Lòng thương xót, yếu tính của Tin Mừng và chìa khóa dẫn vào đời sống Kitô Hữu (9)
4. Lòng thương xót như phẩm tính vừa khôn dò vừa có tính tối thượng
Nơi Tiên Tri Hôsê, ta thấy cao điểm của việc Cựu Ước mặc khải thánh danh Thiên Chúa. Ngoài Tiên Tri Amos, Tiên Tri Hôsê là người đầu tiên trong các tiên tri soạn tác (scriptural prophets). Ngài sống trong một tình thế rất cảm kích của những ngày cuối cùng của Vương Quốc Phía Bắc và việc nó bị bức tử (722/721 trước CN). Tính cảm kích trong sứ điệp của ông tương ứng với tính cảm kích của tình thế. Người dân đã phá bỏ giao ước; họ đã trở thành đĩ điếm ô nhục. Do đó, Thiên Chúa cũng đã cắt đứt với dân Người. Người quyết định không tỏ lòng thương xót với thứ dân bất trung của mình nữa (Hs 1:6). Dân của Người sẽ không còn là dân của Người nữa (Hs 1:9).
Do đó, mọi sự xem ra đã không còn và tương lai xem ra đã trệch hướng. Nhưng rồi, một xoay chiều đầy cảm kích đã xuất hiện. Bản Dịch Thống Nhất (Unity Translation [*]) dịch lời tuyên bố có tính quyết định của Thiên Chúa như sau: “trái tim Ta co cụm lại trong Ta” (Hs 11:8). Nhưng lời dịch này quả đã làm giảm ý nghĩa lời Thiên Chúa khá nhiều. Nguyên bản Hípri diễn tả nó một cách quyết liệt hơn nhiều: Thiên Chúa đã đảo ngược đức công lý của Người; có thể nói: Người liệng bỏ nó. Thay vì con người bị lật đổ, sự lật đổ đã diễn ra ngay trong bản ngã Thiên Chúa (20). Tại sao? Lòng cảm thương (Mitleid) của Thiên Chúa bừng sáng lên và Người quyết định không thực hành cơn giận bừng bừng nữa. Trong Thiên Chúa, lòng thương xót đã chiến thắng công lý.
Cuộc xoay chiều các biến cố trên không chỉ sự tùy tiện của một Thiên Chúa hay giận dữ, Đấng vì muốn làm dịu cơn giận của mình một cách tốt đẹp, đã để cho sự dịu dàng thắng lướt quyền lợi. Theo Tiên Tri, lời biện minh được chính Thiên Chúa đưa ra mầu nhiệm và sâu sắc hơn nhiều. Nó biểu lộ cho ta sự sâu sắc hoàn toàn của mầu nhiệm Thiên Chúa: “Vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải kẻ tử sinh, là Đấng Thánh giữa các ngươi, và Ta sẽ không đến trong giận dữ” (Hs 11:9). Đây quả là một lời tuyên bố gây ấn tượng mạnh mẽ. Nó muốn nói: sự thánh thiện của Thiên Chúa, Hữu Thể Hoàn Toàn Khác của Người, trong tương phản với tất cả những gì nhân bản, không được tiết lộ trong cơn giận chính đáng của Người, cả trong tính siêu việt khôn dò và khôn thấu của Người. Hữu thể thần linh của Thiên Chúa được mặc khải trong lòng thương xót của Người. Lòng thương xót nói lên yếu tính thần linh của Người.
Đoạn văn hết sức cảm kích trên cho thấy ngay trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã không phải là Đấng Thiên Chúa giận dữ và thẳng thừng, nhưng là Đấng Thiên Chúa hay thương xót. Người cũng không phải là Đấng Thiên Chúa lãnh đạm, Đấng ngự trên ngai chót vót, không biết gì tới tội lệ và buồn đau của thế gian. Người là Đấng Thiên Chúa có một trái tim; trái tim này biết nổi giận nhưng sau đó, theo cả nghĩa đen, đã tự lật nhào trở thành thương xót. Với sự “lật nhào” này, một đàng, Thiên Chúa tự biểu lộ mình chuyển động theo cách nhân bản rõ ràng, đàng khác, Người lại tự mặc khải mình như là người hoàn toàn khác với những kẻ tử sinh. Người tự mặc khải Người như Đấng Thánh, như Người Hoàn Toàn Khác. Yếu tố tạo thành yếu tính của Người, một yếu tính từ căn bản vốn phân biệt Người với các hữu thể nhân bản và nâng Người lên trên mọi loài tử sinh, chính là lòng thương xót của Người. Nó là sự siêu phàm và tối thượng của Người; nó chính là yếu tính thánh thiện của Người.
Tính tối thượng của Thiên Chúa, trên hết, được chứng minh qua hành vi tha thứ và ân xá. Chỉ những ai đứng trên chứ không đứng dưới các đòi hỏi của công lý nguyên tuyền mới có thể tha thứ và ân xá. Chỉ có người này mới có thể hủy bỏ sự trừng phạt chính đáng và cho phép một khởi đầu mới. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể tha thứ và sự tha thứ thuộc về yếu tính của Người.
“Vì lạy Chúa, Chúa là đấng tốt lành và tha thứ, giầu tình thương bền vững đối với tất cả những người kêu cầu Chúa” (Tv 86:5).
“Vì Người sẽ tha thứ một cách đại lượng” (Is 55:7). “Người hân hoan trong việc tỏ lòng khoan nhân” (Mk 7:18; xem Xh 34:6; Ps 130:4).
Thần học, dù khôn khéo bao nhiêu, cũng vẫn thiếu sót khi nói về Thiên Chúa, Đấng không hợp với bất cứ phạm trù nào. Ta không thể khiếm nhã sử dụng kiểu nói hoặc / hoặc (either/or): hoặc Đấng Thiên Chúa chính trực / hoặc Đấng Thiên Chúa thương xót, như thể đây là vấn đề hiển nhiên nhất ở trên đời. Trong ngôn ngữ của ta, ta có thể nói: lòng thương xót là sự mặc khải tính siêu việt của Người so với mọi loài tử sinh và so với mọi điều con người có thể tính toán được. Trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa được mặc khải một cách nghịch lý vừa như Đấng Hoàn Toàn Khác vừa như Đấng Hết Sức Gần Gũi Chúng Ta. Sự siêu việt của Người không phải là khoảng cách vô tận và sự gần gũi của Người không phải là bồ bịch thân thiết. Thiên Chúa hay thương xót của ta không phải là “Đấng Thiên Chúa thân mến” bọc đường, làm ngơ các phóng túng và ác ý của ta. Ngược lại, sự gần gũi có tính cứu rỗi của Người nói lên tính khác và tính dấu ẩn không hiểu thấu được của Người (Is 45:15). Người là Deus revelatus (Thiên Chúa được mặc khải) rõ ràng và hiển hiện như thế nào, thì Người cũng là Deus absconditus (Thiên Chúa dấu ẩn) như thế. Lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ cho ta thấy Hữu Thể Hoàn Toàn Khác của Người và việc không thể hiểu được Người cách trọn vẹn, một việc vừa là sự không thể hiểu nhưng đồng thời lại là sự khả tín đối với tình yêu và lòng nhân hậu của Người.
5. Lòng thương xót, sự thánh thiện, đức công lý và lòng trung thành của Thiên Chúa
Trong Cựu Ước, lòng thương xót của Thiên Chúa luôn nối kết bất khả phân với những cách thế khác qua đó Thiên Chúa được mặc khải. Ta không thể tách lòng thương xót của Người ra khỏi bối cảnh này để xử lý một cách độc lập. Việc mặc khải thánh danh Người cho Môsê đã chứng tỏ rằng lòng thương xót của Người có thể nói là được bao bọc bởi lòng nhân hậu và lòng trung thành. Việc Thiên Chúa tự mặc khải Người nơi Tiên Tri Hôsê chứng tỏ rằng lòng thương xót được liên kết bất khả phân với sự thánh thiện của Thiên Chúa và nói lên sự thánh thiện này.
Tương quan gắn bó giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự thánh thiện của Người là điều quan trọng hết sức đặc biệt. Hạn từ Hípri chỉ sự thánh thiện (qados) nguyên khởi có nghĩa là cắt đứt hay để riêng ra. Do đó, sự thánh thiện của Thiên Chúa chính là sự dị biệt và trổi vượt triệt để của Người so với mọi sự vật và mọi sự ác trần thế (21). Sự thánh thiện của Thiên Chúa được phát biểu một cách trịnh trọng trong thị kiến ngai vàng của Tiên Tri Isaia, trong đó, Isaia nghe thấy các seraphim ca hát rằng “Thánh, thánh, thánh”. Thị kiến này khiến Tiên Tri rùng mình một cách thánh thiện; nó làm ông ý thức được sự bất xứng và tội lệ toàn diện của mình. “Khốn thân tôi! Tôi phải nín thinh, vì tôi là con người có những làn môi dơ bẩn, và tôi sống giữa những người có những làn môi dơ bẩn” (Is 6:3-5). Điều này chứng tỏ rằng ta không nên hạ giá lòng thương xót của Thiên Chúa và biến Thiên Chúa thành người khờ khạo, một người, vì cấp tiến khoan dung, không lưu ý gì tới các lầm lỗi và ác ý của ta, để mặc chúng tự tung tự tác trong ta. Nietzsche chế giễu cách quan niệm như thế về Thiên Chúa và cho biết Thiên Chúa đã chết vì lòng thương xót của Người (22). Ta không thể coi thường Thiên Chúa; Người không để Người bị chế giễu (Gl 6:7). Khi cảm thương và thương xót, Người chứng tỏ sự thánh thiện và cao cả của Người.
Vì sự thánh thiện của Người, Thiên Chúa chỉ có thể đối kháng sự ác. Thánh Kinh gọi điều này là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa (23). Nhiều người thoạt đầu rất có thể ngần ngại với điều này và coi nó không thích đáng. Nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa không phải là việc nổi giận có tính xúc cảm hay một can thiệp đầy giận dữ, mà đúng hơn là sự kháng cự của Thiên Chúa đối với tội lỗi và bất công. Có thể nói, thịnh nộ là biểu thức tích cực và năng động của yếu tính thánh thiện của Người. Vì lý do này, ta không thể xóa bỏ sứ điệp phán xét khỏi sứ điệp của Cựu Ước hay sứ điệp của Tân Ước hay giải thích sứ điệp ấy một cách vô hại như không có.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa phù hợp với đức công lý (zedakah) của Người (24). Đối với Cựu Ước, ý niệm lề luật và công lý là ý niệm trung tâm. Đối với những con người đạo hạnh trong Cựu Ước, công lý của Thiên Chúa là một định đề nền tảng không cần bàn cãi. Dựa vào sự thánh thiện của Người, Thiên Chúa không thể làm bất cứ điều gì khác hơn là trừng phạt sự ác và tưởng thưởng sự thiện. Đối với Cựu Ước, điều đó không hề là một sự thật khiến người ta sợ hãi; ngược lại, nó là biểu thức nói lên hy vọng. Người đạo hạnh trong Cựu Ước hy vọng ở việc mặc khải đức công lý phổ quát của Thiên Chúa (Tv 5-9; 67:5; 96:13; 98:9; v.v…). Niềm hy vọng cánh chung này hướng về việc xuất hiện của Đấng Mêxia chính trực (Is 11:4). Chứng cớ công lý trong một thế giới bất công vốn là công trình của lòng thương xót đối với người bị áp bức và những ai bị từ khước mọi quyền lợi.
Như thế, sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là sứ điệp ơn thánh rẻ tiền. Thiên Chúa mong ta thực hiện những điều đúng đắn và công chính (Am 5:7, 24; 12:2, v.v…). Vì lý do này, lòng thương xót không chống lại sứ điệp công lý. Đúng hơn, trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa kìm hãm cơn thịnh nộ chính đáng của Người; thực vậy, người kìm hãm chính Người. Người làm thế, để cung cấp cho con người cơ hội hoán cải. Lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho người có tội một thời ơn thánh và mong họ trở về. Xét cho cùng, lòng thương xót chính là ơn trở lại.
Chỉ cần trích dẫn đoạn sau đây để hỗ trợ cho điều trên. Sau khi dân bị trừng phạt đích đáng phải biệt xứ vì tội bất trung của họ, Thiên Chúa, vì lòng thương xót, đã ban cho họ một cơ hội khác.
“Ta bỏ ngươi trong chốc lát, nhưng với lòng cảm thương vô hạn, Ta sẽ gom ngươi lại. Trong cơn thịnh nộ bừng bừng chốc lát, Ta đã dấu mặt Ta khỏi ngươi, nhưng với tình yêu muôn thuở, Ta sẽ cảm thương ngươi…
“Vì núi có thể ra đi và đồi có thể chuyển rời, nhưng tình yêu bền vững của Ta sẽ không đi khỏi ngươi, và giao ước bình an của Ta sẽ không chuyển rời, Chúa Thượng, Đấng cảm thương ngươi, nói thế” (Is 54:7-8, 10) (25).
Lòng thương xót chính là công lý đầy sáng tạo và phong phú của Thiên Chúa. Do đó, nó đứng trên mọi luận lý học tội lệ và trừng phạt kiểu bàn tay sắt, tuy nhiên, nó không mâu thuẫn với công lý. Đúng hơn, nó phục vụ công lý. Như thế, Thiên Chúa không bị trói buộc bởi một lề luật xa lạ cao hơn Người. Người không phải là một quan tòa ra phán quyết dựa theo một lề luật đã được định trước cho Người. Người càng không phải là một viên chức thi hành án lệnh của người khác. Trong quyền tối thượng của Người, Thiên Chúa thiết lập ra điều đúng.
Sự tự do tối thượng nói trên không hề là một tự do tùy tiện. Cũng có thể nói nó không phải là một thứ lưu tâm bột phát, theo bản năng và đầy lo lắng đối với nỗi khốn khổ của dân Người. Đúng hơn, nó nói lên sự trung thành (emet) của Người (26). Lòng khoan nhân (hay thương xót) và lòng trung thành đã được hàm nghĩa ngay trong việc mặc khải thánh danh Thiên Chúa. Trong chữ emet ta thấy gốc aman; gốc này chỉ một điều gì đó giống như “đứng vững” và “nắm được một thế nắm”. Hiểu theo cách này, lòng thương xót của Thiên Chúa tương ứng với lòng trung thành của Người. Giao ước, một điều Người ân ban hoàn toàn do lòng nhân hậu tự tại, là điều đáng tin cậy; nó cung cấp cơ sở vững vàng để ta dựa vào. Lòng thương xót nói lên một nghĩa vụ nội tại, đầy tự do và nhân hậu, mà Thiên Chúa có đối với chính Người và đối với dân mà Người đã chọn. Trong sự tự do tuyệt đối của Người, Thiên Chúa đồng thời là Đấng tuyệt đối đáng tin cậy. Ta có thể tín thác nơi Người; ta có thể trông cậy nơi Người trong mọi tình huống; nơi Người, có sự đáng tin cậy tuyệt đối.
Các chữ emet và aman còn được tìm thấy trong công thức khẳng định có tính thánh kinh và phụng vụ tức công thức “Amen”. Trong Tân Ước, aman được dịch là Πιστεύειν, nghĩa là tin. Tin không chỉ đơn giản là chấp nhận một điều gì đó đúng. Mà đúng hơn, trong diễn trình chấp nhận một điều gì đó đúng này, tin có nghĩa cậy nhờ vào Thiên Chúa, dựa vào Người mà xây dựng, gắn bó với Người và tìm được một chỗ vững chắc ở trong Người mà đứng. Đức tin là hành vi đầy tin tưởng phó mình cho lòng trung thành và lòng thương xót của Thiên Chúa. “Không vững tin là bạn không vững chi hết” (Is 7:9). “Tin vào Chúa, Thiên Chúa bạn, là bạn sẽ vững vàng” (2 Sb 20:20). Ta cũng có thể nói: có đức tin nghĩa là thưa “amen” đối với Thiên Chúa và, do đó, tín thác vào ân huệ, lòng trung thành, và lòng thương xót vô bờ của Người. Trong đức tin, con người nhân bản tìm được thế đứng vững chắc. Trong đức tin, họ nhận được ân ban một không gian đáng tin để sống.
6. Thiên Chúa chọn sự sống và người nghèo
Sứ điệp thương xót của Cựu Ước không đơn giản chỉ là sứ điệp thuần thiêng liêng; nó là một sứ điệp về sự sống và, do đó, có một chiều kích cụ thể theo nghĩa thể lý và xã hội hết sức thiết yếu đối với nó. Nhân loại đáng phải chết vì đã phạm tội. Vì thương xót, Thiên Chúa đã ban cho họ sự sống và không gian mới để sống. Thiên Chúa quả không hề là Đấng Thiên Chúa chết, đúng hơn, Người là Đấng Thiên Chúa đang sống, Đấng không hề muốn sự chết mà chỉ muốn sự sống. Người không hề vui trước cái chết của người có tội. Đúng hơn, Người vui mừng khi người có tội ăn năn và tiếp tục sống (Ed 18:23; 33:11). Chúa Giêsu tiếp nhận sứ điệp của Cựu Ước và nói rằng Thiên Chúa không phải là Đấng Thiên Chúa của kẻ chết, mà đúng hơn là Đấng Thiên Chúa của người sống (Mc 12:27; Mt 22:32; Lc 29:38).
Như thế, lòng thương xót của Thiên Chúa là sức mạnh Người nâng đỡ, bảo vệ, thăng tiến, xây đắp và tạo ra sự sống mới. Nó phá đổ luận lý học của con người về công lý, một thứ công lý luôn bao hàm trừng phạt và chết chóc cho người có tội. Lòng thương xót của Thiên Chúa mong muốn sự sống. Trung thành với giao ước từng ký kết với dân Người, Thiên Chúa hay thương xót đã tái lập mối liên hệ từng bị hủy diệt bởi tội lỗi, và Người ân ban các điều kiện sống mới, đáng tin cậy. Lòng thương xót chính là việc Thiên Chúa chọn sự sống. Nó minh xác: Không như Nietzsche từng nghĩ, Thiên Chúa không phải là kẻ thù của sự sống (27). Thiên Chúa quyền năng (Tv 27:1) và là nguồn sự sống (Tv 36:10); Người là bạn của sự sống (Kn 11:26).
Sự lưu tâm lo lắng đặc biệt của Thiên Chúa hướng về người yếu đuối và người nghèo nàn (28). Ký ức về việc Israel lúc còn ở Ai Cập rất nghèo (Xh 22:20; Đnl 10:19; 24:22) và Thiên Chúa dẫn dân Người ra khỏi Ai Cập bằng một bàn tay mạnh mẽ và cứu vớt họ (Xh 6:6; Đnl 5:15) vẫn tiếp tục gây hiệu quả. Ở đất hứa, tình yêu và sự chăm sóc đặc biệt của Thiên Chúa đã được áp dụng vào người nghèo nàn và yếu đuối. Nó đặc biệt hiển nhiên trong giới luật không được áp bức hay khai thác ngoại kiều, góa phụ và cô nhi (Xh 22:20-26); nó cũng hiển nhiên trong việc bảo vệ người nghèo ở tòa án (Xh 23:6-8) và trong việc cấm cho vay nặng lãi (Xh 22:24-26). Trong Sách Lêvi, ta thấy một luật lệ có tính xã hội rõ rệt (Lv 19:11-18; 25). Với Thiên Chúa, phẩm trật xã hội thông thường đã bị đảo ngược. Trong bài ca tạ ơn của Hanna, một bài ca báo trước bài Ngượi Khen (Magnificat) của Đức Maria trong Tân Ước, ta nghe thấy:
“Người đã nâng người nghèo lên khỏi đống bụi; Người đã nâng người thiếu thốn lên khỏi đống tro, và đặt họ ngồi ngang hàng vua chúa và thừa hưởng chỗ ngồi danh dự” (1Sm 2:8).
Ta cần đặc biệt nhắc đến luật Sabát (Xh 20:9tt; 23:12-15), là luật giả thiết cũng phải cung cấp cho nô lệ và ngoại kiều một ngày để lấy lại sức và nghỉ ngơi. Cũng có năm sabát, diễn ra mỗi chu kỳ 7 năm, trong đó, đồng ruộng được cày sới nhưng không gieo mục đích giúp người nghèo; trong năm này, nô lệ được trả tự do (Xh 23:10tt; Đnl 15:1-18). Cũng những điều tương tự như thế diễn ra trong năm hồng phúc (jubilee), trong đo, cứ mỗi 49 năm (7 lần bẩy năm) mọi tài sản được trả về nguyên chủ, đồng ruộng không gieo vãi, vườn nho không được thu hái và mọi người được trả tự do (Lv 25:8tt; 27:14tt). Dù cho điều khoản sau cùng ít khi được tuân giữ, nhưng phía sau nó vẫn hàm chứa ý tưởng liên đới của dân Chúa, những người đất đai được ban cho làm của chung. Sách Đệ Nhị Luật, do đó, đã khai triển quan niệm về một dân tộc, trong đó, sẽ không có người nghèo và người bị hất hủi (Đnl 8:9; 15:4), một dân tộc biết mọi qui định chi tiết liên quan tới quả phụ và cô nhi, ngoại kiều, và nô lệ (Đnl 14:29; 15:1-18; 16:11, 14; 24:10-22) và một dân tộc còn biết nhìn nhận cả nghĩa vụ đóng 10 phần trăm lợi tức (tithe) cho người nghèo. Sứ điệp này khởi đầu với lời tố cáo nghiêm khắc của Tiên Tri Amos chống việc bóc lột, bất công, và áp bức (Am 2:6-8; 4:1, 7-12; 8:4-7) và lời phê phán của ông trước lối sống phè phỡn của giai cấp thượng lưu (6:1-14). Thay thế cho các lễ lạc huyên náo và hy lễ toàn thiêu, ông đòi lấy sự chính trực và công lý làm lễ dâng tôn giáo (5:21-25).
Những lời lẽ tương tự như thế cũng tìm thấy nơi Isaia (1:11-17; 58:5-7), Êdêkien (18:7-9), Hôsê (4:1-3; 6:6; 8:13; 14:4), Mika (6:6-8) và Giacaria (7:9tt). Trong những đoạn văn này, ta cũng thấy nhiều lởi lẽ khích lệ người nghèo, những người tìm thấy nơi Thiên Chúa của Israel, Đấng Thiên Chúa khác với các ngẫu thần (Br 6:35-37), một lỗ tai thiện cảm, nơi trú ẩn, lòng thương xót, sự chính trực, và niềm an ủi (Is 14:32; 25:4; 41:17; 49:13; Gr 22:16).
Trong các vị tiên tri, ta nghe đi nghe lại lời khẩn cầu tha thiết xin được Chúa thương xót (Is 54:7; 57:16-19; 63:7 – 64:11; Gr 31:20 v.v…). Thiên Chúa hứa hẹn với người nghèo chứ không phải người cao ngạo và quyền thế (Is 26:6; 41:17; 49:13). Theo Sách Isaia 3, Đấng Mêxia được phái tới người nghèo và người bé mọn để đem tin mừng đến cho họ (Is 61:1).
Với các tiên tri, ta có thể an tâm nói về việc Thiên Chúa hết sức ưu tiên chọn người nghèo, người vô quyền, và người bé mọn. Người ta gần như bị cám dỗ nói tới một thứ trật tự xã hội mới hoàn toàn không tưởng (utopia). Tuy nhiên, chữ “utopia” (không tưởng) dùng ở đây không đúng chỗ. Vì ta không nói về một dự án của con người mà nói về ý muốn cứu rỗi của Thiên Chúa, Đấng muốn ban cho nhân loại sự sống, và lời hứa cánh chung của Người.
7. Ca tụng Thiên Chúa trong các Thánh Vịnh
Trong nhiều đoạn, các Thánh Vịnh nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa bằng những vần thơ tuyệt đẹp. Sau đây chỉ là một vài điển hình:
“Mọi nẻo đường của Chúa đều là yêu thương và trung tín bền vững, đối với những người tuân giữ giao ước và các giới răn của Người” (Tv 25:10).
“Lạy Chúa, tình yêu bền vững của Ngài vươn tới các tầng trời, lòng tín trung của Ngài vươn tới các tầng mây” (Tv 36:5).
“Chúa là Đấng thương xót và nhân hậu, chậm giận dữ và chan chứa yêu thương bền vững” (Tv 103:8; 145:8).
“Người cha cảm thương con cái thế nào, Chúa cũng cảm thương những người kính sợ Người như vậy” (Tv 103:13).
Giống như nơi các tiên tri, trong các Thánh Vịnh, những người trên cũng được Thiên Chúa nghe, được Người an ủi và giúp đỡ (Tv 9:10, 19; 10:14, 17; 22:25; 113:4-8, v.v…).
Ngoài lời ca tụng lòng Thương xót của Thiên Chúa, ta còn liên tiếp nghe lời kêu gọi vang vọng sau đây trong các Thánh Vịnh:
“Lạy Chúa, xin Ngài nhân hậu đối với con” (Tv 4:1; 6:2, v.v…).
Đặc biệt đáng lưu ý là đoạn đầu Thánh Vịnh nổi tiếng Miserere (Xin xót thương con), một Thánh Vịnh vốn được gán cho Vua Đavít sau khi ông phạm tội ngoại tình với Bethsheba, vợ Tướng Uriah, và Tiên Tri Nathan đã buộc ông phải nhận tội:
“Ôi lạy Chúa, xin xót thương con, theo tình thương bền vững của Chúa; xin tẩy sạch mọi tội nhơ của con theo lòng thương xót hải hà của Chúa” (Tv 51:1).
Cuối cùng, lời khẩn cầu tha thiết nhất đã nhiều lần được thay thế bằng lời tung hô tạ ơn và mừng vui hân hoan:
“Hãy ngợi khen Chúa! Ôi, hãy cảm tạ Chúa, vì Người tốt lành; vì tình yêu bền vững của Người kéo dài thiên thu” (Tv 106:1; 107:1).
Thánh Vịnh 136 nhắc lại lời tung hô mừng vui hân hoan ấy đến 26 lần. Các Thánh Vịnh tạo nên bài ca duy nhất tán tụng lòng thương xót của Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan tiếp nhận bài ca tán tụng lòng thương xót này:
“Nhưng Chúa, Thiên Chúa của chúng con, nhân hậu và chân thật, kiên nhẫn và cai trị mọi loài bằng lòng thương xót” (Kn 15:1).
Trong những ngày sau này ở Israel, những người tầm thường (am-haarez) trở nên cùng kiệt và bị giai cấp có ảnh hưởng và có học khinh bỉ. Do đó mà hình thành ra nhóm anawim gồm người nghèo, người thấp cổ bé miệng, người kém thế, người bị áp bức, người hiền lành, khiêm hạ, những người chẳng dám mong chờ chi nơi thế giới và chỉ còn biết đặt trọn hy vọng nơi một mình Thiên Chúa (30).
Cộng đồng Qumran cũng thuộc cùng bối cảnh này. Theo Sách Isaia 3, Đấng Mêxia biết Người được sai đến với những người thấp cổ bé miệng nghèo hèn này để đem tin mừng đến cho họ và để hàn gắn tất cả những ai có tâm hồn tan nát. Người sẽ công bố tự do cho người bị giam cầm, giải thoát các tù nhân, và an ủi những ai tang chế khóc lóc (Is 61:1-3). Ông Simêong và Bà Anna trong Tân Ước cũng thuộc những người tầm thường và đạo hạnh đang mong đợi Đấng Mêxia (Lc 2:25-38). Chúa Giêsu đã tiếp nhận sự chờ đợi này và liên kết sự nên trọn của nó với việc Người xuất hiện. Người biết rằng Người được sai đem tin mừng đến cho người nghèo (Lc 4:16-21).
Để tóm tắt, ta có thể nói rằng: sứ điệp thương xót của Thiên Chúa bàng bạc toàn bộ Cựu Ước. Thiên Chúa không ngừng làm dịu cơn thịnh nộ thánh thiêng hết sức chính đáng của Người và tỏ lòng thương xót với dân lang bang của Người, bất chấp sự bất trung của họ, ngõ hầu ban cho họ một cơ hội nữa để ăn năn và hoán cải. Người là Đấng bảo vệ và duy trì người nghèo và những ai không có quyền lợi. Các Thánh Vịnh, trước hết, cung cấp cho ta đầy đủ chứng cớ thuyết phục nhất chống lại lời quả quyết luôn được nêu ra rằng Thiên Chúa của Cựu Ước là Đấng Thiên Chúa hờn ghen ưa trả thù và thịnh nộ. Đúng hơn, từ Sách Xuất Hành tới Sách Thánh Vịnh, Thiên Chúa của Cựu Ước là “Đấng nhân hậu và hay thương xót, chậm giận dữ và giầu tình thương bền vững” (Tv 145:8; xem Tv 86:15; 103:8; 116:5).
Kỳ sau: IV. Sứ Điệp của Chúa Giêsu về lòng thương xót của Thiên Chúa
______________________________________________________________________________________________________
[*] Ghi chú của người dịch: đây là bản dịch Thánh Kinh của Đức được thực hiện giữa các thập niên 1960 và 1980 để dùng trong phụng vụ, và được Katholisches Bibelwerk ấn hành. Bản của Nhóm Các Giờ Kinh Phung Vụ dịch là “Lòng Ta đảo lộn trong Ta”.
______________________________________________________________________________________________________
[*] Ghi chú của người dịch: đây là bản dịch Thánh Kinh của Đức được thực hiện giữa các thập niên 1960 và 1980 để dùng trong phụng vụ, và được Katholisches Bibelwerk ấn hành. Bản của Nhóm Các Giờ Kinh Phung Vụ dịch là “Lòng Ta đảo lộn trong Ta”.
(20) Hans Walter Wolff, Dodekapropheten, XIV/1 (Neukirchen-Vluyn: Neukirchener Verlag, 1976), 261.
(21) Proksch và G. Kuhn, “ἃγιος”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament 1:87-112.
(22) Friedrich Nietzsche, Thus Spake Zarathustra, bản dịch của Thomas Common (NY: Carlton House), 96.
(23) J. Fichtner và G. Stahlin, “ὀργἡ” Theologisches Worterbuch zum Neue Testament, 5:395-410, 442-48. Gunther Bornkamm, “Die Offenbarung des Zormes” trong Studien zum Neuen Testament (Munich: Kaiser, 1985) 136, 189; Walter Groẞ, “Zorn-ein biblisches Theologumenon” trong Gott-ratlos vor dem Bosen? Wolgang Beinert hiệu đính (Freiburg i.Br.: Herder, 1999), 47-85.
(24) G. Quell, “δικαιοκρισία”, Theologisches Wonterbuch zum Neuen Testament, 2:176-80.
(25) Xem Is 44:26, 28; 49:10-13; Gr 3:12; 12:15; 26:13.
(26) G, Quell, G. Kittel và R. Bultmann, “άλήθεια”, Theologisches Wonterbuch zum Neuen Testament, 1:233-51.
(27) Friedrich Nietzsche, The Twilight of the Idols, bản dịch của Antholy M. Ludovici (New York: Macmillan, 1924), 42-43.
(28) F. Hauck, “πέυης”, Theologisches Wonterbuch zum Neuen Testament 6:37-40; F. Hauck và E, Bammel, “πτωχός” Theologisches Wonterbuch zum Neuen Testament 6:885-902; Norbert Lohfink, Lobgesange der Armen (Stuttgart: Verlag Kathpolisches Bibelwerk, 1990); H.-J. Fabry, “Armut”, Lexikon fur Theologie und Kirche, ấn bản 3, 1:1005-8.
(29) Về Đệ Nhị Luật, xin xem Norbert Lohfink, “Das deuteronomistishe Gesetz in der Endgestalt: Entwurf einer Gesellschaft ohne marginale Gruppen”, Biblische Notizen 51 (1990) 25-40.
(30) Hauck và Bammel, πτωχός, 894-902
(21) Proksch và G. Kuhn, “ἃγιος”, Theologisches Worterbuch zum Neuen Testament 1:87-112.
(22) Friedrich Nietzsche, Thus Spake Zarathustra, bản dịch của Thomas Common (NY: Carlton House), 96.
(23) J. Fichtner và G. Stahlin, “ὀργἡ” Theologisches Worterbuch zum Neue Testament, 5:395-410, 442-48. Gunther Bornkamm, “Die Offenbarung des Zormes” trong Studien zum Neuen Testament (Munich: Kaiser, 1985) 136, 189; Walter Groẞ, “Zorn-ein biblisches Theologumenon” trong Gott-ratlos vor dem Bosen? Wolgang Beinert hiệu đính (Freiburg i.Br.: Herder, 1999), 47-85.
(24) G. Quell, “δικαιοκρισία”, Theologisches Wonterbuch zum Neuen Testament, 2:176-80.
(25) Xem Is 44:26, 28; 49:10-13; Gr 3:12; 12:15; 26:13.
(26) G, Quell, G. Kittel và R. Bultmann, “άλήθεια”, Theologisches Wonterbuch zum Neuen Testament, 1:233-51.
(27) Friedrich Nietzsche, The Twilight of the Idols, bản dịch của Antholy M. Ludovici (New York: Macmillan, 1924), 42-43.
(28) F. Hauck, “πέυης”, Theologisches Wonterbuch zum Neuen Testament 6:37-40; F. Hauck và E, Bammel, “πτωχός” Theologisches Wonterbuch zum Neuen Testament 6:885-902; Norbert Lohfink, Lobgesange der Armen (Stuttgart: Verlag Kathpolisches Bibelwerk, 1990); H.-J. Fabry, “Armut”, Lexikon fur Theologie und Kirche, ấn bản 3, 1:1005-8.
(29) Về Đệ Nhị Luật, xin xem Norbert Lohfink, “Das deuteronomistishe Gesetz in der Endgestalt: Entwurf einer Gesellschaft ohne marginale Gruppen”, Biblische Notizen 51 (1990) 25-40.
(30) Hauck và Bammel, πτωχός, 894-902
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét