THẦN HỌC TẠI VIỆT NAM HÔM NAY ĐỐI THOẠI NHƯ THẾ NÀO
VỚI NHỮNG VẤN ĐỀ NÓNG BỎNG CỦA XÃ HỘI?
CHUYÊN ĐỀ THẦN HỌC BỐI CẢNH
Suy tư thần học tại Việt nam hôm nay đối thoại như thế nào
với những vấn đề nóng bỏng của xã hội? Nó chi phối làm sao cho việc đào tạo
giáo lý viên cũng như nó có tác động thế nào đến việc huấn luyện những người
dấn thân chuyên nghiệp cho huấn giáo?
Nhập
Ông John Kerry, một một cựu binh trong cuộc chiến Việt Nam,
lần đầu tiên trở lại đây trong cương vị ngoại trưởng Mỹ vào ngày 14-12-2013 đã
thốt lên: “Điều gây ấn tượng nhất với tôi là Việt Nam đã thay đổi nhiều thế nào
trong suốt 5 thập kỉ qua,”[1] Vâng, bước vào thế kỷ 21, Việt Nam đang đàn thay
da đổi thịt, đang là một nước chậm phát triển, nay vị thế Việt Nam được thế
giới đánh giá cao trên trường quốc tế, như ông Đại sứ Ngô Quang Xuân, đại sứ
Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc nhận định:
“Việt Nam đang ngày càng được đánh giá là một trong những thành viên
nòng cốt của tập thể cộng đồng các quốc gia ASEAN. Có thể nói, Việt Nam không là
một nước lớn về diện tích nhưng là một nước lớn về dân số. Việt Nam chưa phải
là nước lớn về kinh tế và quân sự nhưng là nước lớn về giá trị chính trị, lịch
sử và văn hóa.”[2] Với vị thế chính trị như hiện nay, xã hội Việt Nam cũng đang
dần thay đổi và đang hình thành những khái niệm về nhân sinh quan của cuộc sống
vượt ra khỏi vòng lễ giáo truyền thống, những trào lưu mang dáng dấp một nền
văn minh Tây phương đang từ từ xâm chiếm lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hôm
nay, tạo ra một bối cảnh xã hội mới với nhiều thách đố, và dĩ nhiên, những
thách đố đó đã trở thành lời chất vấn Giáo Hội Việt Nam về sứ mệnh của mình và
phương thế chuyển tải đức tin trong hoàn cảnh cụ thể hôm nay. Những chất vấn đó
là động lực những suy tư và nghiên cứu thần học để giúp Giáo Hôi Việt Nam về
minh định lại sứ mệnh của mình ở trong
một bối cảnh cụ thể, tức là ở vào tư thế
phải ứng đáp "những khát vọng tìm
kiếm tiềm ẩn sâu kín nơi tâm lòng của
những anh chị em chúng ta"[3] trong tâm thức thời đại hôm nay.
Những suy tư thần học nầy phải thực sự trở thành điểm “thủ xướng và chủ động
trong công tác loan báo Tin Mừng, chứ
không còn đơn thuần thụ động tiếp nhận
một nền kitô giáo Tây phương đang thời bành
trướng truyền giáo, tức là không còn tiếp tục một mực ‘sao y bản chánh’ Giáo Hội Âu Châu
với những hình thái, những tác vụ và
những kiểu mẫu thần học phát nguyên từ
môi trường thực tế của chúng và chịu ảnh
hưởng sâu đậm của những điều kiện lịch
sử Âu Châu”[4].
Trong chiều hướng đó, câu hỏi được đặt ra la suy tư thần học
tại Việt nam hôm nay đối thoại như thế nào với những vấn đề nóng bỏng của xã
hội? Nó chi phối làm sao cho việc đào tạo giáo lý viên cũng như nó có tác động
thế nào đến việc huấn luyện những người dấn thân chuyên nghiệp cho huấn giáo?
1- Đâu là những vấn đề nóng bỏng của xã hội Việt Nam hôm nay để
đưa ra những suy tư thần học nhằm phục vụ cho việc đối thoại?
1.1 Việt Nam – Mảnh đất đa tôn giáo: đạo nào cũng tốt
Việt Nam là một đất nước đa tôn giáo và tín ngưỡng, có 6 tôn
giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, và các
tôn giáo khác bao gồm: Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Cộng đồng Tôn giáo
Baha’i Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo,
Bàlamôn ngoài ra, còn có khoảng 20 tổ chức Cao đài độc lập, khoảng 40 nhóm, hệ
phái Tin lành… Và có thể nói 95% dân số gắn bó với đời sống tôn giáo hay tín
ngưỡng. Hằng năm có khoảng 8.000 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia
và địa phương được tổ chức[5].
Một đất nước với niềm tự hào 4000 năm văn hiến đã mở rộng
tấm lòng hiếu khách sãn sàng đón nhận các tôn giáo ở ngoài du nhập vào. Chính
sự hiếu khách này đã trở thành mảnh đất mầu mỡ để nhiều tín ngưỡng và tôn giáo
đâm rễ sâu, và trở thành nền văn hóa truyền thống của dân tộc chẳng hạn như đạo
hiếu, và để thể hiện lòng hiếu đễ, người ta phải tuân giữ một số nghi lễ bị chi
phối bởi Nho giáo và Phật giáo, và các nghi lễ đó được coi như là truyền thống
văn hóa của dân tộc.[6] Ngoài ra, Phật giáo cũng đã để lại một ảnh hưởng rất
lớn trong các sinh hoạt mang tính nhân văn của dân Việt, việc cúng bái đã trở
thành một nếp văn hóa không thể thiếu trong đời sống: người ta cúng vái để cầu
xin mưa thuận gió hòa, cúng bái trong dịp đầu năm mới, động thổ khi chuẩn bi
xây cất, khi sắp xuất hành, dịp cưới hỏi, khi nhà có tang, khi mua xe mới, khi
khai trương công việc làm ăn, v.v…
Có thể nói được rằng, người dân Việt rất nhạy cảm về các
lãnh vực thuộc tâm linh, vì thế, họ sẵn sàng biểu lộ niềm tin dưới mọi hình
thức, miễn sao họ cảm thấy sẽ nhận được sự che chở, phù trì của các vị thần
linh mà họ tin tưởng với một tâm thức: có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Hiện
tượng tâm linh ngày càng phát triển mạnh, và ngày càng được nhiều người quan
tâm cổ vũ qua các lễ hội. Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ
hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử
(chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước
ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%), và các lễ hội này bao
giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng liêng cần suy tôn là nhân thần hay
nhiên thần[7]. Điều này chứng tỏ rằng, phần đông người Việt vẫn không lấy khoa
học là đối tượng của niềm tin, có nghĩa là không cậy dựa vào khoa học để cắt
nghĩa cho mọi chiều kích của cuộc sống, và qua đó họ vẫn minh định rằng, con
người vẫn là một hữu thể có nhiều giới hạn, và vẫn phải cậy nhờ đến một vị thần
linh ngoài thế giới hữu hình nầy can thiệp vào cuộc sống của họ.
Với tâm thức này, niềm tin vào một vị thần linh không hẳn là
hướng tới một cuộc sống mai sau, nhưng là ngay cuộc sống hiện tại, và do đó,
niềm tin tôn giáo mang chiều kích cứu chuộc cho một cuộc sống vĩnh hằng ở ngoài
thế giới này ít được quan tâm hơn niềm tin vào một tôn giáo cho họ một niềm hy
vọng vào những thực tại trần thế như: sức khỏe, thành đạt trong công ăn việc
làm,một cuộc sống an bình, ấm no… Và do đó, cứu cánh của niềm tin tôn giáo
không quan trọng cho bằng “sự hữu dụng” của niềm tin, vì thế, quan niệm “đạo
nào cũng tốt” trở thành cách thế biểu tỏ sự kiên vững niềm tin của mình.
1.2 Thái độ loại trừ niềm tin nơi các bạn trẻ
Bên cạnh sự phát triển các nghi lễ biểu tỏ niềm tin vào các
vị Thần linh, là thái độ sống thực dụng của các bạn trẻ Việt Nam hôm nay.
Một bộ phận lớn các bạn trẻ Việt Nam đang bước vào cơn lốc của chủ
nghĩa vị lơi (utilitarianism)[8] và đang xa dần niềm tin tôn giáo.
Từ chủ nghĩa vị lợi, các bạn trẻ đương đại đã hình thành một
trào lưu hưởng thụ khoái lạc và coi đó là cứu cánh của cuộc sống. Với trào lưu
này, các bạn trẻ không còn quan tâm đến có Thiên Chúa hay không, điều quan
trọng là làm sao tôi tìm thấy được hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại của tôi,
và vì thế những nền tảng luân lý tôn giáo được coi là rào chắn ngăn cản tôi đi
tìm hạnh phúc cho tôi, cần phải phá bỏ.
Vơi chủ trương như thế, các bạn trẻ dễ dàng rơi vào cơn lốc
của một cuộc sống hưởng thụ ích kỷ và thiếu trách nhiệm. Điều đó được bộc lộc
qua các chủ trương liên quan đến đời sống luân lý như việc nam nữ tự do sống
thử trước hôn nhân, phá thai, ly dị và kết hôn đồng tính, hôi chứng “không cho
yêu thì giết”, sống buông thả, cụ thể
như trong ngày lễ Valentine 14-2-2014 vừa qua, hầu như tất cả các khách sạn và
nhà nghỉ đều không đủ phòng để cho các đôi bạn trẻ thuê[9]. Trước lối sống đó,
một tờ báo trong nước đưa ra nhận định:“Theo những nhà tâm lý quan tâm về giới
trẻ thì các bạn trẻ ngày nay thường coi trọng giá trị thể xác hơn là giá trị về
tâm hồn. Chỉ cần ngộ nhận đó là tình yêu, các bạn trẻ lao vào nhau như những
cơn lốc điên cuồng. Đây là lối sống thiếu đi sự tinh tế, không còn những giá
trị tâm hồn, cảm xúc trong sáng. Tất cả chỉ là mong tình dục sẽ thắp lửa cho
những tình yêu sau này”.[10]
2- Suy tư thần học trước bối cảnh này
Trước tiên, dựa vào tư tưởng của Công Đồng Vat. trong hiến
chế Lumen Gentium để suy tư về một Giáo Hội hiệp thông. Chính trong chiều kích
hiệp thông này suy tư thần học dãn đưa chúng ta đến một cuộc gặp gỡ với mọi
người trong những niềm tin tôn giáo khác nhau, để từ đó chúng ta cùng nhau
hướng về một chân lý cứu độ duy nhất. Qua hiến chế Lumen gentium, có thể nhận
ra ba yếu tố cảm nghiệm về Giáo hội hiệp thông
a) Như là “Dân Chúa” lữ hành, Giáo hội là một cộng đoàn hiệp
thông trong tình huynh đệ với những khác, những người “được Chúa thương”, cùng nắm tay nhau nhịp bước tiến về Nước Chúa
hứa. Thật vậy, trên đường lữ hành về nhà Cha, Giáo Hôi Việt Nam không bước
đi đơn đọc một mình, nhưng bên cạnh đó, còn có biết bao nhiêu người cùng tiến
bước để tìm hạnh phúc và sự sống thật. Chính trên con đường lữ hành, Giáo Hội
việt Nam đang gặp gỡ biết bao người Việt đang khao khát chân lý, và qua sự gặp
gỡ này, Giáo Hội như là người bạn đồng hành, sẽ cùng trao đổi với họ và chuyển
trao cho họ niềm hy vọng đang nung nấu Giáo Hội. Đó chính là “Con đường hiệp thông của sự hy vọng”, con
đường này nằm trong và cùng với đại gia đình nhân loại, với dân tộc Việt Nam . Ở trong
con đường này những kẻ tin vào Đức Kitô sẽ làm cho con dân Việt tìm thấy niềm
vui mừng nơi Giáo hội mãnh liệt hơn nỗi khổ đau, muộn phiền mà họ đang gánh
chịu,[11] cũng chính trong con đường này, người Kitô hữu sẽ cùng chia sẻ nỗi
khao khát hạnh phúc với những khác, và giúp họ hướng nỗi khao khát đó về chính
nguồn hạnh phúc đích thật.
Sư gặp gỡ nầy được cụ thể hóa qua những cuộc trao đổi không
bằng những bài nói chuyện trau chuốt, những diễn từ mang nặng tính kỹ thuật,
nhưng bằng ngôn từ bình dị phát xuất từ trái tim, thứ ngôn ngữ mà Đức Thánh Cha
Phanxicô xử dụng khi ngài ngỏ lời tới hàng trăm các tín hữu Tin Lành thuộc phái
Ngũ Tuần qua vịGiám Mục của họ là Tony Palmer, trong cuộc gặp gỡ với Đức Thánh
Cha Phanxicô hôm 14/1/2-014: “Xin lỗi anh chị em vì đôi khi tôi nói bằng tiếng
Ý. Nhưng tôi nói chẳng bằng tiếng Anh hay tiếng Ý, nhưng bằng tiếng nói con
tim. Đó là thứ ngôn ngữ đơn giản và chân thật hơn, và thứ ngôn ngữ này có từ vựng
và văn phạm của nó. Một văn phạm đơn giản với hai luật: Yêu mến Thiên Chúa trên
hết mọi sự và yêu mến tha nhân vì họ là anh chị em của chúng ta. Với hai luật
ấy, chúng ta có thể tiến về phía trước”[12].
Chính với thứ ngôn ngữ nầy Đức Thánh Cha đã chỉ ra con đường gặp gỡ để
cùng nhau đạt tới chân lý: “Thánh Kinh đã đề cập đến gia đình của anh em Giuse
khi nạn đói xảy ra họ trẩy sang Ai cập để mua cái gì đó để ăn. Họ có tiền nhưng
họ không ăn tiền được. Nhưng ở đó họ gặp được cái còn quý hơn thực phẩm: đó là
người anh em của mình. Tất cả chúng ta đều có tiền là văn hóa, là lịch sử của
chúng ta. Chúng ta giầu có về văn hóa, tôn giáo và chúng ta có những truyền
thống dị biệt. Nhưng chúng ta phải gặp gỡ người khác như những anh chị em của
mình. Chúng ta phải khóc cùng nhau như Giuse đã từng khóc. Những giọt nước mắt
này hiệp nhất chúng ta. Những giọt lệ của yêu thương”[13].
b) Giáo hội cũng cảm nghiệm rằng, trong mọi lãnh vực của
cuộc sống, Giáo Hội cũng là công đoàn của những người tội lỗi. Thật vậy, các
Kitô hữu cùng biểu lộ hình ảnh Giáo hội trong chính sự yếu đuối và tội lỗi của
họ, họ trình bày chiều kích thiêng liêng và nhân tính của Giáo hội, họ làm nên
cơ cấu của Giáo Hội và cùng thực thi bổn phận của Giáo hội. Dưới tác động của
ân sủng họ hoạt động một cách mạnh mẽ ngược lại với bản tính yếu đưối tội lỗi
để mang lại sự thánh thiện cho Giáo hội. Người Kitô hữu sẽ chỉ cho những người
khác nhận ra rằng, con người không chỉ hành động và sống theo bản năng của sinh
vật cấp thấp, nhưng con người là sinh vật có lý trí và ý chí, nhờ đó con người
nhận ra lý do và cứu cánh của sự hiện hữu mình, Vơi sự nhận thức này, con người
sẽ can đảm vượt qua sự yếu hèn để hướng tới sự toàn thiện. Chính khi ý thức về
thân phận yếu hèn tội lỗi của mình, Giáo Hôi Việt Nam sẽ làm cho dân Việt cảm
nghiệm được về chính mình qua việc biểu tỏ một Giáo Hội Việt Nam khiêm nhu,
luôn sẵn sàng lắng nghe người khác nói về mình, cũng như chính mình tự kiểm
điểm việc thị hành sứ vụ của mình. Qua thái độ khiêm nhu Giáo Hội sẽ thể hiện
sự bao dung, và cảm thông hơn, sẽ bớt đi những kết án và loai trừ. Chỉ có kẻ ý thức về sự hèn kém của mình mới
cảm thông chó sự yếu hèn của người khác.Chẳng hạn đối với vấn đề đồng tính,
thay vì gay gắt lên án, loại trừ, Đức Phanxicô cũng nhẹ nhàng trả lời khi được
hỏi về vấn đề này: “Nếu một người là người đồng tính và đang kiếm tìm Thiên
Chúa và có thiện chí, thì tôi là ai mà tự cho mình quyền phán xét người
ấy?”[14] Câu trả lời dĩ nhiên không hủy bỏ Giáo huấn của Giáo Hội về người đồng
tính, nhưng hướng tới sự cảm thông, loại bỏ sự kỳ thị. Đức Phanxicô trong Tong
Huấn Evangelii gaudium đã khơi mở một suy tư thần học trong việc thể hiện Hội
Thánh như người mẹ đầy lòng khoan dung: “Hội Thánh được mời gọi để luôn luôn là
ngôi nhà mở cửa của Chúa Cha. Một dấu chỉ cụ thể của việc mở cửa này là phải có
tất cả các nhà thờ với cửa mở rộng. Để nếu bất cứ ai muốn theo tác động của
Chúa Thánh Thần mà đến đó tìm Thiên Chúa, thì người ấy không gặp sự lạnh lùng
của một cánh cửa đóng kín. Nhưng có những cánh cửa khác cũng không được đóng
kín. Tất cả mọi người có thể tham gia vào đời sống Hội Thánh một cách nào đó,
tất cả mọi người có thể là một phần tử của cộng đồng, và ngay cả các cửa của
các Bí Tích cũng không được đóng lại vì bất cứ lý do nào. Điều này đặc biệt
đúng đối với Bí Tích là “cánh cửa”, Bí Tích Rửa Tội. Bí Tích Thánh Thể, mặc dù
là sự viên mãn của đời sống bí tích, nhưng không phải là một giải thưởng cho
những người hoàn hảo, mà là thần dược và lương thực cho những người yếu đuối.
Những xác tín này cũng có ý nghĩa mục vụ mà chúng ta được mời gọi cân nhắc cách
thận trọng và mạnh dạn. Chúng ta thường hành xử như những người ban phát ân
sủng chứ không như những người giúp người khác dễ dàng lãnh nhận ân sủng. Nhưng
Hội Thánh không phải là một hải quan, mà là ngôi nhà của Chúa Cha, ở đó có chỗ
cho tất cả mọi người, với tất cả những khó khăn trong cuộc sống của họ”[15]
c) Đặc biệt, Giáo hội Việt Nam sẽ làm cho tiếng nói của mình
thực sự mang lại hiệu quả khi Giáo Hội đoàn kết với người nghèo. Trong việc
bước theo “Hạt Lúa Mì” rơi và chết trong lòng đất (Gio 12, 24) Giáo hội Việt
Nam bằng nhiều cách khác nhau cố gắng chia sẻ số phận của nhiều nạn nhân do bởi
sự bất công bắt nguồn từ một chính sách toàn cầu và địa phương. Giáo hội Viêt
Nam phải bén rễ sâu trong lòng dân tộc Việt như là Giáo hội giữa và với người
nghèo, vâng, Giáo hội như là “Giáo hội của người nghèo”, nơi mà người nghèo trở
thành chủ thể của các hành động Giáo hội.Quả thật, Giáo hội chỉ có thể tìm đúng
ý nghĩa thần học của mình trong mối tương quan giữa Vương quốc Thiên Chúa đã
hứa và đã đến trong Đức Giêsu Kitô với người nghèo và qua họ với toàn thể tạo
vật. Vì thế, viễn tượng bao la của niềm hy vọng đợi chờ vào Vương quốc Thiên
Chúa dẫn đưa Giáo Hội ra khỏi khái niệm một Giáo Hội nặng tính cơ cấu. Mục đích
của việc Thiên Chúa tự mặc khải trong Cựu và Tân ước không là soạn thảo một
Giáo hội cơ cấu; không phải tất cả mọi con đường mà Thiên Chúa đến với con
người đều dứt khoát phải đổ tuôn vào
trong Giáo hội, nhưng là trong Vương quốc Thiên Chúa, ở đó ý muốn của Thiên
Chúa về hòa bình, công lý và sự sống được thực hiện một cách tốt đẹp dành cho
người nghèo khó cách phổ quát[16].
2- Suy tư thần học chi phối làm sao cho việc đào tạo giáo lý
viên cũng như nó có tác động thế nào đến việc huấn luyện những người dấn thân
chuyên nghiệp cho huấn giáo?
2.1 Suy tư thần học giúp các giảng viên giáo lý xác tín điều
mình dạy
Đối diện với bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay, người giảng
viên dạy giáo lý nhiều lúc cảm thấy băn khoăn, không biết phải trình bày giáo
lý như thế nào, khi mà não trạng của phần đông người Việt đều cho rằng: đạo nào
cũng tốt! Và thật không dễ dàng chút nào
khi truyền giảng về Đức Giêsu, Đấng mang ơn cứu độ duy nhất, khi mà gần 2/3 dân
chúng tin rằng, Đức Phật cũng là Đấng mang lại cho họ sự cứu sanh. Có khi tự
bản thân người giảng viên dạy giáo lý cũng đang rơi vào rơi vào lối “giải nghi
học” (casuistry), có nghĩa là, những kitô hữu vãn khẳng định mình có đức tin,
nhưng thực ra họ chỉ biết nội dung của đức tin mà thôi. Do đó, khi ta gặp “một
Kitô hữu lên tiếng hỏi ‘có được phép làm điều này hay không, hay liệu Giáo Hội
có làm điều này hay không’ thì có nghĩa ‘họ không có đức tin, hay đức tin của
họ quá yếu’”[17].
Suy tư thần học sẽ giúp giảng viên dạy giáo lý minh định lại
lập trường đức tin của mình, không chỉ là nôi dung đức tin, nhưng còn phương
cách truyền đạt đức tin, một đức tin không đóng khung trong các công thức,
nhưng sống động qua một hành trình cảm nghiệm về một cuộc gặp gỡ cá vị với Đức
Kitô. Trong tông huấnEvangelii Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở:
“Trên miệng của giáo lý viên phải luôn luôn vang đi vọng lại lời loan báo ban
đầu: ‘Đức Chúa Giêsu Kitô yêu thương chúng ta, Người đã ban mạng sống của Người
để cứu chúng ta, và giờ đây Người đang ở bên chúng ta mỗi ngày, để soi sáng, củng
cố và giải thoát chúng ta’.”[18] “Đây là lời loan báo đáp ứng khát vọng về sự
vô cùng trong mỗi tâm hồn con người”[19].
. Suy tư thần học dẫn đưa giảng viên giáo lý vượt qua cái không gian
chật hẹp của kiến thức đức tin được gói gọn trong các định tín để bước vào một
vùng trời hân hoan chan chứa niềm hy vọng qua cuộc gặp gỡ với Đấng mà chúng ta
tin. Cuộc gặp gở nầy được Đức Phanxicô gọi là
“ ‘con đường thẩm mỹ’ (via pulchritudinis). Loan báo Đức Kitô có nghĩa
là tin vào Người và theo Người không những chỉ như một điều gì thực tế và đúng,
mà còn như một điều gì đẹp đẽ, có khả năng đổ đầy đời sống bằng một sự huy
hoàng mới và một niềm vui sâu thẳm, ngay cả giữa những thử thách. Theo quan
điểm này, tất cả các cách diễn tả về thẩm mỹ thực sự có thể được công nhận là
một con đường giúp người ta gặp gỡ Chúa Giêsu. Điều này không có nghĩa là cổ võ
cho một thuyết tương đối về thẩm mỹ, là điều có thể che khuất mối dây liên kết
bất khả phân ly giữa chân, thiện, mỹ, nhưng để khôi phục lại lòng ngưỡng mộ vẻ
đẹp để có thể chạm đến quả tim con người và để sáng tỏa trong ấy chân lý và sự
tốt lành của Đấng Phục Sinh. Như Thánh Augustinô nói, nếu chúng ta chỉ có thể
yêu những gì đẹp, thì Chúa Con làm người, mặc khải của sự mỹ miều vô hạn, vô
cùng đáng yêu, và Người lôi kéo chúng ta về với mình bằng những liên hệ yêu
thương. Do đó, điều cần thiết là việc đào luyện trong via pulchritudinis phải
được tháp nhập vào việc thông truyền đức tin”[20].
2.2 Suy tư thần học như là động lực giúp giảng viên giáo lý
biến đổi chính mình để biến đỏi người khác.
Từ việc minh định rõ thái độ đối với điều mình tin, giảng
viên giáo lý tiến tới phương pháp chuyển tải đức tin sao cho người nghe có thể
đón nhận dễ dàng, là điều quan trọng trong việc giảng dạy Giáo lý. Có thể noi,
suy tư thần học đưa ra những chỉ dẫn giúp giảng viên giáo lý không thu hẹp việc
giảng dạy vào những học thuyết, nhưng mở ra con đường tái khám phá giá trị đích
thật của cuộc sống. Trong cuộc sống thường ngày có biết bao là dấu chỉ được
biểu lộ về sự khao khát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc đời, sự biểu lộ
ấy còn đọc thấy ngay cả trong thái độ tiêu cực.
Đối thoại là cách thế đạt hiệu quả nhất trong việc thông
truyền đức tin. Nhưng đối thoại như thế nào để người giảng viên giáo lý không
rơi vào hoặc là thái độ tôn giáo quá khích, hoặc là chủ nghĩa tương đối hóa tôn
giáo? Suy tư thần học sẽ là câu trả lời cho vấn nạn nầy. Chẳng hạn, qua việc tư
duy thần học, Giáo Hội sẽ đưa ra những tiêu chí của việc đối thoại với các tôn
giáo khác: “phải khôn ngoan tiếp xúc với người ngoài Kitô giáo ‘trong Chúa
Thánh thần, trong Đức ái không gỉa dối, trong lời chân thật’ (2 Cor 6, 6-7).
Phải cố gắng tỏa ánh sáng sự sống với tất cả lòng tin tưởng vững chắc, và lòng
can đảm của người tông đồ, cho dù phải đổ máu” (DH 14). Vì thê, khi đối thoại với các tôn giáo khác người
giảng viên giáo lý phải thấu hiểu vững
chắc chân lý mà mình đã lãnh nhận, và trung thành loan truyền chân lý đó. Phải
loại khỏi tinh thần độc tôn tôn giáo, bởi tinh thần đó chỉ đưa đến một thái độ
qúa kích, coi thường các tôn giáo bạn, thay vì đối thoại để hiểu nhau, tinh
thần đó sẽ dẫn tới những cuộc tranh luận gay gắt, đưa tới những hiềm khích,
hiểu lầm và thú oán. Giáo hội công giáo
không còn được nhìn như là một Giáo hội độc tôn chiếm hữu chân lý, nhưng là một
Giáo hội bao gồm, có nghĩa là Giáo hội công giáo được tiềm ẩn trong các tôn
giáo khác, bởi vì Giáo hội xem tất cả những gì là chân thiện nơi các tôn giáo
khác như là để chuẩn bị họ nhận lãnh Phúc âm (LG 16). Để có thể thực hiện được
các cuộc đối thoại như thế, giảng viên giáo lý cũng được đòi hỏi phải có cảm
nghiệm tôn giáo của mình một cách sâu xa.
Dựa trên nền tảng này, giảng viên giáo lý được đòi hỏi phải
thực hiện những giờ chiêm niệm đích thật, những kinh nghiệm về các cuộc gặp gở
thân mật với Chúa là ngôn ngữ thiết yếu để đối thoại với anh chị em thuộc các
tôn giáo bạn. Cảm nghiệm tu đức đích thật đòi hỏi phải quên đi chính mình và
quan tâm đến ngưới khác. Linh đạo Kitô giáo là một câu đáp trả lời mời gọi của
Thiên Chúa, Đấng qua “Lời” đã đến với
con người. Qua biến cố Nhập thể, Đức Kitô đã thiết lập nền tảng sự hợp nhất
giữa Thiên Chúa với con người. Vì vậy linh đạo Kitô giáo của đối thoại chính là
nhập thể, có nghĩa là giảng viên giáo lý cố gắng biến đối cuộc sống của mình
theo gương của Đức Giêsu. Gương mẫu của họ sẽ dần dần biến đổi xã hội. Điều đó
chỉ có thể xảy ra khi người giáo dân kliên kết với các thành phần tín hữu của
các tôn giáo khác trong xã hội để đạt tới mục đích là cùng nhau hành động cho
chân lý.
Kết:
Hàng năm vào đêm vọng Phục sinh, con số các Tân Tòng lãnh
nhận Bí tích Rửa tội mang lại niềm hy vọng và vui mừng lớn lao cho Giáo Hội
Việt Nam nói riêng và Giáo Hội toàn cầu nói chung. Nhưng trong niềm vui đó cũng
gợi lên nhiều ưu tư,vì nếu đi tìm nguyên nhân dẫn đưa những người tân tòng này
gia nhập Giáo Hội Công Giáo có lẽ chúng ta sẽ vơi đi sự hồ hởi, bởi phần nhiều
là do kết hôn với người Công Giáo, và cuộc trở lại có vẻ phần nào miễn cưởng.
Nhưng điều đáng nói ở đây là sau khi kết hôn đa phần là không giữ đức tin, như
câu ca dao đã chua chát:
Lạy Đức Chúa Trời Ba Ngôi
Tôi lấy được vợ, tôi thôi Chúa Trời.
Tại sao? Có thể nói phần nhiều do giảng viên dạy giáo lý.
Nói như thế có cường điệu quá chăng? Nếu đi khảo sát các giảng viên dạy giáo lý
cho người dự tòng, một thực tế được ghi nhận là phần đông chỉ truyền dạy những
tín điều phải tin và những luật – Thiên luật cũng như Giáo luật – phải giữ, còn
để thông truyền một đức tin sống động cho những người dự tòng thì quả thật hiếm
quá. Người ta chỉ tiếp thu được những kiến thức đức tin qua những công thức khô
cứng, xa lạ với truyền thống văn hóa, và có vẻ dửng dưng với các vấn nạn của
thời đại, hầu như trong suốt thời gian “học giáo lý” người dự tòng không một
lần được hướng đẫn đến gặp gỡ được một Đức Kitô, đối tượng cúa đức tin, một Đức
Kitô nhập thể và nhập thế, nhập thể để cùng chia sể thân phận với con người,
nhập thế để đưa ra những lời giải đáp cho các vấn nạn của con người trong bất
cứ thời đại nào, vì Người là Lời yêu thương của Thiên Chúa được mạc khải cho
con người cho mọi nơi và mọi lúc.
Thiếu sót này có thể là các giảng viên dạy giáo lý ít cơ hội
tiếp xúc với các suy tư thần học. Nhiệm vụ cúa các nhà Thần học là giúp huấn
quyền đưa ra những giáo huấn một mặt luôn trung thành với chân lý Mạc khải,
đàng khác giáo huấn được trình bày với não trạng, tâm thức của người thời đại.
Vì thế, để việc giảng dạy giáo lý có thể đạt hiệu quả theo như Giáo Hội mong
muốn, giảng viên giáo lý cần phải tiếp cận với các suy tư thần học, để nhờ đó,
ho “luôn luôn tìm cách truyền thụ chân lý của Tin Mừng cách hiệu quả hơn trong
một bối cảnh cụ thể, mà không từ bỏ chân lý, sự tốt lành và ánh sáng mà người
ấy có thể mang lại, cho dù sự hoàn hảo là điều không thể được. Một quả tim
truyền giáo ý thức được những hạn giới này và biến mình thành ‘người yếu đuối
với những kẻ yếu đuối [...], mọi sự cho mọi người, (1 Cor 9: 22). Họ không bao
giờ tự đóng lòng mình, không bao giờ rút lui về chỗ an toàn của mình, không bao
giờ chọn cách tự vệ cứng rắn. Họ ý thức
rằng mình phải lớn lên trong sự hiểu biết về Tin Mừng và trong sự phân biệt
những con đường của Chúa Thánh Thần, và như thế, họ luôn luôn làm những điều gì
tốt mình có thể làm, mặc dù có nguy cơ bị lấm bùn đường”.[21]
LM Antôn Hà văn Minh
TTMV Saigon 4/3/2014
[1] Nguồn:
http://tuoitre.vn/Pages/Printview.aspx?ArticleID=585320
[2] Thế mạnh của Việt Nam trên trường quốc tế, nguồn:
http://www.baomoi.com/The-manh-cua-Viet-Nam-tren-truong-quoc-te/122/5649562.epi
[3] Bản tuyên ngôn về việc rao giảng Tin Mừng của FABC I, cuộc họp đầu tiên của các Giám mục Á
châu, 1974.
[4]Giáo Hội Địa Phương: Suy Tư Thần Học Trong Bối Cảnh Á
Châu, trích từ các "Luận đề về Giáo Hội Địa Phương" do Ủy Ban Cố Vấn
Thần Học của Liên Hiệp các Hội Đồng Giám
Mục Á Châu (FABC) soạn thảo ra. Các Luận đề này là thành quả của cuộc nghiên cứu và bàn thảo mà các thành viên của Ủy Ban và các nhà thần học khác đã tiến hành suốt trong năm năm, và cuối
cùng đã được chấp thuận trong lần Ủy Ban
họp tại Hồng Kông hồi tháng tư năm 1990.
Ngo Minh SJ chuyển ngữ. Nguồn:
http://catechesis.net/news/THAN-HOC-61/Giao-Hoi-Dia-Phuong-Suy-Tu-Than-Hoc-Trong-Boi-Canh-A-Chau-828/
[5] Tín ngưỡng và Tôn giáo tại Việt Nam : Nguồn:
http://www.mofa.gov.vn/vi/tt_vietnam/nr050324092159/
[6] Lịch sử truyền giáo tại Việt Nam cũng đã ghi đậm lại
kinh nghiệm đau thương về các cuộc bách hại đãm máu, mà một trong những nguyên
nhân đưa đến cuộc bách hại đạo Công giáo, chính là việc các nhà thừa sai lên án
các nghi lễ thờ cúng ông bà tổ tiên, coi đó là mê tín và thờ ngẫu tượng, và ra
lệnh cấm những kitô hữu không được thắp
nhang cúng bái trước bàn thờ tổ tiên, ông bà, cũng như trước linh cữu người quá
cố. Việc làm này gây phẫn nộ trong xã
hội Việt Nam
thời đó, và người ta coi Kitô giáo là một tà đạo, đi ngược với truyền thống dân
tộc về việc kính nhớ ông bà tổ tiên.
[7]Lễ hội Việt Nam , Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia, nguồn:
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85_h%E1%BB%99i_Vi%E1%BB%87t_Nam
[8] Chủ nghĩa vị lơi (utilitarianism) coi sự vui sướng hay
thỏa mãn ước muốn như là sự thiện duy nhất của con người và coi luân lý tính
của các hành đọng hoàn toàn lệ thuộc vào các hậu quả hay kết quả cho sự hạnh
phúc khả giác của con người. X. Hành trình cùng triết học, do Ted Hondẻich chủ
biên, Lưu văn Hy biên dịch snag Việt ngữ,
NXB Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 2002, tr.1127.
[9]X.Quý Thông, Nhà nghỉ 'cháy' phòng đêm Valentine,
nguồn:http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/nha-nghi-chay-phong-dem-valentine-2187771.html
[10]Lễ tình nhân: “Cháy” khách sạn, nhà nghỉ, trích trong
báo An ninh Thủ đô, nguồn:
http://vtc.vn/kinh-te/le-tinh-nhan-chay-khach-san-nha-nghi-288223.html
[11]X. Giám mục W. Kempf, Fuer euch und fuer alle.
Fastenhirtenbrief 1981, Limburg 1981; Giám mục
K. Lehman, „Geistes-Gegenwart und Weggemeinschaft“, Gepraech in: HK 43 (1989),
67 – 74; Giám mục J. Homeyer, „Es bedarf einer zweiten Bekehrung“, Gepraech in:
HK 44 (1990), 417 – 423.
[12] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp gởi tới anh em Tin
lành phái Ngũ tuần thông qua Giám mục phái ngũ tuần, Tony Palmer, ngày
14-1-2014, nguồn: http://vietcatholic.com/News/Html/121722.htm
[13] Nt.
[14]Đức Phanxicô, trả lời phỏng vấn trên chuyến bay từ Ba
Tây về lại Giáo Đô Rôma ngày 28/7/2013, nguồn
http://tailieuthanhmau.net/TL-01-ABC/D/DTC%20Phanxico%20bat%20ngo%20tra%20loi%20phong%20van%20tren%20chuyen%20bay.htm
[15] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 47.
[16]M. Kehl, Eschatologie, Wuerzburg, 1988, 135 tt.
[17] Đức Phanxicô, Bài giảng tại nhà nguyện Santa Marta trong thánh lễ đồng tế với các vị
Hồng Y đang tham dự Công Nghị Hồng Y Ngoại Thường, 21-2-2014.
[18] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 164.
[19] Nt, số 165
[20] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, sô 167.
[21] Đức Phanxicô, Tông Huấn Evangelii gaudium, số 45.
http://giaolyductin.org/newsview/vn/1164/Than-hoc-tai-Viet-nam-hom-nay-doi-thoai-nhu-the-nao-voi-nhung-van-de-nong-bong-cua-xa-hoi?-.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét