VUI HỌC THÁNH KINH
HỌC HỎI LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 15,9-17
I. TIN MỪNG
9 Chúa Cha
đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy.10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở
lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở
lại trong tình thương của Người.11 Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh
em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
12 Đây là
điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.13
Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng
vì bạn hữu của mình.14 Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những
điều Thầy truyền dạy.15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ
không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì
Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
16 Không
phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để
anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả
những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.17
Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
9 As the Father loves me, so I also love you. Remain in my love.
10 If you keep my commandments, you will remain in my love, just
as I have kept my Father's commandments and remain in his love.
11 "I have told you this so that my joy may be in you and
your joy may be complete.
12 This is my commandment: love one another as I love you.
13 No one has greater love than this, to lay down one's life for
one's friends.
14 You are my friends if you do what I command you.
15 I no longer call you slaves, because a slave does not know
what his master is doing. I have called you friends, 6 because I have told you
everything I have heard from my Father.
16 It was not you who chose me, but I who chose you and appointed
you to go and bear fruit that will remain, so that whatever you ask the Father
in my name he may give you.
17 This I command you: love one another.
II. TRẮC NGHIỆM
01. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa
ra cho chúng ta một khuôn mẫu về tình thương để noi theo và bắt chước, đó là:
a. Các con
hãy làm việc tốt.
b. Các con
hãy yêu thương nhau, như Thày đã yêu thương các con.
c. Các
con luôn nghĩ tới anh em.
d. Các con
hãy chia sẻ cơm áo cho nhau.
02. Điều Thầy truyền dạy anh em là gì?
a. Hãy yêu
thương nhau.
b. Hãy đi
loan báo Tin Mừng.
c. Hãy rửa
tội cho mọi người.
d. Cả a, b
và c đúng.
03. Qua bài Tin Mừng này thì tình thương mến có
những đặc tính gì?
a. Ở lại
trong kẻ mình thương mến.
b. Giữ các
điều răn.
c. Biết hy
sinh cho kẻ mình thương …
d. Cả a, b
và c đúng.
04. Điều răn của Đức Giêsu là thế nào?
a. Mọi
người phải được cứu độ.
b. Muôn
dân phải được nghe Tin Mừng.
c. Anh em
hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
d. Cả a, b
và c đúng.
05. Qua bài Tin Mừng này chúng ta thấy tình yêu
của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ đâu?
a. Tấm
lòng yêu thương con người.
b. Chúa Cha
c. Sứ mạng
của Đức Giêsu.
d. ý muốn
cứu độ con người.
06.
Trong bài Tin Mừng này, chúng ta thấy một tình yêu duy nhất, nhưng không ngừng
tuôn trào, đó là:
a. Từ Chúa Cha qua Chúa Con: "Như Cha đã yêu Thầy"
b. Từ Chúa Con qua các môn đệ: "Thầy cũng yêu anh em"
c. Rồi giữa các môn đệ với
nhau: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
d. Cả a, b
và c đúng.
07. Đây là một trong những dấu hiệu của tình yêu
mà Chúa Giêsu đã nói:
a. Tha thứ
b. Giúp đỡ
c. Chia sẻ
d. Cả a, b
và c đúng.
III. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG
Anh em hãy yêu thương
nhau
như Thầy đã yêu
thương anh em.
Tin
Mừng thánh Gioan 15,12
Lời giải đáp
CÙNG HỌC HỎI LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 15,9-17
II. Lời giải đáp TRẮC NGHIỆM
01.
b.
Các con hãy yêu thương nhau, như Thày đã yêu thương các con.
02. a. Hãy
yêu thương nhau.
03. d. Cả a, b và c đúng.
04.
c. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em.
05. b. Chúa Cha
06.
d. Cả a, b và c đúng.
07. a. Tha
thứ
GB. NGUYỄN
THÁI HÙNG
Suy niệm Chú Giải Chúa nhật VI Phục sinh
- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời
Chúa Nhật VI Phục Sinh tập trung vào chủ đề chính yếu: “Thiên Chúa là Tình
Yêu”.
CHÚA NHẬT
VI PHỤC SINH
Phụng Vụ Lời Chúa Nhật VI Phục Sinh tập trung vào chủ đề
chính yếu: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Cv 10: 25-26, 34-35, 44-48
Đoạn trích sách Công Vụ tường thuật thánh Phê-rô viếng
thăm gia đình viên sĩ quan Rô-ma ngoại giáo tên là Co-nê-li-ô: Chúa Thánh Thần
tuôn đổ những ân ban của Ngài trên viên sĩ quan lương dân nầy cùng thân bằng
quyến thuộc của ông; như vậy, cho thấy rằng tình yêu Thiên Chúa được ban cho
hết mọi người không loại trừ bất kỳ ai.
1Ga 4: 7-10
Trong đoạn trích thư thứ nhất này, thánh Gioan ca ngợi
tình yêu Thiên Chúa đi bước trước: “Tình yêu cốt ở điều nầy: không phải chúng
ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, và sai
Con của Người đến hy sinh làm của lễ đền tội cho chúng ta”.
Ga 15: 9-17
Sau dụ ngôn “Cây Nho Thật” được trích dẫn từ Diễn Từ Cáo
Biệt của Đức Giê-su với các môn đệ thân thương của Ngài, Chúa Giê-su thổ lộ tấm
lòng thương yêu của Ngài
đối với các môn đệ Ngài và tất cả những ai mà Ngài yêu thương. Vì họ, Ngài sẽ
hiến dâng mạng sống mình.
BÀI ĐỌC I (Cv
10: 25-26, 34-35, 44-48)
Câu chuyện nầy
thuật lại một biến cố đặc biệt nhất trong sự nghiệp tông đồ của thánh Phê-rô và
mang tính quyết định nhất đối với việc phát triển Giáo Hội tiên khởi: chấp nhận
một lương dân và thân bằng quyến thuộc của người nầy vào trong cộng đoàn Ki-tô
giáo, không cần qua lề luật Mô-sê, nhất là phép cắt bì. Một cách nào đó, Chúa
Thánh Thần đã bắt buộc vị lãnh tụ các Tông Đồ thực hiện điều nầy.
Người lương
dân nầy tên là Co-nê-li-ô, viên sĩ quan ngoại giáo trong quân đội Rô-ma đồn trú
tại thành phố Xê-da-rê. Viên sĩ quan nầy là một người có thiện cảm với Do-thái
giáo, một trong số những người được gọi “những
người kính sợ Thiên Chúa”. Họ là những người nhận ra vị Thiên Chúa Ít-ra-en
là Thiên Chúa độc nhất, cầu nguyện với Ngài và cứu trợ cộng đồng Do-thái, nhưng
không gia nhập vào cộng đồng nầy, khác với những tân tòng, nghĩa là những người
chấp nhận phép cắt bì, tuân giữ ngày sa-bát và những đòi hỏi khác của luật
Mô-sê.
1.Thái độ
khác thường của thánh Phê-rô.
Chấp nhận lời
mời của ông Co-nê-li-ô, thánh Phê-rô thân hành đến tại nhà ông. Hoạt cảnh thánh Lu-ca tường thuật thật cảm động.
Việc thánh Phê-rô vào nhà một người lương dân, không sợ giao tiếp với một “kẻ ô-uế” thì thật khác thường. Như chúng ta
biết, những phong tục tập quán, chứ không lề luật, đã thiết lập muôn vàn rào
chắn giữa dân Do-thái và lương dân, trước hết nhằm tránh tất cả sự nhiễm uế
ngoại giáo, tiếp đó tuân giữ luật thanh sạch một cách nghiêm nhặt và phức tạp
như thanh tẩy, kiêng cử đồ ăn thức uống.
Thái độ
của ông Co-nê-li-ô cũng khác thường: “Khi
thánh Phê-rô bước vào nhà, ông Co-nê-li-ô đích thân ra đón và phủ phục dưới
chân vị Tông Đồ mà bái lạy”. Cử chỉ của viên quan Rô-ma nầy thật đáng ngạc
nhiên. Việc phủ phục là một nghi lễ Đông Phương, được dành cho các vị thần linh
và các bậc vua chúa.
Trước cử chỉ
chỉ dành cho Thiên Chúa này, thánh Phê-rô phản ứng ngay liền lúc đó: “Bản thân tôi đây cũng chỉ là người
phàm”. Có lẽ thánh nhân nghĩ đến hình ảnh của người phong hủi và người đàn
bà tội lỗi đã phủ phục dưới chân Thầy mình. Đức Giê-su là Chúa và là Thiên Chúa
trong khi thánh nhân chỉ là một người môn đệ khiêm tốn của Đức Giê-su.
2.Bài diễn
từ khác thường của vị lãnh tụ Tông Đồ.
Bài diễn từ
của thánh nhân cũng khác thường. Số người tham dự thì đông: “Ông Co-nê-li-ô cho mời thân bằng
quyến thuộc đến”. Lúc đó, thánh Phê-rô công bố những điều thật bất ngờ:
không còn một dân đặc quyền đặc lợi nữa, Thiên Chúa không thiên vị người nào
hay dân tộc nào; “nhưng hễ ai
kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều
được Người tiếp nhận”. Vị lãnh tụ Tông Đồ nhận ra chiều kích mới của dân
Thiên Chúa.
3.Hoạt động
khác thường của Chúa Thánh Thần.
Sau cùng, hoạt
động của Chúa Thánh Thần thì cũng khác thường. Sách Công Vụ làm chứng rằng Chúa
Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển Giáo Hội tiên
khởi. Vì thế, không phải là vô căn cứ khi sách Công Vụ Tông Đồ được gọi là “sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”.
Chính Chúa
Thánh Thần đã xếp đặt cuộc gặp gỡ giữa thánh Phê-rô và ông Co-nê-li-ô. Chính
Ngài đã ban cho cả hai người thị kiến hay xuất thần; chính Ngài làm gián đoạn
bài diễn từ của vị Tông Đồ để tỏ mình ra và ngự xuống trên mọi người. Có mấy
anh em ở Gia-phô, tức các Ki-tô hữu gốc Do thái, cùng đi với thánh Phê-rô (Cv
10: 23). Họ vô cùng kinh ngạc vì những dấu chỉ đặc sũng làm chứng sự hiện diện
của Chúa Thánh Thần ở nơi lương dân, ngay cả trước khi những lương dân nầy đón
nhận phép Thánh Tẩy hay nghi thức đặt tay. “Lễ
Ngũ Tuần lương dân” nầy, khá
giống với Lễ Ngũ Tuần trước đó, cho thấy Thiên Chúa có sáng kiến ban tặng muôn
vàn thiên ân cho “những ai ăn
ngay ở lành”.
Đối với Giáo
Hội tiên khởi, đây là một mặc khải và là một cuộc cách mạnh. Chính thánh Phê-rô,
vị lãnh tụ Giáo Hội, ý thức đầu tiên về điều nầy. Với những người lương dân nầy
mà Chúa Thánh Thần chỉ định, thánh nhân mở rộng cánh cửa Nước Trời khi“truyền
làm phép Rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”.
BÀI ĐỌC II
(1Ga 4: 7-10)
Chúng ta tiếp
tục đọc thư thứ nhất của thánh Gioan. Trong đoạn trích nầy, chúng ta gặp lại
chủ đề mà thánh Gioan không ngừng lập đi lập lại: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, vì
thế, chúng ta hãy yêu thương nhau. Lời khuyên bảo nầy được xoay quanh hai ý
tưởng. Trước hết, Thiên Chúa là Tình Yêu, vì thế, tình yêu là lối ngõ dẫn vào
cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa. Sau nữa, tình yêu Thiên Chúa được chứng thực
ở nơi việc Ngài đã ban cho nhân loại Con Một của Ngài.
1.Tình yêu
là lối ngõ dẫn vào cuộc sống tâm giao với Thiên Chúa.
Như Đức Giê-su
trong Tiệc Ly, thánh Gioan cũng gọi cộng đoàn Ki-tô hữu của mình bằng những lời
trìu mến: “Hỡi anh em là những
người con bé nhỏ”. Cách xưng hô nầy rất xứng hợp để giới thiệu một cộng
đồng được phát triển trên nền tảng tình yêu. Những lời chan chứa yêu thương nầy
khơi dậy sự chú ý và loan báo tầm quan trọng của giáo huấn.
Trong chỉ vài
lời, thánh Gioan đặt nền tảng của “sự
hiểu biết” Ki-tô giáo đích
thật. Trái với những khẳng định của các ngôn sứ mạo danh, những kẻ làm xáo động
các tín hữu, thánh nhân quả quyết rằng chúng ta biết Thiên Chúa không bởi ánh
sáng thần khải, cũng không bởi những suy luận thuần túy trừu tượng, nhưng từ
thành quả của một kinh nghiệm: kinh nghiệm của đức ái: yêu thương nhau như
Thiên Chúa yêu thương chúng ta. “Tình
Chúa đối với chúng ta” là
khuôn vàng thước ngọc và là nguồn mạch của mọi tình yêu.
Thần học nầy,
thánh Gioan đã nêu lên rồi trong Tin Mừng của mình: “Sự sống đời đời, đó là họ nhận
biết Cha” (Ga 17: 3). Thuật
ngữ “biết” trong Tin Mừng Gioan chứa đựng “trọn cả khối óc lẫn con tim”. Vả lại, di
sản Do-thái rất dể nhận ra ở nơi đoạn trích dẫn nầy: lời quả quyết vừa theo
hình thức khẳng định: “Phàm ai
yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” vừa theo hình thức phủ định: “Ai không yêu thương, thì không
biết Thiên Chúa”, là nét đặc
trưng của lối hành văn Do-thái.
Như vậy, “biết Thiên Chúa” thông qua đức ái nầy: vừa trải rộng
cho hết mọi người vừa hướng về Thiên Chúa là cội nguồn tình yêu, đưa chúng ta
dự phần vào cùng một cuộc sống với Thiên Chúa, chia sẻ cùng sự sống thần linh
của Ngài. Chúng ta nên ghi nhận rằng thánh Gioan không giới hạn viễn cảnh chỉ
vào đức ái Ki-tô hữu: “Phàm ai
yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Cũng như trong Tựa Ngôn, khi
định nghĩa Thiên Chúa là ánh sáng, thánh Gioan nhấn mạnh rằng ánh sáng nầy “đến thế gian và chiếu soi mọi
người” (Ga 1: 9).
2.Tình yêu
Thiên Chúa được chứng thực ở nơi việc Ngài ban cho chúng ta Con Một của Ngài.
Trong bức thư
nầy, những lời khuyên bảo và những lời nhắc nhở về đạo lý được quyện vào nhau
đến độ khó nắm bắt. Điều quan trọng là giúp các Ki-tô hữu kiên vững trong niềm
xác tín của mình khi phải đối mặt với những lời nói vớ vẩn liên quan đến con
người của Đức Ki-tô, tức là những kẻ muốn loại bỏ tầm quan trọng của biến cố
Nhập Thể khỏi Tin Mừng, và vì thế, đánh mất cả ơn Cứu Độ.
Ấy vậy,
sự kiện Nhập Thể, nhờ đó, Đức Ki-tô mới có thể dâng hiến thân thể của mình
thành của lễ, lại là bằng chứng xác thực nhất và cao cả nhất cho thấy tình yêu
Thiên Chúa đối với con người.
“Thiên Chúa
đã sai Con Một đến thế gian”. Diễn ngữ nầy chỉ được gặp thấy nơi bút pháp của thánh Gioan. Trong Bức
thư nầy, trong Tựa Ngôn và trong sách Tin Mừng Gioan, đều có chung tư tưởng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được
sống muôn đời” (Ga 3: 16).
Nhập Thể đã
dẫn đưa tình yêu Thiên Chúa còn đi xa hơn nữa: ban Con Một của Ngài để tha thứ
tội lỗi. Như vậy, Nhập Thể và Ơn Cứu Độ là hai mặt của một thực tại, không thể
nào bị loại ra khỏi Ki-tô giáo. Chúng không là những khái niệm xuất phát từ
những suy luận phàm nhân, nhưng là những sáng kiến đến từ Thiên Chúa và chứng
thực chân lý hàng đầu và căn bản nầy: “Thiên
Chúa là Tình Yêu”.
Trong bốn tác
giả Tin Mừng, thánh Gioan nhấn mạnh hơn ai hết tình yêu Thiên Chúa. Bản văn Tin
Mừng hôm nay dâng hiến cũng những âm vang như thư thứ nhất nầy.
TIN MỪNG
(Ga 15: 9-17)
Đoạn Tin Mừng
hôm nay được trích dẫn từ “Diễn
Từ Cáo Biệt” của Đức Giê-su
với các môn đệ của Ngài. Đoạn Tin Mừng nầy tiếp liền sau dụ ngôn “Cây Nho Thật”được đọc vào Chúa
Nhật trước.
Trong dụ ngôn “Cây Nho Thật”, Chúa Giê-su đã cho thấy rằng cành nho
chỉ có thể sinh hoa kết trái nếu nó gắn liền với thân nho. Cũng vậy, các môn đệ
dự phần vào sự sống Thiên Chúa và sinh hoa kết trái chỉ khi nào họ kết hợp với
Ngài.
Qua hình ảnh
nầy, Đức Giê-su diễn tả mối liên hệ mới mà Ngài đã đến thiết lập giữa Thiên
Chúa và con người: mối tâm giao của tình yêu.
1.Tình yêu
của Đức Giê-su đối với các môn đệ của Ngài.
Trong bầu khí
ly biệt nầy, Đức Giê-su nói với các môn đệ của Ngài, những người mà Ngài yêu
thương cho đến cùng, bằng một cung giọng rất mực trìu mến: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy như thế
nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”.
Ở đây, chúng
ta chạm đến đỉnh cao của Mặc Khải: Chúa Con mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là
Cha đầy yêu thương, Đấng mà Chúa Con giữ mối liên hệ Phụ Tử duy nhất. Ấy vậy,
điều đáng chú ý chính là trong Tin Mừng Gioan, hễ khi nào những mối liên hệ
giữa Cha và Con được nêu lên, đều được liên kết vào trong những viễn cảnh liên
quan đến nhân loại. Điều nầy vén mở rằng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa,
thay vì tập trung trên chính mình, tất yếu hướng về thụ tạo. Tất cả những gì
Chúa Con lãnh nhận từ Chúa Cha, chính là để ban cho chúng ta. Tình yêu mà Chúa
Cha dành cho Chúa Con, cũng chính là tình yêu Chúa Con dành cho các môn đệ của
mình.
2.Tình yêu
của các môn đệ đối với Đức Giê-su.
Đến lượt mình,
Đức Giê-su mời gọi các môn đệ của Ngài hãy yêu mến Ngài, không là một thứ tình
cảm trừu tượng, nhưng nhất mực trung thành với các điều răn của Ngài. Ngài đã
nói với họ rồi trước đó một chút: “Ai
có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (14: 21).
Chúng ta đã
thấy rồi, động từ “ở lại” là động từ chủ chốt của từ vựng Gioan.
Trong chương 15 nầy, động từ “ở
lại” nầy, xuất hiện mười ba
lần, nhấn mạnh sự hiện diện thường hằng của Thiên Chúa trong đời sống “nội tâm” của người Ki-tô hữu. Như vậy, đức ái
mà Đức Giê-su đề cao tạo nên một chuyển động kép: bên ngoài, thực hành những
huấn lệnh Tin Mừng; bên trong, tăng cường mối liên hệ với Đức Ki-tô.
“Các điều
ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui
của anh em được nên trọn”. Thật là mâu thuẩn biết bao, “niềm
vui” nầy được công bố bởi
người sắp phải đối mặt với những xao xuyến tận mức. Và cũng thật mâu thuẩn biết
mấy, Ngài hứa ban niềm vui tròn đầy cho những người sắp phải chịu cơn choáng
váng đến tận cùng nỗi tuyệt vọng về cái chết của Ngài. Tuy nhiên, niềm vui nầy
được định vị ở trung tâm lập luận: vui trong bầu khí thân tình nầy, đó sẽ là
cách thế hiện diện vô hình của Ngài ở nơi họ, sự hiện diện lòng bên lòng, nhờ
đó họ sống sự sống của Ngài và lòng tràn đầy niềm vui mà “không ai lấy mất đi được” (16: 22), như Ngài sẽ xác định một lát
sau đó.
3.Tình yêu
của các môn đệ đối với nhau.
Trong Diễn Từ
Cáo Biệt, những lời dặn dò sau cùng nầy, những lời trăn trối này, những lời tâm
huyết nầy, được cô động ở nơi một lệnh truyền duy nhất: “Anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy yêu thương anh em”. Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Giê-su là khuôn
mẫu tình yêu của Ngài đối với họ; đến phiên họ, tình yêu của Ngài đối với họ
phải là khuôn mẫu tình yêu của họ đối với nhau.
Đức Giê-su đã công bố lệnh truyền nầy rồi với
một cung giọng đầy cảm xúc, ngay liền sau khi Giu-đa rời bỏ bàn tiệc mà ra đi: “Hỡi anh em là những người con bé
nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi… Thầy ban cho anh em
một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em” (13:
33-34).
“Giới Răn Mới” nầy cốt yếu là gì? Người ta đã đọc thấy từ lâu
trong sách Lê-vi:“Hãy yêu người thân cận như chính mình ngươi”. Tuy
nhiên, lệnh truyền mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ của Ngài có tầm mức vượt
quá mọi mức độ, không còn tình yêu quy chiếu về chính mình, nhưng về tình yêu
vô bờ của Thiên Chúa là “hy
sinh mạng sống mình cho những người mà Ngài yêu”.
“Những người mà Ngài
yêu”, trước hết chính là các môn
đệ của Ngài đang vây quanh Ngài và lắng nghe lời Ngài; tức là những người mà
Ngài gọi là những bạn tâm phúc của Ngài và trao gởi cho họ sứ điệp của Ngài; họ
là những người mà Ngài đã chọn để tiếp tục sự nghiệp của Ngài. Sự tuyển chọn
nầy tấn phong họ là những người được Ngài sai đi, những nhà truyền giáo “thu được kết quả và kết quả tồn
tại mãi”.
“Những người mà Ngài
yêu”, cũng chính là, ở bên kia
các Tông Đồ đang hiện diện với Ngài, tất cả những ai mà Ngài đã hy sinh mạng
sống mình cho họ. Lệnh truyền“hãy yêu thương nhau” phải rộng mở bao la như tình yêu của
Đức Giê-su: “chết cho tất cả
mọi người”.
Tuy nhiên, cung giọng
trực tiếp của Ngài là cung giọng chứa chan tình thương mến, cả với tư cách con
người lẫn tư cách Thiên Chúa. Chính bằng cung giọng chan chứa tình thương mến
nầy mà Đức Giê-su ngỏ lời với các Tông Đồ vào lúc từ giả các ông ra đi. Tấm
lòng phàm nhân của Ngài để lộ chiều sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa nầy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét