Trang

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011

TÔNG ĐỒ PHAOLÔ

TÔNG ĐỒ PHAOLÔ

1. SINH QUÁN VÀ GIA THẾ:

Thánh Phaolô có tên là Saolô, sinh vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu. Tuy là người Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông minh vượt xa những người cùng lứa tuổi. Lúc nhỏ được giáo dục ở Tarsus là một trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt phái. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt thành đối với truyền thống của cha ông (x. Gal 1:14; Phil 3:5-6; Cv 22:3; 23:6; 26:5).

2. CUỘC TRỞ LẠI:

Do sống cùng thời với Đức Giêsu và là ngôi sao đang lên của trường phái Pha-ri-sêu, chắc chắn Saolô phải biết những gì xãy ra ở Giê-ru-sa-lem. Có thể ông đã nhìn thấy và rất có thể ông đã nghe biết những bài giảng của Đức Giêsu. Và chắc chắn, Saolô rất ghét Ngài vì Ngài đang phá đổ những gì mà ông nhiệt thành tin tưởng. Sau cái chết của Đức Giêsu, ông tưởng đâu phong trào “lạc giáo” đó cũng tan theo. Nhưng ngược lại, những kẻ theo “con đường” (The Way) càng ngày càng đông. Saolô phải điên lên. Ông xin trát để lùng bắt tất cả những người theo “Đạo” và đưa về Giê-ru-sa-lem trừng phạt. Nhưng một biến cố xãy ra. Vào khoảng năm 33-35, trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Đa-mát để bắt bớ người theo Đạo, Saolô đã bị quật ngã và từ đó ông đã hoàn toàn thay đổi. Chính Chúa Kitô Phục sinh đã đích thân chọn ông làm tông đồ của Ngài. Chúng ta hãy đọc lại biến cố này qua lời tường thuật của thánh Luca (Cv 9:1-19).

3. HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO:

Sau cuộc trở lại, Sao-lô bắt đầu hoạt động tông đồ ngay tại Đa-mát (Cv 9:20-22). Sau đó Ngài lên Giê-ru-sa-lem gặp các tông đồ qua sự giới thiệu của Ba-na-ba rồi trở về Tác-xô (35-43 AD). Khoảng năm 43, Ba-na-ba đến tìm Sao-lô. Hai ông đã rao giảng và thành lập giáo đoàn tại An-ti-ô-khi-a. Từ khoảng năm 46 cho đến hết đời, Sao-lô còn gọi là Phao-lô, đã đặt bước chân truyền giáo của Ngài trên khắp các thành thị và hải cảng thuộc đế quốc La mã. Có thể chia những chuyến đi của Ngài làm ba cuộc hành trình truyền giáo chính: Hành trình thứ nhất từ năm 46 đến năm 49. Xuất phát từ An-ti-ô-khi-a thuộc miền Sy-ri-a, Phao-lô và Ba-na-ba đã đi nhiều nơi thuộc đảo Sýp và miền Pi-xi-đi-a. Đến đâu các ngài cũng bắt đầu rao giảng cho người Do thái tại các hội đường, nhưng phần đông không đón nhận Tin Mừng, do đó các ngài đã quay sang rao giảng cho dân ngoại. Nhiều người không phải Do thái đã nhiệt liệt đón nhận Lời Chúa. Điều này khiến người Do thái đâm ra ghen tức và xúi giục dân chúng nổi lên đánh đuổi các ngài.

Trong giai đoạn này, một biến cố xãy ra do sự xung đột giữa các Kitô-hữu gốc Do thái và các Kitô-hữu gốc dân ngoại khiến đưa đến “công đồng chung” Giê-ru-sa-lem năm 49. Chúng ta sẽ tìm hiểu cặn kẽ biến cố này ở một bài khác. Hành trình thứ nhì từ khoảng năm 50 đến năm 52. Cũng xuất phát từ An-ti-ô-khi-a thuộc miền Sy-ri-a, lần này Phao-lô không đi với Ba-na-ba mà đi với Xi-la và Ti-mô-thê. Các ông đi lên hướng bắc thuộc miền Ga-lát và Phy-ghi-a, rồi vượt biển đến Phi-líp-phê thuộc tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, sau đó đến Thê-xa-lô-ni-ca. Bị xua đuổi, một mình Phao-lô phải ra đi đến A-thê-na, thủ phủ của Hy lạp, tại đây Phao-lô đã giảng cho hội đồng A-rê-ô-ga-pô (Cv 17:16-34) là nơi quy tụ các triết gia nổi tiếng nhất Hy lạp. Sau đó ngài rời đến Cô-rin-tô rao giảng và thành lập giáo đoàn tại đó. Cũng tại đây, Phao-lô đã viết bức tông thư đầu tiên gởi cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (1 Tx) vào năm 51. Đây cũng là thư tịch tiên khởi cho cả Tân Ước. Tiếp theo là thư thứ hai 2 Tx. Hành trình thứ ba từ khoảng năm 52 đến năm 56. Cũng xuất phát từ An-ti-ô-khi-a, Phao-lô đi qua miền thượng du đến Ê-phê-xô (Cv 19:1) rao giảng và thành lập giáo đoàn tại đó. Thời gian này, Phao-lô đã viết hai thư 1 và 2 Cô-rin-tô (khoảng năm 54,55) và thư Rô-ma (khoảng năm 55). Hành trình cuối cùng (56-64). Vì sự ghen ghét của người Do Thái, khoảng năm 56 Phao-lô đã bị bắt, bị xét xử và bị cầm tù nhiều nơi. Ngài khiếu nại lên hoàng đế với tư cách là công dân La mã, do đó được giải qua La mã và bị giam lỏng tại đó. Trong thời gian này, ngài được tự do tiếp xúc với mọi người, đã “rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giê-su Ki-tô một cách mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (Cv 28:31). Khoảng thời gian này, ngài đã viết thư cho Phi-lê-môn, thư cho các tín hữu Cô-lô-xê, thư cho các tín hữu Ê-phê-xô (năm 60), thư cho các tín hữu Phi-líp-phê (năm 61), thư thứ nhất cho Ti-mô-thê, thư gởi Ti-tô (năm 62), thư thứ hai cho Ti-mô-thê (năm 63).


4. TỬ ĐẠO:

Chúng ta không có sử liệu chắc chắn về cái chết của thánh Phao-lô. Tương truyền rằng, khoảng năm 64 Ngài bị chém đầu dưới thời hoàng đế Nê-rô. Sau đó, Ngài được an táng gần địa điểm hiện nay là Vương Cung Thánh Đường Thánh Phao-lô Ngoại Thành.

Tại sao Phaolô được gọi là tông đồ trong khi Ngài không là một trong mười hai người được Chúa Giêsu chọn?

Chúng ta vẫn biết danh hiệu “tông đồ” được dành riêng cho Nhóm Mười Hai. Thế thì vì sao Phaolô cũng được gọi là tông đồ?

Thánh Phaolô có lẽ chưa bao giờ tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt khi Chúa Giêsu còn sống, nhưng Ngài gặp Chúa Giêsu trên đường Damas, sau khi Chúa Giêsu đã sống lại. Trong thư viết cho giáo dân Côrintô và Galata, Phaolô khẳng định là Chúa Giêsu Kitô kêu gọi Ngài làm Tông đồ (1 Cor 1:1; Gal 1:1).

Nhưng để hiểu vai trò của một Tông đồ, ta cũng nên biết ý nghĩa của danh từ này. Trong tiếng Hi Lạp, apostolos có nghĩa là người được sai đi; và danh từ môn đệ - tiếng Hi Lạp mathètès - có nghĩa là học trò, học sinh.

Trong Tân ước, đôi khi các thánh sử dùng hai danh từ này thay đổi nhau để chỉ cùng một đối tượng. Mathêu gọi Nhóm Mười Hai - một danh từ đặc biệt chỉ 12 người được chọn và sống gần gũi với Chúa Giêsu - là Tông đồ (Mt. 10:2) khi kê khai tên họ, nhưng ông lại gọi họ là những Môn đệ khi nhắc đến họ trong những lần khác. Chỉ có Luca dùng danh từ Tông đồ hầu như để dành riêng cho Nhóm Mười Hai mà thôi, dù một lần trong sách Công vụ tông đồ, Luca gọi Phaolô và Barnabas là hai Tông đồ (Cvtd 14:14).

Cũng nên biết rằng con số Mười Hai là dấu chỉ quan trọng có ý nghĩa tôn giáo và liên quan đến mười hai chi họ Israel. Vì thế sau khi Giuda phản bội, nhóm Mười Một đã chọn Mathias thay thế cho đủ số Mười Hai. Nhưng sau khi các Tông đồ trong nhóm Mười Hai qua đời, họ không còn bốc thăm để thay thế nữa (Cvtd 1:21-26).

Thánh Phaolô không dùng danh từ Môn đệ mà dùng từ Tông đồ để chỉ mình và những người cộng tác đương thời. Ngài dùng từ Tông đồ để chỉ những người được Chúa Giêsu kêu gọi và sai đi rao giáng tin mừng. Với Nhóm Mười Hai, Phaolô dùng từ này để chỉ cả nhóm hơn là cá nhân (1 Cor 15:5).

Liệt kê danh sách những công việc mục vụ, thánh Phaolô kể chức năng Tông đồ vào hàng đầu tiên: "thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ...." (1 Cor 12: 28). Trong khi công nhận vai trò quan trọng của các Tông đồ đối với mình, Phaolô cũng tự nhận là Tông đồ, nhất là mỗi khi nói đến quyền giảng dạy (Rom 1:1; 2 Cor 1:1; Gal 1:1). Phaolô còn so sánh mình là Tông đồ dân ngoại và Phêrô là Tông đồ của những người chịu cắt bì (Gal 2:8).

Như vậy, danh từ Tông đồ được dùng không chỉ cho Nhóm Mười Hai mà còn với Phaolô, Barnabas, và nhiều người được Chúa Giêsu Kitô kêu gọi và sai đi trong thời sơ khai. Khi so sánh mình với những Tông đồ này (là những người được sai đi, không hẳn chỉ là Nhóm Mười Hai), Phaolô lên tiếng: "tôi nghĩ là tôi cũng chẳng thua gì những Tông đồ siêu đẳng kia đâu" (1 Cor 11:5).

Các thánh giáo phụ vẫn cắt nghĩa rằng Phaolô tự hào nhận mình là Tông đồ vì Ngài cảm nghiệm chắc chắn rằng Chúa Giêsu Kitô đã kêu gọi và cắt đặt Ngài đi rao giảng Tin Mừng - không thua gì những Tông đồ được sống với Chúa Giêsu - qua việc làm và lời nói (2 Cor 12:12; Cvtd 19;11-12).


LONG XUYÊN (SƯU TẬP).

Nguồn: thanhanhiepthong

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét