VUI HỌC THÁNH KINH
THÁNG GIÊNG
LỄ ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA.
Tháng giêng,
tháng khởi đầu cho
năm mới.
Giáo hội muôn phó
thác mọi sự trong tay Mẹ.
TIN MỪNG
16 Họ
liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt
nằm trong máng cỏ.17 Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài
Nhi này.18 Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên.19 Còn bà
Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.20 Rồi
các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều
họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
21 Khi
Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên
cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người
được thụ thai trong lòng mẹ.
16 So they went in haste and found Mary and Joseph, and the infant
lying in the manger.
17 When they saw this, they made known the message that had been
told them about this child.
18 All who heard it were amazed by what had been told them by the
shepherds.
19 And Mary kept all these things, reflecting on them in her heart.
20 Then the shepherds returned, glorifying and praising God for all
they had heard and seen, just as it had been told to them.
21 When eight days were completed for his circumcision, 7 he was
named Jesus, the name given him by the angel before he was conceived in the
womb.
I. HÌNH TÔ
MÀU
*
Chủ đề của hình này là gì?
*
Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Luca 2,19
II. TRẮC
NGHIỆM
01. Hôm nay, Giáo Hội mừng kính lễ Đức Maria Mẹ
Thiên Chúa. Mẹ đã hạ sinh hài nhi Giêsu. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một
thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một con người mới nghĩa là gì?
a. Đức Mẹ
sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra.
b.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục
Thiên Chúa.
c.
Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà.
d.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình.
e.
Cả a,b, c và d đúng.
02. Đức Maria là mẹ của ai?
a. Mẹ của Đức Giêsu
b. Mẹ của Hội Thánh
c. Mẹ của chúng ta.
d.
Cả a, b và c đúng.
03. Ai là người trước tiên được ơn nhận biết và tuyên xưng
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa?
a.
Ông Giuse.
b.
Ông Dacaria.
c. Bà Anna.
d. Bà Êlisabét
04. Công đồng nào đã
tuyên bố tín điều đức Maria Mẹ Thiên Chúa
?
a. Công Đồng Êphêsô
a. Công Đồng Nicêa I.
a.
Công Đồng Vatican
I.
a.
Công Đồng Lateranô.
05. Lần đầu tiên trong Kinh Thánh người ta thấy
tên của người Mẹ đặt trước tên của người Cha. Đây không phải là một đoạn tuyệt
với truyền thống "trọng nam khinh nữ" của người Do Thái, nhưng tác
giả muốn sắp xếp như thế để nói lên điều gì?
a.
Chế độ mẫu hệ đã khởi đầu.
b.
Tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
c.
Trong gia đình thánh gia, Mẹ Maria là người quan trọng nhất.
d.
Mẹ Maria được Thiên Chúa yêu mến.
06. Vào năm
431, tại thành phố Êphêsô (mà ngày nay thuộc nước Thổ Nhĩ Kỳ), vang dội những
tiếng hoan hô: “Vạn vạn tuế, Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.” Tín điều đó được Công
Đồng Êphêsô công bố để bác bỏ lý thuyết của ai ?
a.
Ông Luther.
b.
Ông Calvin.
c.
Ông Nestôriô.
d.
Ông Origen.
07. Công Đồng Êphêsô (năm 431) đã diễn ra
dưới thời Đức Giáo Hoàng nào?
a.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
b.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII
c.
Đức Giáo Hoàng Cêlestinô I
d.
Đức Giáo Hoàng Linô
08. Mười lăm
thế kỷ sau, để kỷ niệm ngày tuyên bố tín điều Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đức
Giáo Hoàng nào đã lập lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa?
a.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
b.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII
c.
Đức Giáo Hoàng Piô XII
d.
Đức Giáo Hoàng Piô XI
09. Đức Giáo
Hoàng nào đã đổi lễ Mẹ Thiên Chúa sang ngày 1 tháng Giêng như hiện nay?
a.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
b.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII
c.
Đức Giáo Hoàng Piô XII
d.
Đức Giáo Hoàng Piô XI
10. Bốn tín điều về Đức Maria là những tín điều
nào?
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
11. Đức Giáo Hoàng nào đã
chính thức xác định câu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con
là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử" trong kinh Kính mừng như chúng
ta thường đọc ngày nay?
a.
Đức Thánh Piô V
b.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII
c.
Đức Giáo Hoàng Piô XII
d.
Đức Giáo Hoàng Piô XI
12. Để bảo đảm cho phần rỗi quan trọng của mình,
năm mới, chúng ta phải làm gì theo lời mời gọi của Mẹ tại Fatima ?
a.
Cải thiện (xấu nên tốt, tốt nên đạo đức, đạo đức nên thánh thiện)
b.
Năng đọc Kinh Mân Côi để cùng với Mẹ ngợi khen Chúa.
c.
Ẩn mình trong Trái Tim Mẹ, là đường đưa con về trời.
d.
Cả a b và c đúng.
III. Ô CHỮ
Những gợi ý
01. Nơi Đức
Maria hạ sinh Hài Nhi Giêsu. (Lc 2,4).
02. Sứ thần truyền tin cho Đức Maria tên là gì? (Lc 1,26).
03. Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, thì người ta làm lễ gì cho
Hài Nhi? (Lc 2,21).
04. Đức Giáo Hoàng nào đã đổi lễ Mẹ Thiên Chúa sang ngày 1
tháng Giêng?
05. Trên thập giá, Đức Giêsu trao phó mẹ mình cho ai? (Ga
19,27).
06. Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm
lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là gì? (Lc 2,21).
07. Nữ ngôn sứ đã gặp Hài Nhi Giêsu trong đền thờ tên là gì?
(Lc 2,36)
08. Gia đình thánh gia đã trốn sang nước nào để tránh sự
truy lùng của vua Hêrôđê? (Mt 2,13)
09. Công đồng nào đã tuyên bố tín điều đức Maria Mẹ Thiên
Chúa ?
10. Đức Maria đã đính hôn với ai? (Mt 1,18)
11. Sau khi từ Ai cập trở về, gia đình Đức Giêsu cư ngụ tại
đâu? (Mt 2,23)
Hàng dọc: Chủ đề của ô chữ này là gì?
IV. THỬ
TÀI
A.
HÃY CÙNG ĐỌC ANNA
Bà ANNA,
Thân mẫu của Đức Maria.
Có
tất cả bao nhiêu cách để đọc được từ ANNA theo đúng thứ tự sắp xếp của các chữ
cái trong từ đó ở hình trên ?
Bất
kỳ 1 chữ A nào cũng có thể là chữ cái đầu tiên và chữ cái cuối cùng của cùng 1
từ ANNA, nhưng 2 chữ cái NN ở giữa bắt
buộc phải ở những vị trí khác nhau.
B. CHIA
1 THÀNH 4 : PHỤ NỮ
Ô chữ này
được chia làm 4 phần bằng nhau. Mỗi phần nhỏ là 1 nhân vật 5 chữ cái. Bạn hãy
xem đó là những phụ nữ nào ?
Những gợi ý
1. Ông Simêon đã thốt lên khi nhìn thấy Hài nhi
:“Cháu bé bày được đặt làm duyên cớ vấp phạm cho nhiều người Ítraen ngã xuống
hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng. Còn chính Bà, một
lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng Bà”. Người phụ nữ mà ông Simêon nói tới là ai? (Lc
2,33-35)
2. Nữ trợ tá của Hội
Thánh Kenkhơrê được thánh Phaolô giớí
thiệu và mong mọi người hãy tiếp đón chị trong Chúa cách xứng đáng, như dân
thánh phải đối xử với nhau. Chị tên là gì?
(Rm 16,1)
3. Chị của ông Ladarô, người đã chết và được
Chúa Giêsu làm cho sống lại tên là gì? (Ga 11,1-14).
4. Tại
thành Philipphê, người phụ nữ tòng giáo van nài xin thánh Phaolô lưu lại nhà
bà.Bà tên là gì? (Cv 16,14-15).
V. CÂU
THÁNH KINH HỌC THUỘC LÒNG :
Còn bà Maria
thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy,
và suy đi nghĩ lại trong lòng.
Tin Mừng thánh Luca 2,19
GB. NGUYỄN THÁI HÙNG
LỄ MẸ THIÊN CHÚA
Ngày mồng 1 tháng Giêng
_____________
Ngày mồng 1 tháng Giêng
_____________
Đức
Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật tự
sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là Thiên Chúa, nên Mẹ
phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Tín lý này đã được Phúc âm thánh Luca minh hoạ
rõ ràng, và từ thế kỷ II đã được các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô,
Cyrillô Alexandria, Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc
thuyết của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo chứng
thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng chạm tới Chúa Giêsu
là Ngôi Lời hằng sống đã xuất hiện , vậy mà các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu
chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu chuộc của
Chúa Kitô. Vì thế, các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm chức Thiên mẫu của Mẹ
Maria để phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không có
Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma. Giáo phụ
Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ nhận thân xác Chúa
Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để chối bỏ việc Người sinh ra, ông
phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác và sự đản sinh làm chứng lẫn nhau: Không có sự
đản sinh thì cũng không có thân xác. Hoặc là không có thân xác thì không có sự
đản sinh.
Khi
thấy Chúa đi trên mặt biển và khi thấy Chúa hiện ra sau khi Người sống lại, các
tông đồ tưởng Người là ma. Nhưng Người đã quả quyết: "Chính Thầy
đây!" Như vậy Chúa Giêsu có thân xác thực sự sống động. Mà nếu thân xác
Người là thân xác của Thiên Chúa bởi trinh huyết Đức Trinh Nữ Maria, thì Đức
Maria phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một thân xác là thân xác của Thiên Chúa
lúc hiệp với ngôi Con Thiên Chúa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha.
Sang
thế kỷ III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc tụng Mẹ
Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I (nay là Iznik, bắc Thổ nhĩ kỳ) lên án
lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và
đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này
chứng minh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các
thánh Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa của Công đồng Ephêsô sau
này.
Đến
thế kỷ V, trong khi tín lý Mẹ Thiên Chúa đang được các Giáo phụ rao giảng rất
minh bạch và phấn khởi, thì Nestoriô, thượng phụ giáo chủ thành Constantinopôli
lên tiếng trong các bài giảng phản đối, vì ông chủ trương rằng: Chúa Giêsu có hai
bản tính nên có hai ngôi vị. Đức Maria chỉ là Mẹ ngôi vị nhân tính của Chúa
Giêsu, nên không phải là Mẹ Thiên Chúa. Năm 430, một hội đồng tại Rôma lên án
lạc giáo Nestôriô, và Đức Thánh Celestinô I viết một bức thư khuyến cáo
Nestôriô. Nestôriô tâu xin hoàng đế Thêôdôsiô I triệu tập Công đồng Êphêsô năm
431. Nhưng Thánh Cyrillô, Thượng phụ giáo chủ thành Alexandria, được Đức Thánh
Celestinô uỷ nhiệm chủ toạ công đồng gồm khoảng 250 giám mục Đông phương, một
giám mục Tây phương và một phó tế thành Carthage cùng với ba đặc sứ của Đức
Celestinô. Mặc dù sự phản kháng của 68 giám mục tán đồng lạc giáo Nestôriô và
sự cản ngăn của Candidianô, sứ giả của hoàng đế Thêôdôsiô, Công đồng vẫn khai
mạc ngày 22 tháng 6 tại đền thờ Đức Mẹ tại Êphêsô. Công đồng minh định Chúa
Giêsu có hai bản tính nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là Thiên Chúa. Mẹ Maria
là Mẹ thật của Chúa Giêsu nên Mẹ thật là Mẹ Thiên Chúa. Rồi Công đồng long
trọng tuyên tín: "Nếu ai không tuyên xưng Emmanuel là Thiên Chúa thật, và
do đó Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ sinh ra xác phàm của Ngôi Lời
nhập thể, thì mắc vạ tuyệt thông". Đồng thời, các Nghị phụ ký giấy ra vạ
cho Nestôriô: "Vì Chúa Giêsu Kitô bị Nestôriô xỉ nhục, Thánh Công Đồng này
đã tuyên bố Nestôriô bị loại trừ khỏi chức phẩm giám mục và khỏi mọi hiệp thông
linh mục".
Tại
Công đồng, Thánh Proclô thẳng thắn chống lạc giáo Nestôriô. Và Nghị phụ Giám
mục Thêôdôtê Ancyre (446) triệt để ủng hộ Thánh Cyrillô và gắt gao tố cáo buộc
tội Nestôriô rối đạo. Trong khi Công đồng đang diễn tiến, Thánh Cyrillô viết
cho Giám mục Acaciô Beroea có nói đến năm giáo phụ cũng lên án Nestôriô: Đó là
hai Thượng phụ Alexandria là Athanasiô và Thêôphilê, hai Thượng phụ
Constantinopôli là Grêgôriô và Atticô. Và vị thứ năm là Thánh Basiliô. Sau này,
Nestôriô bị đày vào đan viện Euprépia gần Antiôkia, rồi tại một ốc đảo bắc
Aicập cho tới chết trong sự cố chấp và buồn bực.
Ngay
chiều hôm đó, toàn dân thành Êphêsô phấn khởi nô nức thắp đuốc tưng bừng, rực
sáng, tổ chức một cuộc rước đuốc vĩ đại reo mừng sự vinh thắng của Mẹ Thiên
Chúa, và hoan hô các Nghị phụ Công đồng Êphêsô. Họ cũng đem đuốc hộ tống các
ngài về đến tận nhà.
Tín
điều Mẹ Thiên Chúa do Công đồng Êphêsô long trọng tuyên tín, như một luồng gió
xuân tươi mát dịu dàng trào thổi từ Êphêsô sang khắp các miền Alexandria,
Constantinopôli, Antiôkia, sang Rôma, khắp Âu châu rồi dần dần ra khắp hoàn
cầu. Lòng sùng kính mến yêu Mẹ Maria thêm muôn phần phấn khởi đã được biểu hiện
ra nhiều việc sùng mến Mẹ Thiên Chúa: Nhà thờ Đức Mẹ nơi diễn tiến Công đồng Êphêsô
đã trở thành Vương cung thánh đường Mẹ Thiên Chúa.
Năm
432, Đức Sixtô III xây cất lại và cung hiến Đền thờ Đức Bà Cả trên đồi
Esquilinô tại Rôma mà Đức Liberiô xây cất năm 352 cho Mẹ Thiên Chúa, và nâng
lên bậc Vương cung thánh đường.
Năm
451, Công đồng Chalceđônia cũng tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa. Đồng
thời, Thánh Pulcheria nữ hoàng Byzantin, kiến thiết hai đền thờ Mẹ Thiên Chúa
tại Constantinopôli. Năm 534, Đức Gioan II tuyên nhận Mẹ Maria là Mẹ thật của
Thiên Chúa. Năm 553, Công đồng Constantinopôli II tái tuyên nhận tín lý chức
phẩm Thiên Mẫu. Từ đó nhiều nhà thờ dâng kính Mẹ Thiên Chúa được xây cất tại
Thụy sĩ, Hoà lan, Đức, Anh, và Pháp. Riêng Pháp có năm đền thờ Mẹ Thiên Chúa ở
Reims, Coutances, Tours, Poitiers, và Toulouse .
Ảnh tượng Mẹ Thiên Chúa cũng được phổ biến khắp nơi, đặc biệt là ảnh Mẹ Thiên
Chúa do Thánh Luca minh hoạ. Tới nay rất nhiều hoạ sĩ vẽ ảnh hay nghệ sĩ tạc
tượng Mẹ Thiên Chúa với nhiều kiểu, theo nhiều văn hoá dân tộc tuyệt đẹp. Và
các Thánh tiến sĩ các nhà thần học, các Đức Giáo hoàng liên tiếp rao giảng và
chúc tụng Mẹ Thiên Chúa.
Năm
1215, Công đồng Lateranô IV tuyên nhận Chức phẩm trinh trong Mẹ Thiên Chúa. Năm
1427 trong một bài giảng, Thánh Bênađinô đọc lời cầu nguyện: "Ave Maria
Jesus, Sancta Maria, Mater Dei, ora pro nobis". Câu "Thánh Maria Đức
Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử"
được đưa vào kinh do các nữ tu Dòng Đức Bà Tình Thương (Our Lady of Mercy) năm
1514, các đan sĩ Dòng Camaldolesia năm 1515 và Dòng Phanxicô năm 1525. Năm
1568, Đức Thánh Piô V chính thức xác định như chúng ta thường đọc ngày nay.
Công
đồng Vatican II (1962-1965) dạy: "Từ muôn
đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc
Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ
Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo
hội.. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo hội trên bình diện đức tin, đức ái và
hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô".
Nhờ
Giáo huấn của Giáo hội và lời giảng dạy của các Thánh Giáo phụ, các Thánh tiến
sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo hội mỗi ngày thêm vững tin tín
điều Mẹ Thiên Chúa và sốt sắng sùng mến Mẹ.
II.
LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Bên
Đông phương, lễ Mẹ Thiên Chúa được mừng đầu tiên tại Giêrusalem ngày 15 tháng
8, quãng năm 428, rồi lan sang Armenia
và Gethsemania năm 458. Giáo hội Byzantin mừng vào ngày 26 tháng 12, và Giáo
hội Coptic mừng vào ngày 16 tháng Giêng.
Bên
Tây phương, tại Rôma, thoạt tiên lễ Giáng sinh cũng là lễ Đức Trinh Nữ là Mẹ
Thiên Chúa, vì khi hạ sinh Con Thiên Chúa trong xác thể, Đức Trinh Nữ cộng tác
vào việc Thiên Chúa sinh ra Con Một Người từ muôn thuở. Bởi vậy thế kỷ XII, lễ
Giáng sinh ban ngày được mừng trọng thể tại đền thờ Đức Bà Cả ở Rôma. Theo Dom
Botte, khoảng từ năm 600, lễ Đức Mẹ đầu tiên chính thức trong Phụng vụ Rôma là
lễ ngày mồng một tháng Giêng là ngày tuần tám lễ Giáng sinh, nên Đức Bênêđictô
XIV ấn định mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép cắt bì. Và lễ Đức Mẹ được dời vào
tháng Tám. Nhiều nơi mừng vào Chúa nhật IV mùa Vọng hay ngày 18 tháng 12.
Thế kỷ
VII, Giáo hội Tây Ban Nha theo sắc lệnh Công đồng Toleđô năm 656 mừng lễ Mẹ
Thiên Chúa ngày 18 tháng 12 trước lễ Giáng sinh tám ngày. Giáo hội Milan mừng Mẹ Maria chịu
thai trinh vẹn vào ngày thứ tư bốn mùa tháng 12. Năm 1751, tại Bồ Đào Nha, lễ
Mẹ Thiên Chúa được Đức Bênêđictô XIV ban phép mừng vào Chúa nhật thứ nhất tháng
5. Năm 1914, nhiều giáo phận và nhiều dòng tu được mừng vào ngày 11 tháng 10.
Năm
1931, để kỷ niệm 15 thế kỷ Công đồng Êphêsô tuyên tín Mẹ Maria là Mẹ Thiên
Chúa, Đức Piô XI ban hành thông điệp "Lux Veritatis" diễn giải tín lý
Nhập Thể, do đó Đức Trinh Nữ Maria trở nên Mẹ Thiên Chúa. Đức Piô XI còn truyền
dạy mừng lễ Mẹ Thiên Chúa trong khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10.
Năm
1962, Đức Gioan XXIII khai mạc Công đồng Vatican II vào chính lễ Mẹ Thiên Chúa
ngày 11 tháng 10 để trao phó công cuộc đại sự này trong tay Thiên Mẫu vạn năng
của Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ Giáo hội. Trước năm 1969 ngày mồng một tháng Giêng
kính Chúa Giêsu chịu phép cắt bì. Năm 1969 trong chiều hướng canh tân Phụng vụ,
Đức Phaolô VI đã đổi lễ Mẹ Thiên Chúa sang ngày 1 tháng Giêng.
III. Ý
NGHĨA PHỤNG VỤ
Đức
Phaolô VI đặt lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày mồng một tháng Giêng đầu năm dương
lịch, để tôn vinh Mẹ là Nữ Vương thời gian, cũng như Đức Piô XII đã đặt lễ Mẹ
Nữ Vương vào ngày 22 tháng 8 để tôn vinh Mẹ là Nữ Vương không gian.
* Về không gian, Mẹ Maria là ngôi sao sáng soi khắp vũ trụ, làm bừng sáng các tầng trời và chiếu toả các âm phủ (Thánh Bênađô), vì Mẹ cao sang giáp giới tuyến vô biên Thiên Chúa (Thánh Tôma). Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được tham dự quyền thống trị với Chúa. Là Mẹ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Mẹ được thông phần vương quyền của Người để được tôn phong là Nữ Vương vũ trụ. Mẹ hấp thụ tất cả các ơn Chúa. Ân sủng không nhỏ giọt trên Mẹ, nhưng trào đổ trên Mẹ như một trận mưa dạt dào (Thánh Tôma). Do đó, Mẹ Maria thật là Nữ Vương không gian.
·
Về
thời gian, Vương quyền của Mẹ Maria đã có trong thánh lệnh muôn đời của Thiên
Chúa trước khi đất trời được tạo thành (xem Cn 8:22-29). Trong thời gian, Vương
quyền của Mẹ bừng sáng ngay từ thuở ban sơ, qua lời Thiên Chúa tuyên án con Rắn
già hoả ngục: "Người Nữ sẽ đạp giập nát đầu mày" (St 3:15). Qua các
thời đại, Mẹ vẫn giao chiến chống lại các bè rối, và Mẹ sẽ chiến thắng con Rồng
đỏ trong ngày thế mạt (xem Kh 12:1-17). Vương quyền Mẹ sẽ kéo dài vô cùng tận,
vì là Mẹ Chúa Kitô, Mẹ được tham dự vương quyền vô tận của Ngài (Lc 1:33) và
tham dự thế lực cầu bầu của Ngài . Do đó, Mẹ Maria thật là Nữ Vương thời gian.
·
Thiên
Chúa hằng hữu vô biên siêu thời gian. Ngài nâng Mẹ Maria là một thụ tạo hữu hạn
lên, thông ban ưu phẩm siêu thời gian của Ngài để đem thánh lệnh cứu rỗi muôn
thuở của Ngài vào thời gian, và do đó, đem Chúa Ngôi Hai hằng hữu siêu thời
gian vào thời gian. Thiên Chúa thông ban cho Mẹ ưu phẩm siêu thời gian của
Ngài, cho Mẹ được thông phần bản tính phong phú của Ngài, để Mẹ trở nên Mẹ Chúa
Kitô, được thông phần bản tính tình yêu của Ngài và trở nên Mẹ các chi thể Chúa
Kitô là chính chúng ta (Đức GM Bossuet). Mẹ Maria được Thiên Chúa vô biên ban
cho chức phẩm Thiên Mẫu hầu như vô biên, để Mẹ kéo thiên tính vô biên xuống kết
hợp với nhân tính hữu hạn. Mẹ trao nhân tính cho Chúa Ngôi Hai siêu thời gian
để Người trở thành Con của Mẹ trong thời gian, và để Người thông ban cho Mẹ ưu
phẩm siêu thời gian của Người. Thánh Tôma nói: "Vì là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ
Maria được chức phẩm như vô cùng do sự kiện Chúa là Thiên Chúa vô biên".
Được
tham dự vào ưu phẩm siêu thời gian của Thiên Chúa, Mẹ Maria đã đưa Chúa Ngôi
Hai siêu thời gian vào thời gian là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để Người
cứu chuộc chúng ta, làm cho chúng ta được thông phần ưu phẩm siêu thời gian của
Người, được trở nên con cái Thiên Chúa, trở nên em Chúa Giêsu và trở nên con
của Mẹ.
Lạy Mẹ Maria yêu dấu! Phẩm chức Thiên Mẫu của Mẹ thật cao quí vì là do tác động của tình yêu: Tình yêu vô biên của Thiên Chúa đã tiền định Mẹ là Mẹ Người, một chức phẩm rất mực cao sang. Thánh Bonaventura nói "Chức phẩm Mẹ Thiên Chúa là một ơn lớn lao nhất được ban cho một thụ tạo. Thiên Chúa có thể dựng nên một thế giới lớn hơn, một thiên đàng lớn hơn, nhưng không thể nâng một thụ tạo cao hơn Mẹ Người". Tình yêu nồng cháy của Chúa Thánh Linh đã làm cho Chúa Ngôi Hai hiện hoá hữu hình trở nên Con của Mẹ để yêu mến và được mến yêu. Tình yêu đặc biệt của Chúa Con đối với Mẹ là tình yêu thảo hiền từ muôn thuở và sẽ vô cùng tận: Chúa Giêsu luôn luôn là Con của Mẹ, và Mẹ mãi mãi là Mẹ của Chúa. Tình yêu duy nhất của Mẹ qua lời "tuân vâng" đã khiến Mẹ lãnh nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế và Mẹ loài người chúng con. Do đó, Mẹ yêu mến Chúa và yêu thương chúng con với tấm lòng Hiền Mẫu luôn luôn nồng thắm dịu êm và đậm đà, và khuyến khích chúng con phải hết tình thiết tha ngoan thảo yêu mến Chúa và Mẹ.
Lạy Mẹ Maria yêu dấu! Phẩm chức Thiên Mẫu của Mẹ thật cao quí vì là do tác động của tình yêu: Tình yêu vô biên của Thiên Chúa đã tiền định Mẹ là Mẹ Người, một chức phẩm rất mực cao sang. Thánh Bonaventura nói "Chức phẩm Mẹ Thiên Chúa là một ơn lớn lao nhất được ban cho một thụ tạo. Thiên Chúa có thể dựng nên một thế giới lớn hơn, một thiên đàng lớn hơn, nhưng không thể nâng một thụ tạo cao hơn Mẹ Người". Tình yêu nồng cháy của Chúa Thánh Linh đã làm cho Chúa Ngôi Hai hiện hoá hữu hình trở nên Con của Mẹ để yêu mến và được mến yêu. Tình yêu đặc biệt của Chúa Con đối với Mẹ là tình yêu thảo hiền từ muôn thuở và sẽ vô cùng tận: Chúa Giêsu luôn luôn là Con của Mẹ, và Mẹ mãi mãi là Mẹ của Chúa. Tình yêu duy nhất của Mẹ qua lời "tuân vâng" đã khiến Mẹ lãnh nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế và Mẹ loài người chúng con. Do đó, Mẹ yêu mến Chúa và yêu thương chúng con với tấm lòng Hiền Mẫu luôn luôn nồng thắm dịu êm và đậm đà, và khuyến khích chúng con phải hết tình thiết tha ngoan thảo yêu mến Chúa và Mẹ.
Chức
phẩm Thiên Mẫu của Mẹ quả thật do tình yêu, vì tình yêu, và cho tình yêu, từ
các tầng trời xuống khắp trái đất, từ muôn thuở tới muôn thế hệ. Do vậy, Mẹ rất
xứng đáng được tuyên phong là Nữ Vương không gian và thời gian.
Trong
bài giảng khai mạc ba năm chuẩn bị Đại Năm Thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II nói:
"Khi làm người, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời đồng bản thể với Chúa Cha, đã
nhận lấy thời gian của chúng ta trong mọi chiều kích và Ngài hướng thời gian về
vĩnh cửu. Thực vậy, vĩnh cửu là chiều kích của Thiên Chúa. Khi nhập thể làm
người, Con Thiên Chúa cũng chấp nhận trọn vẹn thời gian của nhân loại, với nhân
tính của Ngài, để dẫn con người qua mọi chiều kích của thời gian này hướng về
vĩnh cửu, và cho con người được tham dự vào cuộc sống thần linh vốn là gia sản
đích thực của Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Linh".
IV. Ý
NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài
đọc I: Dân số 6:22-27.
Sách
này được chọn làm Bài đọc I lễ Mẹ Thiên Chúa vì hai lý do:
1. a) Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta được ba lời chúc lành của Chúa Cha (Ds 24, 25, 26);
1. a) Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, chúng ta được ba lời chúc lành của Chúa Cha (Ds 24, 25, 26);
b)
Chúa Con phản ảnh vinh quang Chúa Cha (Dt 1:3);
c)
Thánh Linh tỏ ra Chúa Con và chương trình muôn đời của Thiên Chúa (Ga 14:26;
15:26-27; 16:13-15).
2. Lễ
Mẹ Thiên Chúa trùng ngày đầu năm. Người ta chúc mừng nhau mọi phúc lành.
Bài
đọc II: Galata 4:4-7.
Thánh
Phaolô trực tiếp nói về Đức Mẹ Maria. Câu 4: "Con Thiên Chúa được sai đến
và sinh bởi người nữ" lược tóm lịch sử Cứu rỗi. Lý do là:
1. Để
cứu chuộc những người ở dưới Luật, Con Thiên Chúa cho ta được quyền nghĩa tử
của Thiên Chúa.
2.
Thiên Chúa sai Thánh Linh Con Chúa đến trong lòng chúng ta, để chúng ta có thể
gọi Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta không còn là nô lệ, nhưng là con, là thừa
kế của Người. Thánh Phaolô cho chúng ta thấy rõ chương trình Cứu rỗi của Chúa
nhờ Mẹ Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế.
Phúc
âm: Luca 2:16-21.
Phúc
âm trình chiếu cảnh Bêlem trong đêm Giáng sinh để cho thấy Đức Maria là Mẹ Đức
Kitô là Thiên Chúa: Được các thiên thần hiện ra loan báo tin mừng Chúa Giáng
sinh, các mục đồng hối hả đi tìm gặp Maria và Giuse cùng Hài Nhi nằm trong máng
cỏ (2:16). Các mục đồng được loan áo tin mừng đầu tiên vì họ là hạng người hèn
kém trong xã hội Do thái thời đó, nhưng tâm hồn họ đơn thật an vui. Họ đã đến,
đã gặp gỡ Chúa Hài Nhi, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Họ hiểu được lời thiên thần
loan báo. Họ đã loan báo tin mừng cho mọi người và vui mừng tôn vinh Thiên Chúa
vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe (2:17-21).
L.m.
Phêrô, CMC
Nguồn: dongcong.net
Lời giải
đáp
VUI HỌC
THÁNH KINH
THÁNG
GIÊNG
LỄ ĐỨC
MARIA MẸ THIÊN CHÚA.
I. HÌNH
TÔ MÀU
* Chủ đề :
Mẹ Maria và Hài Nhi Giêsu
* Bạn hãy viết câu Tin Mừng thánh Luca 2,19
Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi
nghĩ lại trong lòng.
II. TRẮC NGHIỆM
01. e. Cả
a,b, c và d đúng.
02.
d.
Cả a, b và c đúng.
03.
d.
Bà Êlisabét (Lc.1,43-44).
04.
a.
Công Đồng Êphêsô (năm 431).
05.
b.
Tầm quan trọng của người phụ nữ là Mẹ Maria.
06.
c.
Ông Nestôriô.
07. c. Đức Giáo Hoàng Cêlestinô I
08.
d.
Đức Giáo Hoàng Piô XI (năm 1931)
09.
a.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (1969)
10. Giáo Hội còn tuyên xưng bốn tín điều:
1. Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (ĐGH Piô IX, 8/12/1854),
2. Đức Mẹ Đồng Trinh Trọn Đời (Xác tín bởi các Giáo Phụ vào thế
kỷ thứ 4 và 7 Công Đồng đầu tiên).
3. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa (Công Đồng Êphêsô 431)
4. Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (ĐGH Piô XII, 1/11/1950).
11. a.
Đức Thánh Piô V (1568)
12.
d.
Cả a b và c đúng.
III. Ô
CHỮ
01.
Bêlem (Lc 2,4)
02.
Sứ thần Gáprien (Lc 1,26).
03.
Lễ cắt bì (Lc 2,21).
04. Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI (1969)
05. Tông
đồ Gioan (Ga 19,27)
06.
Giêsu (Lc 2,21).
07.
Nữ ngôn sứ Anna (Lc 2,36)
08.
Nước Ai cập (Mt 2,13)
09.
Công Đồng Êphêsô (năm 431).
10.
Ông Giuse (Mt 1,18)
11.
Nadarét (Mt 2,23)
Hàng dọc: MẸ THIÊN CHÚA
IV. THỬ
TÀI
Lời giải
đáp
A. HÃY CÙNG ĐỌC ANNA
Tính số cách được dựa theo vị trí của những chữ A có trong hình
vẽ :
* Ở trung tâm của hình vẽ : chữ A ở trung
tâm của hình vẽ nằm liền kề với 4 chữ N
( tính theo cả hàng dọc và hàng ngang ). Thông qua mỗi chữ N đều hình thành nên 15 chữ ANNA, vì thế có tất
cả 50 từ ANNA từ chữ A ở trung tâm của
hình vẽ. Ngoài ra còn có 4 chữ N khác trên các đường chéo của hình đã cho cũng
nằm liền kề với chữ A ở trung tâm hình. Thông qua mỗi chữ N này đều hình thành
nên 12 từ ANNA nữa. Từ đó ta có thêm 48 từ ANNA nữa.
* Ở các góc của hình vẽ : từ mỗi chữ A ở 1
góc của hình vẽ đều có thể hình thành được 9 từ ANNA, cộng lại ta có thêm được
36 từ ANNA nữa.
* Trên các cạnh của hình vẽ : từ mỗi chữ A
trong 8 chữ trên các cạnh của hình vẽ đều có thể hình thành được 30 từ ANNA, từ
đó ta có thêm 240 từ ANNA nữa.
Vậy trong hình đã cho có tổng cộng là :
60 + 48 + 36 + 240 = 384 cách đọc từ ANNA.
B. CHIA 1 THÀNH 4 : CÁC PHỤ NỮ
Lời giải đáp
1. Bà Maria
(Lc 2,33-35)
2. Chị Phêbê
(Rm 16,1)
3. Bà Mácta
(Ga 11,1-14).
4. Bà
Lyđia (Cv 16,14-15).
GB. NGUYỄN
THÁI HÙNG
Email:
hungvinhson@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét