VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT III
MÙA VỌNG NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 1,6-8.19
TIN MỪNG
6 Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gio-an.
7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về
ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
8 Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
19 Và đây là lời chứng của ông Gio-an,
khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi
ông: "Ông là ai? "
6 A man named John was sent from God.
7 He came for testimony, 6 to testify to
the light, so that all might believe through him.
8 He was not the light, but came to testify
to the light.
9 The true light, which enlightens
everyone, was coming into the world.
19
And this is the testimony of John. When the Jews from Jerusalem sent priests and Levites (to him)
to ask him, "Who are you?"
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề củ hình này là gì?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
* Bạn
hãy viết câu Tin Mừng thánh Gioan 1,7
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
II. TRẮC NGHIỆM
01. Có 1 người được Thiên Chúa sai đến để
làm chứng về ánh sáng là ai? (Ga 1,6-7)
a.
Đức Giêsu.
b.
Ông Môsê.
c.
Ông Ápraham.
d.
Ông Gioan.
02. Ông Gioan được Thiên Chúa sai đến để
làm gì? (Ga 1,7)
a.
Làm chứng về ánh sáng.
b.
Rao giảng Nước Trời.
c.
Kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng.
d.
Chỉ a và c đúng.
03. Ông Gioan đến và làm chứng về ánh sáng
để mọi người làm gì? (Ga 1,7)
a.
Sám hối mà được cứu rỗi.
b.
Nhờ ông mà tin.
c.
Mọi người tin vào Nước Thiên Chúa đang hiển hiện.
d.
Siêng năng cầu nguyện.
04. Đây là những người từ Giêrusalem được
cử đến để hỏi ông Gioan? (Ga 1,19)
a.
Các thượng tế.
b.
Các thầy lêvi.
c.
Các tư tế.
d.
Chỉ b và c đúng.
05. Ông Gioan đã làm phép rửa tại đâu? (Ga
1,28)
a.
Biển hồ Tibêria.
b.
Sông Giođan.
c. Giếng
Giacóp.
d.
Hồ silôác.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Vị ngôn sứ được nhắc đến tên là gì? (Ga
1,21)
02. Người được Thiên Chúa sai đến tên là
gì? (Ga 1,6)
03. Ông Gioan được Thiên Chúa sai đến để
làm chứng về điều gì? (Ga 1,7)
04. “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa:
hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi”. Đây là lời của ngôn sứ nào? (Ga 1,23)
05. Ông Gioan đã làm phép rửa tại đâu? (Ga
1,28)
06. Ai đã sai ông Gioan đến để làm chứng về
ánh sáng? (Ga 1,6)
07. Ông Gioan tuyên bố ngài không phải là
ai? (Ga 1,20)
Hàng
dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. CÂU THÁNH KINH GHI NHỚ VÀ HỌC THUỘC LÒNG
Ông đến để làm chứng,
và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
Tin Mừng thánh Gioan 1,7.
NGUYỄN THÁI
HÙNG
Lời giải đáp
VUI HỌC THÁNH KINH
CHÚA NHẬT III
MÙA VỌNG NĂM B
Tin Mừng thánh Gioan 1,6-8.19
I. HÌNH TÔ MÀU
*
Chủ đề :
Ông Gioan Tẩy Giả
*
Tin Mừng thánh Gioan 1,7
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về
ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
II. Lời giải đáp trắc nghiệm
01. d.
Ông Gioan (Ga 1,6-7).
02. a.
Làm chứng về ánh sáng (Ga 1,7).
03. b.
Nhờ ông mà tin (Ga 1,7).
04. d.
Chỉ b và c đúng (Ga 1,19).
05. b.
Sông Giođan (Ga 1,28).
III. Lời giải đáp ô chữ
01. Ngôn sứ Êlia (Ga 1,21).
02. Ông Gioan (Ga 1,6)
03. Ánh
sáng (Ga 1,7).
04. Ngôn sứ Isaia (Ga 1,23)
05. Sông Giođan (Ga 1,28).
06. Thiên
Chúa (Ga 1,6).
07. Đấng
Kitô (Ga 1,20).
Hàng
dọc: Ánh Sáng.
GB. NGUYỄN THÁI
HÙNG
Các bài suy niệm CHÚA
NHẬT 3 Mùa Vọng - Năm B
Lời Chúa: Is 61,
1-2a.10-11; 1Tx 5,16-24; Ga 1, 6-8.19-28
Tài liệu về Lời Chúa
***********************************************
Gioan Tiền Hô
Sống dưới ách thống trị
của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai
đến. Họ đã mượn nỗi khắc khoải của cha ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy
đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất
hiện bên bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái
đoàn đến để tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo. Những người này đã hỏi Gioan: Ông
là ai, ông có phải là Đức Kitô hay không. Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không
phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi trước để dọn đường cho
Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông
không để cho người ta chú ý tới ông mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ
vào Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Qua sứ điệp của Gioan
Tiền Hô, chúng ta rút ra hai điểm thực hành. Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối,
cải thiện đời sống. Thực vậy, Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm
giáng sinh, mà hơn thế nữa Ngài còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ
trụ, cũng như vào ngày sau hết của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn
đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải
là một mùa vọng nối dài. Và trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện
ngay sứ điệp của Gioan Tiền Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối
ở đây không phải chỉ là hối tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải
cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Điểm thứ hai, đó là hãy
trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô hữu, chúng ta không
phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải đem Chúa đến cho người
khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà thôi chưa đủ, chúng ta
còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn người khác. Muốn được
như thế, chúng ta cần phải có một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và
yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá được những người chung
quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.
Dọn đường Chúa đến trong
tâm hồn mình và giúp người khác dọn đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc
chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng này.
Vì Ngài Ở Với Chúng Ta
Guy Morin
Đây là thời gian của
những chứng nhân.
Môi trường chúng ta đang
sống hầu như hoàn toàn thiếu vắng những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Người ta loại khỏi các cơ sở những gì nhắc đến niềm tin Kitô. Không còn ảnh
thánh giá trong các bệnh viện và trường học nữa; Lời chứng long trọng thay thế
cho lời tuyên thệ; Hôn nhân dân sự đẩy lùi hôn nhân tôn giáo. Người ta không
còn khả năng đưa ra những dấu chỉ này nữa: Nhiều trẻ em không biết làm dấu
Thánh giá và việc dậy giáo lý làm cho nhiều nhà giáo phải lúng túng.
Dĩ nhiên các thành phố
của chúng ta đầy dẫy nhà thờ và chuông còn reo vang. Ở thôn quê, đó đây người
ta nhìn thấy những thập giá trên nóc thánh đường và những hang Đức Mẹ. Tuy
nhiên xã hội chúng ta sống và được xây dựng như thể Thiên Chúa đã không hề lên
tiếng nói với con người, như thể Ngài câm lặng và vắng mặt.
Chúng ta tin rằng Thiên
Chúa hiện diện trong lịch sử loài người chúng ta, nhưng bằng một sự hiện diện
kín đáo và vô hình. Sự kín đáo của Thiên Chúa đòi hỏi phải có những chứng nhân.
Thiên Chúa cần những chứng nhân trong thế giới này, nơi mà xem ra Ngài vắng
bóng và sự hiện diện của Ngài thật kín đáo.
Gioan Tẩy Giả, vị chứng
nhân gương mẫu.
Chính kinh nghiệm bản
thân làm nên chứng nhân. Gioan Tẩy Giả kể lại cho chúng ta kinh nghiệm của ông:
“Tôi không biết Ngài, nhưng Đấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước, chính Đấng
ấy đã nói với tôi: Ngươi thấy Thánh Thần đậu xuống trên ai thì chính đó là Đấng
làm phép rửa trong Thánh Thần. Và tôi đã thấy và làm chứng rằng Ngài là Con
Thiên Chúa”. Chứng tá của Gioan dựa trên mặc khải của Thiên Chúa sau này được
chứng thực trong một sự kiện mà ông đã thấy. Thánh Thần xuống trên Chúa Giêsu.
Từ kinh nghiệm bản thân
này Gioan sẽ làm chứng về Chúa Giêsu bằng lời nói và việc làm. Việc rao giảng
của ông gây xôn xao tại Israel: Người ta luôn đến nghe ông giảng và ông ban
phép rửa thống hối. Vì ông là con vị thượng tế, tức là một nhân vật quan trọng,
nên các chức trách tôn giáo đã được báo động và họ làm một cuộc điều tra: Ông
là ai? Tại sao ông làm phép rửa? Ông tuyên bố: “Ở giữa các ông có một Đấng mà
các ông không biết”.
Chứng nhân hoàn toàn
hướng về một Đấng khác mà mình chỉ là tôi tớ khiêm tốn mà thôi. Gioan tuyên bố
mình không đáng cởi dép cho Ngài, tức là làm công việc của một nô lệ.
Kinh nghiệm bản thân,
dũng cảm trong lời nói và trong hành động, xóa mình đi, ba đức tính này của
chứng nhân, Gioan Tẩy Giả đều có ở mức độ cao.
Người ta đòi hỏi những
chứng nhân.
Các giám mục của chúng ta
viết: “Kitô hữu có khuynh hướng khép kín về lãnh vực tôn giáo riêng tư nơi gia
đình, ở học đường và trong phụng vụ. Họ thoải mái khi ở phòng thánh hơn là
ngoài đường phố”.
Đây là một cách nói:
Người ta đòi hỏi phải có những người làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô! Chúng ta
phải làm gì đây? Mang kèn trống và biểu ngữ diễu hành ngoài đường chăng? Treo
vào xe hơi của chúng ta một tấm bảng để tên Giêsu ư? Làm áp lực để tại học
đường người ta treo ảnh thánh giá và cho đọc kinh ư? Hoặc là cho Giáo Hội nhiều
ảnh hưởng hơn?
Những hành động này không
xấu nhưng vẫn còn hời hợt và có nguy cơ áp đặt niềm tin của chúng ta trên kẻ
khác.
Ngày nay chúng ta được
mời gọi đào sâu kinh nghiệm của mình về Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô trong
Tin Mừng. Nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên vừa cởi mở đối với những kẻ cảm thấy mình
xa Giáo Hội vừa phê phán đối với những bất công và những điều vô nhân đạo của
xã hội chúng ta.
Xin thánh Gioan Tẩy Giả
cảm hứng cho chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa Giêsu và những kẻ
phản chiếu ánh sáng của Ngài.
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trên đời có nhiều thứ ánh
sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh.
Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ
cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một
số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí.
Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan
Baotixita là chứng nhân của Đức Ki-tô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Ki-tô
bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra
các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà
ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước
từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải
là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải
là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa
mạc". Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng
Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo
ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức
thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt
đối khiêm nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta
thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời
ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài
sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh
Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài
chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật
ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng
chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ
thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là
người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời
hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi
sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Ki-tô mà ngài loan
báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi
cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những
lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng
lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình.
Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô
trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài
đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung
thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy
đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh
sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Ki-tô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi
cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người
đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi
bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là
Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện
hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với
Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu,
nên ngài nói: "Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho
Người" (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ
theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu,
ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi
bật lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita
thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được
nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong
ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là
người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người
đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi
làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều
khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay
vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới
thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi
hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho
Chúa ngự đến.
Xin thánh Gioan Baotixita
giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
Người làm chứng
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong bài Tin Mừng trên
đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.
Lẽ sống của Gioan là làm
chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở
Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).
Gioan không làm chứng cho
mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga
5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn
đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn
giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.
Khi được hỏi lần thứ
nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải
là Đức Kitô" - "Không phải" - "Không". Những tiếng
‘không’ dứt khoát và trung thực.
Ông không nhận những danh
hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn
Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến
Đấng ông giới thiệu bị che khuất.
Lần thứ hai được hỏi: Ông
là ai?
Gioan đã định nghĩa mình
là một tiếng hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức
Kitô.
Ông biết rõ mình là người
đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga
1,30). "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức
Kitô, ông nhận mình không xứng.
Gioan tự xóa mình trước
Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép
rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.
Gioan không ngại giới
thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với
Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).
Có ai siêu thoát như
Gioan?
Ông từ bỏ trong niềm vui
hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn
lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga 3,30).
Sự khiêm hạ làm cho lời
chứng của Gioan đáng tin hơn.
"Có một vị đang ở
giữa các ông mà các ông không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là
Đấng xa lạ với nhiều người.
Con người vẫn khắc khoải
đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.
Xin được làm người chứng
như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giới trẻ hôm nay say mê
các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao... Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu
có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các
bạn trẻ không?
Gioan là con người siêu
thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen
biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn
gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi
chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn
gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc
trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý
Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
Niềm Vui
ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
"Hãy vui lên, hỡi
anh em, hãy vui lên! Hãy cảm tạ Thiên Chúa trong mọi sự, vì đó là thánh ý Người
về tất cả anh em trong Đức Kitô. Anh em đứng dập tắt tác động của Thánh
Thần" (1Thes 5,16-17). Lời thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Thessalônikê
ngày xưa, hôm nay Giáo hội lại công bố với chúng ta trong ngày Chúa nhật thứ
III mùa Vọng này.
Trong lúc chờ đợi Đức
Kitô đến, chúng ta phải tỉnh thức, phải lắng nghe tiếng Chúa kêu gọi. Chính
tiếng Người đem lại niềm vui cho ta, như Gioan Tẩy giả đã làm chứng, khi ông
nói về vai trò tiền hô của mình đối với Đấng Cứu thế.
"Niềm vui của tôi là
được nghe tiếng Ngài. Niềm vui của tôi đã sung mãn. Ngài phải lớn lên, còn tôi
phải nhỏ dần đi" (Gioan 3,29-30)
***
1. Giáo Hội Kêu Gọi Chúng
Ta Vui Lên. Nhưng Thế Nào Là Vui?
Theo kinh nghiệm thông thường,
vui là khi một ước vọng của ta được toại nguyện; khi ta thành công trong một nỗ
lực hoặc một dự tính; khi quyền lợi của ta bị tước đoạt mà nay được phục hồi;
và vui nhất là khi ta được gặp lại những người thân yêu sau một thời gian xa
vắng. Tắt một lời, ta vui khi lòng ta đang trống mà được lấp đầy.
2. Niềm Vui, Theo Nghĩa Thánh Kinh, Chính Trị
Là Trạng Thái Của Con Người Được Thiên Chúa Đổ Đầy Thánh Thần
Bài sách Isaia hôm nay
(Is 61,1-2a.10-11) phác họa cho ta hình ảnh Đấng Thiên Sai được Thánh Thần xức
cho dầu hoan lạc: "Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi... Ngài sai tôi công
bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Năm hồng ân trong Cựu Ước
- mà Năm Thánh là điệp ảnh - quả là một sáng kiến độc đáo Thiên Chúa đề ra cho
Dân Ngài. Nó là khoảng thời gian đặc biệt nhắc cho mọi người nhớ rằng: tất cả
những gì mình có đều là do Thiên Chúa ban, và mọi người phải nghĩ đến quyền lợi
của kẻ khác: bởi vì mọi người đều có quyền sống tự do và hưởng dùng tài nguyên
trên mặt đất. Năm hồng ân làm nổi bật, nguyên tắc công bằng và quyền bình đẳng
của mọi người trước mặt Thiên Chúa (Lêvi 25,1-55).
Mở đầu cuộc đời công
khai, Đức Giêsu đã đọc cho mọi người nghe đoạn sách Isaia trên đây trong hội
đường Nadarét. Và Ngài kết luận: "Hôm nay, đoạn sách thánh ấy đã thực sự
ứng nghiệm cho anh em" (Lc 4,16-21). Và như thế, Ngài nhận lấy sứ mạng
"loan báo Tin Mừng cho những người nghèo khổ, băng bó vết thương cho những
tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho những kẻ bị tù đày, trả tự do cho những
người bị áp bức" (Is 61,1-2; cf Lc 4,18-19).
Đó là những quyền căn bản
của con người: quyền được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình và được tôn
trọng, quyền được hưởng niềm vui làm người tự do và bình đẳng. Nhưng hơn thế
nữa, sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu Kitô còn nhằm biến đổi mọi người trở thành
con cái Thiên Chúa. Điều quan trọng hơn cả trong Tin Mừng Ngài mang đến cho
chúng ta là Thiên Chúa muốn sống giữa loài người liên đới với nhau như một cộng
đoàn hợp nhất, thánh thiện và hòa bình. Sứ điệp đó thúc đẩy chúng ta nỗ lực xây
dựng Nước Trời trong một xã hội công bình và huynh đệ, ở đó mọi thành phần đều
được Thần Khí thánh hóa và quy tụ quanh Đức Giêsu Kitô, để cùng tuyên xưng
Thiên Chúa là Cha (Gal 3,16; Rm 8,14-17). Bài sách Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ
khoác cho dân Ngài một áo choàng công chính và cứu độ (Is 61,10) mà thánh
Phaolô họa lại bằng lời nguyện cầu "xin Thiên Chúa bình an thánh hóa anh
em" (1Thes 5,23).
Niềm vui Đức Giêsu Kitô
mang tới cho ta, chính là niềm vui của người tự do được làm con Thiên Chúa.
3. Sứ Điệp Tin Mừng Là
Thế - Sứ Điệp Đấng Thiên Sai Là Thế
Nhưng người Kitô hữu
chúng ta phải làm gì để nhận được niềm vui đó? Thánh Phaolô trả lời: "Anh
em đừng dập tắt tác động của Thánh Linh" (1Thes 5,19) vì chính Thánh Thần
làm nảy sinh mọi sự tốt đẹp, mọi hoa quả nhân đức "bác ái, hoan lạc, bình
an, cao thượng, tận tâm, nhân từ, tín thác, hiền lành, tự chủ" (Gal
5,22-23), và "đâu có Thánh Thần, đấy có tự do" (2Cr 3,7). Đặc điểm
của thời đại Đấng Thiên Sai là Thiên Chúa phủ đầy Thần Khí trên nhân loại, làm
cho mọi tâm hồn chan chứa niềm vui: niềm vui được Thiên Chúa viếng thăm, được
Ngài chúc phúc và ban ơn cứu độ.
Nhưng hạng người được
Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm là những người nghèo (xem Lc 2,24). Họ được, Ngài
chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3) và Tin Mừng cũng được loan báo trước tiên cho họ
(Lc 4,18). Họ được Thiên Chúa ban đầy hồng ân, vì lòng họ sẵn sàng và khiêm tốn
đón nhận. Những người tiếp xúc với Đức Giêsu thuở Ngài còn thơ ấu; cũng như khi
Ngài hoạt động công khai đều là những con người nghèo hèn bé mọn của Giavê:
Giacaria, Isave, Maria, Giuse, đám mục đồng, Simêon, Anna, Gioan Tiền hô, nhóm
môn đệ và đoàn dân nghèo theo Ngài để đi giảng. Đó là một xã hội nghèo của Ngài
và từ đó phải trở thành Giáo hội của người nghèo; một Giáo hội nhẹ lòng với của
cải trần gian, ít bận tâm về những điều vật chất, để được thanh thoát và mở
rộng tâm hồn đón nhận tác động của Thần Khí Thiên Chúa biến đổi họ thành những
con người tự do.
Hai tâm hồn tiêu biểu
nhất trong mùa Vọng là Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy giả. Họ đều nghèo nhưng cả
hai đều tràn đầy Thánh Thần và vì thế, lòng các ngài chan chứa niềm vui. Riêng
niềm vui của Đấng Tiền hô thật là sung mãn: bởi đã nghe tiếng Chúa Cứu Thế,
được làm người dọn đường cho Ngài, để chỉ Ngài cho thiên hạ thấy, rồi vui vẻ
rút lui vào bóng tối; chấp nhận nhỏ dần đi để Ngài được lớn lên (Ga 3,29-30).
Người Kitô hữu cũng phải
mang đầy niềm vui như Gioan Tiền hô, một niềm vui thâm thúy của con người ý
thức trách nhiệm, trung thành chu toàn sứ mạng, đúng như ơn gọi Thiên Chúa đã
dành cho.
Mà ơn gọi và sứ mạng đều
phát xuất từ Thiên Chúa. Nhưng để sống đến cùng những đòi hỏi của ơn gọi mình,
người Kitô hữu cũng phải như Đức Trinh Nữ Maria kết hiệp mật thiết với Đấng Cứu
Thế. Bởi vậy, khi kêu gọi ta vui lên, thánh Phaolô cũng nói thêm: "Anh em
hãy cầu nguyện không ngừng" (1Thes 5,16).
Đó là điều kiện cần thiết
mang lại niềm vui sâu xa cho tâm hồn con người tràn đầy Thánh Linh Thiên Chúa.
Và ai có những lần đã thực sự cầu nguyện, thì cũng đã cảm nghiệm được niềm vui
thiêng liêng, niềm vui của người Kitô hữu.
***
BÀI GIẢNG
Thấy Gioan xuất hiện, dân
Dothái ngày xưa đã hân hoan rồi. Nhưng khi nghe Gioan tuyên bố: sắp có Đấng cao
trọng hơn ông đến, họ còn vui mừng hơn nữa. Vì thế, Chúa nhật thứ ba mùa Vọng
là Chúa nhật hân hoan vui mừng.
Chúng ta hãy vui mừng, không
phải chỉ vì đang được nghe lại tiếng kêu của Gioan. Ngày xưa dân Dothái đã hân
hoan khi thấy Gioan xuất hiện. Tên ông đã gợi lên niềm tin rồi, vì Gioan có
nghĩa là "Thiên Chúa đoái thương". Ngài không còn ngoảnh mặt đi nữa,
nhưng đã bắt đầu nhìn lại Dân Ngài, để ra tay cứu độ. Và quả thật, đang có
nhiều hy vọng vươn lên. Người ta tuôn đến nghe Gioan giảng; người ta chen nhau
lội xuống nước, thú nhận tội mình, để được ông rửa cho. Gioan này thật là vị
tiên tri vĩ đại. Chúa gửi người đến cho dân, để sửa soạn gì đây. Dân Chúa cảm
thấy phấn khởi vì sự hiện diện của Gioan Tẩy giả, với phong trào đạo đức mà ông
đang khơi động.
Ngày nay chúng ta cũng có
thể phần nào vui lên như thế. Ở trong Giáo hội toàn cầu cũng như ở nơi Giáo hội
Việt Nam đang nổi lên biết bao phong trào đạo đức. Người ta đi lễ nhiều hơn
trước, rước lễ đông hơn trước, say sưa học giáo lý và dường như thấy rõ niềm
tin lúc này là nguồn an ủi sâu xa hơn khi nào khác. Ở nhiều nơi, người ta còn
được chứng kiến nhiều buổi cầu nguyện Thánh Linh nữa. Các phong trào đạo đức đó
như đang làm cho bộ mặt Giáo hội sáng ngời lên, khiến nhiều người có thể hân
hoan nghĩ rằng: tất cả những gì đang xảy ra có thể là cơ hội thanh tẩy Giáo hội
và giúp Giáo hội vươn lên trong sự công chính và thánh thiện thật.
Nhưng cũng như dân Dothái
ngày xưa, chúng ta đừng chỉ vui với chừng ấy. Ngày xưa khi thấy Gioan xuất
hiện, dân Chúa như đã muốn vui luôn trong ánh sáng của người. Nhưng Phúc Âm hôm
nay cho ta thấy: Gioan bảo dân chúng phải nhìn xa hơn nữa. Ông chỉ rửa trong nước
thôi; sắp có Đấng đến sau để rửa dân trong Thánh Thần. Chính Ngài mới là Đấng
Kitô Cứu Thế và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài... Chúng ta ngày nay cũng
phải cẩn thận, đừng dừng lại ở những hiện tượng lạc quan như trên đã nói. Phải
đi sâu hơn, xa hơn. Phải vượt qua mọi hình thức, cho dù rất đạo đức, để tìm gặp
chính Chúa Kitô. Nhiều người trong ta có lẽ còn giống nhóm Biệt phái và Dothái.
Các nhóm này, ngày xưa, chỉ muốn dừng lại ở Gioan, ngưỡng mộ ông và coi ông như
Cứu Thế. Nhiều Kitô hữu ngày nay cũng thường chỉ muốn dừng lại ở những cái thấy
được, ở các buổi phụng vụ sốt sắng và các buổi cầu nguyện sầm uất. Học giáo lý
để thuộc chứa không để sống! Rước lễ để sốt sắng trong nhà thờ chứ không để
thêm sức sống đạo ở giữa đời! Hôm nay, phụng vụ của Giáo hội thúc giục ta phải
đi xa hơn, vượt qua những hành vi và tổ chức đạo đức, để gặp Chúa Kitô và sống
với Ngài.
Chúa Kitô, theo bài đọc I
hôm nay, là sứ giả của Thiên Chúa sai xuống trần gian. Ngài được xức dầu Thánh
Thần, rồi được sai đem Tin Mừng cho người nghèo khó; và công bố khắp nơi năm
hồng ân của Thiên Chúa... Ngày nay, Chúa cũng đang muốn tìm được những sứ giả
như vậy ở giữa chúng ta. Ngài muốn cho cả Giáo hội của Ngài được xức dầu hoan
lạc để luôn luôn công bố cho mọi người biết Tin Mừng Chúa đến cứu độ trần gian.
Ngài muốn cứu mọi người từ tận căn, tận rễ, từ những người đang nghèo khổ, bất
cứ về phương diện nào, để đời sống trở thành như năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy, tinh thần của
ngày Chúa nhật hôm nay, đòi ta phải lột bỏ mọi vẻ mặt sầu bi, thiểu não. Phải
đuổi xa mọi tâm tư hắc ám và buồn nản. Phải giải tỏa mọi nỗi lòng đau khổ và
tội lỗi. Xưng tội từ hôm nay để tham dự vào mầu nhiệm Giáng sinh không phải là
quá sớm đâu. Phải như mặc lấy áo phần rỗi và công chính để hoan hỷ đem tin vui
đến cho mọi người.
Và tin vui của Đức Kitô
là gì?
Như lời sách Isaia viết:
Ngài muốn "đem hân hoan đến cho người nghèo, băng bó những tâm hồn đang
đau thương, báo tin ân xá cho những kẻ lưu đày". Ngài muốn nhờ ta bây giờ
làm những công việc ấy, để khắp nơi nổi lên một bầu khí hân hoan như được hồng
ân của Chúa viếng thăm.
Thánh Phaolô trong bài
thư hôm nay cũng vạch ra cho ta con đường thực tế để sống đạo theo tinh thần
nói trên. Ngài bảo ta trước hết phải lạc quan: "Anh em hãy vui mừng
luôn". Rồi hãy có tinh thần cầu nguyện để nhìn thấy thánh ý Chúa trong mọi
việc. Đừng dập tắt Thánh Thần của Chúa, đừng làm ngơ trước tiếng gọi của Chúa
hằng vang lên trong mọi sự xảy đến hằng ngày cho ta, hãy duyệt lại tất cả: bỏ
cái xấu đi, và giữ lấy cùng phát triển mọi điều tốt gặp được.
Như vậy chúng ta sẽ đi
vào đường lối của Đức Kitô, sẽ sống như Ngài trong cuộc đời trần gian: Ngài đã
mặc lấy thân phận y hệt như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chấp nhận mọi
hoàn cảnh xảy ra, gạt bỏ điều xấu, xây dựng điều lành. Ngài cứ nhìn vào những
người nghèo khó và khổ sở ở đời để tìm cách kéo gỡ họ ra khỏi thân phận đau
thương. Chính vì vậy Ngài đã trở thành Cứu thế và ban ơn Cứu độ.
Giờ đây trên bàn thờ Ngài
muốn cử hành mầu nhiệm cứu độ đó ở trước mắt chúng ta, để kêu gọi chúng ta đi
vào, dâng mình kết hợp với Ngài, hầu Ngài có thể ngự vào lòng ta để tiếp tục
làm những hành vi cứu độ trong đời sống và qua đời sống của ta. Ta hãy nhiệt
tâm đi vào mầu nhiệm thánh lễ này.
Đức Giêsu Là Người Thực
Tôi dám nói rằng: Nếu tôi
không nhận biết Chúa Kitô thì đối với tôi, "Thượng đế" sẽ là một danh
từ vô nghĩa. Nếu không có ơn rất đặc biệt tôi sẽ không thể mường tượng một hữu
thể vô hạn. Thiên Chúa của các triết gia và những nhà bác học sẽ không giữ vai
trò nào trong đời sống luân lý của tôi. Thiên Chúa đã phải hạ mình xuống trong
nhân loại, và trong một giờ khắc rõ rệt của lịch sử, tại một địa điểm xác định
trên địa cầu, một người được tạo nên bằng huyết nhục, đã phải tuyên bố mấy lời
và làm một vài cử chỉ thì tôi mới quỳ gối thờ lạy. Nếu Chúa Kitô đã không phán:
"Lạy Cha chúng con..." thì không bao giờ tự mình tôi có ý niệm về
tình nghĩa tử này. Lời kêu cầu ấy đã không khi nào tự đáy lòng tôi thốt ra trên
môi. Tôi chỉ tin cái gì tôi đụng chạm và nom thấy, cái gì sát nhập vào bản thể
tôi. Và chính vì thế, tôi đã tin Chúa Kitô. Tất cả những khuynh hướng muốn giảm
bớt thân phận con người nơi Chúa Kitô sẽ đi ngược với một ý hướng sâu thẳm nhất
của tôi. Có lẽ vì thế mà tôi vẫn không thích nhìn dung nhan Chúa Kitô Vua và
Đấng Thiên Sai toàn thắng bằng hình ảnh khiêm tốn và tiều tụy của Con Người mà
qua việc bẻ bánh trong quán trọ làng Emmau các lữ khách đã nhận ra. Người là
người anh mang đầy thương tích và là Thiên Chúa của chúng ta. (Francois Mauriac
Vie De Jésus)
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa - của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Vui mừng
Hạnh phúc ở đâu? Bài Phúc
âm hôm nay, nói đến một nhân vật rất quan trọng nhưng khiêm tốn, dạy chúng ta
cách đi tìm hạnh phúc đích thật. Đó là Gioan tẩy Giả: “Ông đến để làm chứng”,
“Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi”. Gioan chối
từ tất cả những tước hiệu được dân chúng gán cho mình. Đối với Gioan tẩy giả,
hạnh phúc của ông là trở nên đầy tớ của Thiên Chúa, là con người giúp cho mọi
người quy hướng về Thiên Chúa.
Trong bài đáp ca, Đức
Maria cũng đóng vai trò này: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa… vì Chúa đã đoái nhìn
phận hèn tớ nữ của Chúa”. Hạnh phúc của Đức Maria là được làm nữ tì của Thiên
Chúa.
Sách Giáo lý Công giáo
dạy rằng: “Sự ao ước Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì
con người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không
ngừng lôi kéo con người lại với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm
thấy chân lý và hạnh phúc mà con người không ngừng tìm kiếm”.
Công Đồng Vatican II cũng
dạy: “Khía cạnh cao siêu nhất của phẩm chức con người là ở chỗ con người được
ơn gọi hãy hiệp thông với Thiên Chúa. Lời mời gọi con người đối thoại đã được
Thiên Chúa gửi tới con người từ khi có loài người. Bởi vì nếu có con người, thì
cũng tại Thiên Chúa đã tác tạo nên con người vì tình yêu, và vì tình yêu, Ngài
không ngừng ban cho con người hiện hữu. Và con người chỉ sống đầy đủ theo chân
lý nếu con người tự do công nhận tình yêu này và phú mình cho Đấng tác tạo nên
mình.
Linh mục Dominicô Đỗ Minh
Trí trong cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi”, trang 41-44 đã kể câu chuyện “Con Mèo
Già và Con Mèo Trẻ” với hai đề nghị về hạnh phúc như sau:
Một con mèo già, đầy kinh
nghiệm và khôn ngoan thấy một con mèo trẻ, đang đuổi theo cái đuôi của chính
nó. Tò mò, nó hỏi con mèo trẻ: “Này con, con làm gì vậy? Tại sao con lại đuổi
theo cái đuôi của con như vậy?”Mèo trẻ trả lời: “Con nghe nói rằng cái tốt nhất
đối với một con mèo là hạnh phúc và hạnh phúc của con mèo ở trong cái đuôi của
nó. Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của con. Khi nào con bắt được, con sẽ có
hạnh phúc!”
Mèo già trả lời: “Này
con, ta đã suy gẫm rất nhiều về vấn đề hạnh phúc. Và ta cũng đã đi đến kết luận
rằng hạnh phúc của ta là ở trong cái đuôi của ta. Nhưng ta cũng nhận rằng mỗi
khi ta đuổi theo cái đuôi, thì không thể nào ta bắt được. Trong khi đó, nếu ta
làm một việc khác nhất là khi ta lo lắng cho con mèo khác, thì cái đuôi của ta
đi theo ta bất cứ nơi đâu!”
1. “Hạnh phúc ở trong cái
đuôi của ta”, con mèo già nói: Cái đuôi ở đằng sau, con mèo không nhìn thấy
được. Điều này diễn tả điều kiện đầu tiên của hạnh phúc: Không bao giờ nắm
được. Hạnh phúc không phải là mục đích, mà là một kết quả! Đó là một thực tại
đi theo một thực tại khác. Hạnh phúc là kết quả của tình thương yêu đối với
loài người. Cái cần phải nhắm tới là tình thương yêu đối với đồng loại, hạnh
phúc sẽ đi theo một cách tất yếu.
2. Người ta tìm thấy hạnh
phúc của chính mình khi làm việc vì hạnh phúc của người khác. Bằng cách tranh
đấu cho sự an vui của đất nước mình hay giúp đỡ người đồng loại, giải quyết các
vấn đề của họ. Lấy tình thương yêu đồng loại, tình thương yêu xã hội làm căn
bản của cuộc sống của mình. Đặt cơ sở đời sống của mình trên tình thương yêu để
nhìn các thiếu thốn của người khác như các thiếu thốn của chính mình, quyền lợi
của người khác như quyền lợi của chính mình. Hãy thoát ra khỏi bản thân mình,
thoát ra khỏi sự tìm kiếm hạnh phúc riêng tư của mình để làm việc vì hạnh phúc
của người khác.
Hạnh phúc hay nguồn vui
Kitô giáo đem lại khác xa với khoái lạc. Nó phong phú và sâu xa hơn cả nụ cười
tươi nở trên một khuôn mặt vui vẻ. Nó đến từ bên trong, từ hành động phục vụ
tha nhân và ý thức rằng Thiên Chúa hiện diện với chúng ta sẽ làm chúng ta hạnh
phúc. Một sự bình an nội tại không có gì có thể lấy mất khỏi chúng ta. Phục vụ
Thiên Chúa là cội nguồn của niềm vui Kitô giáo. Đó là tình trạng của ân sủng
không vướng mắc tội lỗi. Chúa ở cùng ta, ta sống trong Chúa, như Đức Maria diễn
đạt trong kinh Ngợi Khen ở bài đáp ca hôm nay: “Linh hồn tôi nhảy mừng trong
Chúa”
“Lúc nào cũng lo tìm hạnh
phúc, ta sẽ chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.
Hạnh phúc phải được tạo
thành thay vì tìm thấy”.
“Hạnh phúc không phải là
cái bạn cầm trong tay, nhưng là cái bạn mang trong tim”.
“Muốn được hạnh phúc,
đừng cộng thêm của cải, nhưng hãy trừ bớt ham muốn”.
(Định nghĩa Cuộc Đời của
Trần văn Điền).
Lời chứng của ông Gioan
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Thời nay, Thiên Chúa
có cần người làm chứng cho Ngài không? Nếu Ngài cần và mời gọi bạn, bạn có sẵn
sàng chấp nhận lời mời ấy không?
2. Rao giảng và làm chứng
có khác nhau không? Cái nào cần thiết hơn?
3. Làm chứng có cần phải
nói sự thật không? Có thể lấy cớ bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ tôn giáo để làm chứng
dối, để phản lại sự thật không? Tại sao?
Chia sẻ:
1. Thiên Chúa cần người
làm chứng cho Ngài
Qua bài Tin Mừng, ta thấy
khi Đức Giêsu đến trần gian, Thiên Chúa cần một người làm chứng cho Con của
Ngài, và người ấy là Gioan Tẩy giả. Ông này được kêu gọi để làm công việc ấy. Suốt
lịch sử Giáo Hội, thời nào ta cũng thấy Thiên Chúa cần những người làm chứng
cho Ngài, cho sự thật, cho công lý, và cho tình thương của Ngài. Có thể nói
lịch sử của Giáo Hội là một lịch sử của “làm chứng” và “rao giảng”. Rao giảng
là để giúp người ta hiểu, nắm vững, còn làm chứng là để giúp người ta tin.
Hiểu và tin là hai chuyện
rất khác nhau. Nhiều người hiểu rất rõ mà vẫn không tin, chẳng hạn: nhiều người
tìm hiểu Ki-tô giáo không phải để tin theo, mà để bài bác một cách “nói có
sách, mách có chứng”. Ngay trong số những người rao giảng Tin Mừng, nhiều người
có đời sống thực tế chứng tỏ rằng họ không tin, thậm chí không tin một chút nào
điều họ vẫn rao giảng một cách thật hùng hồn, mạnh mẽ. Trường hợp đánh động
nhất là trường hợp của Mahatma Gandhi, người giải phóng dân tộc Ấn Độ.
Gandhi rất hiểu, rất yêu
mến, rất đồng cảm với Đức Giêsu, thậm chí ông còn sống tinh thần quên mình, từ
bỏ và yêu thương của Đức Giêsu một cách gương mẫu (có thể hơn rất nhiều Ki-tô
hữu), nhưng ông hoàn toàn không tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế.
Ông đã lên tiếng có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh
đô hộ dân tộc ông: “Nếu những người Kitô hữu tại Ấn Độ thật sự sống đúng tinh
thần của Đức Kitô, thì chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở
thành Kitô hữu hết”. Trước mắt ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh - cũng
tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Chắc hẳn ông
đã từng tự hỏi: sự siêu việt của Kitô giáo - như các Ki-tô hữu thường tự hào -
nằm ở đâu? Sự siêu việt đó chẳng lẽ chỉ có thể tin chứ không thể chứng tỏ cụ
thể bằng thực tế hay bằng hành động được sao?
2. Ngày nay, nhiều giáo
hội rao giảng nhiều hơn làm chứng
Để được cứu rỗi, đức tin
là một yếu tố tối cần thiết: “Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai
không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,16; x. Cv 16,31; Rm 10,9). Nhưng làm sao
tin được một chuyện mình không biết, không thấy, nếu không có ai nói cho biết.
Nhưng làm sao tin được người nói cho biết ấy, nếu người ấy không có bằng chứng
hay không có đủ uy tín để bảo đảm? Làm sao tin được người nói hay rao giảng
thật là hay, nhưng đời sống hay việc làm của họ thì lại hoàn toàn đi ngược lại
điều họ rao giảng?
Ngày xưa, thời Giáo Hội
sơ khai, Ki-tô giáo lan truyền rất nhanh, vì thời ấy, các tông đồ làm chứng
nhiều hơn là rao giảng. Còn ngày nay, Ki-tô giáo lan truyền rất chậm, rất nhiều
nơi bị giảm sút, tại sao? Vì những người làm tông đồ ngày nay quá chú trọng tới
rao giảng, mà coi rất nhẹ việc làm chứng! Đó là một sự thật mà người Ki-tô hữu
cần nhận chân một lần cho sâu sắc, để chỉnh trang lại cách truyền giáo hay làm
tông đồ của mình, đặc biệt nhân dịp kỷ niệm lần thứ 2002 ngày Đức Giêsu đến
trần gian.
3. Tại sao phải làm
chứng? Để người ta tin
Ngày nay, để tìm hiểu
Ki-tô giáo, người ta chỉ có cách là tìm hiểu trong sách vở, hoặc nghe một người
Ki-tô hữu nào đó trình bày. Nhưng từ hiểu đến tin theo là cả một quá trình khó
vượt qua nếu không có một động lực mạnh thúc đầy! Ngày nay, không còn có những
nhân chứng đã tận mắt nhìn thấy Đức Giêsu sống, nói, hành xử, làm phép lạ, chết
và sống lại như thời Giáo Hội sơ khai nữa. Những chuyện kể về Đức Giêsu phần
nào cũng tương tự như bao chuyện kể khác, về Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Đức
Phật, Đức Khổng, v.v… Làm sao người ta có thể tin vào Đức Giêsu nhiều hơn là
tin vào các vị giáo chủ khác? Người thời nay chịu ảnh hưởng tinh thần khoa học
thực nghiệm, lời nói suông không còn dễ dàng được nhận là đúng. Muốn họ tin hay
chấp nhận phải có bằng chứng. Vì thế, làm tông đồ thời nay cần làm chứng hơn là
rao giảng.
Rao giảng thì chỉ cần một
mớ kiến thức, một chút suy luận; còn làm chứng đòi hỏi một sự dấn thân thật sự,
nó huy động cả một cuộc đời, cuộc đời toàn diện. Rao giảng mà không làm chứng
chỉ là nói lên những lời nói rẻ tiền, đương nhiên ít tác dụng. Còn làm chứng là
nói lên những lời nói có giá trị sống động vì người nói dám lấy cả cuộc đời, cả
mạng sống để bảo chứng cho lời nói ấy. Nhờ thế mà người nghe mới dám đặt niềm
tin.
Những người ngoài Ki-tô
giáo phải dựa vào đâu để biết Kitô giáo là chính đạo? để tin Đức Kitô là Đấng
cứu độ, thậm chí là Đấng cứu độ duy nhất? Làm sao họ tin được, khi mà đời sống
của người Ki-tô hữu chẳng khác gì và chẳng hơn gì của họ? khi mà người Ki-tô
hữu chẳng chứng tỏ được một cách cụ thể mình đã được cứu độ ở chỗ nào? Nếu được
cứu độ, ít ra người Ki-tô hữu chúng ta phải tự nhiên có một lối sống nào đó
chứng tỏ mình được cứu độ, chẳng hạn người khác có thể thấy nơi chúng ta nét
vui tươi, hạnh phúc và tình yêu thương nhau được biểu lộ hồn nhiên trong đời
sống, bất chấp thuận cảnh hay nghịch cảnh. Sống như thế chính là làm chứng!
4. Hãy xem Gioan Tẩy giả
làm chứng thế nào
Chính vì nói thế nào sống
như vậy, nên Gioan Tẩy giả đã thu hút được quần chúng đến với ông và làm theo
những gì ông yêu cầu: “Mọi người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo
đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan” (Mc
1,5). Gioan là một khuôn mẫu điển hình cho hạng người làm chứng hơn rao giảng:
“Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin”
(Ga 1,7). Còn giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái là điển hình cho hạng rao giảng
hơn làm chứng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà
giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc
họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3). Điều đó được
thể hiện qua một số chi tiết:.Gioan ăn mặc đơn giản: “mặc áo lông lạc đà, thắt
lưng bằng dây da” (Mc 1,6), khác hẳn với cách ăn mặc của các kinh sư: “đeo
những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt 23,5); “ưa dạo quanh,
xúng xính trong bộ áo thụng” (Mc 12,38). Gioan sống khó nghèo, thanh đạm, “ăn
châu chấu và mật ong rừng”, còn các kinh sư thì giàu sang phần nào nhờ “nuốt
hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt
23,14). Gioan thì khiêm nhường tự hạ: “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng
cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27), còn các kinh sư thì thích tự đưa mình lên:
“Họ thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự
trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Mc 12,38-39).
Ta thấy khi làm chứng,
Gioan không màng tiếng khen, không tìm vinh quang cho mình, đang khi nhiều
người mang danh làm chứng cho Thiên Chúa, nhưng thực tế là đang tự làm chứng
cho mình, để mình được khen ngợi, vinh danh, hầu có quyền lực, tiền bạc địa vị…
Nhưng điều quan trọng nhất của người làm chứng là phải dám nói sự thật.
5. Người làm chứng phải
dám nói sự thật
Nói sự thật có thể bất
lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Ông
không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ông
không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi, nhưng ông lên
tiếng làm chứng cho lẽ phải, ông không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không
thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Không thể lấy cớ bảo vệ
tôn giáo để nói sai sự thật, để hùa theo những kẻ sai trái. Tôn giáo mà cần dối
trá hay hùa theo quyền lực để tồn tại là thứ tôn giáo bỏ đi, không giá trị. Đức
Giêsu không hề bảo vệ uy tín cho giới lãnh đạo tôn giáo khi họ vẫn ngoan cố với
những điều sai trái (x. Mt 23). Gioan Tẩy Giả cũng không bảo vệ uy tín của nhà
vua khi nhà vua cố tình làm điều sai trái (x. Mt 14,3-12). Chính vì thế, Gioan
đã bị trảm quyết, còn Đức Giêsu đã bị coi là kẻ phá hoại tôn giáo! Ngài đã coi
sự thật cao trọng hơn chính tôn giáo! Theo Ngài, bảo vệ sự thật mới chính là
bảo vệ tôn giáo. Còn bảo vệ tôn giáo bằng cách nói sai sự thật, hay hùa theo
quyền lực sai trái chính là phá hoại tôn giáo từ bản chất!
Khi ta làm chứng cho chân
lý, chắc chắn sẽ có những người bạn khuyên ta: “Anh thật là dại dột, can gì
phải làm cho người ta ghét mình như vậy?” Nói như thế, họ mặc nhiên cho rằng
những người như Đức Giêsu hay Gioan Tẩy giả chính là phường dại dột! Thế mà họ
vẫn tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy của họ. Thật mâu thuẫn!
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với
tôi: “Thời nào cũng có vô số người sẵn sàng rao giảng sự thật, nhưng rất hiếm
người sẵn sàng làm chứng cho sự thật. Nhưng sự thật chỉ có thể tin khi có người
dám làm chứng. Làm chứng thì phải trả giá, đôi khi rất mắc. Con có sẵn sàng làm
chứng không?”
Tiếng kêu nơi sa mạc
Trước đây ít năm, tại
Dallas, Texas có một nhân viên trong công ty đổ rác thành phố, được dân chúng
ca tụng khắp các nẻo đường ông đi. Mười bảy người viết thư cho ông Giám Đốc vệ
sinh công cộng Jach Davis, để ca ngợi người phu đổ rác George Cummings là một
người hiền lành, niềm nở và lịch thiệp với hết mọi người. Họ còn viết quả quyết
rằng: "Chúng tôi đều biết ông ta là một người Công Giáo đơn thành, một
công dân ái quốc và là một người bạn thân tình". Họ cũng nhắc lại việc
Cummings đã giúp họ mua hoa khi có người hàng xóm qua đời, việc ông nhặt được
một chiếc đồng hồ, rồi cố tìm ra chủ nhân để trao trả lại, hoặc một món đồ mà
ông cho là chủ của nó vì lầm mà vứt đi, ông cũng tìm hết cách để hoàn lại.
Ông Giám Đốc Davis đã gởi
cho Cummings bức thư với những hàng chữ này: "Mọi người đều mến chuộng
ông, vì cách làm việc của ông thật đặc biệt".
I. GIOAN LÀM CHỨNG CHO
CHÚA
Bài Tin Mừng hôm nay,
cũng thuật truyện một người thật mộc mạc, chất phác quê mùa nghèo nàn, chay
tịnh khổ hạnh như một ẩn sĩ từ rừng thẳm đi ra, nhưng lại được nhiều người mến
chuộng đến nỗi, từng đoàn lũ đông đảo, gồm đủ mọi thành phần xã hội, từ khắp
nơi tuôn đến, say mê nghe lời ông giảng, đấm ngực sám hối cải thiện và cúi đầu
chịu Phép Rửa Sám Hối do tay ông tại sông Jordan.
Danh tiếng ông đồn thổi
đến tai những vị vọng trong dân; do đó, các ngài đã sai các vị Tư Tế và các
thầy Levi đến hỏi xem ông có phải là Đấng Kitô, Thiên Chúa sai đến, Đấng mà
muôn dân đang mong đợi không?
Khi họ hỏi: "Ông là
ai?" Ông đã thẳng thắn tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng
Kitô". Họ lại nghi ông là đại tiên tri Elia, cũng được ông quả quyết:
"Tôi không phải là Elia". Sau cùng, họ lại nghĩ ông là một vị tiên
tri Thiên Chúa sai đến, cũng được ông dứt khoát trả lời: "Tôi đâu có đáng
là một tiên tri".
Thế rồi họ năn nỉ ông:
"Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời lại cho những người đã sai chúng tôi.
Ông tự xưng là ai?"
Gioan khiêm tốn đáp lại:
"Tôi chỉ là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay thẳng đường Chúa
đi". Câu trả lời khiêm tốn này, tuy vắn tắt nhưng đã nói lên tất cả sứ
mạng của Gioan, là làm chứng nhân cho Chúa Kitô.
II. LÀM CHỨNG CHO CHÚA
CÁCH NÀO
Gioan là một vị tiên tri
cao trọng và diễm phúc nhất trong các tiên tri từ trước đến nay, đã được Chúa
tuyển chọn đặc biệt, được vui sướng nhảy mừng khi Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm,
được thánh hóa ngay từ khi còn trong thai mẫu, để xứng đáng là vị Tiền Hô của
Chúa Cứu Thế. Ngài được Thiên Chúa sai đến chuẩn bị cho Chúa Cứu Thế một dân
tộc thánh thiện, bằng việc rao giảng Phép Rửa Sám Hối, kêu gọi mọi người cải
thiện đời sống, để được xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế và Ơn Cứu Độ của Người.
Sứ mạng và địa vị của
Gioan cao trọng đến nỗi, chính Chúa Kitô đã phải khen thưởng trước mặt mọi
người: "Trong các nam nhân do phụ nữ sinh ra không một ai cao trọng hơn
Gioan Tiền Hô" (Lc 7:28). Mặc dầu được vinh dự trước mọi người, được muôn
người ngưỡng mộ, ngài không hề tự đắc kiêu căng; trái lại, ngài càng hạ mình
xuống thẳm sâu trước nhan Thiên Chúa và trước mặt mọi người. Ngài đã công khai
thú nhận địa vị thấp hèn của mình, khi đáp lại nhóm biệt phái được sai đến hỏi
ngài: "Tôi đến làm Phép Rửa trong nước; nhưng ở giữa các ông có Đấng mà
các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không
xứng đáng cởi giây giầy cho Ngài".
Lời rao giảng chân thành,
đi đôi với cuộc sống khổ hạnh và khiêm nhu, đã đáng cho mọi người khâm phục và
tin theo; bởi lẽ ngài luôn tôn cao Đấng ngài rao giảng, còn riêng bản thân
ngài, ngài chỉ tự nhận thân phận tôi tá của Chúa, chỉ là người được sai đến để
dọn đường cho Chúa.
Đời sống khiêm nhu thánh
thiện đó, được chứa đựng tất cả ý nghĩa trong lời châm ngôn, chính Thánh Nhân
đã tuyên bố trước mặt mọi người về Chúa Cứu Thế: "Người cần phải được tôn
lên, còn tôi cần phải hạ thấp xuống" (Ga 3:30).
III. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA
LÀ GÌ
Cũng như Gioan, mỗi người
chúng ta đều đã được Chúa tuyển chọn và ủy thác sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa
Kitô, ngày chúng ta được lãnh Bí Tích Thánh Tẩy. Cũng ngày đó, chúng ta được
Thánh Thần Chúa xức dầu hoan lạc, ban cho chúng ta được diễm phúc trở nên con
cái Chúa, phong chúng ta làm tiên tri và sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng cho
những người nghèo khó, an ủi những tâm hồn đau thương buồn tủi, thăm viếng
những tù nhân trong ngục thất, giúp đỡ chia sẻ với những người cùng khổ, những
người mang số phận hẩm hiu bị đời quên lãng.
Mỗi người trong chúng ta
tùy theo địa vị, chức phận mình trong xã hội, đều phải làm chứng nhân cho Chúa,
rao giảng Chúa Kitô bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của mình.
Để chu toàn sứ mạng làm
chứng nhân cho Chúa, chúng ta cũng không thể dùng phương thế nào khác, ngoài
phương thế Thánh Gioan Tiền Hô đã dùng, là luôn đề cao Đấng mình rao giảng:
"Người cần phải được tôn lên, còn tôi cần phải hạ xuống". Chúng ta
cần phải đi ngược lại tâm tính tự nhiên của con người là kiêu căng, luôn thích
đưa mình lên trên mọi người, đã bị lưu truyền do nguyên tội, vì: "Chúa
thường chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho kẻ khiêm hạ" (Gc 4,6), như
chính lời Chúa Kitô đã dạy: "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai tự hạ
mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14,11).
Lênin, ông tổ đảng cộng
sản quốc tế, chủ trương chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, với tham vọng sẽ bá
chủ hoàn cần, tiêu diệt mọi thứ tôn giáo mà ông cho là "Một thứ á phiện
nguy hiểm" do bọn tư bản tạo ra. Mộng ước ngông cuồng của ông đã chẳng bao
giờ thực hiện được. Lòng kiêu căng phạm thượng của ông thấu đến trời cao, đã bị
uy quyền Thiên Chúa hủy diệt. Ông đã chết trong cơn hấp hối kinh hoàng, đau đớn
dằm vặt đến tột độ, như chính lời Trosky, một người bạn thân tín của ông đã
chứng kiến cảnh hấp hối hãi hùng đó đã quả quyết: "Nếu bọn ác quỉ có thể
chết, thì tôi thiết tưởng: Chúng cũng chỉ chết cách ghê sợ đến thế là
cùng!"
Kết Luận
Để dọn lòng xứng đáng đón
mừng ngày kỷ niệm Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy thực thi sứ mạng làm chứng nhân
cho Chúa Kitô, bằng lời rao giảng sống động qua chính đời sống khiêm nhu thánh
thiện của chúng ta, như Thánh Gioan Tiền Hô đã làm gương: "Chúa cần phải
được tôn lên, còn tôi cần phải được hạ xuống" (Ga 3:30).
Hoặc như người phu đổ rác
George Cummings Dalas luôn làm vừa lòng mọi người, để mọi người phải thán phục
quả quyết về ông: "Chúng tôi biết ông ta là một người Công Giáo đơn sơ,
một công dân ái quốc, và là một người bạn thân tình". Lại được ông Giám
Đốc công ty vệ sinh công cộng để lời khen tặng: "Mọi người đều mến chuộng
ông vì cách làm việc của ông thật đặc biệt".
ÔNG CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG CỨU THẾ KHÔNG?
Suy niệm của Lm. Mark Link
Chủ đề: "Gioan là
người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Hãy sẵn sàng! Đấng Cứu Thế sắp đến!"
Jim Bishop có viết một
tác phẩm nhan đề “Ngày Đức Kitô chết”. Tác phẩm đó có một đoạn văn rất hay mô
tả những gì người Do thái cảm thấy về việc Đấng Cứu Thế đến. Đoạn văn đó như
sau:
“Việc Đấng Cứu Thế đến là một nỗi ám ảnh dịu
ngọt của một quốc gia. Đó là một niềm vui ngoài sức tưởng tượng, một hạnh phúc
vượt khỏi niềm tin. Đó là niềm an ủi cho những nông dân làm việc cực nhọc cả
ngày đang cùng với gia đình nằm trên giường chờ giấc ngủ đến. Đó là giấc mơ của
người tóc đã hoa râm. Đó là điều mà trẻ em mong được nhìn thấy từ trên ngọn núi
phủ mây trắng hiện đến. Đó là niềm hy vọng của dân xứ Giuđêa đang bị xiềng xích
tủi nhục. Đấng Cứu Thế luôn luôn là một sự hứa hẹn cho buổi sáng ngày mai”
Vì thế nên khi Gioan tẩy
Giả xuất hiện bên giòng sông Giođan, dân chúng rất là phấn khởi. Gioan bắt đầu
sứ mạng của ông tại một địa điểm không xa biển chết. Đó là tụ điểm bình dân của
những đoàn hành hương và các du khách từ khắp nơi trên thế giới đến. Đó là một
nơi tuyệt hảo để mọi người gặp gỡ nhau và trao đổi những tin tức thế giới. Vì
thế đó là một nơi lý tưởng để Gioan Tẩy Giã bắt đầu rao giảng và làm phép rửa.
Sứ điệp Gioan rất đơn giản và rõ ràng: “Hãy từ bỏ tội lỗi mình… Hay dọn đường
cho Chúa đến, hãy làm một lối thật thẳng để Người đi” ( Lc. 3,3-4)
Chẳng mấy chốc, tin tức
về hoạt động của Gioan tẩy gỉa đã đến tai những nhà lãnh tôn giáo ở Giêrusalem.
Vì thế họ cử một phái đoàn gồm các tư tế và các thầy Lêvi đến nói chuyện với
Gioan. Các tư tế đặc biệt lưu ý đến Gioan vì ông là con của Zacaria, cũng là
một tư tế. Trong Do Thái giáo, điều kiện duy nhất để có thể làm tư tế là phải
thuộc dòng dõi tư tế. Nếu có ai là con cháu của Aaron, thì không ai có quyền
cầm người ấy thực hiện chức năng tư tế của mình. Do đó các tư tế tại Giêrusalem
đặc biệt lưu tâm tới Gioan, và chắc chắn không hiểu tại sao Gioan lại hành xử
một cách dị thường như thế.
Khi phái đoàn các tư tế
đến, họ đi thẳng vào vấn đề và hỏi Gioan: “Ông là ai?”. Gioan biết trong tâm
trí họ nghĩ gì, nên ông nói: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế “. Các tư tế hỏi:
“nếu ông không phải là Đấng Cứu Thế, vậy ông là ai? Ông có phải là Êlia
không?”. Đối với chúng ta, câu hỏi sau cùng này có vẻ khó hiểu. Nhưng chúng ta
nên nhớ rằng Êlia là một vị tiên tri đã được cất lên trời bằng một chiếc xe lửa
vào cuối đời. Nhiều người Do Thái tin rằng Êlia sẽ trở lại vào thời Đấng Cứu
Thế đến. Ngay cả thời nay cũng có một số người Do Thái dành cho tiên tri Êlia
một ghế trống trong bữa ăn Vượt Qua của họ. Họ cầu mong năm nay là năm Êlia trở
lại để loan báo Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Gioan nói thẳng rằng ông không phải là
vị tiên tri đã được cất lên trời trên chiếc xe lửa trước đó mấy thế kỷ.
Họ hỏi: “Vậy ông có phải
là một vị tiên tri không?” Gioan lại trả lời: “Không!Tôi không phải là một vị
tiên tri giống như Giêrêmia hay Êzêkiel”. Họ hỏi tiếp: “Vậy thì ông là ai?”
Gioan trả lời bằng câu nói của Isaia: “Tôi là tiếng kêu gào trong sa mạc: “Hãy
dọn đường cho ngay thẳng để Chúa đến”. Muốn hiểu rõ câu nói đó của Gioan Tẩy
Gỉa, ta nên nhớ rằng những con đường ngày xưa chỉ có một ít là trải sỏi hoặc
đá, còn đa số là những con đường lầy lội. Khi một vị vua muốn đi thăm một tỉnh
nào đó trong vương quốc của mình, ông sẽ sai một người “tiền hô” tới đó trước
để báo cho dân chúng lấp đầy những hố, những vũng bùn, và làm cho những con
đường thẳng thắn lại. Người “tiền hô” còn có một điều nữa phải làm là dạy cho
dân chúng những nghi thức tiếp tân thích hợp để đón nhà vua tới. Gioan Tẩy Gỉa
cũng lưu ý tới thái độ tiếp tân cần phải có để đón Chúa tới. Ông nói: “Hãy ăn
năn hối cải tội lỗi mình và hãy lãnh nhận phép rửa”. (Mc.4)
Tóm lại chúng ta có thể
diễn đạt toàn bộ sứ điệp của Gioan như sau: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế,
nhưng tôi là người “tiền hô”cho Ngài. Hãy chuẩn bị, vì Ngài sắp đến. Gioan đã
làm những gì mà mọi vị lãnh đạo tôn giáo phải làm. Ông không để cho người ta
chú ý tới ông, mà hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Giêsu.
Đó chính là những gì Giáo
Hội làm suốt Mùa vọng. Giáo Hội tập trung mọi chú tâm của chúng ta vào Đức
Giêsu. Giáo Hội hành động giống như vị "Tiền hô" của Ngài. Và cuối
cùng Giáo Hội giải thích cho chúng ta biết chuẩn bị đón Ngài như thế nào.
Mùa vọng nói với chúng ta
về việc Đức Giêsu đến. Ngài không phải chỉ đến trong giòng lịch sử như chúng ta
vẫn mừng và kỷ niệm vào ngày Giáng Sinh, mà Ngài còn đến lần chót vào cuối dòng
lịch sử nữa.
Tin Mừng Matthêu có nói
về lần đến cuối cùng đó: “Khi Con Người đến với tư cách một vị vua, Ngài sẽ
ngồi trên ngai vàng của Ngài, và toàn dân thiên hạ sẽ qui tụ trước mặt Ngài.
Lúc đó Ngài phân chia họ ra làm hai nhóm, y như người chăn tách chiên ra khỏi
dê…Nhà vua sẽ nói với những người ở bên phải: Hãy đến hỡi những kẻ được Cha Ta
chúc phúc! Hãy đến và hãy lãnh lấy nước trời làm cơ nghiệp…Rồi Ngài nói với
những người ở bên trái: Hãy đi khỏi Ta và vào lửa đời đời” (Mt.25,34-41).
Những bài đọc trong Thánh
lễ Chúa Nhật này muốn nói: Gioan không phải là Đấng Cứu Thế, Ông chỉ là người
"Tiền hô" của Ngài. Gioan dạy cho chúng ta cách chuẩn bị ngày Ngài
đến vào cuối lịch sử để làm quan án xét xử chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy
ăn năn thống hối như khi lãnh nhận bí tích hoà giải. Xin các bạn hãy thinh lặng
và cùng cầu nguyện với tôi:
“Lạy Cha chí nhân, con
xin trở về với Cha và nói giống như người con hoang đàng: con đã lỗi phạm đến
Cha, con không đáng gọi là con Cha nữa. Lạy Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc nhân
loại, con cầu nguyện với Chúa như người trộm lành mà Chúa đã hứa nước thiên
đàng ngày xưa: Lạy Chúa xin hãy nhớ đến con trong nước của Chúa. Lạy Chúa Thánh
Thần là nguồn mạch tình yêu, con thành tâm cầu khẩn Ngài, Xin hãy thanh tẩy tâm
hồn con và giúp con bước đi như con cái của sự sáng”.
Chú giải của Noel Quesson
Có một người được Thiên
Chúa sai đến, đó là Gioan. Ông đến để làm chứng...
Cùng với Đức Maria, Gioan
Tẩy Giả là khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành
trọn Chúa nhật II và III Mùa Vọng nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng
(bài hát được sáng tác từ nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy
nhất của Gioan: “Là vị Ngôn sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu
Kitô, là tiếng kêu trong hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời
mình trước Đấng mà ông loan báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài
giờ đây đã nên trọn vẹn. Hỡi vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng
tôi hay, Đấng Mê-si-a sẽ đến với chúng tôi bằng con đường nào!". Và những
câu chuyện tiếp của bài ca đã lập lại một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu
biểu hơn Gioan trong Mùa Vọng. Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu
ước (Lc 1,76; Mt 11,9): Do đó ông là con người nối kết giữa quá vãng và tương
lai, giữa điều có trước và cái đến sau.
Lạy Chúa, xin giúp con
biết trung thành với nguồn góc của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ
tới mọi cái mới mẻ mà Chúa muốn chúng con thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và
làm chứng về ánh sáng.
Chứng nhân của ánh sáng!
Tước hiệu đẹp biết bao! Gioan là người chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới
thiệu cho ta, Gioan Tẩy Giả như "người rao giảng lòng sám hối" chỉ có
Tin Mừng thứ tư cho ta hay, ông được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “người
chứng thứ nhất của Đức Giêsu Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử
dụng trong tiếng Hy Lạp, ở thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là
vị “chứng nhân đầu tiên" của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại
tư tưởng này: Thế gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người.
Cuộc kết án này chỉ nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng
nhân mới xuất hiện và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá" được sử
dụng 14 lần, và động từ "làm chứng" được dùng tới 33 lần. Người chứng
đầu tiên đã xuất hiện, đó là Gioan Tẩy giả: "ông đến để làm chứng về ánh
sáng”. Liệu tôi có dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người
không?
Và đây là lời chứng của
ông Gioan, khi người Do Thái đến hỏi ông: "Ông là ai? Tại sao ông làm phép
rửa?"
Những câu hỏi trên cũng
mời gọi ta tự vấn về vai trò chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên
nhân chứng cho Đức Kitô. Do đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã
đặt vấn đề cho những người đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của
ông. Chúng ta có trở thành vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống
không? Trong cung cách đối xử của ta có điều gì kích thích người khác phải suy
nghĩ không? Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống cách nào để những người sống
chung quanh chúng con, các bạn đồng sự, những người quen biết đều tự hối về
"bí quyết” chúng con đang sống. Vậy ông là ai?
Tôi không phải là Đấng
Kitô... cũng không phải là vị Ngôn sứ... tôi là một “Tiếng kêu”.
Vậy là sau lời hạch hỏi
về lai lịch của Gioan, người chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta
muốn tìm biết. Vấn nạn thực sự đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm
dò, đó là: "ông có nhận mình là Đức Kitô không?". Rồi một câu hỏi
khác lại được gợi lên: “Thôi được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?”
Câu trả lời của Gioan đáp
ứng cả hai: ông khiêm tốn chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô... Rồi ông
nói thêm, ông chỉ muốn là một "tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm
Nay, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan:
“Hỡi Giáo Hội, Giáo Hội có thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai?
Hỡi Kitô hữu, bạn có thể nói gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?".
Không, tôi không phải là Đức Kitô. Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy
Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân
lý, như những “kẻ độc quyền thừa hưởng" Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các
ông mà các ông không biết.
Đấng Kitô không hiện diện
ở một nơi duy nhất? Tôi tin rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở
giữa các ông, ở giữa những hy vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân
loại của các ông! Tính ưu việt duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là
“nhận biết" và gọi tên " Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm
tìm kiếm, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày
10-12-1948, khi Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì
chúng ta nhận ngay ra rằng, đó là một sự hiện diện "của Đấng đang" ở
giữa cho dù Người chưa được người ta nhận biết. "Ta đói các ngươi đã nhận
ra quyền sống của ta... Ta ở tù, bị ngược đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền
được bảo vệ nhân phẩm cuả ta....Nỗi khát vọng lớn lao của nhân loại là được
sống công bình hơn, thì đó là sự hiện diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết
bao người thuộc mọi tôn giáo các vị lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ,
đã có thể công bố một văn kiện như thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời
đại sao? ở giữa các ông vẫn có một vị nào đó... cho dù các ông chưa gọi được
tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận
phong trào đề cao nhân quyền trên đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường
nhạo báng những quyền đó, mỗi lần ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao
ta lại không vui mừng trước yêu cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong
nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức
Kitô mà ban tính con người đã được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều
đó không phải chỉ có giá trị cho các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi
người thiện chí, được ơn Thánh hoạt động cách vô hình trong tâm hồn...",
như Công đồng Vatican II đã quả quyết rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không
biết... Người sẽ đến...
Suốt cuộc đời Đức Giêsu
đã không được người đời nhận biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi,
trong sấm sét bão giông. Thiên Chúa không phải là “kẻ chà đạp” hay "thống
trị". Người như "tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ
thổi tới đâu". (Ga 3,8). Thiên Chúa là “Đấng tự để cho người ta chà đạp,
đóng đinh, buộc tội”. Như thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự thật về
Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể là "Thiên Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt
được “Bản thể " của Người. Và về căn tính của Đức Giêsu "(Vậy ông là
ai'), tất cả mọi dò tìm của lý trí cũng đều bất lực. Người thực sư là
"Thiên Chúa không thể biết được”, là "Thiên Chúa dấu ẩn"!
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con nhận ra Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức
khỏe, trong thành công, trong tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa
vẫn ở đó!). Thế mà con chỉ thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà
con hay nghề nghiệp, và nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không
nhận ra sự hiện diện đáng bị che dấu của Chúa.
Này bạn, nếu bạn khám phá
ra Tôi đang dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui
sướng mà không ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat
của những người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi,
còn niềm vui của Người "bây giờ đã trọn vẹn" (Ga 3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai
dép cho Người...
Gioan Tẩy Giả là con
người “khiêm tốn xóa bỏ đời mình trước Đấng ông loan báo" Gioan Tẩy Giả,
đó là chứng nhân đúng nghĩa nhất. Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng
khác. ông từ chối tước hiệu Kitô (Ga 1,20). ông mong ước được 'biến đi" để
Người “lớn lên" (Ga 3,30). Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một
cây đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối (Ga 5,35). Ông là người “tôi tớ" không
xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga 1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng
xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã hết sức hoàn tất "tác vụ " của
mình, bằng cách tự đình chỉ công việc của mình để làm 'lợi ích cho Đức Giêsu,
bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình để gđi họ đến theo một Đấng khác” (Ga
1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi thấy vinh quang của Đấng Phục sinh,
trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ: “Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai
đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác " (Mt. 11,2). Như thế
Gioan Tẩy Giả không những là một chứng nhân" tuyệt hảo, mà cũng là
"mẫu tín hữu" tiêu biểu: “Kẻ không thấy nhưng vẫn tin “ (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả,
xin cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả,
xin ban cho chúng con có khả năng tự xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả,
xin ban cho chúng con "tình yêu điên cuồng" đó, biết hy sinh cho kẻ
khác để niềm vui chúng con được trọn vẹn…
Tôi đây làm phép rửa bằng
nước.
Đó là những chuyên viên
“thanh tẩy", các tư tế và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn
hoi (Ga 1,19), đến kiểm chứng tư cách chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà
hoạt động “tha tội" (Mc l,4) của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn
giáo của Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán (Ga 1, 1 9 ). Bởi vì những kẻ đến
hạch hỏi Gioan, chính là nhóm người pharisêu, những kẻ “sạch”, những
“Peruoushim", biết trọn vẹn lề luật, các quy định, những điều được phép
hay cấm đoán... (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những người Pharisêu trung hậu này,
khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lạy bỏ qua Đấng duy nhất có quyền
tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ chối Ngài. Bởi vì chính Gioan
Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người thừa tác và tôi tớ hèn mọn tha
tội... vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước... nhưng sau ông, sau cử chỉ làm phép
rửa có tính nghi thức của ông, thì "chiên xóa bỏ tội trần gian" sẽ
đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ
Noen, xin giúp chúng con mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được
tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại
Bêtania, bên kia sông Giođan.
Họ đã từ Giêrusalem
đến... từ thành thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế
mà, Thiên Chúa lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị
thánh sử rất tin vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn
mạch tới hai lần (Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng
"thừa sai", không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng
con. Xin mở rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa... trên
bờ sông bên kia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét