Trang

Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

VUI HỌC THÁNH KINH Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

VUI HỌC THÁNH KINH
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Tin Mừng thánh Gioan 17,11b-19
Ngày 27 tháng 4


 Tin Mừng

11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha.

12 Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con.14 Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.15 Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.16 Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.17 Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.18 Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian.19 Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.


11 And now I will no longer be in the world, but they are in the world, while I am coming to you. Holy Father, keep them in your name that you have given me, so that they may be one just as we are.

12 When I was with them I protected them in your name that you gave me, and I guarded them, and none of them was lost except the son of destruction, in order that the scripture might be fulfilled.

13 But now I am coming to you. I speak this in the world so that they may share my joy completely.

14 I gave them your word, and the world hated them, because they do not belong to the world any more than I belong to the world.

15 I do not ask that you take them out of the world but that you keep them from the evil one.

16 They do not belong to the world any more than I belong to the world.

17 Consecrate them in the truth. Your word is truth.

18 As you sent me into the world, so I sent them into the world.


19 And I consecrate myself for them, so that they also may be consecrated in truth.


I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề của hình này là gì?
……………………………………………..

* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 17,18
……………………………………………..
……………………………………………..
……………………………………………..
……………………………………………..

II. TRẮC NGHIỆM

A.
a1. Khi Đức Giêsu còn ở với các môn đệ, Người đã làm gì họ trong Danh Cha mà Cha đã ban cho Người? (Ga 17,12)
a. Dạy dỗ
b. Hướng dẫn
c. Gìn giữ
d. Chúc phúc

a2. Đức Giêsu sẽ làm gì để không 1 ai hư mất trừ đứa con hư hỏng? (Ga 17,12)
a. Dạy dỗ
b. Canh giữ
c. Cầu nguyện
d. Ban nhiều dấu lạ

a3. Trong lời cầu nguyện của Đức Giêsu, Người đã truyền lại cho các môn đệ lời của ai? (Ga 17,14)
a. Cha
b. Giáo Hội
c. Các Ngôn sứ
d. Ông Môsê

a4. Ai đã ghét các môn đệ? (Ga 17,14)
a. Thế gian
b. Vua chúa
c. Ma quỷ
d. Cả a, b và c đúng

a5. Đức Giêsu xin Cha làm gì cho các môn đệ khỏi ác thần? (Ga 17, 15)
a. Gìn giữ
b. Đe dọa ma quỷ
c. Xua trừ ác thần
d. Cầu nguyện


B. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

01. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tên là gì?
a.  Angelo Giuseppe Roncalli
b. Karol Josef Wojtyla
c. Josef Ratzinger
d. Jorge Mario Bergoglio

02. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thành lập ngày gì?
a. Ngày Thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu
b. Ngày cầu nguyện cho Hòa bình
c. Ngày Quốc tế giới trẻ
d. Ngày Quốc tế các bệnh nhân

03. Được bầu làm giáo hoàng năm1978. Ngày 13.5.1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị một thanh niên người Thổ Nhĩ Kỳ tên là gì ám sát?
a. John Hinckley Jr
b. Mehmet Ali Agca
c. Lee Harvey Oswald
d.  Benjamín Mendoza y Amor Flores

04. Khẩu hiệu Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II chọn là gì?
a. Miserando atque eligendo (Dù bất xứng nhưng được chọn)
b. Oboedientia et Pax (Vâng Lời Và Bình An)
c. Instaurare omnia in Christo (Chấn hưng mọi sự trong Chúa Kitô).
d. Totus tuus (Tất Cả là Của Mẹ)

05. Đây là thông điệp của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II :
a. Thông điệp Polorum Progressio
b. Thông điệp Evangelii Gaudium
c. Thông điệp Pacem in Terris
d. Thông điệp Redemptor hominis



III. Ô CHỮ 


Những gợi ý


01. Đức Giêsu xin Cha gìn giữ các môn đệ khỏi ai? (Ga 17,15)

02. Đức Giêsu xin Cha lấy sự thật mà làm gì cho họ? (Ga 17,17)

03. Đức Giêsu xin gìn giữ ai trong danh Cha ? (Ga 17,11b)

04. Đức Giêsu nói : Con đã canh giữ, và không 1 ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời gì? (Ga 17,12)

05. Đức Giêsu nói những điều này khi còn ở thế gian, để các môn đệ được hưởng trọn vẹn điều gì của Người? (Ga 17,13)

06. Đức Giêsu xin Cha làm gì cho họ khỏi ác thần? (Ga 17,15)

07. Đức Giêsu : Con đã làm gì cho họ lời của Cha ? (Ga 17,14)

08. Đức Giêsu cầu nguyện : Con không xin Cha cất họ khỏi đâu nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần? (Ga 17,15)

09. Đức Giêsu đã canh giữ và không một ai trong họ phải hư hỏng, trừ đứa con thế nào? (Ga 17,12)

Hàng dọc : Chủ đề của ô chữ này là gì?


IV. CÂU THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG

“Vì họ,
con xin thánh hiến chính mình con,
 để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
Tin Mừng thánh Gioan 17,19



Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Tin Mừng thánh Gioan 17,11b-19


I. HÌNH TÔ MÀU

* Chủ đề :
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

* Tin Mừng thánh Gioan 17,18 :

“Như Cha đã sai con đến thế gian,
 thì con cũng sai họ đến thế gian”.

II. TRẮC NGHIỆM

A.
a1. c. Gìn giữ (Ga 17,12)
a2. b. Canh giữ (Ga 17,12)
a3. a. Cha (Ga 17,14)
a4. a. Thế gian (Ga 17,14)
a5. a. Gìn giữ (Ga 17, 15)

B. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

01. b. Karol Josef Wojtyla
02. c. Ngày Quốc tế giới trẻ
03. b. Mehmet Ali Agca
04. d. Totus tuus (Tất Cả là Của Mẹ)
05. d. Thông điệp Redemptor hominis


III. Ô CHỮ 

01. Ác thần (Ga 17,15)
02. Thánh hiến (Ga 17,17)
03. Môn đệ (Ga 17,11b)
04. Kinh Thánh (Ga 17,12)
05. Niềm vui (Ga 17,13)
06. Gìn giữ (Ga 17,15)
07. Truyền lại (Ga 17,14)
08. Thế gian (Ga 17,15)
09. Hư hỏng (Ga 17,12)

Hàng dọc : Chết Vì Yêu

NGUYỄN THÁI HÙNG




Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II


Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II tên thật là Karol Josef Wojtyla chào đời ngày 18.5.1920 tại Wadowice, Ba Lan, trong một gia đình đạo hạnh. Chịu Phép rửa tội ngày 20.6.1920. Ngài lớn lên với cha mẹ ngài ở Rynek. Sau đó gia đình dọn tới Krak Via Tyniecka.


Cha là ông Karol Wojtyla, một đại uý trong quân đội Ba Lan, qua đời năm 1941. Mẹ là bà Emilia Kaczorowska, qua đời năm 1929 lúc ngài mới 9 tuổi, vừa được rước Lễ lần đầu. Anh là Edmund qua đời năm 1932 lúc ngài được 12 tuổi. Ngài được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức năm 18 tuổi
Năm 1926, ngài vào tiểu học và rồi lên trung học Marcin Wadowita, trong những năm tại đây ngài đã đoạt điểm rất cao và làm chủ tịch Hội Tông Đồ Đức Mẹ.
Năm 1934, ngài đã bước vào sự nghiệp sân khấu với diễn xuất lần đầu ở Wadowice, và vào năm 1939, ngài làm việc cho "Phòng thâu 38", một nhóm sân khấu điện ảnh khảo nghiệm của Tadeusz Kudlinski trong lúc theo học tại Đại học Jagellonian. Người thanh niên trẻ Karol tận hiến đời cho Mẹ Maria khi ngài muốn trở thành một minh tinh màn ảnh. Sau khi vừa tận hiến, thì một tư tưởng đến trong đầu Karol: "Tôi muốn là một Linh Mục"... nhưng suy nghĩ ngài lại không muốn là một Linh Mục mà muốn trở thành một minh tinh màn ảnh, thế nhưng ý tưởng trở thành Linh Mục cứ hiện lên trong trí và rồi sau này, ngài đã trở thành một Linh Mục thật !
Khi thế chiến thứ hai lan tràn Âu Châu, thanh niên tuấn tú Karol Wojtyla đang theo học tại Đại Chủng Viện ở Kraków vào năm 1942, được bí mật tổ chức dưới hầm Tòa Giám Mục. Ban ngày các chủng sinh bị xung công đi "lao động là vinh quang" trong một hầm đá; tối về học dưới ngọn đèn cháy leo lét, mù mờ.
Một hôm vào tháng 2 năm 1944, sau giờ "đục đá" trở về, Karol bị một chiếc xe nhà binh Đức đụng phải, rồi bỏ chạy. Karol ngã lăn ra, bất tỉnh bên vệ đường. Một phụ nữ, không biết từ đâu chạy đến, đã làm công việc người Samaritan nhân hậu: Karol được bà đỡ dậy và dìu vào nhà thương cấp cứu. Nhờ đó, Karol được cứu sống.
Khi ra khỏi bệnh viện, Karol đã cố gắng đi tìm ân nhân ấy để cám ơn, nhưng không gặp được bà. Các bác sĩ cho biết người đàn bà đó có những nét phụ nữ Do Thái. Phải chăng rồi, bà đã bị hốt đi và đưa vào lò thiêu sinh cùng với trên 6 triệu người Do Thái đồng hương ? Sau này lên ngôi Giáo Hoàng, chính ngài đã kể lại câu chuyện hi hữu và tuyên bố: "Tôi mong được gặp lại người đàn bà đã cứu sống tôi và hôn tay bà để tri ân". Nhân câu chuyện "lịch sử" ấy, hồi đầu, một tờ báo thiên tả của Ý đã xuyên tạc cho rằng, Tân Giáo Hoàng đã có "bồ" !
Năm 1945, quân đội Nga giải phóng Krakow khỏi ách thống trị của Đức Quốc Xã và rồi Ba Lan trở thành một quốc gia Cộng Sản.
Karol Wojtyla lãnh nhận thừa tác vụ Linh Mục năm 1946, và rồi đậu tiến sĩ Thần Học tại Đại Học Angelicum ở Rôma với đề tài luận án tiến sĩ "Những trở ngại của Đức Tin trong những việc làm của Thánh Gioan Thánh Giá".
Sau đó, từ 1948 đến 1951, ngài đã phục vụ như một Linh Mục xứ ở Kraków; đoạn trải qua một năm tu nghiệp Triết tại Đại Học Jagiellonian. Từ 1952 đến 1958, Karol Wojtyla được bổ nhiệm làm giáo sư Luân lý tại Đại Học Công Giáo Lublin và làm tuyên úy sinh viên.
Năm 1958 ngài đã được tấn phong Giám Mục Phụ Tá, rồi Tổng Giám Mục Giáo Phận Cracovie, và năm 1967, được cố Giáo Hoàng Phaolô VI vinh thăng Hồng Y. Ngài đã tham dự Công Đồng Vatican II năm 1963 và đã đóng góp vào nhiều tài liệu, một trong những tài liệu sau này trở thành Tuyên Ngôn Tự Do Tôn Giáo.
Cùng với hàng Giám Mục Ba Lan, nhất là với Hồng Y Wyszynski, ngài phải đương đầu với chế độ Cộng Sản áp đặt trên hơn 85% người Công Giáo Ba Lan, để bênh vực đức tin và quyền tự do của con người. Hai mục tiêu ấy, ngài càng mạnh mẽ tiếp tục sau khi lên bậc Giáo Hoàng.
Ngày 22.10.1978, lần đầu tiên ra mắt với công chúng trước tiền đường Thánh Phêrô, tân Giáo Hoàng đã xác quyết tuyên bố ( Mt 14, 27 ): "Đừng sợ !"
Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II, với khẩu hiệu: "Duc in altum" - "Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới", đã thổi vào Giáo Hội một nguồn sinh lực mới theo tinh thần Công Đồng Vaticanô II. Chỉ vài tháng sau khi nhậm chức, ngài đã lên đường "đi tìm anh em" trong các đoàn chiên khắp thế giới.
Đức Giáo Hoàng đã thực hiện tất cả trên 100 chuyến tông du đến 129 quốc gia trên thế giới. Ngài được xem là một trong những vị Giáo Hoàng tông du nhiều nhất, phong Thánh nhiều nhất. Đến đâu, Giáo Hoàng cũng "củng cố đức tin của anh em", lôi kéo rất nhiều người, khởi động sự chú ý đặc biệt của quần chúng đến sự hữu hình và vai trò của Giáo Hội.
Mưu sát – Biến cố Fatima và Đức Thánh Cha Gioan Gioan-Phaolô II
Đức Gioan Phaolô II bị ám sát 
(ảnh sưu tầm trên internet)
Ngày 13.5.1981, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II bị một thanh niên người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca 23 tuổi ám sát hụt tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Mehmet Ali Agca đã bắn 4 phát súng 9 ly về phía Đức Thánh Cha lúc đó đang đứng chào dân chúng và ngài đã ngã ra phía sau. Viên đạn thứ nhất trúng bụng, viên thứ hai trúng tay trái, viên thứ ba trúng ngực một bà Mỹ 60 tuổi, và viên thứ tư trúng tay người phụ nữ Jamaica 21 tuổi. Lý do tại sao Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II bị ám sát vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Mehmet Ali Agca, sinh ngày 9 tháng 1 năm 1958, đã bị kết án tù chung thân về tội mưu sát Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II.
Trong Đại Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha đã xin tổng thống Ý tha cho người sát hại ngài, và Ali Agca sau 20 năm trong tù đã được Ý trao trả cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2001, và tiếp tục ở tù ở quốc gia của mình vì tội sát hại một vị giám đốc nhật báo vào năm 1979. Ngài đã vào tù thăm người đã bắn ngài và đã tha thứ cho anh. Ali Agca có lẽ đã cảm kích cử chỉ của Đức Thánh Cha nên đã quỳ xuống hôn tay ngài cách trân trọng.
Chính anh Ali Agca người đã bắn những cú chí tử vào Ðức Gioan-Phaolô II, đã hết sức ngạc nhiên, tại sao bị thương như vậy, mà Đức Thánh Cha đã không chết. Việc Đức Thánh Cha không chết, là vì có bàn tay Ðức MẹFatima. Chính Đức Thánh Cha đã công nhận như vậy và ngày 12 – 13.5.1982, ngài đã đến Fatima hành hương, để tạ ơn Ðức Mẹ và tuyên bố rõ ràng: "Ðức Mẹ Maria đã cứu sống tôi".
Ðể ghi nhớ muôn đời, một trong các viên đạn được lấy ra lúc giải phẫu cho Đức Thánh Cha, tại Bệnh Viện Bách Khoa Gemelli ở Roma, đã được ghép vào triều thiên của Ðức Mẹ tại Ðền Thánh Fatima trong dịp Đức Thánh Cha đến hành hương tạ ơn 13.5.1982. Trong cuộc hành hương Năm Thánh 2000, Đức Thánh Cha còn để lại một kỷ niệm khác nữa: đặt dưới chân Mẹ chiếc nhẫn Giám Mục quí giá, do Ðức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski, Ba Lan và Tổng Giám Mục Varsovie, tặng cho ngài khi được bầu làm Giáo Hoàng ( 16.10.1978 ). Còn chiếc giây lưng trắng bị đẫm máu trong vụ mưu sát tại quảng trường Thánh Phêrô lúc 17 giờ 10 phút ngày 13.5.1981, đã được để lại làm kỷ niệm tại Czestochowa, Ðền Thánh quốc gia Ba Lan, nơi Đức Thánh Cha đã đến hành hương nhiều lần trong những năm sinh sống tại Ba Lan và cả sau khi đã làm Giáo Hoàng.
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cũng đã cho phổ biến chuỗi Mai Khôi thứ 4, tức Chuỗi Sự Sáng thêm vào 3 chuỗi đã có từ lâu, có lẽ cũng xuất phát từ lòng tri ân Mẹ.
Cuộc điều tra sau đó cho thấy kẻ sát nhân đã "ra tay" do một đường dây mật vụ Cộng Sản, vì ảnh hưởng của nhà lãnh đạo tinh thần cho hơn một tỉ tín hữu trên toàn cầu quá lớn lao, trong công cuộc giải phóng quốc gia Ba Lan và Đông Âu nói chung. Vì thương yêu dân tộc mình, ngài đã từng tuyên bố: "Tôi sẽ từ chức, về nước để đồng cam cùng khổ với dân chúng Ba Lan". ( Carl Bernstein, TIME, số đề ngày 24.2.1992 ).
Mới đây, nhật báo Corriere della Sera xuất bản ở Ý cho biết chính quyền Đức hiện nay đã tìm thấy hồ sơ ám sát Đức Giáo Hoàng tại sở mật vụ của Cộng Sản Đông Đức ngày xưa. Và nội dung hồ sơ cho thấy mật vụ KGB của Cộng Sản Nga đã ra lệnh lệnh cho nhân viên tình báo của Bulgaria thi hành âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng.
Cũng theo tờ Corriere della Sera, sở mật vụ Đông Đức có tên là Stasi được Nga trao cho trách nhiệm phối hợp công tác và sau khi thi hành thủ đoạn, mật vụ Đông Đức có nhiệm vụ phi tang tất cả những âm mưu Cộng Sản Nga đã dàn dựng để ám sát Đức Giáo Hoàng.
Tài liệu cho thấy, sở mật vụ Bulgaria nhận lệnh từ KGB nhưng muốn phủi tay, nên trao nhiệm vụ ám sát Đức Giáo Hoàng cho những kẻ quá khích ở Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó có Mehmet Ali Agca là người đã bắn Đức Giáo Hoàng tại quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 13.5.1981. Hung thủ bắn Đức Giáo Hoàng là Ali Agca, cho đến năm 2005 vẫn còn bị tù tại Thổ Nhĩ Kỳ, đã khai ngay sau khi bị bắt với chính quyền Ý rằng y đã thi hành âm mưu này dưới sự điều khiển của tòa đại sứ Bulgaria tại Rome.
Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã cho Giáo Hội có một vị Giáo Hoàng đáng kính và đầy lòng yêu thương, nhân từ.
Nguồn Ephata




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét