế gian, bấy lâu chúng ta còn bị thống trị. Và chúng ta hoàn toàn giống nhau, nên chúng ta thường biện minh cho nhau, tự làm cho mình ra vô tình và không áy náy trong việc bất tuân lời Chúa và khuyến khích nhau từ bỏ đức tin; thế gian cũng như não trạng tập thể của xã hội thấm nhiễm vào chúng ta đến nỗi nếu phải suy nghĩ hay sống khác biệt với tập thể này, chúng ta có cảm tưởng là mình theo tư tưởng của riêng mình, là không liên đới với những người khác và phá hủy một cái gì cao quí và cần thiết.
4. Tôma thật đáng quí vì tôi nhận ra tôi trong ông; nếu tôi gặp nhiều khó khăn thực sự khi phải chấp nhận tất cả dưới lý do là vì Giáo hội dạy; tôi lại ít sẵn sàng chấp nhận khi thấy Giáo hội không sống như lời giáo hội nói. Nếu là chân lý, tại sao giáo hội không sống phù hợp hơn với điều Giáo hội giảng? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng như thế, hãy lặp lại lời nguyện khiêm nhường của Phúc âm “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin ban thêm đức tin cho con”.
5. Chúa Giêsu 3 lần nói cùng chúng ta trong đoạn phúc âm này: “Bình an cho các con”. Ngày nay, trong thế giới và Giáo hội với những lao động bất công và bạo hành, ước gì chúng ta sống trong bình an mà Đức Kitô phục sinh ban cho; chỉ khi nào đức tin toàn thắng thế gian trong con người chúng ta, khi đó chúng ta mới là kẻ xây dựng an bình.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét