Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật
XVIII Thường Niên B – Lm. Inhaxio Hồ Thông
Trong
bốn Chúa Nhật liên tiếp, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, Phụng Vụ Lời
Chúa đề nghị cho chúng ta một trong những bản văn chính yếu của Tin Mừng Gioan:
bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.
Xh 16: 2-4, 12-15
Tất
cả các Bài Đọc I của bốn Chúa Nhật liên tiếp đều được chọn theo cùng một viễn
cảnh nầy. Vì thế, vào Chúa Nhật XVIII nầy, chúng ta đọc đoạn trích sách Xuất
Hành tường thuật bánh man-na, “bánh bởi trời” nầy
nuôi dưỡng dân Do thái trong hoang địa.
Ep 4: 17, 20-24
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu
Ê-phê-xô, thánh Phao-lô mời gọi người Ki-tô hữu đổi đời tận căn để trở nên một
con người mới, được tái tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Ga 6: 24-35
Tin
Mừng dâng hiến cho chúng ta phần đầu của bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”, sau dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều.
BÀI
ĐỌC I (Xh 16: 2-4, 12-15)
Sách Xuất Hành không chỉ là chuyện
tích về cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập và cuộc hành trình trong hoang địa,
nhưng còn là bản phác thảo lộ trình tâm linh. Chính hoang địa đã là nơi ưu tiên
Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân, nhưng cũng còn là nơi Thiên Chúa thử thách dân
Ngài.
1. Nơi thử thách:
Để đến được Đất Hứa, ông Mô-sê đã có
thể dẫn dân Do thái đi theo một lộ trình ngắn nhất, tức là con đường chạy dọc
theo Địa Trung Hải (thật ra con đường nầy đã được quân đội Ai-cập xây dựng
những đồn lủy để ngăn chận mọi cuộc xâm nhập của ngoại bang), ấy vậy, ông đã
chọn con đường băng qua hoang địa đầy gian khổ và khó khăn.
Một
tháng đã trôi qua kể từ lúc ra khỏi đất Ai-cập: dân Do thái vừa mới đóng trại
trong ốc đảo trù phú mà sách Dân Số nói có mười hai suối nước và bảy mươi cây
chà là (Ds 33: 9); bây giờ họ đi sâu vào trong sa mạc Xin trên đường tiến về sa
mạc Xi-nai, ở đây họ lâm vào cảnh đói và khát. Đây là lần đầu tiên, nhưng không
là lần cuối cùng trong suốt cuộc hành trình dài lâu nầy, toàn thể “cộng đồng” con cái Ít-ra-en kêu trách: khi còn ở
Ai-cập, chúng tôi đâu có thiếu thịt và bánh.
Dù
dân kêu ca trách cứ, Thiên Chúa đáp trả bằng tấm lòng nhân hậu của Ngài; tuy
nhiên, Ngài đòi hỏi họ phải tin tưởng vào Ngài: “Các
ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Chúa các ngươi”.
2. Chim cút và bánh man-na.
Đoạn trích sách Xuất Hành nầy tập
hợp hai biến cố cho thấy Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài như thế nào: chim
cút bay đến rợp cả trại và bánh man-na rơi xuống đầy trên mặt đất. Thật ra hai
biến cố nầy đã không xảy ra cùng một ngày. Ít ra sách Dân Số trong cùng một câu
chuyện cho thấy điều nầy (Ds 11 cho thấy hai truyền thống được trộn lẫn với
nhau, trong đó truyền thống Gia-vít chỉ kể ra hiện tượng bánh man-na).
Hiện
tượng chim cút bay đến rợp cả trại xem ra là cuộc thiên di của đàn chim, chúng
bay từ lục địa Phi-Châu vượt qua Địa trung Hải, và khi đến hoang địa thì kiệt
sức sà cánh xuống mặt đất, nên rất dễ bị tóm bắt. Man-na có thể do từ nhựa cây
liễu bách tiết ra khi bị những côn trùng châm vào; khi đêm xuống khí trời lạnh,
nhựa đông cứng lại và rơi trên mặt đất trông như những hạt nho nhỏ mịn màng có
vị mật ngọt. Theo sách Dân Số, “man-na như hạt ngò và trông nó
như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà
nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên
dầu. Đêm về sương rơi trên doanh trại, thì manna cũng rơi xuống” (Ds
11: 7-9).
Chúng ta không thể tin rằng trong
hoang địa dân Do thái được nuôi dưỡng chỉ bằng bánh man-na; họ còn sống bằng
những sản phẩm từ đàn vật của họ và từ những ốc đảo. Nhưng bánh man-na đã là
lương thực phụ thêm trong suốt cuộc lữ hành nầy.
Với
tư cách là thiên ân, bánh man-na cũng là dịp thử thách: “Ta muốn thử thách chúng xem chúng có tuân theo luật pháp của Ta
hay không”. Đức Chúa phối hợp thiên ân với sự thử thách qua lời căn
dặn rõ ràng: “Dân sẽ ra mà lượm lấy khẩu phần từng ngày
một”, mỗi người tùy theo nhu cầu của mình. Không được tích trữ.
Không được bận lòng đến ngày mai, nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào Lời của Chúa
(từ đó một mối giây liên kết chặc chẽ hầu như cho đến mức đồng hóa, giữa bánh
man-na và Lời Chúa). Đó cũng là bài học Đức Giê-su ban cho các môn đệ Người khi
dạy họ kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay
lương thực hằng ngày”.
3. Bánh bởi trời.
Cho
đến lúc đó, đối với dân Do thái, đây là lương thực bất ngờ và lạ thường được
xảy đến vào thời điểm khó khăn. Vì thế, truyền thống đã lý tưởng hóa và thần
thánh hóa bánh man-na được xem như “bánh bởi trời”. Nhà
biên soạn sách Xuất Hành đã nói rồi: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ
trời mưa xuống cho các ngươi ăn”. Theo sách Đệ Nhị Luật, Đức
Chúa “đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha
ông của anh em đã chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người
ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời Đức Chúa phán
ra” (8: 3). Thánh Vịnh 78: 25 gợi lên bánh man-na là “bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi đã chuyển
dịch thành “bánh thiên thần”. Sách Khôn Ngoan
ca ngợi bánh man-na là lương thực bởi trời, “bánh có muôn hương vị, thỏa
mãn mọi sở thích” (16: 20-29). Văn chương kinh sư loan báo rằng
bánh man-na sẽ là lương thực của thời thiên sai, khúc dạo đầu cho bàn tiệc cánh
chung. Theo cùng cách thức giải thích của truyền thống Cựu Ước, thánh Phao-lô
xem bánh man-na là “thức ăn thần thiêng” (1Cr
10: 3).
Chính
ở nơi truyền thống Cựu Ước nầy mà Đức Giê-su quy chiếu, dù minh nhiên hay mặc
nhiên, trong bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống” của
Người.
BÀI
ĐỌC II (Ep 4: 17, 20-24)
Sau phần đạo lý (ch. 1-3), thánh
Phao-lô đưa ra những lời khuyên luân lý: trước hết thánh nhân kêu gọi mọi người
Ki-tô hữu hãy hiệp nhất với nhau (chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật vừa qua)
và sống một cuộc sống mới trong Đức Ki-tô, đó là chủ đề của đoạn trích thư Chúa
Nhật hôm nay.
Để là một người Ki-tô hữu đích thật,
thánh Phao-lô đưa ra ba chỉ dẫn tổng quát: trước hết đừng ăn ở như dân ngoại,
tiếp đó học biết Đức Giê-su để mà sống như Ngài đã sống, và sau cùng thay đổi
đời sống tận căn và mặc lấy con người mới.
1. Đừng ăn ở như dân ngoại.
Thánh Phao-lô ngỏ lời với các Ki-tô
hữu thuộc các cộng đoàn Tiểu Á, đa số họ xuất thân từ lương dân; nhưng lời
khuyên bảo của thánh nhân cũng có giá trị đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái
giáo. Cả thư gởi tín hữu Rô-ma lẫn thư gởi tín hữu Cô-lô-sê cũng đều chứa đựng
những lời cảnh giác tương tự. Trước khi tiếp tục đề cập đến những lời cảnh
giác, thánh nhân nêu lên phẩm chất của người Ki-tô hữu, chính phẩm chất này đòi
buộc phải thay đổi đời sống.
2. Học biết Đức Giê-su để mà sống
như Người.
Thánh
nhân nhắc nhở giáo huấn mà họ đã lãnh nhận khi họ “học biết Đức Giê-su”. Cách dùng động từ “học biết” với túc từ chỉ người thì hiếm, nhưng ý
nghĩa thật là đặc biệt: người Ki-tô hữu không gắn bó với bất kỳ thứ đạo lý trừu
tượng nào, nhưng với một con người, con người ấy chính là Đức Ki-tô, Ngài
là “Sự Thật hiện thân”.
3. Mặc lấy con người mới.
Thánh Phao-lô khai triển tư tưởng
của mình với mệnh lệnh: trước tiên, phải cỡi bỏ con người cũ với nếp sống xưa;
tiếp đó, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em; và sau cùng, phải mặc lấy con
người mới.
Đây
là chương trình giáo lý về Phép Rửa. Ý tưởng chủ đạo là đổi mới triệt để đời
sống Ki-tô hữu. Trước tiên, phải cởi bỏ con người cũ, con người trước đây phải
hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Tiếp đó, chính nhờ Chúa Thánh Thần khai
lòng mở trí mà người Ki-tô hữu đổi mới cuộc đời mình, chủ đề mà thánh Phao-lô
chủ ý lấy lại để minh chứng rằng Ki-tô giáo mở ra hướng đến sự khôn ngoan cao
vời. Và cuối cùng, người Ki tô hữu là một con người mới, mà Phép Rửa đã tái
sinh, đã tái tạo, đã phục hồi trong tình trạng ban đầu “theo hình ảnh Thiên Chúa để sống theo sự công chính và thánh
thiện đích thật”.
TIN
MỪNG (Ga 6: 24-35)
Với đoạn trích Tin Mừng nầy, chúng
ta bắt đầu bài diễn từ về Bánh Hằng Sống của Đức Giê-su mà thánh Gioan định vị
vào ngày hôm sau dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều.
Việc
định vị bài diễn từ về Bánh Hằng Sống vào biến cố này thật là quan trọng: dấu
lạ Hóa Bánh Ra Nhiều đánh dấu đỉnh cao sứ vụ của Chúa Giê-su ở Ga-li-lê. Khởi
đi từ đó, Đức Giê-su đòi hỏi phải chọn lựa càng lúc càng quyết liệt hơn: tin
vào Đức Giê-su hay từ chối Người. Diễn từ về Bánh Hằng Sống là một trắc nghiệm
có tính quyết định: nó mở ra một giai đoạn: hoặc từ chối tin vào Người mà ra đi
hay khẳng định niềm tin vào Người. Vì thế, Đức Giê-su sắp nhấn mạnh, tiên vàn
phải “tin” vào Người.
Bài
diễn từ về Bánh Hằng Sống bắt đầu ở “bên kia Biển Hồ” (6:
25) và chấm dứt ở “trong hội đường Ca-phác-na-um” (6:
59).
1.
Bối cảnh.
Vào
buổi chiều dấu lạ Hóa Bánh Ra Nhiều, Đức Giê-su đã buộc các môn đệ lên thuyền
trở lại thành Ca-phác-na-um. Còn Người thì lánh mặt đám đông cuồng nhiệt nầy mà
đi lên núi một mình, đoạn, giữa đêm Người đã đi trên Biển Hồ sóng to gió lớn mà
đến với các ông. Đám đông đã thấy các môn đệ ra khơi một mình trong khi Đức
Giê-su không xuống thuyền cùng với các môn đệ (thánh Gioan xác định ở đó chỉ có
một con thuyền: 6: 22). Sáng hôm sau, mọi người nhận thấy rằng Đức Giê-su không
còn ở trên bờ Biển Hồ nữa; họ quyết định quá giang những thuyền đến từ
Ti-bê-ri-a mà trở về Ca-phác-na-um để tìm Người (6: 23). Khi đến thành
Ca-phác-nu-um, họ gặp thấy Đức Giê-su ở đây: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao
giờ vậy?”. Câu hỏi của họ mặc lây một lời chứng gián tiếp về việc
Đức Giê-su đi trên mặt biển.
Đức
Giê-su không trả lời câu hỏi này, Người nói thẳng ra ý định nào thôi thúc đám
đông mong ước được gặp lại Người: “Thật, tôi bảo thật các ông,
các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được
ăn bánh no nê”. Trong Tin Mừng Gioan, lời khẳng định đặc
trưng: “Thật, tôi bảo thật”, đem lại một cung giọng trang
trọng cho những lời nói theo sau: Đức Giê-su quở trách tâm trí của những người
Ga-li-lê nầy quá trần tục: họ chỉ thấy Người là một người phép thuật thần thông
đã cho họ ăn no nê. Lúc đó, cuộc đối thoại sắp được thiết lập mà tuyến phát
triển của câu chuyện rõ ràng cùng một tuyến phát triển như cuộc đối thoại của
Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri.
2.
Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với đám đông dân chúng.
Trước tiên, Chúa Giê-su muốn họ biết
rằng Người là một con người mầu nhiệm, Người có khả năng ban cho nhân loại
những thiện hảo còn hơn cả bánh vật chất nữa.
Với
người phụ nữ xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên
Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã
xin, và người ấy đã hẳn ban cho chị nước hằng sống” (4: 10).
Với
những người Ga-li-lê, Đức Giê-su nói: “Các ông hãy ra công làm việc
không phải lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại
phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì Con
Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”.
Những
lời nầy gây ấn tượng mạnh trên họ, vì thế vài người đặt ra cho Đức Giê-su một
câu hỏi, có thể với ý định ngay thẳng, nhưng cũng có thể với mục đích làm cho
Người lúng túng: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc
Thiên Chúa muốn?”. Chúa Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã
sai đến”. Đức Giê-su không muốn giản lược việc Thiên Chúa muốn họ
làm là chỉ việc “tin vào Người”, nhưng những lời mà
Người sắp công bố quá mạnh mẻ đến mức khó mà hiểu được, nếu trước hết những
người đối thoại với Người không có niềm tin tưởng tuyệt đối vào Người. Đức tin
phải là thái độ đầu tiên mà Người đòi hỏi ở nơi họ.
Nhưng
ngay lập tức dân chúng tỏ thái độ nghi ngờ Người và bắt bẻ Người: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin
ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời
chép: ‘Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời”. Ở nơi lời bắt bẻ nầy, chúng
ta gặp lại cũng một lời bắt bẻ của người phụ nữ Sa-ma-ri trong cuộc đối thoại
với Ngài: “Thưa ông, ông không có gàu, mà giếng lại sâu.
Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lại lớn hơn tổ phụ chúng tôi là
Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng nước nầy? Chính Người đã uống nước giếng
này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11).
Với
cụm từ “tổ tiên chúng tôi” trong lời bắt bẻ của những
người Ga-li-lê nầy, Đức Giê-su đáp lại với từ “Cha tôi”, bằng cách
đồng hóa “Cha tôi” với “Cha trên trời”,
Đấng đã cho họ bánh bởi trời đích thật, và bằng cách đồng hóa bản thân Người
với Bánh Hằng Sống. Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su nói về “bánh bởi trời ban sự sống cho thế gian”, trong khi
bánh man-na trong sa mạc “nuôi sống chỉ một mình dân
Ít-ra-en”. Nói cách khác, Đức Giê-su là Mô-sê mới nhưng cao vời vô
tận trên ông Mô-sê. Lúc đó, những người Ga-li-lê thốt lên: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh nầy”;
cũng như người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đã thưa: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước
ấy , để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15).
3.
Phải mở tâm trí ra trước mầu nhiệm.
Lúc
đó, Đức Giê-su vén mở thêm nữa bức màn mầu nhiệm của Người: “Chính tôi là bánh ban sự sống”. Trong Tin Mừng Gioan
đây là lần thứ ba xuất hiện biểu thức: “Chính tôi là” (Ego
eimi). Lần thứ nhất, Đức Giê-su tỏ mình ra với người phụ nữ Sa-ma-ri khi
chị gợi lên việc Đấng Mê-si-a đến: “Đấng ấy chính là tôi” (theo
sát từ: “Ego eimi”: 4: 26) và lần thứ hai Đức Giê-su tỏ mình ra
với các môn đệ Người, họ kinh hoàng khi thấy một người đi trên mặt nước: “Thầy đây mà, đừng sợ” (theo nghĩa văn tự: “Ego eimi”: 6: 20).
Biểu
thức: “Chính tôi là bánh ban sự sống” nầy khai mạc một
loạt “tôi là” đi theo với thuộc từ: “tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “tôi là mục tử nhân lành”, vân vân (những lời khẳng
định luôn luôn được liên kết với viễn cảnh của ơn cứu độ).
“Ai
đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ”. Ở đây cốt là cái đói và cái khát thần thiêng. Cách nói nầy
quy chiếu đến Kinh Thánh, chính xác là đến bản văn của sách Huấn Ca. Tuy nhiên
có một sự khác biệt giữa lời của sách Huấn Ca và lời của Chúa Giê-su. Lời mà
Sách Huấn ca áp dụng cho Đức Khôn Ngoan theo hình thức khẳng định: “Hỡi những ai khao khát Ta, nào hãy đến… Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai
uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 19-21). Qua hình thức khẳng định
này, hiền nhân nầy muốn nói rằng ai đã nếm lương thực mà Đức Khôn Ngoan ban thì
người ấy ước muốn được nếm mãi không thôi. Trái lại, Đức Giê-su lập lại lời của
sách Khôn Ngoan và áp dụng vào chính mình theo hình thức phủ định, nghĩa là,
những thiện hảo siêu nhiên mà Ngài hứa ban làm no thỏa hết mọi nhu cầu của cái
đói và cái khát thần thiêng, nghĩa là những ai đã nếm lương thực mà Ngài ban sẽ
chẳng còn đói và khát Thiên Chúa bao giờ.
Lm.
Inhaxio Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét