Học hỏi Thánh Kinh 100 tuần – TUẦN 17
SÁCH DÂN SỐ
(chương 25-36)
(chương 25-36)
***
I. GIÔSUA KẾ NHIỆM MÔSÊ (27,12-23)
Giai đoạn lãnh đạo của Môsê sắp chấm dứt. Đức Chúa ra lệnh cho Môsê đi đến dãy núi Abarim, đến Nebo là nơi Aaron đã qua đời (20,22-26) để từ đó nhìn thấy Đất Hứa (x. Đnl 32,48-52; 33,47; 34,1-6). Đức Chúa cũng cho biết Môsê sẽ không được vào Đất Hứa vì sự bất trung của dân tại Meriba (x. 20,2-13).
Mối quan tâm cuối cùng của Môsê là làm sao dân Chúa có người lãnh đạo “để cộng đồng của Đức Chúa đừng giống như đàn chiên không có mục tử chăn dắt” (27,17). Môsê quả là vị lãnh đạo mẫu mực. Oâng không nghĩ đến bản thân mình. Dù không được đặt chân vào Đất Hứa sau bao nhiêu khó nhọc phải chịu vì dân, ông cũng không buồn phiền khó chịu, mà chỉ nghĩ đến ích lợi của dân, ước mong dân có được người lãnh đạo tốt nhất. Theo nguyên văn, vị lãnh đạo này là người sẽ “ra vào trước họ và dẫn họ ra vào” (27,17). Đây là những từ chuyên môn để mô tả vai trò lãnh đạo về chính trị và quân sự (x. 1Sam 18,13.16; 29,6; Giosua 14,10-11). Như thế, người kế vị Môsê sẽ dẫn dắt dân trong những cuộc chiến chinh phục đất đai và định cư trên vùng đất mới.
Người được chọn là Giôsua, con của Nun. Oâng là người có thần khí nơi mình và đã chứng tỏ có khả năng lãnh đạo (x. 11,28; 14,6.30.38). Nghi thức trao quyền cho thấy sự phân biệt giữa vai trò của tư tế và vai trò của nhà lãnh đạo chính trị. Giôsua đứng trước mặt tư tế Eleazar và toàn thể cộng đồng, và Môsê đặt tay trên ông (27,18), một cử chỉ nói lên việc trao quyền bính cho người kế vị. Tuy nhiên, nếu Môsê là người đã lãnh nhận những chỉ thị trực tiếp từ Đức Chúa (x. 12,6-8), thì Giôsua sẽ nhận sự hướng dẫn qua vị tư tế. Tư tế sẽ “đến trước nhan Đức Chúa mà xin thẻ xăm Urim” cho Giôsua; nhờ đó Giôsua biết được quyết định của Chúa.
Với nghi thức này, Giôsua lãnh nhận quyền bính từ Môsê, để “toàn thể cộng đồng con cái Israel nghe lời ông “ (27,20). Thế nhưng Giôsua và bất cứ vị lãnh đạo nào sau này cũng không thể sánh với Môsê được. Những chi tiết trong trình thuật muốn diễn tả vai trò đặc biệt của Môsê trong toàn bộ lịch sử Israel. Trình thuật này cũng cho thấy từ thời Giôsua, có sự phân biệt giữa quyền bính của các tư tế và quyền lực chính trị. Đây là vấn đề được quan tâm nhiều trong thời hậu lưu đày (x. Ez 45,17; 46,2).
Trình thuật này giúp ta ý thức về vai trò của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội. Sự tuyển chọn không đến từ con người nhưng đến từ chính Thiên Chúa. Môsê đã không tự chọn, ông chỉ nói lên tâm nguyện của mình, và chính Chúa sai Môsê chọn Giôsua. Việc chọn lựa này phát xuất từ tấm lòng yêu thương của Chúa dành cho dân để họ không phải bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn dắt. Do đó người lãnh đạo được chọn không để thoả mãn bất cứ tham vọng cá nhân nào của họ nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ dân, và đó cũng là thước đo giá trị của việc lãnh đạo.
II. PHÂN CHIA ĐẤT CANAAN (33,50-56)
Nhiệm vụ đầu tiên khi qua sông Giođan và vào đất Canaan là đuổi mọi dân cư ở đó ra khỏi đất, và phá hủy mọi “hình ảnh, tượng đúc, nơi cao” của họ (33,51). Ngày nay, trong một thời đại đề cao sự khoan dung tôn giáo, ta cảm thấy mệnh lệnh này thật khó hiểu và khó chấp nhận. Thiết nghĩ phải đặt mệnh lệnh này vào trong đúng bối cảnh của nó. Tác giả nhấn mạnh đây là miền đất Đức Chúa ban cho Israel làm gia nghiệp, và đó cũng là dấu chỉ giao ước giữa Đức Chúa và dân Israel (33,54). Tương quan giao ước đòi hỏi tình yêu và sự trung thành tuyệt đối. Vì thế trên miền đất của giao ước, không thể tồn tại bất cứ cái gì không thuộc về Thiên Chúa của Israel.
Cũng vì thế, nếu mệnh lệnh này không được tuân giữ thì dân sẽ phải chịu lời nguyền rủa: “Nếu các ngươi không đuổi các dân cư trong xứ cho khuất mắt, thì những kẻ các ngươi để sót lại sẽ nên như gai chọc mắt, như mũi nhọn đâm sườn; chúng sẽ quấy rối các ngươi trên đất các ngươi ở. Và bấy giờ, Ta sẽ đối xử với các ngươi như Ta đã định đối xử với chúng” (33,55-56). Sau này, trong cảnh lưu đày, dân Israel sẽ thấm thía những lời này hơn bao giờ.
Đức Chúa cũng ra những chỉ thị cụ thể về việc phân chia đất: “Các ngươi sẽ bắt thăm để chia nhau đất ấy làm gia nghiệp…” (33,54). Việc bắt thăm làm nổi bật ý nghĩa đây là miền đất Thiên Chúa ban cho Israel chứ không phải do họ tự chiếm được. Riêng chi tộc Lêvi, vì không có phần đất riêng làm gia nghiệp, nên mỗi chi tộc phải nhường một số thành của mình làm nơi ở và sinh sống cho những người thuộc chi tộc Lêvi (35,2-5).
Như thế, nội dung căn bản ở đây là đòi hỏi trung thành triệt để và không khoan nhượng. Đã ký kết giao ước với Thiên Chúa, dân phải sống tương quan giao ước đó cách triệt để và trọn vẹn. Aâu cũng là đòi hỏi tất yếu của bất cứ tương quan tình yêu nào. Tình yêu vợ chồng tự nó lại chẳng hàm chứa đòi hỏi triệt để và trọn vẹn như thế sao? Nếu ta đọc bản văn này từ tầm nhìn của giao ước tình yêu như thế, đây sẽ là bản văn rất đáng để suy gẫm cho đời sống đức tin, cho tương quan giao ước mà ta đã ký kết với Thiên Chúa, để xem mình đã sống tương quan đó ra sao, và cần phải sửa đổi những gì.
ĐGM. Nguyễn Khảm
Nguồn: tgpsaigon.net
HỌC HỎI THÁNH KINH 100 TUẦN – TUẦN 18
SÁCH ĐỆ NHỊ LUẬT: Chương 1 – 11
I. TỔNG QUÁT
Đệ nhị luật là một trong những cuốn sách quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn trong Thánh Kinh Cựu Ước. Nội dung chính của sách là ba diễn từ của Môsê nói với dân Israel trước khi họ qua sông Giođan tiến vào Đất Hứa. Mục đích là củng cố niềm tin của dân vào Thiên Chúa và kêu gọi họ trung thành với giao ước đã ký kết với Thiên Chúa.
Chương 1-11 gồm có :
- 1,1 – 4,43 : Diễn từ thứ nhất của Môsê. Môsê khuyến cáo dân phải học bài học của quá khứ nếu muốn vững chắc trong tương lai. Trung tín sẽ được ân thuởng, ngược lại, bất trung sẽ mang lại án phạt.
- 4,44 – 11,32 : Phần đầu trong diễn từ thứ hai của Môsê trước khi trình bày bộ Đệ nhị luật. Phần này có nhiều điểm quan trọng: Mười điều răn (5,1-6,3), Tình yêu của Chúa (6,4-25), Israel là dân thánh (7,6-26), Điều răn lớn (10,12 – 11,32).
II. ISRAEL, DÂN ĐƯỢC THÁNH HIẾN (Đnl 7,1-12)
Môsê nói với dân, “Anh em là một dân được thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa đã chọn anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người” (Đnl 7,6).
Trong phần trước (7,1-5), Môsê đưa ra những chỉ thị cấm dân Israel quan hệ với các dân khác. Việc cấm đoán này không phát xuất từ sự tự mãn nhưng từ ý thức rằng Israel đã được Thiên Chúa tuyển chọn, và nếu không cố gắng, họ sẽ không thể chu toàn trách nhiệm trước mặt Chúa.
Thánh hiến là được tách riêng ra để thuộc quyền sở hữu của Chúa. Israel đã được tách riêng ra khỏi các dân. Lề luật được ban cho họ nhằm giúp họ duy trì mối quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Nền tảng của mối quan hệ này không phải là những phẩm chất cao quý của họ nhưng chính là tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, Đấng đã chọn một dân nhỏ bé trong các dân. Vì thế được tuyển chọn chính là một hồng ân (x. Đnl 4,32-38).
Kitô hữu là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa: “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền” (1Pet 2,9-10). Việc tuyển chọn này cũng không phát xuất từ những ưu điểm về mặt nhân loại của ta, nhưng hoàn toàn phát xuất từ tình thương vô điều kiện của Thiên Chúa. Ý thức này thúc đẩy ta sống đời Kitô hữu trong tâm tình tạ ơn và khiêm tốn. Hơn ai hết, Mẹ Maria chính là mẫu mực cho ta sống những tâm tình này như Mẹ diễn tả trong lời kinh tạ ơn (Magnificat).
III. KINH NGUYỆN HỒI TƯỞNG (Đnl 8,1-20)
Môsê nhấn mạnh đến việc “nhớ lại” những hành động yêu thương của Chúa, “Anh em phải nhớ lại tất cả con đường mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn mươi năm nay trong sa mạc” (8,2). Nhớ lại hành động giải thoát của Chúa khi đưa dân khỏi Ai cập cũng như sự quan phòng của Người trong suốt hành trình sa mạc là điều tối quan trọng, vì nhờ đó, dân mới cảm nhận tình thương của Chúa và gắn bó với Người, vâng phục Người. Ngược lại, nếu quên đi những hồng ân đó, dân sẽ dần dần bất tuân và bất tín với Thiên Chúa.
Kinh nghiệm sa mạc giúp cho Israel thấy rõ cuộc sống của họ hoàn toàn lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa. Kinh nghiệm về sự thiếu thốn và đói khát đến độ chỉ có thể sống nhờ manna, kinh nghiệm đó giúp dân thấy rõ họ sống được là nhờ Chúa: “Thiên Chúa đã bắt anh em phải cùng cực, phải đói, rồi đã cho anh em ăn manna là của ăn anh em chưa từng biết.... ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Đnl 8,3) Bây giờ khi bước vào vùng đất mới với lương thực đầy đủ, người ta dễ cho rằng sự phong phú đó là do nỗ lực của con người chứ không do Thiên Chúa. Cho nên Môsê nhấn mạnh, “Anh em hãy ý tứ đừng quên Đức Chúa... Khi anh em được ăn, được no nê, xây nhà đẹp đẽ... thì anh em đừng kiêu ngạo mà quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai cập, khỏi cảnh nô lệ” (8,11-13).
Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, ta cần nhìn lại và nhớ lại cuộc đời mình trong ánh sáng của Chúa, nhờ đó ta cảm nhận sự hiện diện và tình thương của Chúa trong cuộc đời mình cách cụ thể và rõ ràng. Có thể gọi là kinh nguyện hồi tưởng.
Cách cụ thể, hãy đặt mình trước mặt Chúa và nhớ lại. Hãy nhớ lại những khoảnh khắc đặc biệt khiến ta cảm nhận rõ ràng sự can thiệp của Chúa. Hãy nhớ lại những người đã làm ơn cho ta và ghi đậm dấu ấn trong đời ta vì chính Chúa ban ơn cho ta qua họ. Hãy nhớ lại những biến cố lớn trong đời. Hãy nhớ lại những thương tích còn lại trong tâm hồn, và xin Chúa chữa lành. Hãy nhớ lại những người mà ta gây thương tích cho họ, dù vô tình hay hữu ý, và xin Chúa chữa lành họ.
Nhớ lại tất cả những điều trên trong ánh sáng của Chúa giúp ta cảm nhận tình thương của Chúa trong đời mình, giúp ta được chữa lành khỏi những thương tích trong tâm hồn, và giúp ta vững bước đi về phía trước trong tin yêu và phó thác.
ĐGM. Nguyễn Khảm
Nguồn: tgpsaigon.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét