Lòng thương xót, yếu tính của Tin Mừng và chìa khóa dẫn vào đời sống Kitô hữu (22)
VI. Phúc thay ai có lòng thương xót (tiếp theo)
4. Đừng thương xót giả hiệu kiểu để mặc!
Ngay lòng thương xót và tôn giáo cũng có thể bị lạm dụng. Giới răn yêu thương người lân cận của Kitô Giáo, và nhất là giới răn yêu thương kẻ thù, phải được thể hiện trong các điều kiện của thế giới. Điều này có thể dẫn tới chỗ lòng thương xót trở thành lưỡng nghĩa, thậm chí bị hiểu sai và lạm dụng trong bầu khí lưỡng nghĩa của thế giới hiện nay. Người ta hầu như có thể làm đồi trụy lòng thương xót đến độ biến nó thành điều trái ngược với chính nó và làm cho lời kêu gọi thương xót trở thành một thứ “chất làm mềm” tâm thức Kitô Giáo.
Ngày nay, một hình thức thương xót giả hiệu đang được bàn luận nhiều là hình thức nhằm bảo vệ người làm điều xấu hơn là nạn nhân của họ. Thứ dung túng diễn ra do một tình bằng hữu hay tình hợp đoàn sai lầm. Nó cũng có thể diễn ra vì người ta muốn bảo vệ một định chế, bất kể đó là Giáo Hội, là nhà nước, một dòng tu, hay một câu lạc bộ, chống lại bất cứ hậu quả tai hại nào nếu điều làm sai bị vạch trần và bị khởi tố. Một não trạng như thế đi ngược lại tinh thần Tin Mừng, một tinh thần luôn cổ vũ việc ưu tiên chọn người nghèo và bênh vực cho bất cứ ai yếu thế hơn. Do đó, việc bảo vệ nạn nhân phải ưu tiên hơn việc bảo vệ kẻ phạm tội.
Còn nhiều hình thức khác hiểu sai lòng thương xót không kém trầm trọng. Trước nhất, phải đề cập tới quan điểm để mặc (laissez-faire) nghĩa là để mặc mọi việc xẩy ra và diễn tiến. Nó khởi đầu với việc cha mẹ dung túng con cái mình trong mọi sự, vì một lòng thương xót lầm lẫn. Thái độ dị thường này được biểu lộ khi người ta bỏ qua một tác phong xấu hay tội lỗi, thay vì đòi người ấy thay đổi.
Trong sách tiên tri Êdêkien, ta thấy lời cảnh cáo mạnh mẽ. Ngài nói nếu lính canh không thổi kèn sừng cừu khi nguy hiểm tới gần và không cảnh giác để dân chúng ý thức được nguy cơ cận kề, thì anh ta phải chịu tính sổ về khoản máu đổ ra. Rồi, Êdêkien nói tiếp: nếu các ngươi không lên tiếng để cảnh giác kẻ xấu, nói với chúng rằng chúng sẽ chết vì tội lỗi của chúng, thì kẻ xấu sẽ chết vì tội lỗi của chúng. “Nhưng máu của chúng Ta sẽ đòi từ bàn tay các ngươi”. Nhưng nếu các ngươi cảnh giác kẻ xấu và chúng không quay đầu khỏi con đường của chúng, “kẻ xấu sẽ chết vì tội lỗi của chúng, nhưng các ngươi sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 33:6-9).
Thánh Phaolô quả quyết rõ ràng rằng người khác không thể là một vấn đề dửng dưng đối với chúng ta; đúng hơn, ta chịu trách nhiệm lẫn cho nhau do tình yêu và lòng thương xót. Do đó, Thánh Phaolô không do dự cảnh cáo cộng đoàn của ngài (Rm 12:1); và quả tình, vì mục đích này, ngài nại tới thẩm quyền cao nhất (2Cr 5:20). Một cách khá tổng quát, ngài nhắc cộng đoàn của ngài nhớ đến việc phải quan tâm và chịu trách nhiệm lẫn nhau giữa các Kitô hữu: “Hãy dạy dỗ và khuyên răn nhau” (Cl 3:16). Do đó, Tân Ước đã nói đến việc anh em sửa trị lẫn nhau (1Tx 5:11, 14; 2Tx 3:15; 2Tm 2:25; Tt 1:13; 2:15). Nếu lời khuyên răn này không tự coi mình là công chính, nhưng nói ra với ý thức rằng mình cũng có các sai lạc và thất bại, thì đây quả là một việc thương xót phần hồn (36). Theo cách này, lòng thương xót cũng là thuốc đắng và là thuốc cần thiết (37). Đôi khi nó gây thương tích, hệt như bác sĩ, khi mổ xẻ, cũng gây nên đau đớn và phải cắt phải mổ, không phải để gây hại, mà đúng hơn để giúp đỡ và chữa lành (38).
Một hiểu lầm trầm trọng khác về lòng thương xót xẩy ra khi, nhân danh lòng thương xót, ta tưởng ta có thể làm ngơ giới răn công bình của Thiên Chúa và hiểu tình yêu và lòng thương xót, không phải như việc chu toàn và vượt quá công bằng, mà đúng hơn như việc cắt xén và tiêu hủy nó. Do đó, ta không thể đi ngược lại các giới răn cơ bản về công bằng vì hiểu lòng thương xót theo lối cảm xúc. Ta không thể cố vấn hay trợ giúp một cuộc phá thai vì một cảm thức thương xót giả mạo, nếu việc sinh hạ một trẻ nhỏ có khuyết tật xem ra là một kỳ vọng quá đáng đối với người mẹ hay đứa con. Cũng thế, người ta không thể, vì thương xót một người bệnh không thể chữa được, mà tích cực giúp đỡ để họ tự tử hầu “giải thoát’ họ khỏi đau đớn và đau khổ. Những thứ thương xót giả mạo như thế không hề mô phỏng lòng thương xót của Thiên Chúa; đúng hơn, chúng bác bỏ giới răn của Người “Ngươi không được giết người” (Xh 20:13; Đnl 5:17).
Không phạm tội thương xót giả mạo không có nghĩa phải cư xử bất thiện cảm với những người, trong tình huống của họ, phải lao đao len lỏi đối với giới răn của Thiên Chúa hay, thực sự, đã vi phạm nó. Vì lòng thương xót đúng nghĩa, ta phải trình bầy và giải thích giới răn của Thiên Chúa, nhưng phải làm việc này một cách đầy cảm thương. Tuy nhiên, phải giúp người ta, bằng lời lẽ và bằng việc làm, để họ thực thi các đòi hỏi của giới răn trong tình huống thường phức tạp và khó khăn của họ, một việc mà các dịch vụ huấn đạo của Giáo Hội đặc biệt giả thiết phải làm. Trong các trường hợp, khi người ta quá bị đè nặng bởi tội lỗi, tội lỗi vốn nặng chĩu trong linh hồn họ, thì ta nên đáp ứng họ bằng phương thức mục vụ, như Chúa Giêsu từng đáp ứng đối với những người tội lỗi. Ta không nên ngồi tòa phán xét lạnh lùng đối với họ, nhưng đúng hơn, nên giúp đỡ họ, không phải để chối bỏ tội lỗi, mà để thừa nhận nó, rồi phó thác cho lòng thương xót luôn lớn lao hơn của Thiên Chúa và sự sẵn sàng tha thứ của Người.
Mối liên hệ giữa lòng thương xót và việc nói sự thật cũng tương tự như thế. Vấn đề này trở nên thích đáng khi ta giả thiết phải cho người bệnh nguy kịch hay đang hấp hối biết sự thật về tình huống của họ. Dấu sự thật vì hiểu sai lòng thương xót hoặc cung cấp cho họ những kỳ vọng hoàn toàn không thực tiễn thực sự không giúp gì cho những người liên hệ, mà chỉ cản trở, không cho họ đối diện với sự thật và bằng lòng với tình huống của họ một cách nhân đạo và tâm linh. Lòng thương xót chân chính phải nói sự thật trong các tình huống như thế, không phải một cách tàn nhẫn vô cảm, nhưng phải mẫn cảm yêu thương (Ep 4:15). Lòng thương xót đích thực phải phát biểu sự thật một cách giúp người bệnh chấp nhận sự thật và bằng lòng đối với nó. Muốn làm được điều này đòi ta phải có khả năng tương cảm đáng kể cũng như một tài ứng biến mục vụ đầy nhân từ.
5. Gặp gỡ Chúa Kitô nơi người nghèo
Trong diễn từ quan trọng của Người về sự Phán Xét Sau Cùng, Chúa Giêsu nói đến chiều kích sâu xa nhất của lòng thương xót mà ta phải đem ra thực hành. Người nói rằng “Khi các con làm điều ấy cho một trong những người thấp bé nhất trong những người này, là các con làm cho Ta” (Mt 25:40; xem 45). Người là Đấng giầu có đã trở nên nghèo vì chúng ta” (2Cr 8:9) và đã mang lấy thân phận nô lệ (Pl 2:7). Người không những thiết lập tình liên đới với người nghèo, mà còn đồng nhất hóa với họ nữa. Do đó, ta có thể gặp gỡ Người nơi người nghèo.
Thánh Augustinô liên tiếp nhắc đến nền tảng Kitô học của tình yêu đối với người lân cận. Trong công trình của ngài, người ta tính được ngài đã trích chương 25 của Tin Mừng Mátthêu hơn 275 lần (39). Trong một bài giảng, ngài viết (bằng một văn phong Latinh cô đọng đến nỗi khó mà dịch được, chỉ có thể dẫn giải mà thôi): Các ngươi đã cho điều gì khác ngoài điều các ngươi đã nhận lãnh từ Ta? Các ngươi cho đi một điều trần thế; các ngươi nhận lãnh một điều thiên giới. Các ngươi cho đi một điều vốn là của Ta. Chính Ta hiến mình cho các ngươi. Chúa Kitô đã hiến mình cho ta; làm thế nào ta lại không cho Chúa Giêsu, Đấng gặp gỡ ta trong những người thiếu thốn? Chúa Kitô ban lương thực cho ta và, vì ta, người trở thành túng thiếu. Người ban phát và Người trở thành túng thiếu. Nếu Người ban, anh chị em có muốn nhận không? Tuy nhiên, nếu Người túng thiếu, há anh chị em lại không muốn cho Người sao? Chúa Kitô túng thiếu khi người nghèo túng thiếu. Đấng muốn ban sự sống đời đời cho mọi người đã hạ cố tiếp nhận một điều tạm bợ dưới lốt người nghèo. Anh chị em muốn gặp Chúa Kitô đang ngự trên trời. Hãy mong gặp Người khi Người nằm ở gầm cầu; hãy mong gặp Người khi Người đói khát và run rẩy giữa giá lạnh; hãy mong gặp Người khi Người là khách lạ (40).
Mọi vị thánh vĩ đại của đức ái Kitô Giáo đều thấy tình cảnh trên và sống tình cảnh ấy: Phó Tế Lôrensô, Thánh Martin thành Tours, Thánh Nicôla thành Myra, Thánh Elizabeth thành Thuringia, Thánh Camillô thành Lellis, Thánh Vicentê đệ Phaolô, Thánh Đamianô thành Veuster. Từ đầu cuộc hành trình của ngài, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thần nghiệm được Chúa Kitô khi ngài gặp một người bệnh sắp chết (41). Ngài đã phát biểu chiều kích Kitô học, và ta dám gọi là chiều kích thần nghiệm học của lòng yêu người này qua lời cầu nguyện sau đây:
“Lạy Chúa, xin cho con gặp Chúa ngày hôm nay và mọi ngày trong con người của người bệnh và khi chăm sóc họ, con được phục vụ Chúa.
“Cho dù Chúa ẩn dưới lốt kín đáo của một người cáu kỉnh, hay đòi hỏi, hoặc không khoan nhượng, xin cho con vẫn nhận ra Chúa và thưa với Chúa: ‘Lạy Chúa Giêsu, bệnh nhân của con, được phục vụ Chúa là điều tốt biết chừng nào’.
“Ôi lạy Chúa, xin Chúa ban cho con đôi mắt đức tin, nhờ thế, việc làm của con sẽ hết độc điệu. Con sẽ luôn tìm được niềm vui khi phải chịu đựng tính khí và thoả mãn ý muốn của mọi người nghèo đang đau khổ.
“Ôi bệnh nhân yêu qúy của tôi, bạn thân thiết gấp đôi với tôi dường bao khi bạn là hiện thân của Chúa Kitô; và tôi hân hạnh biết bao khi được phục vụ bạn.
“Lạy Chúa, xin Chúa giúp con biết nhận ra phẩm giá ơn gọi cao cả của con và trách nhiệm lớn lao của nó. Xin Chúa đừng để con tỏ ra bất xứng bao giờ đối với ơn gọi này bằng cách sa vào sự cứng lòng, bất thân thiện hoặc thiếu kiên nhẫn. Và rồi, ôi lạy Thiên Chúa, vì Chúa là Chúa Giêsu Kitô, bệnh nhân của con, xin cũng đoái thương làm bệnh nhân Giêsu của con. Xin nhân từ đối với các lỗi lầm của con và xin chỉ nhìn đến quyết tâm yêu Chúa của con và quyết tâm phục vụ Chúa trong con người của mỗi người đau yếu này. Lạy Chúa, xin Chúa gia tăng đức tin của con, xin chúc phúc cho cố gắng và việc làm của con, bây giờ và mãi mãi. Amen” (42).
Lời lẽ của Chúa Giêsu và của các thánh vừa nhắc tới, xét cho cùng, đều cho thấy điều trọng yếu trong lòng thương xót và tình yêu người lân cận của Kitô Giáo. Đây là một vấn đề không chỉ nói đến tình yêu thương nhân loại nói chung, một điều không thể bác bỏ nếu không phải chỉ là những lời sáo rỗng, nhưng còn nói đến hành động cụ thể. Đây cũng không phải là việc chỉ biết cảm thương người đau khổ, một điều vốn tích cực so với sự cứng lòng hay vị kỷ. Thậm chí, đây cũng không phải là vấn đề có ý tưởng muốn làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Về phương diện này, Thánh Kinh hết sức thực tiễn. Nó biết rõ: “Các con luôn có người nghèo với các con” (Ga 12:8). Xét cho cùng, điều quan trọng trong lòng thương xót của Kitô Giáo là việc gặp gỡ chính Chúa Giêsu Kitô nơi và qua những người đau khổ. Do đó, lòng thương xót chủ yếu không phải là vấn đề luân lý, mà là vấn đề tin vào Chúa Kitô, là trở thành môn đệ, là gặp gỡ Người. Như dụ ngôn người Samaria nhân hậu đã cho thấy, trọng tâm của vấn đề là người thiếu thốn, người mà tôi gặp gỡ cụ thể, người tùy thuộc sự giúp đỡ của tôi, và là người tôi trở thành kẻ lân cận (Lc 10:25-37). Nơi người nghèo khổ này, tôi gặp gỡ chính Chúa Giêsu Kitô.
Tình yêu đối với người lân cận có những hậu quả xã hội và chính trị vượt quá lãnh vực cá nhân, đây là điều không thể nghi vấn. Ta sẽ sớm nói đến các hậu quả này một cách chi tiết (43). Dĩ nhiên, việc can dự có tính xã hội và chính trị chỉ đáng tin nếu nó đưa ra các đòi hỏi không những cho người khác hay cho các định chế xã hội và Giáo Hội, nhưng trong chính đời sống mình và trong khu vực mình gây ảnh hưởng bản thân, nó còn đòi ta phải đem ra sống ý nghĩa của việc làm môn đệ Chúa Kitô và việc “hiện hữu vì [người khác]” (pro-existence), một cách cụ thể và đầy gương sáng. Một chứng tá như thế sẽ lôi cuốn và thúc đẩy người khác dấn thân một cách cụ thể. Như thế, việc đồng hóa với Chúa Giêsu Kitô nơi người nghèo vượt quá cuộc gặp gỡ cá nhân; nó có ý nghĩa đối với người khác và đối với Giáo Hội.
6. Lòng thương xót như sự hiện hữu Kitô Giáo vì người khác
Liên kết bản thân với Chúa Giêsu Kitô có nghĩa phải tham dự vào việc hiện hữu vì [người khác] của Người. Do đó, hình thức thương xót của Kitô Giáo, xét cho cùng, là sự hiện hữu vì người khác của Chúa Kitô (Stellvertretungs-Existenz). Điều này sẽ hiển nhiên khi ta lưu ý tới những tầng ý nghĩa khác nhau trong lời kêu gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu (44). Lời kêu gọi này không phải chỉ là lời mời gọi bước theo chân Chúa Giêsu và đồng hành với Người trên mọi nẻo đường của Người. Làm môn đệ bao gồm việc cùng sống và cùng thực hiện một sứ mệnh (Mc 3:14 và những câu song hành); cuối cùng, nó có nghĩa chịu chung một số phận, một đau khổ, một thập giá. “Nếu ai muốn làm môn đệ của Tôi, họ hãy từ bỏ mình, vác lấy thập giá của họ và hãy theo Tôi” (Mc 8:34 và các câu song hành). Như Chúa Giêsu đã tự biến mình thành đầy tớ cho mọi người thế nào, thì các môn đệ của Người cũng phải như thế. Bất cứ ai muốn là người thứ nhất trong các môn đệ của Người, họ phải làm đầy tớ cho mọi người (Mc 10:45; xem Ga 13:15). Giống Chúa Giêsu Kitô, việc “chết” với Chúa Kitô này có thể đòi phải theo Chúa Giêsu tới tận thập giá và bỏ mạng sống mình vì Người (Mc 8:34tt và các câu song hành).
Vào đêm trước khi chịu thống khổ của Người, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ Người một tấm gương cụ thể, khi Người làm cho các ông một việc phục dịch thấp hèn của nô lệ là rửa chân cho các ông, để cả họ nữa, cũng nên làm như thế (Ga 13:14tt). Từ nay, các môn đệ của Người phải biến đời họ, đời mà Chúa Giêsu đã ban cho họ, thành một tặng phẩm cho người khác. Điều này có thể dứt khoát dẫn tới cực điểm. Vì không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bằng hữu (Ga 15:13; xem Ga 12:25tt). Giống hệt như sự hiện hữu của chính Chúa Giêsu, sự hiện hữu như một tông đồ được hiểu có nghĩa là hiện hữu cho người khác, hay hiện hữu vì (người khác).
Việc tham dự vào cái chết thay, cái chết đền tội và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô qua phép rửa (1Cr 12:13; Gl 3:28) và qua việc cử hành Thánh Thể (1Cr 10:16tt) đã kết hợp chặt chẽ tư tưởng này một cách mới mẻ và sâu sắc hơn sau Phục Sinh. Hiện hữu trong Chúa Kitô là hiện hữu với và cho người khác trong thân xác Chúa Kitô. “Một chi thể đau, mọi chi thể cùng đau với nó; một chi thể được vinh dự, mọi chi thể cùng mừng rỡ với nó” (1Cr 12:26). Như thế: “Hãy mang gánh nặng của nhau, và nhờ thế, anh em sẽ chu toàn lầ luật của Chúa Kitô” (Gl 6:2). Do đó, Thánh Phaolô đã sẵn sàng trở thành nô lệ để có thể cứu được càng nhiều người càng tốt. “Tôi đã trở nên mọi sự cho mọi người, để có thể bằng mọi cách cứu được một số” (1Cr 9:22). Ngài để ngài hao mòn và hao mòn thật sự, điều được ngài coi như lễ hy sinh của cộng đoàn ngài, dâng lên trong đức tin (Pl 2:17; xem 2Cr 12:15). Phục vụ tông đồ và mục vụ, theo nghĩa đen của chữ “service” (phục vụ), có nghĩa là để mình chịu hao mòn và chính trong sự đau khổ tông đồ và mục vụ này, là để Chúa Giêsu Kitô, để cái chết của Người, và sự phục sinh của Người trở thành hiện diện vì người khác. Sự hiện hữu tông đồ diễn ra không chỉ bằng lời, mà còn bằng và qua cả toàn bộ cuộc hiện sinh của ta nữa. Theo cách này, ý niệm đền tội thay hay đền tội đại diện [Stellvertretungsgedanke] đã trở thành ý niệm chủ chốt trong hiện hữu Kitô Giáo (45).
Ý niệm làm môn đệ như một sự đền tội thay đã mặc lấy nhiều hình thức khác nhau trong dòng lịch sử (46). Trước nhất, với các vị tử đạo, mà máu đã trở thành hạt giống gieo các Kitô hữu mới (47), rồi tới các vị ẩn tu và đan sĩ, với các đan sĩ Ái Nhĩ Lan và Tô Cách Lan nay đây mai đó, không nhà không cửa vì Chúa Kitô và vì sứ mệnh của mình (peregrinatio proper Christum). Với Thánh Phanxicô thành Assisi, việc làm môn đệ còn mặc lấy hình thức nghèo nàn và khiêm nhường nữa.
Từ thời Thánh Bernard thành Clairvaux, một nền thần nghiệm thập giá có tính chủ quan đã được khai triển nhằm tái tạo và nội tâm hóa tình yêu Thiên Chúa đã được mạc khải nơi Chúa Kitô đau khổ, qua việc tham dự đồng cảm. Thánh Bernard thành Clairvaux được mô tả bằng hình ảnh Chúa Kitô từ trên thập giá cúi xuống với ngài và ôm lấy ngài. Ngài phát biểu ý nghĩa của biến cố này như sau: “Nhờ mặc lấy hình thức Chúa Kitô tự hiến sinh, chúng ta được biến đổi” (transformamur cum conformamur) (48). Linh đạo này, một lần nữa, được tìm thấy nơi thần nghiệm học của Meister Eckhart, John Tauler và Henry Suso; nó cũng được tìm thấy nơi Gương Chúa Kitô (Gương Phúc) của Thomas à Kempis và cuối cùng, trong Linh Thao của Thánh Inhaxiô thành Loyola, trong đó, việc chăm chú và đầy tương cảm bước theo đời sống và cuộc thống khổ của Chúa Giêsu cung cấp nền tảng cho việc hợp nhất đời sống chiêm niệm với đời sống hoạt động.
Nền thần nghiệm học thập giá này cũng bước vào cả nghệ thuật nữa. Trong khi các tranh ảnh về việc đóng đinh của Byzantine và Romanesque vẽ Chúa Kitô như Đấng Toàn Năng Chiến Thắng (pantocrator [*]), thì nghệ thuật Gôtích vẽ Người như một con người buồn sầu. Đặc biệt, người ta có thể nhớ tới các cây thập giá bệnh dịch thời hậu trung cổ, mà người bị bệnh vốn gắn bó chặt chẽ với trong nhiều thế kỷ và trên đó họ được nâng lên (**). Nền linh đạo này được biến cải thành một lòng đạo đức bình dân dưới hình thức đàng thánh giá. Khi đồng cảm và sốt sắng suy niệm về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu, các tín hữu có thể đồng hóa với các chặng thánh giá khác nhau. Tại thị trấn Wangen quê tôi thuộc vùng Allgau, việc thờ kính Chúa Cứu Thế bị tù ngục rất phổ thông. Thực hành sùng kính này có nguồn gốc từ các hình thức đạo đức cổ hơn thời trung cổ. Thế kỷ thứ 18, nó được cổ vũ nhờ các thị kiến của Crescentia Hoss quê ở Kaufbeuren, vị đã được phong hiển thánh năm 2001. Ai mà lại không thể đồng hóa với các hình thức giam hãm khác nhau: những người bị bắt giam và các tù nhân chiến tranh, những người bị giam giữ tại các trại tập trung, các tù nhân chính trị, những người bị liệt giường hay xe đẩy, những người bị giam hãm trong tội lỗi, những người bị buộc vào các tình thế khó khăn và vô vọng vì các vấn đề tài chánh hay các hình thức giam hãm khác.
Việc tự đồng hóa với sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu cũng có thể dẫn tới các sai lạc. Ngay trong hai phong trào devotio moderna (lối sùng mộ tân thời) và duy mộ đạo (pietism), và sau đó hoàn toàn trong phong trào Ánh Sáng, Kitô học kiểu bắt chước đã tự mình đi ra ngoài nền tảng khách quan, bí tích và Giáo Hội của nó để trở thành thứ Giêsu học (Jesusology) có tính bắt chước. Chúa Giêsu trở thành mẫu mực đáng để đua tranh. Điều khởi đầu vốn là dấu chỉ một hành vi cứu rỗi có tính trung gian bí tích thì nay đã trở thành một mệnh lệnh buộc người ta phải đi theo con đường luân lý của Chúa Giêsu (49). Một nguy hiểm khác nữa là giản lược việc noi gương Chúa Kitô vào một cái hiểu có tính cá nhân chủ nghĩa về ơn cứu rỗi. Việc giản lược này có nguy cơ quên mất rằng: đặc tính bao gồm trong việc đền tội thay [Stellvertretung] của Chúa Giêsu có nghĩa chúng ta tích cực can dự vào hành vi đại diện cho chúng ta của Chúa Giêsu. Và, do đó, “việc đại diện” này vượt quá sự nối kết chân thành và có tính bản thân của ta với Chúa Giêsu và phải trở thành việc làm môn đệ vì người khác.
Thánh Phaolô tuyên bố rằng ngài sẵn sàng bị nguyền rủa như một người đại diện cho anh chị em Do Thái của ngài (Rm 9:2). Lời tuyên bố này đã đưa đến cả một lịch sử hậu quả dài trong truyền thống thần nghiệm. Ta biết nhiều vị thánh, trong hoang địa, giữa đêm đen đức tin, và bị Thiên Chúa bỏ rơi như đã bỏ rơi Chúa Giêsu trên thập giá, vẫn có thể chịu đựng, một cách đại diện [stellvertretend], cho những người đang sa vào đêm tối đức tin và xa cách Thiên Chúa. Ý tưởng này tìm thấy trước nhất trong nền thần nghiệm Cát Minh của Thánh Gioan Thánh Gía (50).
Thánh Têrêxa thành Lisieux đã đem lại một biểu thức lâu dài cho ý tưởng của nền thần nghiệm Cát Minh này. Bà muốn tự trình bầy bà như một lễ toàn thiêu của tình yêu. Bà hiểu ơn gọi và vị trí của bà trong Giáo Hội như một ơn gọi đối với nhiệm thể Chúa Kitô trong tình yêu. Để dập tắt các ngọn lửa của nó, bà muốn mưa xuống trên Giáo Hội đau khổ trận mưa hoa tình yêu từ trời cao; bà muốn mưa xuống trên Giáo Hội chiến đấu (***) cũng một trận mưa hoa như thế để Giáo Hội này chiến thắng (51). Ngay bây giờ, bà cầu nguyện cho các anh chị em bất tín của bà. Với thiên hướng này, bà sẵn sàng đi vào đường hầm đen tối, trong đó, làm người thay thế cho họ, bà kinh qua nỗi kinh hoàng của cảnh không thấy Thiên Chúa của thời hiện đại. Do đó, bà cầu nguyện cho các anh chị em bất tín của bà để ít nhất họ nắm được một tia sáng nào đó của đức tin (52). Bà, một người hết lòng muốn trở thành nhà truyền giáo, có ý định giúp đỡ các nhà truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh (53). Theo tầm nhìn của bà, lòng nhiệt thành của một tu sĩ Cát Minh phải bảo bọc toàn thể thế giới (54).
Thánh Edith Stein (Benedicta Thánh Giá) cũng đứng trong truyền thống Cát Minh trên. Thời Quốc Xã bách hại người Do Thái, bà vào phòng hơi ngạt Auschwitz như một đại diện của dân tộc Do Thái, dân tộc bà luôn cảm thấy gắn bó (55). Thánh Maximilian Kolbe đã được đánh động bởi cùng một tinh thần khi ngài tự ý hiến mạng sống mình vì một người tù khác vốn là người cha của một gia đình. Ngay Mẹ Têrêxa, sau cảm nghiệm thần nghiệm rạng rỡ ban đầu, đã sống trong một đêm tối thần nghiệm cho tới lúc qua đời. Ai cũng biết lời tuyên bố của Mẹ: “nếu có bao giờ tôi trở thành một vị thánh thì chắc chắn đó là một ‘vị thánh của đêm tối’. Tôi sẽ mãi mãi xa vắng thiên đàng, ngõ hầu đốt lên một tia sáng cho những ai sống trong đêm tối trần gian” (56).
Người ta cũng có thể nghĩ tới các thi sĩ như Léon Bloy, Charches Péguy, và nhiều thi sĩ khác, những người đã hủy diệt lối hạn chế cá nhân chủ nghĩa trong ý niệm đại diện và đã tái sinh chiều kích Giáo Hội và phổ quát của nó. Một lần nữa, họ đã hiểu ý niệm đại diện [Stellvertretung] như là tâm điểm của việc làm Kitô hữu và họ đã nắm được việc hiện hữu như là hiện hữu vì, hiện hữu vì người khác. Dietrich Bonhoeffer đã phát biểu rất hay cảm thức đại diện hay hành động thay thế sâu sắc hơn này. Đối với ông, việc che khuất Thiên Chúa là chứng bệnh hiện nay của thế giới. Ông nói như sau về hình thức đau khổ này:
“Đau khổ cần được chịu đựng mới mong nó qua khỏi. Một là thế giới phải mang lấy trọn gánh nặng và ngã qụy dưới nó, hai là gánh nặng này phải giáng xuống Chúa Kitô để được vượt qua ở nơi Người. Do đó, Người chịu đau khổ thay cho thế gian. Sự đau khổ của Người là sự đau khổ duy nhất có hiệu lực cứu chuộc. Nhưng Giáo Hội biết rằng thế giới vẫn đang tìm một ai đó để gánh lấy các đau khổ của nó, và do đó, khi theo chân Chúa Kitô, sự đau khổ cũng trở thành số phận của Giáo Hội và khi mang nó, nó cũng được Chúa Kitô vác. Và khi theo chân Người tới chân thập giá, Giáo Hội cũng đứng trước nhan Thiên Chúa trong tư cách người đại diện của thế giới” (57).
Nền linh đạo đứng lên vì người khác và nhận lấy chỗ của họ này sẽ phá vỡ xu hướng chỉ biết nhìn vào trong của nhiều cộng đồng trong tình huống phân tán hiện nay của thế giới tục hóa, và nó có thể trở thành bảng chỉ đường thiêng liêng cho cả ngày nay lẫn ngày mai. Như thế, tình yêu người lân cận, nếu được sống triệt để, sẽ cho thấy chiều kích Giáo Hội, một chủ đề nay ta phải hướng tới.
Kỳ sau: VII. Giáo Hội được cân đo bằng lòng thương xót_________________________________________________________________________________________
(*) Ghi chú của bản tiếng Anh: Ảnh “pantocrator” vẽ Chúa Giêsu như Đấng Toàn Năng hay như Đấng Thống Trị và Duy Trì thế giới. Các hình ảnh như thế có thể tìm thấy nơi các nhà thờ cổ xưa, như Nhà Thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem.
(*) Ghi chú của bản tiếng Anh: Ảnh “pantocrator” vẽ Chúa Giêsu như Đấng Toàn Năng hay như Đấng Thống Trị và Duy Trì thế giới. Các hình ảnh như thế có thể tìm thấy nơi các nhà thờ cổ xưa, như Nhà Thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem.
(**) Ghi chú của bản tiếng Anh: Lúc xẩy ra bệnh dịch, người mắc bệnh đến viếng các đền thánh với cây thập giá bệnh dịch; tại đây, họ có thể tự đồng hóa mình với sự đau khổ của Chúa Kitô chịu đóng đinh và tự nâng họ lên cây thập giá với Người.
(***) Ghi chú của bản tiếng Anh: “Giáo Hội đau khổ” hay ecclesia penitens chỉ các linh hồn trong luyện ngục; bởi thế, Thánh Têrêxa nhắc đến việc dập tắt các ngọn lửa của nó. Giáo Hội chiến đấu hay ecclesia militans chỉ các Kitô hữu còn sống ở đời này, họ đang chiến đấu chống lại các sức mạnh tội lỗi và sự ác.
(36) Heinrich Schlier, “Vom Wesen er apostolischen Ermahnung” trong Die Zeit der Kirche(Fraeiburg i.Br.: Herder, 1958) 74-89.
(37) Thánh Irênê, Chống Lạc Giáo, III, 25,7.
(38) Thánh Ephraim Người Syria, Thánh Ca chống Lạc Giáo, 1.
(39) A. Fitzgerald, “Mercy, Works of Mercy” trong Fitzgerald, Augustine through the Ages, 558.
(40) Thánh Augustinô, Bài Giảng 38, 8; 53A, 6; 206,2; 236, 3.
(41) Thí dụ, xem Navin Chawla, Mother Teresa: The Authorized Biography (Rockport, MA: Element, 1997).
(42) Mẹ Têrêxa, Worte der Liebe, bản dịch của Franz Johna (Freiburg I.Br.: Herder, 1997), 117tt.
(43) Xem chương VIII.
(44) Karl Hermann Schelkle, Jüngerschaft und Apostelamt (Freiburg i.Br: Herder, 1957); Hans Dieter Betz, Nachfolge und Nachhmung Jesu Christi im Neuen Testament (Tübingen: Mohr Siebeck, 1967); Martin Hengel, Nachfolge und Charisma: Eine exegetisch-religionsgeschichtliche Studie zu Mt 8, 21 tt. und Jesu Ruf in die Nachfolge (Berlin: A. Tӧpelmann, 1968); Bonhoeffer,The Cost of Discipleship.
(45) Karl-Heinz Menke, Stellvertretung: Schlüsselbegriff christlichen Lebens und theologische Grudkategorie (Einsiedeln: Johannes, 1997).
(46) Ulrich Luz và những người khác, “Nachfolge Jesu”, Theologische Realenzyklopӓdie, do Gerrad Müller, Horst Balz và Gerhard Krause hiệu đính (Berlin: Walter de Gruyter, 1977-2007), 23:678-713.
(47) Tertullian, Hộ Giáo, 50, 14.
(48) Thánh Bernard thành Claivaux, Song of Songs, 62,5. Xem Thánh Bernard thành Clairvaux,Rückkehr zu Gott: Die Mystischen Schriften, bản dịch của Bernardin Schellenberger (Düsseldorf: Patmos, 2001), 27-33.
(49) Karl-Heinz Menke, Jesus ist Gott der Sohn: Denkformen und Brennpunkte der Christologie(Regensburg: Friedrich Pustet, 2008), 291-99.
(50) Về các chủ đề quán xuyến vô vị hóa (kenosis) và đêm đen, xem Paul Rheinbay, “Voller Pracht wird die Nacht, weil dein Glanz sie angelacht” trong Gott denken und bezeugen: Festschrift für Kardinal Walter Kasper zum 75. Geburtstag, do G. Augustin và K. Krӓmer (Freiburg i.Br.: 2008) 384-86.
(51) Story of a Soul: The Autobiography of St. Therese of Lisieux, bản dịch của John Clark (Washingotn, DC: Institute of Carmelite Studies, 1975), 193-96. Xem Hans Urs von Balthasar,Schwestern im Geist: Therese von Lisieux und Elisabeth von Dijon (Einsiedeln: Johannes Verlag, 1970), 316-20; Balthasar, Dare We Hope “That All Men Be Saved?” with a Short Discourse on Hell, bản dịch của David Kipp và Lothar Krauth (San Francisco: Ignatius, 1988), 101-6.
(52) Story of a Soul: The Autobiography of St Therese of Lisieux, 211-12.
(53) Đã dẫn, 217-17,252.
(54) Đã dẫn, 253.
(55) Romaeus Leuven, Heil im Unheil: Das Leben Edith Staeins: Briefe und Vollendung, Edith Steins Werke, Bd. 10 (Freiburg i. Br.: Herder, 1983), 166: “Komm, wir gehen für unser Volk”. Về điều này, xem A. Ziegenaeus, “Benedicta a Cruce – Jüdin und Christin” trong Edith Stein: Leben, Philosophie, Vollendung, do Leo Elders hiệu đính (Würzburg: Verlag J.W.Naumann, 1991), 129-43, nhất là 137tt.
(56) Mother Teresa: Come Be My Light: The Private Writings of the “Saint of Calcutta” do Brian Kolodiejchuk hiệu đính (New York: Doubleday, 2007).
(57) Bonhoeffer, The Cost of The Discipleship, 81-82.
(37) Thánh Irênê, Chống Lạc Giáo, III, 25,7.
(38) Thánh Ephraim Người Syria, Thánh Ca chống Lạc Giáo, 1.
(39) A. Fitzgerald, “Mercy, Works of Mercy” trong Fitzgerald, Augustine through the Ages, 558.
(40) Thánh Augustinô, Bài Giảng 38, 8; 53A, 6; 206,2; 236, 3.
(41) Thí dụ, xem Navin Chawla, Mother Teresa: The Authorized Biography (Rockport, MA: Element, 1997).
(42) Mẹ Têrêxa, Worte der Liebe, bản dịch của Franz Johna (Freiburg I.Br.: Herder, 1997), 117tt.
(43) Xem chương VIII.
(44) Karl Hermann Schelkle, Jüngerschaft und Apostelamt (Freiburg i.Br: Herder, 1957); Hans Dieter Betz, Nachfolge und Nachhmung Jesu Christi im Neuen Testament (Tübingen: Mohr Siebeck, 1967); Martin Hengel, Nachfolge und Charisma: Eine exegetisch-religionsgeschichtliche Studie zu Mt 8, 21 tt. und Jesu Ruf in die Nachfolge (Berlin: A. Tӧpelmann, 1968); Bonhoeffer,The Cost of Discipleship.
(45) Karl-Heinz Menke, Stellvertretung: Schlüsselbegriff christlichen Lebens und theologische Grudkategorie (Einsiedeln: Johannes, 1997).
(46) Ulrich Luz và những người khác, “Nachfolge Jesu”, Theologische Realenzyklopӓdie, do Gerrad Müller, Horst Balz và Gerhard Krause hiệu đính (Berlin: Walter de Gruyter, 1977-2007), 23:678-713.
(47) Tertullian, Hộ Giáo, 50, 14.
(48) Thánh Bernard thành Claivaux, Song of Songs, 62,5. Xem Thánh Bernard thành Clairvaux,Rückkehr zu Gott: Die Mystischen Schriften, bản dịch của Bernardin Schellenberger (Düsseldorf: Patmos, 2001), 27-33.
(49) Karl-Heinz Menke, Jesus ist Gott der Sohn: Denkformen und Brennpunkte der Christologie(Regensburg: Friedrich Pustet, 2008), 291-99.
(50) Về các chủ đề quán xuyến vô vị hóa (kenosis) và đêm đen, xem Paul Rheinbay, “Voller Pracht wird die Nacht, weil dein Glanz sie angelacht” trong Gott denken und bezeugen: Festschrift für Kardinal Walter Kasper zum 75. Geburtstag, do G. Augustin và K. Krӓmer (Freiburg i.Br.: 2008) 384-86.
(51) Story of a Soul: The Autobiography of St. Therese of Lisieux, bản dịch của John Clark (Washingotn, DC: Institute of Carmelite Studies, 1975), 193-96. Xem Hans Urs von Balthasar,Schwestern im Geist: Therese von Lisieux und Elisabeth von Dijon (Einsiedeln: Johannes Verlag, 1970), 316-20; Balthasar, Dare We Hope “That All Men Be Saved?” with a Short Discourse on Hell, bản dịch của David Kipp và Lothar Krauth (San Francisco: Ignatius, 1988), 101-6.
(52) Story of a Soul: The Autobiography of St Therese of Lisieux, 211-12.
(53) Đã dẫn, 217-17,252.
(54) Đã dẫn, 253.
(55) Romaeus Leuven, Heil im Unheil: Das Leben Edith Staeins: Briefe und Vollendung, Edith Steins Werke, Bd. 10 (Freiburg i. Br.: Herder, 1983), 166: “Komm, wir gehen für unser Volk”. Về điều này, xem A. Ziegenaeus, “Benedicta a Cruce – Jüdin und Christin” trong Edith Stein: Leben, Philosophie, Vollendung, do Leo Elders hiệu đính (Würzburg: Verlag J.W.Naumann, 1991), 129-43, nhất là 137tt.
(56) Mother Teresa: Come Be My Light: The Private Writings of the “Saint of Calcutta” do Brian Kolodiejchuk hiệu đính (New York: Doubleday, 2007).
(57) Bonhoeffer, The Cost of The Discipleship, 81-82.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét