Sự Tự do của Kitô hữu, Khảo luận của Martin Luther
Giữa trưa ngày Hallowe’en năm 1517, Martin Luther cho dán tờ giấy lớn lên cửa nhà thờ ở lâu đài Wittenberg. Trên đó là “95 Luận Đề” hay “Cuộc Tranh Luận về Năng Quyền và Hiệu Lực của Ân Xá”. Phần lớn người Thệ Phản cho rằng ngày 31 tháng Mười năm 1517 ấy chính là ngày khai sinh của Phong Trào Cải Cách. Tuy nhiên, dù từ thời điểm đó trở đi, sự ly cách giữa Luther và Đức Giáo Hoàng là điều không thể tránh được nữa, nhưng sự ly cách này chỉ chính thức và không thể nào hoà giải được từ ngày 3 tháng Giêng năm 1521, khi Đức Giáo Hoàng công bố sắc lệnh tuyệt thông Luther.
Giữa khoảng 3 năm ấy, Luther cho xuất bản một số trước tác quan trọng của ông. Trong đó, có ba cuốn được coi như Các Khảo Luận Cải Cách: Thư Ngỏ Gửi Giới Qúi Tộc Của Quốc Gia Đức, Cảnh Tù Đầy Babylon của Giáo Hội, và Sự Tự Do Của Kitô Hữu. Cả 3 cuốn sách này đều được xuất bản trong năm 1520 sau khi Đức Giáo Hoàng ra chỉ dụ kết án các lý thuyết của Luther. Giọng điệu trong các trước tác đó, vì thế, phần lớn có tính đấu tranh và đả kích, dù cuốn Sự Tự Do Của Kitô Hữu có giọng hơi hoà giải một chút. Thí dụ, ông mào đầu khảo luận này bằng một lá thư ngỏ gửi Đức Lêô X. Nói chung, đây là lá thư thân ái, bảo đảm với Đức Giáo Hoàng rằng ông không có ý định tấn công ngài. Tuy nhiên, cũng chính lá thư này cho thấy rõ phạm vi thay đổi của ông: ông không còn là một đan sĩ Dòng Augustinô nữa. Ông nói với Đức Giáo Hoàng như người ngang hàng, cho ngài lời cố vấn và không hề mang dáng dấp của một hối nhân. Cả lá thư và khảo luận đều viết bằng tiếng La Tinh, và sau này, được ông dịch sang tiếng Đức để đề tặng thị trưởng Zwickau.
Một khảo luận nhỏ như Sự Tự Do Của Kitô Hữu không thể nói lên hết nền thần học của Luther, nhưng nó có hai điểm hết sức quan trọng đối với học thuyết Thệ Phản: Thứ nhất, tầm quan trọng trên hết của đức tin đối với ơn cứu rỗi của con người. Mọi sự đều tùy thuộc nơi đức tin. Có nó, con người không thể không được cứu rỗi; không có nó, con người không thể nào được cứu rỗi cả. Quan niệm cho rằng “việc làm tốt”, tức các hành động vốn có tính đạo hạnh, có thể giúp con người đạt được ơn cứu rỗi, chỉ là một ảo tưởng. Việc làm mà không có đức tin sẽ bị tội lỗi làm cho ra xấu xa và do đó vô dụng; còn khi con người đã có đức tin, thì việc làm không còn cần thiết nữa.
Điểm thứ hai là học thuyết cho rằng mọi Kitô hữu đều là linh mục: “Bởi thế, tất cả chúng ta, những người tin vào Chúa Kitô, đều là linh mục...” (tr.387). Mỗi một Kitô hữu đều có các chức năng của một linh mục: “Là linh mục, chúng ta xứng đáng xuất hiện trước mặt Thiên Chúa để cầu nguyện cho người khác và dạy dỗ nhau những điều về Chúa” (tr.388).
Cả hai học thuyết trên đều đã trở thành những viên đá tảng của nền thần học Thệ Phản từ đó.
Martin Luther sinh ngày 10 tháng Mười Một năm 1483, tại Eisleben, một thị trấn nhỏ của Đức cách tây bắc Leipzig chừng 50 dặm. Cha mẹ Luther thuộc giai cấp nông dân, và mặc dù sau đó, trở nên khấm khá đôi chút, cha ông vẫn phải vất vả lắm mới chu cấp đủ cho một gia đình mỗi ngày một đông thêm.
Luther được nuôi dạy trong một bầu khí nghiêm ngặt và đạo hạnh. Giống các trẻ em khác, cậu được dạy các niềm tin tôn giáo cũng như nhiều mê tín bình dân khác của thời đại. Lên 7, cậu bắt đầu chịu kỷ luật khắt khe của trường La Tinh sở tại. Qua tuổi 14, cậu được gửi tới Magdeburg học với các thày thuộc Huynh Đoàn Sống Chung, một hội dòng nổi tiếng về giáo dục và tinh thần cải cách. Để đủ tiền ăn học trong thời kỳ này, Luther buộc phải đi hát dạo ngoài đường.
Ba năm sau đó, Luther sống tại Eisenach. Tại đây, nhờ sự giúp đỡ của một người giầu có, cậu đã có thể chuyên tâm học lên cao. Mùa xuân năm 1501, cậu vào trường Đại Học Erfurt nổi tiếng và lấy cử nhân năm 1502 và cao học năm 1505 tại đó.
Nhờ 4 năm học tại Erfurt, Luther thông thạo triết lý kinh viện hiện hành. Ông theo triết lý duy danh (nominalist) của Nhà Kinh Viện người Anh William Occam (khoảng 1280-1349), được coi là “hiện đại” lúc ấy, chứ không theo trường phái duy thực (realist) xưa cũ hơn đại biểu cho quan điểm của Thánh Tôma Aquinô (1225-1274) và của Gioan Duns Scotus (1265-1308).
Sau khi lấy được cao học, Luther bắt đầu học Luật vào tháng Năm, 1505, một việc cha ông rất thích, vì lúc nào cũng muốn ông theo nghề luật sư. Ấy thế nhưng, chỉ hai tháng sau đó, Luther bỗng nhiên từ bỏ thế gian để gia nhập đan viện Augustinô tại Erfurt. Dù các người viết tiểu sử ông bất đồng về lý do của hành động này, chính Luther thì gán quyết định bất ngờ này cho nỗi sợ chết do một cơn sét đánh gây ra. Ông thề hứa sẽ trở thành một đan sĩ và cảm thấy bị trói buộc bởi lời thề hứa này dù không hề thích cuộc sống của một đan sĩ. Cha ông thì thất vọng ê chề.
Sau một năm nhà tập, Luther khấn các lời khấn vâng lời, nghèo khó và khiết tịnh, và được thụ phong linh mục năm 1507. Năm sau, ông chuyên cần dọn thi tiến sĩ thần học (đậu năm 1512) và giảng dạy. Năm 1508, ông được di chuyển về đan viện Wittenberg.
Luther tuân giữ luật dòng từng li từng tí và áp dụng những hình thức khổ tu rất nghiêm ngặt, nhưng không tìm được bình an cho tâm hồn. Ông bị ám ảnh bởi mối nghi ngại không được cứu rỗi và do đó phải kinh qua nhiều ngày giờ trầm cảm. Giải thoát chỉ đến với ông khi suy niệm đoạn Thư Rôma 1:16-17. Nhờ việc này, ông đúc kết được cho mình điều sau này sẽ trở thành nguyên tắc chính của Thệ Phản: công chính hóa chỉ nhờ một mình đức tin mà thôi. Theo quan điểm này, Thiên Chúa phán xét kẻ có tội không theo công lao của họ, mà theo sự công chính Người ban cho họ qua ơn thánh và được họ tiếp nhận bằng đức tin.
Luther phát biểu quan điểm trên trong nhiều buổi thuyết trình trong các năm từ 1512 tới 1517. Tuy nhiên, điều khiến ông chống lại Giáo Hội lại thuộc phạm vi thực hành. Ông lo ngại tập tục “bán” ân xá trong Giáo Hội. Người ta cho rằng nhờ trả một số tiền nào đó, họ có thể giảm nhẹ hay loại bỏ được hình phạt tạm thời của tội nhẹ; sau đó, hiệu quả của ân xá còn được nới rộng thêm vì cho rằng nó có thể giảm hay loại bỏ được cả hình phạt luyện ngục nữa. Những người bán ân xá, vì muốn quyên được những món tiền khổng lồ, nên không bao giờ nói rõ cho người ít học hiểu rằng ân xá chỉ áp dụng cho các hình phạt đền tội, đòi hỏi nơi tội nhân trên dương thế (hay trong luyện ngục, nếu việc đền tội này chưa làm trọn nơi dương thế). Trong vai trò mục tử và người giải tội, Luther thấy việc bán ân xá có quá nhiều lạm dụng lớn lao, nên đã lên tiếng chống lại nó trong 95 Luận Đề. Các chỉ trích của ông đặc biệt nhắm vào John Tetzel, một linh mục Dòng Đa Minh, người bị tố cáo bán ân xá để quyên tiền tái thiết Nhà Thờ Thánh Phêrô tại Rôma.
Sau khi 95 Luận Đề được công bố, các biến cố mau chóng lên cao điểm. John Tetzel và các nhà thần học khác trả lời các tố giác của Luther; và được Luther hồi âm. Chẳng bao lâu, chính Đức Giáo Hoàng, người vẫn cho rằng đây chỉ là trò tranh luận giữa các tu sĩ Augustinô và các tu sĩ Đa Minh, cũng nhập cuộc. Luther được yêu cầu rút lại các quan điểm của mình, nhưng ông bác bỏ lời yêu cầu và cho rằng chỉ chịu rút lại nếu được chứng minh bằng Thánh Kinh rằng chúng sai lạc. Bất chấp nhiều cố gắng hòa giải, nhưng bất thành, vào mùa xuân 1520, 41 sai lạc trong học thuyết của Luther bị Đức Giáo Hoàng kết án bằng chỉ dụ Exsurge Domine. Luther vẫn không thay đổi các quan điểm của mình; ngược lại, ông còn công khai đốt chỉ dụ của Đức Giáo Hoàng vào ngày 10 tháng Mười Hai, năm 1520. Hành vi khinh thường ấy đã khiến Luther bị vạ tuyệt thông vào tháng Giêng, 1521.
Dưới sự bảo đảm của hoàng đế, tháng Tư năm 1521, Luther xuất hiện tại Nghị Viện Worms. Ông nhìn nhận tư cách tác giả của các cuốn sách ông viết. Nhưng khi được yêu cầu rút lại các quan điểm phát biểu trong đó, ông đã tranh biện suốt 24 tiếng đồng hồ để rồi đưa ra lời tuyên bố sau: “Ngoại trừ được thuyết phục bằng chứng từ Thánh Kinh hay bằng lý lẽ hiển nhiên, vì tôi không tin tưởng ở cả giáo hoàng lẫn hội đồng, bởi điều chắc chắn là họ thường hay sai lầm và tự mâu thuẫn với chính mình, tôi sẽ nhờ Thánh Kinh do tôi diễn dịch mà đứng vững, và lương tâm tôi sẽ nhờ Lời Chúa mà được cầm giữ, nên tôi sẽ không thể cũng như sẽ nhất định không rút lại bất cứ điều gì, khi thấy rằng hành động ngược với lương tâm là điều không an toàn và không đúng. Xin Thiên Chúa giúp đỡ tôi. Amen”
Một ngày sau, Luther rời Worms; do xếp đặt từ trước, ông bị một nhóm kị sĩ chặn bắt tại một cánh rừng và bí mật đưa tới lâu đài Wartburg. Ông ở lại đây một năm, dưới sự che chở của Frederick, ông hoàng xứ Saxony. Trong thời gian này, ông dịch Tân Ước từ Hy Ngữ qua Đức Ngữ, với sự trợ giúp của người phụ tá là Philipp Melanchthon. Trong các năm sau đó, Luther còn phiên dịch Cựu Ước qua Đức Ngữ nữa. Năm 1525, Luther kết hôn với cựu nữ tu Catherine von Bora, người sinh cho ông 3 trai, 2 gái.
Phong trào Thệ Phản phát triển rất nhanh ngay lúc Luther còn sống. Tuy nhiên, trong cuộc Nổi Dậy Của Nông Dân, vì có quan điểm chính trị bảo thủ, Luther đã đứng về phía các ông hoàng và phe qúi tộc, chống lại nông dân. Việc này khiến nhiều nông dân thất vọng cay đắng đối với các nhà cải cách mà họ vốn tin tưởng xưa nay. Trục trặc lớn thứ hai xẩy ra cho Phe Cải Cách khi Luther và nhà cải cách người Thụy Sĩ là Huldreich Zwingli không làm sao đạt được thỏa thuận về học lý Tiệc Ly. Luther nhấn mạnh tới lối giải thích chiểu tự đối với lời Chúa Giêsu phán rằng “Đây là mình ta” trong khi Zwingli hiểu những lời này theo nghĩa bóng.
Luther trước tác rất nhiều. Bộ sưu tập Weimar gồm trọn các trước tác của ông, bắt đầu thực hiện từ năm 1883, gồm hơn 90 cuốn. Thêm vào đó, khi phiên dịch Thánh Kinh, ông còn soạn phần chú giải cho các sách này nữa. Ngoài ra, ông còn viết nhiều bài tranh luận, nhiều thánh ca, rất nhiều thư từ. Ông qua đời ngày 18 tháng Hai, năm 1546, tại Eisleban, nơi ông ra đời.
Kỳ sau: Xác minh của Tòa Thánh về học lý công chính hóa
Giữa khoảng 3 năm ấy, Luther cho xuất bản một số trước tác quan trọng của ông. Trong đó, có ba cuốn được coi như Các Khảo Luận Cải Cách: Thư Ngỏ Gửi Giới Qúi Tộc Của Quốc Gia Đức, Cảnh Tù Đầy Babylon của Giáo Hội, và Sự Tự Do Của Kitô Hữu. Cả 3 cuốn sách này đều được xuất bản trong năm 1520 sau khi Đức Giáo Hoàng ra chỉ dụ kết án các lý thuyết của Luther. Giọng điệu trong các trước tác đó, vì thế, phần lớn có tính đấu tranh và đả kích, dù cuốn Sự Tự Do Của Kitô Hữu có giọng hơi hoà giải một chút. Thí dụ, ông mào đầu khảo luận này bằng một lá thư ngỏ gửi Đức Lêô X. Nói chung, đây là lá thư thân ái, bảo đảm với Đức Giáo Hoàng rằng ông không có ý định tấn công ngài. Tuy nhiên, cũng chính lá thư này cho thấy rõ phạm vi thay đổi của ông: ông không còn là một đan sĩ Dòng Augustinô nữa. Ông nói với Đức Giáo Hoàng như người ngang hàng, cho ngài lời cố vấn và không hề mang dáng dấp của một hối nhân. Cả lá thư và khảo luận đều viết bằng tiếng La Tinh, và sau này, được ông dịch sang tiếng Đức để đề tặng thị trưởng Zwickau.
Một khảo luận nhỏ như Sự Tự Do Của Kitô Hữu không thể nói lên hết nền thần học của Luther, nhưng nó có hai điểm hết sức quan trọng đối với học thuyết Thệ Phản: Thứ nhất, tầm quan trọng trên hết của đức tin đối với ơn cứu rỗi của con người. Mọi sự đều tùy thuộc nơi đức tin. Có nó, con người không thể không được cứu rỗi; không có nó, con người không thể nào được cứu rỗi cả. Quan niệm cho rằng “việc làm tốt”, tức các hành động vốn có tính đạo hạnh, có thể giúp con người đạt được ơn cứu rỗi, chỉ là một ảo tưởng. Việc làm mà không có đức tin sẽ bị tội lỗi làm cho ra xấu xa và do đó vô dụng; còn khi con người đã có đức tin, thì việc làm không còn cần thiết nữa.
Điểm thứ hai là học thuyết cho rằng mọi Kitô hữu đều là linh mục: “Bởi thế, tất cả chúng ta, những người tin vào Chúa Kitô, đều là linh mục...” (tr.387). Mỗi một Kitô hữu đều có các chức năng của một linh mục: “Là linh mục, chúng ta xứng đáng xuất hiện trước mặt Thiên Chúa để cầu nguyện cho người khác và dạy dỗ nhau những điều về Chúa” (tr.388).
Cả hai học thuyết trên đều đã trở thành những viên đá tảng của nền thần học Thệ Phản từ đó.
Martin Luther sinh ngày 10 tháng Mười Một năm 1483, tại Eisleben, một thị trấn nhỏ của Đức cách tây bắc Leipzig chừng 50 dặm. Cha mẹ Luther thuộc giai cấp nông dân, và mặc dù sau đó, trở nên khấm khá đôi chút, cha ông vẫn phải vất vả lắm mới chu cấp đủ cho một gia đình mỗi ngày một đông thêm.
Luther được nuôi dạy trong một bầu khí nghiêm ngặt và đạo hạnh. Giống các trẻ em khác, cậu được dạy các niềm tin tôn giáo cũng như nhiều mê tín bình dân khác của thời đại. Lên 7, cậu bắt đầu chịu kỷ luật khắt khe của trường La Tinh sở tại. Qua tuổi 14, cậu được gửi tới Magdeburg học với các thày thuộc Huynh Đoàn Sống Chung, một hội dòng nổi tiếng về giáo dục và tinh thần cải cách. Để đủ tiền ăn học trong thời kỳ này, Luther buộc phải đi hát dạo ngoài đường.
Ba năm sau đó, Luther sống tại Eisenach. Tại đây, nhờ sự giúp đỡ của một người giầu có, cậu đã có thể chuyên tâm học lên cao. Mùa xuân năm 1501, cậu vào trường Đại Học Erfurt nổi tiếng và lấy cử nhân năm 1502 và cao học năm 1505 tại đó.
Nhờ 4 năm học tại Erfurt, Luther thông thạo triết lý kinh viện hiện hành. Ông theo triết lý duy danh (nominalist) của Nhà Kinh Viện người Anh William Occam (khoảng 1280-1349), được coi là “hiện đại” lúc ấy, chứ không theo trường phái duy thực (realist) xưa cũ hơn đại biểu cho quan điểm của Thánh Tôma Aquinô (1225-1274) và của Gioan Duns Scotus (1265-1308).
Sau khi lấy được cao học, Luther bắt đầu học Luật vào tháng Năm, 1505, một việc cha ông rất thích, vì lúc nào cũng muốn ông theo nghề luật sư. Ấy thế nhưng, chỉ hai tháng sau đó, Luther bỗng nhiên từ bỏ thế gian để gia nhập đan viện Augustinô tại Erfurt. Dù các người viết tiểu sử ông bất đồng về lý do của hành động này, chính Luther thì gán quyết định bất ngờ này cho nỗi sợ chết do một cơn sét đánh gây ra. Ông thề hứa sẽ trở thành một đan sĩ và cảm thấy bị trói buộc bởi lời thề hứa này dù không hề thích cuộc sống của một đan sĩ. Cha ông thì thất vọng ê chề.
Sau một năm nhà tập, Luther khấn các lời khấn vâng lời, nghèo khó và khiết tịnh, và được thụ phong linh mục năm 1507. Năm sau, ông chuyên cần dọn thi tiến sĩ thần học (đậu năm 1512) và giảng dạy. Năm 1508, ông được di chuyển về đan viện Wittenberg.
Luther tuân giữ luật dòng từng li từng tí và áp dụng những hình thức khổ tu rất nghiêm ngặt, nhưng không tìm được bình an cho tâm hồn. Ông bị ám ảnh bởi mối nghi ngại không được cứu rỗi và do đó phải kinh qua nhiều ngày giờ trầm cảm. Giải thoát chỉ đến với ông khi suy niệm đoạn Thư Rôma 1:16-17. Nhờ việc này, ông đúc kết được cho mình điều sau này sẽ trở thành nguyên tắc chính của Thệ Phản: công chính hóa chỉ nhờ một mình đức tin mà thôi. Theo quan điểm này, Thiên Chúa phán xét kẻ có tội không theo công lao của họ, mà theo sự công chính Người ban cho họ qua ơn thánh và được họ tiếp nhận bằng đức tin.
Luther phát biểu quan điểm trên trong nhiều buổi thuyết trình trong các năm từ 1512 tới 1517. Tuy nhiên, điều khiến ông chống lại Giáo Hội lại thuộc phạm vi thực hành. Ông lo ngại tập tục “bán” ân xá trong Giáo Hội. Người ta cho rằng nhờ trả một số tiền nào đó, họ có thể giảm nhẹ hay loại bỏ được hình phạt tạm thời của tội nhẹ; sau đó, hiệu quả của ân xá còn được nới rộng thêm vì cho rằng nó có thể giảm hay loại bỏ được cả hình phạt luyện ngục nữa. Những người bán ân xá, vì muốn quyên được những món tiền khổng lồ, nên không bao giờ nói rõ cho người ít học hiểu rằng ân xá chỉ áp dụng cho các hình phạt đền tội, đòi hỏi nơi tội nhân trên dương thế (hay trong luyện ngục, nếu việc đền tội này chưa làm trọn nơi dương thế). Trong vai trò mục tử và người giải tội, Luther thấy việc bán ân xá có quá nhiều lạm dụng lớn lao, nên đã lên tiếng chống lại nó trong 95 Luận Đề. Các chỉ trích của ông đặc biệt nhắm vào John Tetzel, một linh mục Dòng Đa Minh, người bị tố cáo bán ân xá để quyên tiền tái thiết Nhà Thờ Thánh Phêrô tại Rôma.
Sau khi 95 Luận Đề được công bố, các biến cố mau chóng lên cao điểm. John Tetzel và các nhà thần học khác trả lời các tố giác của Luther; và được Luther hồi âm. Chẳng bao lâu, chính Đức Giáo Hoàng, người vẫn cho rằng đây chỉ là trò tranh luận giữa các tu sĩ Augustinô và các tu sĩ Đa Minh, cũng nhập cuộc. Luther được yêu cầu rút lại các quan điểm của mình, nhưng ông bác bỏ lời yêu cầu và cho rằng chỉ chịu rút lại nếu được chứng minh bằng Thánh Kinh rằng chúng sai lạc. Bất chấp nhiều cố gắng hòa giải, nhưng bất thành, vào mùa xuân 1520, 41 sai lạc trong học thuyết của Luther bị Đức Giáo Hoàng kết án bằng chỉ dụ Exsurge Domine. Luther vẫn không thay đổi các quan điểm của mình; ngược lại, ông còn công khai đốt chỉ dụ của Đức Giáo Hoàng vào ngày 10 tháng Mười Hai, năm 1520. Hành vi khinh thường ấy đã khiến Luther bị vạ tuyệt thông vào tháng Giêng, 1521.
Dưới sự bảo đảm của hoàng đế, tháng Tư năm 1521, Luther xuất hiện tại Nghị Viện Worms. Ông nhìn nhận tư cách tác giả của các cuốn sách ông viết. Nhưng khi được yêu cầu rút lại các quan điểm phát biểu trong đó, ông đã tranh biện suốt 24 tiếng đồng hồ để rồi đưa ra lời tuyên bố sau: “Ngoại trừ được thuyết phục bằng chứng từ Thánh Kinh hay bằng lý lẽ hiển nhiên, vì tôi không tin tưởng ở cả giáo hoàng lẫn hội đồng, bởi điều chắc chắn là họ thường hay sai lầm và tự mâu thuẫn với chính mình, tôi sẽ nhờ Thánh Kinh do tôi diễn dịch mà đứng vững, và lương tâm tôi sẽ nhờ Lời Chúa mà được cầm giữ, nên tôi sẽ không thể cũng như sẽ nhất định không rút lại bất cứ điều gì, khi thấy rằng hành động ngược với lương tâm là điều không an toàn và không đúng. Xin Thiên Chúa giúp đỡ tôi. Amen”
Một ngày sau, Luther rời Worms; do xếp đặt từ trước, ông bị một nhóm kị sĩ chặn bắt tại một cánh rừng và bí mật đưa tới lâu đài Wartburg. Ông ở lại đây một năm, dưới sự che chở của Frederick, ông hoàng xứ Saxony. Trong thời gian này, ông dịch Tân Ước từ Hy Ngữ qua Đức Ngữ, với sự trợ giúp của người phụ tá là Philipp Melanchthon. Trong các năm sau đó, Luther còn phiên dịch Cựu Ước qua Đức Ngữ nữa. Năm 1525, Luther kết hôn với cựu nữ tu Catherine von Bora, người sinh cho ông 3 trai, 2 gái.
Phong trào Thệ Phản phát triển rất nhanh ngay lúc Luther còn sống. Tuy nhiên, trong cuộc Nổi Dậy Của Nông Dân, vì có quan điểm chính trị bảo thủ, Luther đã đứng về phía các ông hoàng và phe qúi tộc, chống lại nông dân. Việc này khiến nhiều nông dân thất vọng cay đắng đối với các nhà cải cách mà họ vốn tin tưởng xưa nay. Trục trặc lớn thứ hai xẩy ra cho Phe Cải Cách khi Luther và nhà cải cách người Thụy Sĩ là Huldreich Zwingli không làm sao đạt được thỏa thuận về học lý Tiệc Ly. Luther nhấn mạnh tới lối giải thích chiểu tự đối với lời Chúa Giêsu phán rằng “Đây là mình ta” trong khi Zwingli hiểu những lời này theo nghĩa bóng.
Luther trước tác rất nhiều. Bộ sưu tập Weimar gồm trọn các trước tác của ông, bắt đầu thực hiện từ năm 1883, gồm hơn 90 cuốn. Thêm vào đó, khi phiên dịch Thánh Kinh, ông còn soạn phần chú giải cho các sách này nữa. Ngoài ra, ông còn viết nhiều bài tranh luận, nhiều thánh ca, rất nhiều thư từ. Ông qua đời ngày 18 tháng Hai, năm 1546, tại Eisleban, nơi ông ra đời.
Kỳ sau: Xác minh của Tòa Thánh về học lý công chính hóa
Xác minh của Tòa Thánh về học lý công chính hóa
Chúng tôi nhận thấy khảo luận “Sự Tự Do của Kitô Hữu” có nhiều tầm nhìn thấu suốt về đức tin đến nỗi nếu bỏ được cụm từ “chỉ...mà thôi” trong công thức cốt lõi và nổi tiếng của Luther “công chính hóa chỉ nhờ đức tin mà thôi”, và các chỉ trích có tính bút chiến nhắm vào ngôi vị giáo hoàng Rôma thì đây là một khảo luận hàng đầu về đức tin mà Kitô hữu nào cũng nên học hỏi. Chúng tôi cho chuyển khảo luận sang tiếng Việt vì nghĩ rằng đức tin của người tín hữu Việt Nam đã trưởng thành đủ để không bị chao đảo trước các sai lầm minh nhiên hay mặc nhiên ẩn nấp đàng sau các trước tác Thệ Phản. Vả lại, muốn phê phán cho chính xác quan điểm của họ, ta cần biết thực ra họ nói gì. Đàng khác, nay là lúc, Giáo Hội đã nhìn ra các đóng góp đáng kể của Luther song song với các thiếu sót sai lầm của Ông. Muốn cổ vũ phong trào đại kết để hy vọng một ngày nào có được sự hợp nhất hữu hình, người tín hữu cũng nên bước theo chân Huấn Quyền để khám phá cả các ưu điểm lẫn khuyết điểm của các giáo hội anh em.
Tuy nhiên, trước khi đi vào chính khảo luận của Luther, tưởng nên nhắc lại: sau nhiều năm đối thoại tích cực, năm 1999, Tòa Thánh và Liên Đoàn Luther Thế giới đã đạt được một thỏa thuận về học lý Công Chính Hóa. Tuyên bố chung đã được công bố vào ngày 31 tháng Mười năm 1999. Kèm theo Tuyên Bố chung này, còn có 1 phụ lục, và hai tuyên bố riêng của mỗi Giáo Hội, cho thấy đây là 1 vấn đề chưa hẳn đã được giải quyết dứt khóat.
Thực vậy, trong “Trả Lời của Giáo Hội Công Giáo Đối Với Tuyên Bố Chung của Giáo Hội Công Giáo Và Liên Đoàn Lutherô Thế Giới Về Học Lý Công Chính Hóa”, Giáo Hội Công Giáo cho rằng Tuyên Bố Chung xác nhận nhiều điểm trùng hợp nhau nhưng vẫn còn nhiều điểm khác biệt nhau về học lý công chính hóa. Bởi thế, Giáo Hội Công Giáo xin minh xác một số điểm quan trọng. Trong phạm vi của chúng ta, các điểm sau đây có liên hệ:
Thứ nhất: đối với Giáo Hội Công Giáo, trong phép rửa, mọi tội lỗi được cất bỏ, nên, nơi người tái sinh không còn gì đáng ghét đối với Thiên Chúa nữa. Nên công thức “là người công chính và đồng thời là người tội lỗi” như được giải thích trong số 29: “các tín hữu hoàn toàn công chính, theo nghĩa Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của họ nhờ Lời và Bí Tích... Tuy nhiên, nhìn vào chính họ, họ cũng nhận thấy họ vẫn hoàn toàn là các tội nhân. Tội lỗi vẫn sống trong họ” là điều không thể chấp nhận được.
........
Thứ ba, tuy Công Giáo và người Lutherô đều nhất trí rằng đời sống mới phát sinh từ lòng Thiên Chúa thương xót chứ không do bất cứ công trạng nào của chúng ta, nhưng như thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô (5:17) đã viết, lòng Chúa thương xót đem đến một sáng thế mới và do đó làm cho con người có khả năng đáp trả ơn phúc của Thiên Chúa, hợp tác với ơn thánh. Về phương diện này, Giáo Hội Công Giáo hài lòng ghi chú rằng số 21, phù hợp với điều 4 của Sắc lệnh về Công Chính Hóa của Công Đồng Trent (DS 1554) quả quyết rằng con người có thể từ khước ơn thánh; nhưng cũng phải khẳng định rằng, với tự do từ khước này, cũng có khả năng tuân theo thánh ý Thiên Chúa, một khả năng có tên rất đúng là “cooperatio” (hợp tác). Khả năng mới này được ban cho trong sáng thế mới không cho phép chúng ta dùng kiểu nói “chỉ có tính thụ động” (số 21) trong đồng văn này. Thành thử, số 24 khi nói rằng “hồng ân ơn thánh Thiên Chúa trong công chính hóa vẫn luôn độc lập đối với sự hợp tác của con người” phải được hiểu là ơn thánh này không lệ thuộc việc làm của con người, chứ không theo nghĩa công chính hóa có thể diễn ra không có sự hợp tác của con người. Cả số 19 theo đó tự do của con người “không phải là tự do trong tương quan với sự cứu rỗi” cũng phải liên hệ tới việc con người không thể đạt tới công chính hóa bằng cố gắng riêng của họ.
Hơn nữa, Giáo Hội Công Giáo chủ trương rằng việc làm tốt của người đã được công chính hóa luôn luôn là hoa trái của ơn thánh. Nhưng đồng thời, và không cách chi giảm thiểu sáng kiến hoàn toàn của Thiên Chúa, chúng cũng là hoa trái của con người, đã được công chính hóa và biến đổi bên trong. Do đó, chúng ta có thể nói sự sống đời đời, cùng một lúc, vừa là ơn thánh vừa là phần thưởng được Thiên Chúa ban vì việc làm tốt và công đức. Học lý này là kết quả của sự biến đổi bên trong của con người mà chúng tôi đã nhắc đến ở số 1 “nhận định” này...
Bản minh xác cũng nhấn mạnh rằng cần nhiều suy tư hơn nữa để đi đến thoả thuận chung nhiều hơn. Việc suy tư này nên dựa vào toàn bộ Tân Ước chứ không chỉ các thư của Thánh Phaolô mà thôi. Vả lại, ngay các thư Thánh Phaolô cũng nhắc đến các khía cạnh quan trọng khác như tư cách con cái và thừa hưởng gia nghiệp của tín hữu (Gl 4:4-7; Rm 8:14-17).
Riêng về vấn đề “việc làm tốt”, Luther không quên nhấn mạnh đến sự cần thiết của nó, không phải để được công chính hóa, nhưng vẫn là những bổn phận đích thực của một Kitô hửu đích danh, vì trong khảo luận này, chính Ông đã viết như sau:
“Đó là điều biến việc chăm sóc thân xác thành một việc làm của Kitô hữu, nghĩa là nhờ có sức khỏe và tiện nghi, chúng ta có thể làm việc, mua sắm, và để dành quĩ để giúp đỡ người túng thiếu, nhờ cách này, chi thể mạnh có thể phục vụ chi thể yếu hơn, và chúng ta có thể trở nên con cái Thiên Chúa, mỗi người biết chăm sóc và làm việc cho người khác, mang gánh nặng của nhau và nhờ thế chu toàn lề luật của Chúa Kitô (Gl 6:2). Đó mới là cuộc sống Kitô hữu đích thực. Ở đây, đức tin thực sự tích cực nhờ tình yêu (Gl 5:6), nghĩa là, nó tìm được biểu thức trong các việc làm trong việc phục vụ tự do nhất, thực hiện một cách vui vẻ và đầy yêu thương, với tình yêu này, người ta sẵn lòng phục vụ người khác không hy vong được ban thưởng; và cho riêng họ, họ hoàn toàn hài lòng với sự viên mãn và phong phú của đức tin”.
Như trên đã nói, về phần mình, cái nhìn của Giáo Hội Công Giáo đối với chính Martin Luther đã thay đổi rất nhiều và với một vận tốc ngày càng nhanh hơn dưới triều Giáo Hoàng của Đức Phanxicô. Năm 1983, nhân kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Luther, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã giảng tại một nhà thờ Luthêrô ở Rôma. Dịp ấy, ngài gọi Luther là một người “có lòng đạo sâu sắc” luôn được “thúc đẩy bởi việc khảo sát ơn cứu rỗi đời đời”. Tại Erfurt năm 2011, Đức Bênêđíctô XVI cho hay: tâm điểm nền thần học của Luther là Kitô học. Với ông, Thiên Chúa chân thật và sống động không còn là một giả thuyết triết học nữa. Thiên Chúa ấy có một bộ mặt, và Người đã lên tiếng với chúng ta. Người trở nên một người giữa chúng ta dưới cái tên Giêsu Kitô, Đấng là Thiên Chúa thật và là người thật. Suy tư của Luther, trọn nền linh đạo của ông, hoàn toàn là qui Kitô: ‘điều gì cổ vũ chính nghĩa của Chúa Kitô’, với Luther, đều là tiêu chuẩn giải thích dứt khoát đối với khoa giải thích sách thánh”.
Thực ra từ năm 1939, Linh mục Joseph Lortz, Dòng Tên, tác giả cuốn The Reformation in Germany (Phong Trào Cải Cách tại Đức), vốn dọn đường cho Sắc lệnh về Đại Kết, Unitatis Redintegratio (21 tháng 11 năm 1964) của Vatican II, đã cho rằng “Trong chính ông, Luther đã vật lộn và ném bỏ thứ Đạo Công Giáo không Công Giáo chút nào”.
Trong một tường trình dài 276 trang tựa là The Reformation in Ecumenical Perspective (Phong Trào Cải Cách trong Viễn Ảnh Đại Kết) của Ủy Ban Đại Kết, Hội Đồng Giám Mục Đức, để kỷ niệm 500 năm Phong Trào Cải Cách, Martin Luther được ca tụng như một “chứng nhân Tin Mừng và là thầy dậy đức tin”.
Đức Cha Farrell, Thư Ký Hội Đồng Giáo Hoàng về Cổ Vũ Hợp Nhất Kitô Giáo, rất đúng khi nhận định rằng: điều rõ ràng là Luther nói sự thật khi ông phản kháng nhiều lạm dụng trong Giáo Hội, những lạm dụng mà Công Đồng Trent thời đó đã cố gắng sửa chữa. Trong các cuộc đấu tranh và tranh chấp tiếp theo sau Cuộc Cải Cách, hai bên trở nên cứng rắn trong việc bác bỏ nhau “đến nỗi ý niệm cho rằng Luther đúng” trong một số vấn đề đã bị mất hút.
Còn Đức Phanxicô? Phát biểu đáng lưu ý của ngài là trong cuộc họp báo trên không trên đường từ Armenia trở về Rôma hồi tháng 6 năm 2016: “Tôi nghĩ rằng các ý hướng của Martin Luther đã không lầm lẫn. Ông là một nhà cải cách. Có lẽ một số phương pháp không đúng. Nhưng vào thời đó... Giáo Hội chính xác không phải là một mẫu mực để noi theo... và ông phản đối việc này. Rồi ông thông minh... đưa ra một số biện pháp... Còn ngày nay, người Luthêrô và người Công Giáo, người Thệ Phản, tất cả chúng ta đều đồng ý về học lý công chính hóa. Về điểm này, một điểm quan trọng, ông không lầm. Ông tạo thuốc chữa cho Giáo Hội”.
Sau đó mấy tháng, Đức Phanxicô đích thân qua Lund, Thụy Điển, mừng 500 năm việc thành lập Phong Trào Thệ Phản do Martin Luther khởi xướng, một biến cố có chủ đề là “Từ Tranh Chấp Tới Hiệp Thông” với lời cầu nguyện chung khởi đầu bằng việc cảm tạ Chúa “về các hồng phúc của Phong Trào Thệ Phản”. Ngày 1 tháng 4 năm 2017, trong gặp gỡ các tham dự viên cuộc hội thảo tại Vatican do Uỷ Ban Giáo Hoàng về Khoa học Lịch Sử tổ chức với chủ đề: “Luther: 500 Năm Sau: Việc Hiểu Lại Cuộc Cải Cách Luther trong Bối Cảnh Lịch Sử Giáo Hội", Đức Phanxicô nói rằng “Việc nghiên cứu nghiêm túc về nhân vật Luther và sự phê bình của ông đối với Giáo Hội và triều giáo hoàng thời đó chắc chắn sẽ góp phần vượt thắng bầu khí không tin tưởng lẫn nhau và tranh cãi mà đã quá lâu đánh dấu trên các mối quan hệ giữa Công Giáo và Tin Lành”.
Ngài nói thêm: “một sự nghiên cứu chú tâm và nhiệt thành, thoát khỏi thành kiến và những vấn đề” là cách đúng đắn để tìm kiếm “tất cả mọi điều tích cực và hợp pháp trong Cuộc Cải Cách, trong khi tách bản thân chúng ta ra khỏi những sai lỗi, những thái cực và những thất bại, và nhìn nhận tội lỗi dẫn đến sự chia rẽ”.
Với các “caveat” (thận trọng) như trên, xin mời qúy độc giả đọc chính khảo luận của người sáng lập ra Phong Trào Thệ Phản trong Kitô Giáo, chuyển sang tiếng Việt từ bản tiếng Anh trong bộ The Great Ideas Today, 1962, của Nhà Xuất Bản The Encyclopaedia Britannica, Inc.
Kỳ sau: Sự Tự Do của Kitô Hữu, khảo luận của Martin Luther
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét