Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật XIX
Thường Niên B – Lm. Inhaxio Hồ Thông
Diễn
từ về Bánh Hằng Sống tiếp tục ngự trị Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIX này.
1V 19: 4-8
Bài
Đọc I thuật lại một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời
của ngôn sứ Ê-li-a. Bị trục xuất khỏi vương quốc phương Bắc, đơn độc và chán
nãn trong sa mạc, ngôn sứ Ê-li-a được thần lương bồi dưỡng lấy lại sức lực và
thẳng tiến đến núi thánh của Đức Chúa.
Ep 4: 30-5: 2
Trong
thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đưa ra cho các Ki-tô hữu mẫu gương hoàn
thiện của Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thần Khí, bắt chước Thiên Chúa, thực
hành đức ái như Đức Giê-su đến mức tận hiến bản thân mình.
Ga
6: 41-51
Tin
Mừng giới thiệu tiếp diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giê-su công bố
chính Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, nguồn sống đời đời cho nhân loại.
BÀI ĐỌC I (1V 19:
4-8)
Đây
là một trong những chuyện tích tâm linh rất phong phú về cuộc đời của ngôn sứ
Ê-li-a, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc
phương Bắc, vào thời vua A-kháp trị vì (874-853 B.C.).
1. Bối cảnh lịch sử:
Vua
A-kháp chẳng những kết hôn với công chúa I-de-ven, ái nữ của vua Xi-đôn, lại
còn phụng thờ thần Ba-an. Vua lập một bàn thờ để kính thần Ba-an trong đền thờ
mà vua đã xây dựng tại thành đô Sa-ma-ri. Hoàng hậu I-de-ven không những nhiệt
thành truyền bá việc thờ kính thần Ba-an trong vương quốc phương Bắc, nhưng còn
cho các ngôn sứ của thần Ba-an ở trong dinh thự của bà ở Sa-ma-ri.
Ngôn
sứ Ê-li-a kịch liệt chống đối việc thờ thần ngoại giáo nầy. Ông đã đạt được một
chiến thắng vang dội của Thiên Chúa Ít-ra-en trên thần Ba-an ở trên núi
Các-men. Trong một cuộc thách đố, vị ngôn sứ của Thiên Chúa Ít-ra-en đã chiến
thắng các ngôn sứ của thần Ba-an: hy lễ và lời cầu nguyện mà các ngôn sứ của
thần Ba-an dâng lên cho thần để xin thần cho mưa xuống vào thời kỳ hạn hán
chẳng đem lại kết quả gì; trái lại, chỉ hy lễ và lời cầu nguyện mà ngôn sứ của
Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, dâng lên cho Ngài thì được nhậm lời ngay lập
tức. Do đó, dân chúng nỗi giận giết chết các ngôn sứ của thần Ba-an.
Hoàng
hậu I-de-ven nổi cơn thịnh nộ; bà ra lệnh cho ngôn sứ Ê-li-a phải rời khỏi
vương quốc ngay, nếu không ông sẽ bị giết chết như vậy.
2. Cuộc hành trình đến núi thánh.
Ngôn
sứ Ê-li-a ra đi hướng về sa mạc phương Bắc, với ý định đến núi Kho-rếp (cũng
còn được gọi là núi Xi-nai). Ông muốn đi lại lộ trình mà trước đây ông Mô-sê đã
đi để tôi luyện niềm tin của mình ở nơi mà Đức Chúa đã tỏ mình ra.
Sau một ngày đường trong sa mạc, vị ngôn sứ kiệt sức và chán
nãn muốn bỏ cuộc, vì vậy ông xin Chúa cho ông được chết đi: “Lạy Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con
chẳng hơn gì cha ông của con”. Lời khẩn nguyện của ông ám chỉ đến
những người Do thái phải chết trong sa mạc mà không được nhìn thấy Đất Hứa vì
họ đã nghi ngờ.
Vị ngôn sứ vốn nổi tiếng là người nhiệt thành bất khuất của
Đức Chúa đã phải chán nãn ngã lòng đến như vậy. Thình lình một thiên sứ xuất
hiện gọi vị ngôn sứ: “Dậy mà ăn”. Ông đưa
mắt nhìn, một chiếc bánh nướng và một hũ nước đặt sẳn bên cạnh ông. Đồ ăn thức
uống thật sự rất quý trong sa mạc hoang vu và nóng cháy nầy.
Nhưng phải can thiệp đến lần thứ hai vị thiên sứ mới có thể
lay chuyển tâm trí của vị ngôn sứ. Cuối cùng, nhờ thần lương tiếp sức, vị ngôn
sứ lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Ông đi một mạch suốt bốn mươi ngày
đêm tới núi Kho-rếp, núi của Thiên Chúa. “Bốn mươi” là
con số biểu tượng, đặc biệt gắn liền với kỷ niệm bốn mươi năm dân Do thái hành
trình trong sa mạc trên đường về Đất Hứa; cũng là bốn mươi ngày ông Mô-sê ăn
chay cầu nguyện trước khi lãnh nhận hai tấm bia Lề Luật. Vị ngôn sứ đã đạt đến
đích cuộc hành hương, nhưng sứ mạng của ông chưa hoàn tất. Ông sẽ phải trở về
Sa-ma-ri và tiếp tục sứ vụ ngôn sứ của mình.
Bốn
trăm năm đã trôi qua giữa ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a. Danh tiếng của hai vị
được liên kết với đỉnh núi Khô-rếp, núi thánh của Đức Chúa. Hai nhận vật Cựu
Ước danh tiếng lừng lẫy nầy sẽ cùng nhau tái xuất hiện trên đỉnh núi Biến Hình.
BÀI ĐỌC II (Ep 4:
30-32-5: 2).
Chúng
ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, phần luân lý và khuyên
bảo. Nét đặc trưng của đoạn trích hôm nay chính là lời kêu gọi các tín hữu sống
hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên Chúa: sống theo Thánh Thần, bắt chước
Thiên Chúa và thực hành đức ái như Đức Ki tô.
1. Sống theo Thần Khí:
Người tín hữu đã lãnh nhận ấn tín của Chúa Thánh Thần vào
ngày lãnh nhận phép Rửa Tội, họ được bảo đảm ơn cứu độ, ơn cứu độ chỉ đạt viên
mãn “vào ngày giải thoát” (hoặc sau khi qua đời hay
vào ngày Đức Ki-tô quang lâm, thánh nhân không xác định). Trong khi chờ đợi,
điều quan trọng là sống làm sao đừng làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.
Thánh Phao-lô không ngại gợi lên cách ăn nếp ở của con người
làm phiền lòng Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã thất vọng trước những
bất tín của dân Ngài, điều nầy thường được diễn tả bằng cơn thịnh nộ hơn sự
phiền lòng. Tuy nhiên, sự phiền lòng nầy cũng được gợi lên nhiều lần. Quả thật,
ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày, đã minh nhiên kể ra
điều nầy bằng những từ ngữ báo trước những từ ngữ của thánh Phao-lô. Trong lời
khẩn nguyện thống thiết, vị ngôn sứ nhắc lại những ân huệ mà con cái Ít-ra-en
đã nhận được trong suốt lịch sử của mình. Từ đó, vị ngôn sứ kêu gào: “Nhưng chính họ đã nổi loạn, đã làm phiền thần khí thánh của
Người” (Is 63: 10). Truyền thống Do thái không quên lời nói táo
bạo nầy. Sách Khôn Ngoan nói về Chúa Thánh Thần: “Thần khí thánh là thầy dạy dỗ, luôn tránh thói lọc lừa, rời xa
những lý luận ngu dốt, và ghê tỡm những chuyện bất công” (Kn 1:
5).
2. Bắt chước Thiên Chúa:
Phải nói rằng thánh Phao-lô rất hiếm khi khuyên bảo các tín
hữu bắt chước Thiên Chúa, bởi vì thánh nhân đặt ưu tiên cho việc bắt chước Đức
Ki-tô. Chúng ta nên lưu ý rằng lời kêu mời bắt chước Chúa Cha nầy được dẫn
trước bởi việc tha thứ: “Biết tha thứ cho nhau, như
Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, trong Đức Ki-tô”, điều này rõ ràng
ám chỉ đến kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như
chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6:
12).
3. Thực hành đức ái như Đức Ki-tô:
Lời kêu gọi sống hoàn thiện theo mẫu gương Ba Ngôi Thiên
Chúa được hoàn tất ở nơi lời khuyên khẩn thiết “sống
cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô”. Từ “tha thứ” đã
dẫn vào lời khuyên bắt chước Chúa Cha như thế nào, từ “yêu thương” dẫn vào lời khuyên bắt chước Đức
Ki-tô cũng như vậy: “Như những người con yêu dấu,
anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, và sống cuộc đời bác ái như Đức Ki-tô, Đấng đã
yêu thương chúng ta…”. Chúng ta lưu ý rằng động từ “yêu thương” đồng xuất hiện với tỉnh từ “yêu dấu” và danh từ “bác ái” trong cùng một câu.
Tình yêu của Chúa Con đối với nhân loại đã được bày tỏ một
cách cao vời qua việc “tự hiến mình làm của lễ thơm
tho dâng lên Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô lập lại diễn ngữ mà Cựu Ước
dùng cho hy tế toàn thiêu, theo đó tế vật được hoàn toàn hỏa tế trên bàn thờ.
Đức Ki tô là tế vật hoàn hảo, tận hiến chính bản thân mình.
TIN MỪNG (Ga 6: 41-51)
Chúng
ta tiếp tục đọc diễn từ của Đức Giê-su về Bánh Hằng Sống. Hướng nhắm của bản
văn vẫn là Thánh Thể, nhưng đề tài trung tâm là đức tin: Đức Giê-su đòi hỏi
những người lắng nghe Ngài hãy tin vào Ngài, vì Ngài là Đấng ban sự sống và
Ngài ban sự sống vì Ngài từ Chúa Cha mà đến.
Thế nhưng, thánh ký nhấn mạnh ngay “tin” không phải là một chuyện dễ dàng: “Người Do thái xầm xì phản đối”. Chung chung danh
xưng “người Do thái” mang nét nghĩa tiêu cực trong Tin
Mừng thứ tư; danh xưng này chỉ rõ những người Do thái cứng lòng tin trong khi
danh xưng “người Ít-ra-en” được
dành riêng cho những ai tin vào Đức Giê-su (Ga 1: 47). Việc thay đổi danh xưng
ở đây rất có ý nghĩa. Theo cách nầy, tác giả loan báo cho chúng ta rằng cuộc
tranh luận sắp diễn ra và cuộc tranh luận này được đinh vị theo cùng một hướng
đi như những cuộc tranh luận đã được tường thuật trước đây (nhất là cuộc tranh
luận của chương 5).
1. Vấn đề đức tin:
“Ông
nầy chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta chúng ta đều
biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?”. Người Do thái có đủ
lý do để nghi ngờ những lời nói của Đức Giê-su: Ngài đang sống ở giữa họ như
một người giữa mọi người, bất ngờ tuyên bố mình từ trời xuống. Chúng ta gặp
thấy những suy nghĩ tương tự và biết bao những suy nghĩ khác nữa đến từ những
người mà thánh Gioan nhắm đến một cách mãnh liệt trong thư thứ nhất của mình.
Về phương diện lịch sử, nhiều thế hệ sau nầy nẩy sinh những nghi ngờ như thế.
Đức Giê-su trả lời: “Chẳng ai đến với tôi được, nếu
Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy đến với tôi”.
Đức tin là một ân ban đến từ Chúa Cha, nhưng cũng đòi hỏi con người phải mở
rộng cõi lòng mà đón nhận. Đức Giê-su ngầm quở trách thính giả của Ngài không
có được một thái độ như thế; có những dấu chỉ mà họ phải biết đọc, những thành
kiến mà họ phải cởi bỏ, và tiên vàn phải lắng nghe Chúa Cha. Đức Giê-su sẽ khai
triển khía cạnh đức tin nầy, nhưng trước hết Ngài muốn tăng cường độ nhạy bén
của những người lắng nghe Ngài và thậm chí khơi lên ở nơi họ sự tò mò, để chuẩn
bị tâm trí họ đón nhận những lời mặc khải mà Ngài sắp ban cho: “Ai đến với tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Dường như những thính giả của Ngài là những người Biệt Phái,
những người chấp nhận thân xác sống lại; trái với những người Xa-đốc, những
người không chấp nhận thân xác sống lại. Đức Giê-su tự đặt mình trên lập trường
của những người tin vào thân xác sống lại nầy mà tranh luận. Vì thế, Ngài khẳng
định rằng chính Ngài nắm giữ trong tay quyền cho các vong nhân được sống lại.
Cựu Ước đã thiết lập rồi mối liên hệ giữa bữa tiệc Thiên Chúa thiết đãi muôn
dân và sự phục sinh, nhất là Is 25: 6-8: “Ngày ấy trên núi nầy, Đức Chúa
các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc…Trên núi nầy, Người sẽ xé bỏ chiếc
khăn tang che phủ muôn dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn
tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt
mọi người…” Tại các ngôn sứ, lời loan báo bàn tiệc cánh chung được
nhiều lần nối kết với bàn tiệc thiên sai. Đây là điều Đức Giê-su xem ra ám chỉ
ở đây.
2. “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”:
Đức Giê-su trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a đệ nhị về
Giê-ru-sa-lem vào thời thiên sai: “Hết mọi người sẽ được Thiên
Chúa dạy dỗ”. Qua đó, Đức Giê-su muốn thính giả của Ngài hiểu rằng
thời điểm nầy đã đến, lời hứa đã được ứng nghiệm; chính Ngài, Đấng được Chúa
Cha sai đến, đem đến cho con người sự hiểu biết về Thiên Chúa. “Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ
nơi Thiên Chúa mà đến”, như vậy Ngài khẳng định nguồn gốc và giáo
huấn siêu việt của Ngài, tức Lời Hằng Sống. Vì ai đón nhận và gắn bó với giáo
huấn của Ngài, “có sự sống đời đời”. Ở nơi khác,
Đức Giê-su cũng khẳng định như vậy: “Sự sống đời đời đó là họ nhận
biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến,
là Đức Giê-su Ki tô” (Ga 17: 3).
Đức
Giê-su chủ ý trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, vì sấm ngôn nầy tiếp tục mời gọi dự
phần vào bàn tiệc Thiên Chúa thiết đãi cho muôn dân. Ở bàn tiệc thiên sai,
Thiên Chúa phục vụ con người không chỉ với Lời Thiên Chúa, lời ban sự sống đời
đời, nhưng còn với thần lương làm no thỏa mọi ước nguyện.
3. Từ Lời Hằng Sống đến Bánh Hằng Sống:
Những
người lắng nghe Ngài là những người Do thái chắc chắn biết Kinh Thánh. Bánh
man-na được tiên báo vào thời thiên sai không phải là bánh hằng sống mà Đức
Giê-su hứa ban, bánh từ trời xuống đem lại sự sống muôn đời sao? Đức Giê-su lay
động tâm trí của họ. Trong ánh sáng của các bản văn, tâm trí họ phải mở ra mà
hiểu cho được.
Lúc đó, Đức Giê-su khẳng định thêm một lần nữa: “Tôi là Bánh Hằng Sống. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc,
nhưng đã chết. Còn bánh nầy là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải
chết”. Lần nầy, không rào trước đón sau, Ngài tuyên bố không úp
mở: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được
sống”. Thánh Thể được mạc khải một cách minh nhiên ngay từ bây
giờ với điểm nhấn trên hy tế.
Inhaxio Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét