HỌC HỎI THÁNH KINH 100 TUẦN: TUẦN 22 VÀ 23
Tuần 22: Sách Thủ lãnh
I. THẦN HỌC VỀ LỊCH SỬ
1. Biên soạn sách Thủ Lãnh
Các Thủ Lãnh là những người đã đóng vai trò hướng dẫn Dân Chúa trong suốt 150 năm sau ông Giôsua (1200-1050 trước Công nguyên). Tuy nhiên sách Thủ Lãnh đã chỉ được biên soạn trong thời Lưu đày, nghĩa là sau đó khoảng 400-500 năm. Như thế, sách được biên soạn không chỉ nhằm mục đích ghi lại những sự kiện lịch sử nhưng còn trình bày một cái nhìn thần học về lịch sử.
2. Thần học về lịch sử
Thần học căn bản về lịch sử mà tác giả muốn trình bày là: tội lỗi dẫn đến hình phạt, còn sám hối dẫn đến ơn tha thứ và giải thoát (đọc 6,1-10; 10,6-16). Ý nghĩa thần học này rất quan trọng đối với dân lưu đày: họ đã mất quê hương vì tội lỗi của họ, nhưng nếu họ biết ăn năn hối cải thì Thiên Chúa sẽ tha thứ và giải thoát họ. Người Kitô hữu cũng cần tập nhìn những biến cố lịch sử bằng cặp mắt đức tin để khám phá sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa ngay trong lịch sử.
II. NHỮNG BÀI HỌC LỚN CHO ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
1. Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn
Dân Israel đã ký kết giao ước với Thiên Chúa; tuy nhiên họ đã không trung thành với giao ước. Họ bỏ Chúa để chạy theo các ngẫu tượng mà dân địa phương tin rằng mang lại sự thịnh vượng như Baal, Asherah, Astarte... Họ còn bắt chước cả những cách tế tự của dân địa phương, vd. giết người để dâng hiến làm của lễ.
Về phía Thiên Chúa, Ngài không bao giờ mất lòng kiên nhẫn. Dù dân có phản bội giao ước, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương họ bằng tình yêu trung tín. Nếu tội lỗi của dân dẫn đến án phạt thì cần nhìn những án phạt này trong viễn tượng của tình yêu trung tín đó, nghĩa là Thiên Chúa trừng phạt dân không phải vì căm thù mà vì tình yêu thương, để sửa dạy dân và kêu gọi họ trở về đường ngay nẻo chính. Vậy người Kitô hữu có thể rút được bài học nào cho chính mình và cho Giáo Hội?
2. Thiên Chúa sử dụng những con đường lạ lùng.
Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa sử dụng cả những con người yếu đuối và tội lỗi, chẳng hạn những phụ nữ chân yếu tay mềm, hay Samson nặng nề xác thịt... Điều này làm ta liên tưởng đến lời thánh Phaolô: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa đã chọn để hạ gục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1Cor 1,27-29). Đồng thời mỗi Kitô hữu cần nhớ lại lời Thánh Kinh: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (x. 1Cor 1,31) và “Kho tàng ấy, chúng tôi chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng tôi” (2Cor 4,7).
3. Israel giữa dân ngoại: hình ảnh của Giáo Hội ngày nay
So sánh với các dân Canaan và Philitinh, Israel vừa thua kém về dân số vừa thua kém về khả năng. Trong thế giới ngày nay, xem ra càng ngày Giáo Hội càng trở thành cộng đoàn thiểu số, đồng thời bị tấn công về nhiều mặt.
Tuy nhiên, dù sống trong hoàn cảnh nào, Dân Chúa vẫn có trách nhiệm làm muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mt 5,13). Điều quan trọng là phải xem lại bản thân mình còn chất muối và ánh sáng không; nếu không sẽ trở thành vô dụng và bị quăng ra ngoài cho người ta chà đạp.
III. SÁCH THỦ LÃNH VÀ ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
1. Bạn hãy đọc lại câu chuyện cuộc đời Samson, một vị thủ lãnh nổi tiếng trong lịch sử Israel.
2. Từ câu chuyện này, bạn có thể rút ra điều gì cho đời sống thiêng liêng của mình?
Tuần 23: SÁCH BÀ RUTH
Có nhiều cách giải thích nội dung sách Ruth, ví dụ đề cao những nhân đức trong đời sống gia đình qua hình tượng các nhân vật như ông Booz và bà Ruth, hoặc phê phán những quan niệm thời xưa về hôn nhân... Tuy nhiên nội dung chính yếu cần đề cập tới là dung mạo Thiên Chúa được bày tỏ qua tác phẩm, và đức tin hiểu như sự đáp trả của con người trước tiếng gọi của Thiên Chúa.
I. BÀ NAOMI VÀ CUỘC VẬT LỘN VỚI THIÊN CHÚA
1. Từ một phụ nữ đạo đức bình thường đến tâm trạng cay đắng
“Đừng gọi tôi là Naomi nữa, hãy gọi tôi là Mara” (1,20). Mara có nghĩa là Chúa giáng phạt: “Đấng Toàn năng đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng.” Lý do dẫn bà Ruth đến tâm trạng cay đắng này là vì bà bị mất tất cả: “Tôi ra đi, của cải dư đầy, Đức Chúa đem tôi về, hai bàn tay trắng” (1,21); không những mất của cải mà còn rơi vào tình trạng góa bụa cô đơn.
2. Sự Ac là nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng vô thần và mất niềm tin
Thiên Chúa bị coi là nguyên nhân mọi đau khổ: “Đức Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Đấng Toàn năng đã để tôi đau khổ” (1,21); vì thế không còn thấy được dung nhan Thiên Chúa tình yêu. Nhận xét này mời gọi ta nhìn lại kinh nghiệm cá nhân của mình khi phải đối diện với đau khổ. Ta cũng rất dễ đánh mất niềm tin và cậy trông vào Thiên Chúa khi phải đối diện với những thử thách và đau khổ. Đây thực sự là một vấn nạn lớn, đúng hơn là một mầu nhiệm và ta chỉ tìm được câu trả lời khi chiêm ngắm Chúa Kitô chịu đóng đinh.
II. BÀ RUTH VÀ NHỮNG NHÂN ĐỨC TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH
1. Gắn bó với gia đình chồng, kể cả trong niềm tin tôn giáo:
Bà Ruth gắn bó với mẹ chồng: “Mẹ đi đâu, con đi đó; mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con” (1,16). Bà lại là người có lòng nhân hậu, lo cho mẹ già: “Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất... “ (2,12).
2. Thánh Phaolô và đời sống gia đình
Tấm gương của bà Ruth làm ta liên tưởng đến lời nhắn nhủ của thánh Phaolô về đời sống gia đình: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Eph 6, 1-4).
3. Tấm gương của bà Ruth còn mời gọi ta nhìn lại mối quan hệ của ta với Thiên Chúa: trong đời sống đức tin, liệu ta có gắn bó với Chúa trong mọi hoàn cảnh như bà Ruth gắn bó với gia đình nhà chồng?
III. ĐƯỜNG LỐI CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
1. Thiên Chúa điều khiển mọi sự
Xem ra chính bà Naomi đã sắp xếp mọi sự và đã đạt được mục đích: chính bà khuyên Ruth đến với ông Booz (3,1-4) và bà đã có người bảo tồn dòng dõi (4,14-15). Tuy nhiên khi đạt kết quả thì chính Thiên Chúa lại được ca tụng: “Chúc tụng Đức Chúa, Đấng hôm nay đã không để cho bà phải thiếu thốn người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Israel” (4,14). Như thế, tác giả đã nhìn mọi sự từ quan điểm đức tin. Chính Thiên Chúa là Chủ mọi sự. Ngài vận dụng mọi sự nhằm mục đích cứu độ con người, kể cả thông qua những tính toán tự nhiên của con người.
2. Chúa Kitô thuộc dòng dõi Davit, có tổ tiên là bà Ruth (Đọc Ruth 4, 17-22 // Mt 1,1-5)
Trong gia phả của Chúa Giêsu, có tên của bốn phụ nữ và cả bốn phụ nữ này đều có vấn đề trong đời sống riêng :
* Tama (x. St 38, 15-20)
* Rakhab (x. Josua 2,6. 22-25)
* Ruth (x. Ruth, chương 3)
* Bathsêba (x. 2Samuel, chương 11)
* Tama (x. St 38, 15-20)
* Rakhab (x. Josua 2,6. 22-25)
* Ruth (x. Ruth, chương 3)
* Bathsêba (x. 2Samuel, chương 11)
Khi Thiên Chúa làm người, Ngài đã chấp nhận có mặt trong một dòng dõi được ghi dấu bởi tội lỗi; nhờ đó Ngài cứu nhân loại khỏi tội lỗi. Định hướng này được thể hiện rõ nét trong suốt cuộc sống trần thế của Chúa Giêsu: Ngài đồng bàn với những người tội lỗi đến nỗi bị xã hội lên án. Ơn Cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ bất cứ ai. Vấn đề là mỗi người có sẵn sàng mở lòng ra để đón nhận Ơn Cứu độ đó không.
ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: tgpsaigon.net
Nguồn: tgpsaigon.net
HỎI THÁNH KINH 100 TUẦN: TUẦN 24 VÀ 25
Tuần 24: Sách Samuel 1
(Chương 1-15)
(Chương 1-15)
I. TỔNG QUÁT
1. Tác phẩm
Ở nguồn gốc, sách Samuel 1 & 2 chỉ là một nhưng khi dịch Thánh Kinh từ tiếng Do thái sang tiếng Hi Lạp (bản 70) thì sách được chia ra làm hai. Các bản dịch sang tiếng La Tinh và các ngôn ngữ khác cũng theo sự phân chia này.
Sách Samuel là tập hợp các bài tường thuật về lịch sử Israel từ khi dân vào đất Canaan (thế kỷ 12) đến thời lưu đày (587 trước Công nguyên). Sứ điệp chính của tác phẩm là Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng, và qua Môsê đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đã ký kết giao ước với họ. Lời Thiên Chúa ban qua Môsê vẫn tiếp tục hướng dẫn Dân Chúa cũng như các vị lãnh đạo dân. Nếu dân trung thành với luật giao ước thì sẽ thịnh vượng và bình an; ngược lại, họ sẽ phải chịu hình phạt từ những tai họa thiên nhiên đến sự xâm lăng của quân thù và cả sự lưu đày.
Sách Samuel không phải là sách lịch sử theo nghĩa hiện đại cho bằng trình bày thần học về lịch sử, nghĩa là nói đến mối quan hệ của Thiên Chúa với dân Người.
2. Nhân vật
Ba nhân vật chính trong sách: Samuel và hai vị vua đầu tiên trong lịch sử Israel: Saulê và Davít. Những bài tường thuật về việc sinh hạ Samuel cũng như các nhân vật khác cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để cứu độ dân. Saulê là vị vua đầu tiên trong lịch sử Israel. Ơng được Thiên Chúa tuyển chọn nhưng sau đó lại bị ruồng bỏ vì không trung thành. Sự nghiệp của Saulê kết thúc trong cuộc chiến chống lại người Philitinh (1 Sam 31). Davít được phong vương từ rất sớm (1 Sam 16) nhưng ông phải trải qua nhiều thử thách và đau khổ mới thực sự nắm trọn vương quyền. Ơng được xem như vị minh quân mẫu mực của dân Israel và cuộc đời ông chất chứa nhiều bài học sống động cho đời sống đức tin của ta.
3. Dàn bài tổng quát
Phần I (1 Sam 1-3) : Samuel và nhà Eli
Phần II (1 Sam 4-7) : Hòm bia Giao ước
Phần III (1 Sam 8-15) : Vua Saulê
Phần IV (1 Sam 16-31) : Saulê và Davít
Phần V (2 Sam 1-8) : Chiến đấu giành
vương quốc
Phần VI (2 Sam 9-20): Vua Davít
Phần VII (2 Sam 21-24): Phụ lục
Phần II (1 Sam 4-7) : Hòm bia Giao ước
Phần III (1 Sam 8-15) : Vua Saulê
Phần IV (1 Sam 16-31) : Saulê và Davít
Phần V (2 Sam 1-8) : Chiến đấu giành
vương quốc
Phần VI (2 Sam 9-20): Vua Davít
Phần VII (2 Sam 21-24): Phụ lục
II. SAMUEL
1. Sinh hạ Samuel
Trong lời cầu của bà Hanna (1,9-19a), bà hứa với Chúa là nếu bà sinh con trai, bà sẽ dâng con cho Chúa như một nadia (nazir) (x. Ds 6). Samson (Tl 13-16) cũng có lời khấn nazir nhưng do sứ thần đòi hỏi chứ không do mẹ ông hứa.
Tên của Samuel có nghĩa là “người đến từ Thiên Chúa.” Tên gọi này vừa nói lên sự đáp trả của Thiên Chúa trước lời khấn xin tha thiết của bà mẹ vừa cho thấy sứ mạng của Samuel.
Bài ca tạ ơn của bà Hanna (2,1-10) tương đương với Kinh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Lc 1,46-55). Cả hai bài ca đều diễn tả niềm vui khi sinh con, đều chúc tụng quyền năng Thiên Chúa, đều nói đến việc hạ bệ kẻ giàu có và nâng cao người nghèo khó.
2. Ơn gọi của Samuel
Hình ảnh thầy cả Eli với cặp mắt đã mờ (3,2) diễn tả đời sống đức tin của Israel lúc đó: ngọn đèn của Chúa, tức là Lời Chúa, đã bị dập tắt vì lối sống buông thả của hàng tư tế.
Thiên Chúa lên tiếng gọi Samuel nhưng cậu bé chỉ nhận ra tiếng Chúa gọi nhờ sự hướng dẫn của thầy cả Eli. Sự kiện này cho thấy tầm quan trọng của việc phân định thiêng liêng trong đời sống đức tin của ta.
“Này con đây”: lời đáp trả của Samuel gợi nhớ lời đáp trả của Abraham khi Chúa gọi ông hiến dâng Isaac (St 22,1-12). Thái độ sẵn sàng của Samuel tương phản với sự trì trệ của hàng tư tế không muốn lắng nghe Lời Chúa (2,25). Samuel là vị tư tế trung tín, được Chúa chọn để thay thế cho hàng tư tế bất trung.
3. Samuel thi hành sứ vụ
Tại Mizpah, dân Israel cử hành sám hối gồm việc đổ nước, ăn chay, và xưng thú tội lỗi. Samuel chính thức thi hành sứ vụ. Việc Samuel dựng bàn thờ kính Chúa nằm trong truyền thống lâu đời của Nôê (St 8,20), Abraham (St 12,7; 22,9), Isaac (St 26,25), Giacop (St 35,7), Môsê (Xh 17,15)...
Samuel là khuôn mặt duy nhất trong Thánh Kinh vừa là tư tế vừa là tiên tri và thẩm phán (thủ lãnh). Từ sau thời của ông, ơn gọi tiên tri và tư tế bắt đầu tách rời ra.
Tuần 25: Sách Samuel 1
(Chương 16-31)
(Chương 16-31)
I. ĐAVÍT ĐƯỢC XỨC DẦU PHONG VƯƠNG (đọc 16, 4-13)
1. Cách thế tuyển chọn của Thiên Chúa
Samuel được Thiên Chúa sai đến xức dầu phong vương cho một người con trai của ông Giesê. Thế nhưng những người mà Samuel nghĩ rằng Chúa sẽ chọn lại không phải là người Chúa muốn. Và Người phán: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng” (16,7).
2. Học cách nhìn của Chúa
Ở mọi thời đại, cách riêng trong thời đại ngày nay, người ta chú trọng rất nhiều đến dáng vẻ bên ngoài: trong sản xuất kinh doanh, trong việc đánh giá con người, kể cả trong đường hướng giáo dục, ví dụ chủ nghĩa thành tích dẫn đến bao nhiêu gian dối trong môi trường học đường.
Càng sống trong một môi trường như thế, người Kitô hữu càng cần phải tập sống chiều sâu nội tâm, trau giồi con người bên trong, hơn là chỉ quan tâm đến những hình thức bên ngoài.
II. ĐAVÍT CHIẾN ĐẤU CHỐNG GOLIÁT (đọc 17, 40-47)
Nhìn từ bên ngoài, cuộc chiến giữa Đavít và Goliát quả là cuộc chiến không cân sức. Tương tự như thế là cuộc chiến giữa Giáo Hội và thế gian. Thế nhưng trong cuộc chiến khốc liệt đó, Đavít đã chiến thắng. Vậy bí quyết chiến thắng của Đavít ở đâu? Lời tuyên bố của Đavít đã nói lên tất cả, “Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Israel mà mày thách thức” (17,47).
Cũng thế, trong cuộc chiến đấu với thế gian, khi nào Giáo Hội chỉ tìm nương tựa vào sức mạnh quân sự hay kinh tế của người đời, Giáo Hội sẽ thất bại. Ngược lại, khi Giáo Hội thực sự nương tựa vào Chúa thì Giáo Hội sẽ chiến thắng. Đó không phải là chiến thắng theo nghĩa lợi lộc cá nhân nhưng là chiến thắng của tình yêu và chân lý.
Mỗi Kitô hữu cũng cần ghi nhớ bài học này cho đời sống thiêng liêng của mình, nhất là khi phải chiến đấu chống lại tội lỗi.
III. VUA SAUL VÀ TÍNH GHEN TỊ
1. Sự kiện
Sau khi Đavít chiến thắng tên Philitinh, dân chúng hò reo ca tụng Đavít, và Sách Thánh ghi nhận rằng “Từ ngày đó về sau, vua Saul nhìn Đavít với con mắt ghen tị” (18, 6-9). Sự ghen tị đó đã thúc đẩy Saul nhiều lần tìm cách giết Đavít (x. 18, 10-12; 19,8-10)
2. Ghen tị
Nguồn gốc của sự ghen tị là tính ích kỷ, không nhìn thấy ích chung, chỉ thấy quyền lợi và địa vị của mình. Từ đó, tìm cách hạ thấp thành công của người khác và vui mừng trước thất bại của người khác. Khi không kềm chế được, sự ghen tị còn có thể dẫn người ta đến chỗ phạm nhiều tội ác khác.
Ghen tị là một thói xấu có mặt nơi mỗi người và có thể gây nhiều tác hại cho đời sống chung cũng như công việc chung, kể cả việc tông đồ. Điều quan trọng là phải ý thức và cố gắng vượt qua. Để chữa trị thứ bệnh phổ biến này, cần tập nhìn vào ích chung và chương trình của Chúa hơn là chỉ nghĩ đến quyền lợi và sở thích riêng của mình. Nếu ta thực sự tha thiết với công trình của Chúa và ích lợi chung của mọi người, ta sẽ vui mừng đón nhận và cộng tác với bất cứ ai phục vụ ích lợi chung và công trình của Chúa.
IV. SỰ QUẢNG ĐẠI CỦA ĐAVÍT
Đối lại sự ghen tị của Saul, Sách Thánh làm nổi bật lòng quảng đại của Đavít. Đavít đã sẵn lòng tha thứ cho kẻ làm hại mình (24,1-8). Động lực của lòng quảng đại này không chỉ là những lý do tự nhiên nhưng sâu xa hơn, chính là tầm nhìn đức tin của Đavít. Ông nhìn Saul là người được Chúa xức dầu, và vì thế không thể ra tay sát hại (24,7).
Tấm gương của Đavít làm nổi bật lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (Mt 5,44). Hãy để Chúa xét xử mỗi người theo việc họ làm. Hãy tập đặt mình vào hoàn cảnh người khác để có thể cảm thông và chia sẻ hơn là lên án và trả thù.
ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: tgpsaigon.net
Nguồn: tgpsaigon.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét