CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN A (NHIỀU TÁC GIẢ)
CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Is 49,14-15; 1Cr 4,1-5; Mt 6, 24-34
MỤC LỤC
1. Tiền bạc.
2. Thiên Chúa quan phòng.
3. Đừng lo lắng – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu.
4. Thiên Chúa quan phòng.
5. Bắt cá hai tay – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
6. Lạc quan – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
7. Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi – Anmai
8. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ.
9. Thiên Chúa quan phòng.
10. Suy niệm của ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan.
11. Trung tín – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
12. Chọn Thiên Chúa hay tiền của.
13. Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông.
14. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu.
15. Thiên Chúa quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
16. Tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.
17. Tiền và Nước Trời
18. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện.
19. Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa.
20. Con là con của Chúa.
21. “Dân ngoại đạo!”.
22. Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy.
23. Thiên Chúa hay thần tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo.
24. Suy niệm của Lm. Giuse Lê Kim Ánh.
25. Nguồn sống – Lm Vũ Đình Tường.
26. Đơn sơ như trẻ nhỏ.
27. Quan tâm đúng, lo lắng không đúng.
28. "Không ai có thể làm tôi hai chủ".
29. Không thể thờ hai chủ.
30. Tin Chúa quan phòng.
31. Gợi ý giảng của Lm Carôlô.
32. Chú giải của Noel Quesson.
33. “Các con chớ áy náy về ngày mai”.
34. Suy niệm của Lm Hồ Thông.
35. Giằng co – Trầm Thiên Thu.
36. Tiền có cứu độ con người được không?.
37. Nô lệ hay tự do – Thiên Phúc.
Lời Chúa: Is 49,14-15; 1Cr 4,1-5; Mt 6, 24-34
MỤC LỤC
1. Tiền bạc.
2. Thiên Chúa quan phòng.
3. Đừng lo lắng – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu.
4. Thiên Chúa quan phòng.
5. Bắt cá hai tay – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
6. Lạc quan – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
7. Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi – Anmai
8. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ.
9. Thiên Chúa quan phòng.
10. Suy niệm của ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan.
11. Trung tín – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
12. Chọn Thiên Chúa hay tiền của.
13. Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông.
14. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu.
15. Thiên Chúa quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
16. Tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.
17. Tiền và Nước Trời
18. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện.
19. Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa.
20. Con là con của Chúa.
21. “Dân ngoại đạo!”.
22. Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy.
23. Thiên Chúa hay thần tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo.
24. Suy niệm của Lm. Giuse Lê Kim Ánh.
25. Nguồn sống – Lm Vũ Đình Tường.
26. Đơn sơ như trẻ nhỏ.
27. Quan tâm đúng, lo lắng không đúng.
28. "Không ai có thể làm tôi hai chủ".
29. Không thể thờ hai chủ.
30. Tin Chúa quan phòng.
31. Gợi ý giảng của Lm Carôlô.
32. Chú giải của Noel Quesson.
33. “Các con chớ áy náy về ngày mai”.
34. Suy niệm của Lm Hồ Thông.
35. Giằng co – Trầm Thiên Thu.
36. Tiền có cứu độ con người được không?.
37. Nô lệ hay tự do – Thiên Phúc.
1. Tiền bạc
Không ai có thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được. Lời Chúa phán trên quả là một sự thật, một chân lý được áp dụng cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Điều Chúa đòi buộc chúng ta đó là phải phục vụ Ngài chứ đừng phục vụ tiền của. Tiền của là điều cần thiết cho cuộc sống, nhưng đừng để nó trở thành mục đích chi phối toàn bộ cuộc đời chúng ta và biến chúng ta trở thành những kẻ nô lệ cho nó. Hãy kiếm sống một cách lương thiện nhưng đừng để cho cõi lòng của mình trở thành một túi tham không đáy. Đừng để cho tiền của trở thành một thứ thần tượng của lòng mình, bởi vì con bò vàng của Cựu Ước vẫn đứng vững qua dòng thời gian.
Thế nhưng, như chúng ta đã biết: tiền của là một tên đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ hà khắc nếu chúng ta quá quyến luyến và dính bén với nó. Ngoài ra chúng ta còn phải biết sử dụng tiền của để bảo đảm cuộc sống vật chất cho bản thân và những người thân yêu, cũng như để giúp đỡ cho những người túng cực và thiếu thốn. Bằng không thì tiền của sẽ trở nên nguyên nhân mọi bất hạnh.
Hẳn chúng ta đã biết, Giuđa đã phản bội Chúa cũng chỉ vì tiền bạc. Hắn đã mất đi tất cả chỉ vì để cho lòng mình quá dính bén với tiền bạc. Đức Thánh Cha Phaolô VI, khi còn làm Tổng Giám Mục Milan, trong một bức thư mục vụ, đã khuyên nhủ mọi người trong giáo phận phải biết đề cao cảnh giác trước những hiểm nguy do tiền của gây nên, ngài viết: Tại sao Chúa Giêsu đã tỏ ra nghiêm khắc đối với những kẻ giàu có? Bởi vì tiền của thường ru ngủ tâm hồn, làm cho chúng ta nghĩ rằng nó là một sự thiện tuyệt đối, có giá trị vạn năng, khả dĩ thoả mãn được mọi nhu cầu và mọi khát vọng của chúng ta, cũng như đem lại cho chúng ta sự bảo đảm an toàn và hạnh phúc. Tiền của nhiều lúc đã trở thành một thứ ngẫu tượng, lừa dối chúng ta và làm cho chúng ta trở thành nô lệ.
Dĩ nhiên tiền của cũng có giá trị của nó khi chúng ta biết sử dụng nó để phục vụ con người. Nhưng nếu chúng ta không biết dứt khoát bằng một tinh thần nghèo khó, thì chúng ta sẽ trở nên đầy tớ cho nó. Lúc bấy giờ nó sẽ chế ngự tư tưởng và cõi lòng chúng ta. Nó sẽ nhuộm đen cái nhìn của chúng ta về cuộc đời, cắt đứt mọi liên hệ tình cảm đối với người chung quanh, dập tắt mọi ước vọng cao thượng, hạ thấp đời sống luân lý và đạo đức. Nó sẽ làm cho bản thân chúng ta trở nên kiêu căng, cõi lòng chúng ta trở nên băng giá.
Để kết luận, đạo của chúng ta là đạo của tình thương, nhưng lòng đam mê tiền bạc sẽ huỷ hoại tình thương ấy. Đạo của chúng ta đòi phải sống kết hiệp với Chúa, nhưng lòng đam mê tiền bạc sẽ làm cho chúng ta xa cách và quay lưng chống lại Ngài.
2. Thiên Chúa quan phòng
Hơn bao giờ hết, con người thời nay đang sống trong một sự khắc khoải lo sợ. Đúng vậy, người ta lo sợ trước bệnh tật, tuổi già và chết chóc. Người ta lo sợ trước chiến tranh và vũ khí nguyên tử. Người ta lo sợ trước những điều rủi ro làm mất tiền, mất tình và mất hạnh phúc. Cuộc sống như trở nên bấp bênh vô định. Khắp nơi đều có những đe doạ, những hiểm nguy. Người ta dùng tới mọi phương tiện miễn sao tìm thấy được một sự bảo đảm an toàn. Từ những phương tiện chính đáng như các công ty bảo hiểm đến những phương tiện kỳ cục và vô lý chẳng hạn như bói toán và kiêng cữ.
Tại thành phố Paris có tới 15.000 thầy bói, hằng năm thu được những lợi tức đáng kể. Cứ ba người Pháp thì lại có một người đi nghe bói toán và những chuyện nhảm nhí khác. Tất cả những tờ báo lớn đều có mục tử vi. Có tờ chỉ bỏ mục này có một ngày thì liền bị giảm mất 40.000 số trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Tại Đức và nhiều quốc gia văn minh khác cũng thế. Với chúng ta cũng vậy. Đứa bé mới sinh ra người ta cũng chấm tử vi trọn đời cho nó. Hằng năm người ta lên chùa vào dịp tết để xin sâm, để hái lộc đầu xuân. Hằng ngày mỗi khi mất trộm mất cắp người ta vội đi hỏi thầy bói. Rồi thì kiêng cữ đủ thứ, đủ chuyện để khỏi xui khỏi rủi. Chúng ta muốn biết trước hậu vận tương lai, nhưng mà tiền cho thầy bói chỉ chuốc thêm lo vào mình. Sự sợ hãi vẫn còn đó, nó làm cho chúng ta dường như bị tê liệt. Và sự lo sợ trở thành một tiếng kêu xin cần được cứu vớt và an toàn. Có điều đáng tiếc là họ đã không biết đi tìm sự cứu vớt và an toàn ấy nơi Thiên Chúa vì họ cho rằng Thiên Chúa là một cái gì mơ hồ và xa xôi. Bao lâu người ta không còn tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, chắc chắn người ta sẽ bị thất bại.
Đúng thế, với chúng ta Thiên Chúa không phải là một ông chủ hà khắc nhưng là một người Cha đầy yêu thương và thương xót. Đời sống của chúng ta sẽ không còn lo âu khắc khoải nếu chúng ta bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài và nếu chúng ta ra sức thực thi thánh ý Ngài. Bởi vì Ngài đã tính trước và thấy trước mọi sự. Đồng thời Ngài lại đặc biệt chăm sóc cho chúng ta: Các con hãy nhìn xem chim trời và cánh hoa đồng nội. Các con còn trọng hơn chúng bội phần. Nào ai trong các con lo lắng mà có thể làm cho thân mình lớn thêm được một tấc sao. Và như thế, người tin tưởng vào Chúa thì sự lo sợ chỉ là một cái gì kỳ cục, bởi vì chúng ta không phải là những kẻ vất vưởng, bị bỏ rơi và tiếng kêu cứu của chúng ta không phải là những tiếng kêu vô vọng chẳng được đáp trả.
Tuy nhiên, cần phải có một chút can đảm chúng ta mới dám phó thác mọi sự cho Chúa, chúng ta mới dám nhảy vào vòng tay thương yêu của Ngài.
Tại Nam Hàn, hồi đó có tin quân Bắc Hàn cùng với quân Liên Xô sẽ mở những cuộc tấn công vượt qua biên giới. Dân chúng sống gần vùng phi quân sự vội vã đi mua sắm những nhu yếu phẩm nào gạo, nào sữa, nào đường, nào thuốc lá. Chỉ có những tiệm sách là im lìm không ai đặt chân tới, vì trong một tình trạng căng thẳng như thế, sách vở phỏng có ích lợi chi. Thế nhưng, cũng có một thiếu phụ bước vào và hỏi mua một cuốn Kinh Thánh và một cuốn giáo lý. Người bán hàng sững sờ ngạc nhiên và tự hỏi: Một cuốn Kinh Thánh và một cuốn giáo lý ích gì khi mà chiến tranh sắp bùng nổ. Nhưng người thiếu phụ đã bình tĩnh trả lời: Những cuốn sách này ở mọi nơi và trong mọi lúc đều đem lại lợi ích.
Sống giữa một hoàn cảnh đầy lo âu sợ hãi, câu trả lời của người thiếu phụ phải chẳng đã làm cho chúng ta xúc động và cảm thấy hổ thẹn.
3. Đừng lo lắng – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Dường như sự tiến bộ về nhiều lãnh vực không làm con người trên thế giới cảm thấy thanh thản hơn. Trái lại, nó tạo ra những mối lo âu mới, khiến con người sống trong trạng thái bất an, căng thẳng. Bao nhiêu triệu người phải đối mặt với nạn thất nghiệp do khủng hoảng, với nạn đói và thiếu nước, với những bệnh mới chưa có thuốc chữa. Bao nhiêu triệu gia đình sống trong bạo hành, bị tan vỡ; giới trẻ bơ vơ, rơi vào nghiện ngập dưới đủ mọi hình thức. Con người phải sống trong một thiên nhiên bị khai thác đến cạn kiệt, nên thiên nhiên tốt lành lại trở nên kẻ thù đe dọa con người. Các nước lớn phải chạy đua vũ trang để giữ vị thế quân sự. Nói chung người giàu, kẻ nghèo, nước giàu, nước nghèo đều không sao thoát được nỗi lo âu trước tương lai với bao bài toán mới chưa có lời giải đáp.
Cách nay hai ngàn năm, Đức Giêsu đã dạy môn đệ Ngài đừng lo. Xem ra nỗi lo âu đã có từ xa xưa rồi. Người xưa cũng phải lo những nhu cầu căn bản: lo ăn, lo mặc (c. 25). Đức Giêsu mời môn đệ nhìn ngắm những đàn chim trời (c. 26). Chúng có vẻ thảnh thơi, không vất vả làm việc, cũng không tích trữ. Nhưng chúng vẫn sống no đủ, vì được Cha trên trời dưỡng nuôi. Ngài còn mời môn đệ nhìn ngắm những bông huệ ngoài đồng (c. 28), ngắm vẻ đẹp của chiếc áo Thiên Chúa mặc cho chúng, đơn sơ nhưng sang trọng hơn cả áo vua Salomon. Khi ngắm chim trời và hoa huệ, ta sẽ thấy lòng nhẹ nhàng, thư thái, vì Cha quan tâm săn sóc đến cả những sinh vật bé bỏng và tầm thường. Khi biết mình có giá trị hơn chúng nhiều, được Cha quý hơn nhiều, chúng ta được giải phóng khỏi nỗi lo canh cánh về đời sống vật chất.
Thật ra kitô hữu không phải là người ngây thơ, không biết lo. Họ cũng chẳng phải là hoa huệ hay chim trời sống vô tư, thụ động. Kitô hữu cũng phải lo: lo liệu, lo toan, thậm chí lo xa nữa. Nhưng họ lo mà như không lo, lo trong bình an thanh thản, vì đó là cái lo của một người con biết Cha trên trời đã lo cho mình, biết Cha thấu rõ nhu cầu thầm kín của mình và sẽ cung cấp đủ (cc. 32-33). Đó không phải là cái lo âu, lo lắng xao xuyến, hay lo sợ bồn chồn của người dân ngoại không có đức tin (cc. 30. 32). Nhưng đó là cái lo của một người con có tinh thần trách nhiệm. Kitô hữu không phải là kẻ ăn xổi ở thì, sống chỉ biết hôm nay. Nhưng họ lại không để mình bị nỗi lo âu về ngày mai đè nặng, đơn giản vì tương lai của họ ở trong tay Thiên Chúa.
Sống tín thác vào sự quan phòng của Chúa không phải là khoanh tay nhưng là nỗ lực làm mọi sự hết mình trong bình an. Hãy để mọi nỗi lo toan của ta ở dưới và ở sau nỗi lo toan về Nước Chúa. Hãy để cho đời mình chỉ phụng sự một chủ là Thiên Chúa (c. 24). Khi dành ưu tiên cho Thiên Chúa, ta sẽ thấy mình chẳng thiếu gì.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới, nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời. Chúng con phải đối diệnvới bao thách đố của cuộc sống, của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình, của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của vật chất và quyền lực, nhưng cho chúng con giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu, lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con sống thực tế, nhưng không thực dụng; biết xoay xở nhưng không mưu mô; lo cho tương lai cá nhân, nhưng không quênbao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc, giữa những xâu xé trước bao lựa chọn, xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng, để múc lấy ánh sáng và sức mạnh, để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu, xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân, làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh, và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
4. Thiên Chúa quan phòng.
Có một nhà hiền triết quan sát cơn gió thổi qua đồng cỏ. Khi cơn gió nổi lên, cây cỏ đều ngả theo chiều của gió. Khi cơn gió tạm ngưng thì cây cỏ lại ngóc đầu lên. Khi con gió đổi chiều, thì cây cỏ cũng đổi chiều.
Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Cây cỏ là chúng ta, còn cơn gió là số mệnh. Số mệnh không bao giờ để cho chúng ta nghỉ yên, nó thổi tung và thổi tung mãi, khi thì thổi bên trái, lúc thì thổi bên phải. Điều quan trọng là phải biết nương theo chiều gió. Đừng chống cự, đừng phản kháng, nhưng hãy biết gắn bó với số mệnh của mình, bởi vì số mệnh là chính Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài.
Từ đồng cỏ, nhà hiền triết ghé thăm một người bạn quen. Thoạt khi tới cửa, thì con chó sủa vang, đứa bé đang chơi ngoài sân, nhìn thấy người lạ, bèn chạy đi nép mình vào vòng tay người mẹ. Nhà hiền triết càng tiến tới, thì đứa trẻ níu chặt lấy đôi tay người mẹ.
Thấy vậy, nhà hiền triết bèn nói: Đứa trẻ sợ hãi là chúng ta. Người lạ mặt là số mệnh, còn vòng tay chở che là Thiên Chúa. Số mệnh nhiều khi âm thầm từng bước tiến lại gần, khiến chúng ta sợ hãi, thế nhưng điều khôn ngoan là hãy noi gương bắt chước đứa trẻ, biết nép mình vào vòng tay uy quyền của Thiên Chúa. Tương lai càng đen tối, chúng ta lại càng phải níu chặt bàn tay của Thiên Chúa. Sống dưới cái nhìn trìu mến của Ngài, chúng ta sẽ không còn sợ hãi. Nếu đứa trẻ nhận ra tôi là một người quen, thì nó sẽ vui mừng chạy ra và ôm lấy. Cũng vậy, số mệnh dù có bẽ bàng thì cũng là thánh ý của Thiên Chúa. Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ, chúng ta sẽ sẵn sàng đón nhận không kêu ca oán trách.
Thế nhưng có một người đàn bà đã lên tiếng phản đối: Làm sao tôi có thể giơ tay đón nhận số mệnh, vì nó như những ngọn roi quất vào cuộc đời tôi. Chồng tôi bị chết trong chiến tranh, và bây giờ, mười mấy năm sau, đứa con trai tôi cũng lại chết trong chiến tranh.
Nhà hiền triết thông cảm với những đau khổ ấy, nhưng rồi ông đã trả lời bằng một giọng đầy an ủi khích lệ: Tôi biết, rất có thể chúng ta sẽ phải khóc dưới sức nặng của thập giá, nhưng chúng ta không có quyền chất vấn Thiên Chúa. Chúng ta phải tin rằng Đấng đã dựng nên những bông hoa xinh tươi, những trái cây ngon ngọt, Đấng đã cẩn thận sắp xếp từng nguyên tử của vật chất, thì Ngài sẽ chẳng để cuộc sống con người bị bất ổn.
Con người đau khổ, đó là điều dĩ nhiên. Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và vô ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng ta. Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ. Vậy thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó. Nếu không có Nước Trời, thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng ta. Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc tuyệt vời ấy.
Đừng hỏi tại sao Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình của Ngài. Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động. Thái độ khôn ngoan nhất là biết nép mình vào bàn tay Chúa. Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ, nếu chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều khổ đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên Chúa vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ đồng nội rất nhiều.
5. Bắt cá hai tay – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có lẽ chúng ta đã từng nghe câu nói: “Bắt cá hai tay”. Đây là một thành ngữ mà dân gian vẫn hiểu là dùng tay bắt cá. Không biết ở đây muốn nói là dùng hai tay bắt một con cá hay là dùng hai tay bắt hai con cá? Dầu bắt kiểu nào cũng chẳng có vấn đề gì? Hành vi bắt cá chắc chẳng có gì là đáng trách, không có gì kết thành tội bởi có cá để bắt thì tôi bắt kiểu nào chẳng được? Đâu ảnh hưởng đến ai?
Thực ra, “bắt cá hai tay” ở đây nghĩa là cá cược, bắt cá hai tay là cá cược cùng lúc hai bên, nhằm nói đến những người có tư tưởng nước đôi, hoặc tham lam, ôm đồm muốn có nhiều thứ, muốn làm nhiều việc cùng một lúc, không được việc này thì được việc khác, kết quả hoặc là không được gì, “xôi hỏng, bỏng không”. Đây mới là hành vi đáng trách. Họ sống theo kiểu “Gió thổi chiều nào thì ngả theo chiều đó”. Họ là người xu thời, thiếu trung thành. Đôi khi với lối thực dụng ấy còn “mất cả chì lẫn chài”.
Chính vì thế mà ca dao Việt Nam đã từng khuyên nhủ mọi người:
“Xin đừng bắt cá hai tay
Cá lội dưới nước, chim bay lên trời”
Ngày xưa Văn Công người nước Tấn đem quân sang đánh nước Vệ. Giữa đường gặp một ông lão đang bừa ruộng, cứ ngẩng mặt lên trời cười khanh khách mãi. Văn Công liền hỏi: “Ngươi cười cái gì thế?”.
Ông lão thưa rằng: “Tôi cười người láng giềng nhà tôi. Anh ta đưa vợ đi chơi nhà bà con. Giữa đường gặp người con gái hái dâu, anh ta thích quá, lén vợ rẽ xuống ruộng dâu nói chuyện với người con gái. Một chốc ngoảnh lên xem vợ đi đến đâu thì thấy một chàng đang vẫy vợ anh ta đi. Ấy câu chuyện chỉ có thế, tôi nghĩ mà tôi không sao nhịn cười được”.
Văn Công nghe nói, tỉnh ngộ kéo quân về. Về chưa đến nơi, thì đã thấy báo có giặc ngoài vào xâm phạm trên mạn Bắc trong nước.
Ở đời thường cái gì mình thích, thì người ta cũng thích. Đừng “đứng núi này trông núi kia”, rồi bỏ đi cái mình đang có để tìm cái chẳng phải của mình. Có khi cái mình có cũng về tay người khác, thật uổng công!
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta phải có thái độ chọn lựa dứt khoát giữa những thực tại Nước Trời và trần thế. Không thể bắt cá hai tay như nhiều người vẫn đang sống: họ hay làm việc thiện nhưng họ vẫn tham lam lỗi công bằng của người khác, hay có người bên ngoài rất sốt sắng hành hương, tham gia các hội đoàn nhưng vẫn gian dâm, tội lỗi . . . Họ bắt cá hai tay thì việc làm tốt của họ cũng chẳng có công trạng gì, đôi khi còn bị kết án bởi hành vi gian dối hai mặt của mình.
Chúa mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa, đừng “bắt cá hai tay” kẻo “mất cả chì lẫn chài”. Theo Chúa, đi theo đường lối của Chúa sẽ không bao giờ thiệt thòi vì hãy xem chim trời, hoa cỏ chúng không gieo không gặt thế mà chúng vẫn no đủ, sang trọng rực rỡ muôn màu. Chính Thiên Chúa đã làm nên mọi sự. Chính Ngài sẽ quan phòng mọi sự nếu chúng ta biết bước đi theo đường lối của Ngài.
Nói như thế không phải là chúng ta không làm vẫn có cái ăn. Điều quan yếu là phải làm mới có ăn, nhưng làm trong sự quang minh chính đại, làm trong đường lối huấn thị của Chúa thì sẽ được Chúa chúc phúc cho cả đời này và đời sau. Thế nên, điều quan yếu trong cuộc sống là ra công tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Nếu phải chọn lựa thì cần phải dứt khoát thoát khỏi những tham lam vô độ của: của cải, danh vọng, thú vui trần thế mau qua mà chọn lựa giá trị Nước Trời vĩnh cửu.
Ước gì chúng ta biết “ăn cây nào rào cây ấy”. Ước gì mỗi người chúng ta một khi đã nhận ra biết bao hồng ân Chúa ban thì hãy chung lời tạ ơn Chúa và sống tri ân tình Ngài. Xin đừng vì tham lam hai lòng mà sống gian dối trước mặt Thiên Chúa và người đời. Xin đừng “nửa thầy nửa thợ” mà đánh mất hạnh phúc hôm nay và Nước trời mai sau. Amen.
6. Lạc quan – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói rằng sống trong cuộc đời luôn phải chiến đấu để vươn lên, chiến đấu để tồn tại. Cuộc sống luôn có những khó khăn, luôn có những thử thách đòi hỏi con người phải can đảm vượt qua những khó khăn của dòng đời. Nhất là trong việc tìm kiếm cơm áo gạo tiền luôn là nỗi lo của hàng triệu người. Có kẻ ăn bữa no bữa đói. Có người ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Vì người đông của hiếm. Kinh tế thị trường lại cạnh tranh khiến kẻ mạnh luôn thắng còn người nghèo đói luôn thua thiệt. Những ngày tết vừa qua tại bệnh viện Truyền Máu và Huyết Học Quận 5 vẫn có những người nghèo khổ tấp nập tìm đến đây với hy vọng bán được thứ duy nhất bán được để tồn tại. Đó là Máu hay Tiểu Cầu để có tiền trang trải nợ nần và cho con cái hưởng chút hương vị mùa xuân. Gọi là "chợ" vì có kẻ bán, người mua. Nhưng nơi đây chỉ duy nhất một "người mua" là bệnh viện. Theo báo tuổi trẻ ghi nhận rẵng: "Sài Gòn những ngày tết sạch sẽ và yên tĩnh, mọi người gặp nhau với những lời chúc tốt đẹp. Ngoài kia tiếng chiêng trống của một đám múa lân rộn rã. Thế mà trong nầy vẫn có những người nghèo khổ phải nhốn nháo xin bán từng giọt sức của mình".
Thế nhưng, cho dù là giầu có hay có công danh sự nghiệp, dường như ai cũng không bao giờ toại nguyện về cuộc sống mình. Người giầu cũng khóc, kẻ nghèo cũng than. Kẻ có địa vị cũng khổ, người dân thấp hèn càng bất hạnh hơn. Con người thường hay than phân trách phận vì Trời chẳng bao giờ làm cho họ toại nguyện về những gì mình đang có.
Có một chàng thanh niên nọ lúc nào cũng than vãn số mình không tốt, không thể giàu có được. Một ngày kia, một ông lão đi qua, nhìn thấy vẻ mặt ủ ê của anh bèn hỏi:
- Chàng trai, sao trông cậu buồn thế, có việc gì không vui à?
- Cháu không hiểu tại sao cháu làm việc chăm chỉ, vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã nói.
- Nghèo ư, cháu là một người giàu đó chứ?
- Chưa ai nói với cháu như vậy cả, cháu rất nghèo.
- Giả như ta chặt ngón tay cái của cháu, ta trả cháu 3 đồng tiền vàng cháu có đồng ý không?
- Không ạ.
- Giả như ta chặt một bàn tay của cháu, ta trả 30 đồng tiền vàng, cháu có chịu không?
- Không bao giờ.
- Vậy ta muốn lấy đi đôi mắt của cháu, ta trả cháu 300 đồng tiền vàng, cháu thấy thế nào?
- Cũng không được.
- Vậy ta trả cháu 3,000 đồng tiền vàng để cháu trở thành ông lão như ta, già cả, lú lẫn được không?
- Đương nhiên là không.
- Cháu muốn giàu. Vậy ta sẽ đưa cho cháu 30,000 đồng tiền vàng để lấy đi mạng sống của cháu, cháu thấy thế nào?
- Cháu cảm ơn ông! Cháu đã hiểu cháu cũng là một người giàu có.
Trong cuộc sống, rất nhiều người thường than thân trách phận mà không thực sự hiểu ra mình còn hạnh phúc hơn rất nhiều người khác. Có kẻ giầu nhưng gia đình lại không hạnh phúc. Có kẻ tuy nghèo nhưng gia đạo lại trên dưới thuận hoà. Có kẻ có tiền nhưng không có sức khoẻ. Có người vất vả ngược xuôi nhưng lại chẳng đau yếu bao giờ. Vì thế, dầu chúng ta trong hoàn cảnh nào cũng hãy lạc quan với những gì mình có. Hãy vui với phận số an bài. Đứng đứng đó để nguyền rủa đời mình mà hãy nhìn về tương lai với tinh thần lạc quan và hy vọng. Người xưa vẫn thường nói: "không ai giầu ba họ - Không ai khó ba đời". Cuộc sống luôn tặng ban cho chúng ta biết bao niềm vui và hạnh phúc. Hãy biết tận hưởng những giây phút hiện tại, đừng đứng đó mà nguyền rủa ngày tháng mình sinh, nhưng hãy đứng dậy để vượt qua những khó khăn trước mắt. Hãy tin tưởng vào tương lai đang chờ đón những điều tốt đẹp sẽ đến với chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy để cho Chúa lo cho bạn ngày mai còn ngày hôm nay hãy sống hết mình với giây phút hiện tại. Hiện tại có khó khăn nhưng "sau đêm dài là ánh bình minh". Hiện tại là bóng đêm nhưng bình minh sẽ ló rạng để phá tan đêm tối. Chúa bảo rằng: "chim trời chúng con gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội chúng không làm lụng thế mà vẫn xinh tươi rực rỡ". Là con cái của Chúa, Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta phải thua thiệt. Chúa sẽ chăm sóc cuộc đời chúng ta như người cha người mẹ lo cho con cái. Chúa sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta biết an vui với phận số của mình trong niềm tin tưởng phó thác vào Chúa. Nguyện xin Chúa luôn đồng hành và giúp chúng ta vượt qua những khó khăn của dòng đời hôm nay. Amen.
7. Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi – Anmai
Đã là người, khi bước vào cuộc đời này không tránh khỏi những băn khoăn. Có những băn khoăn về phận người, có những băn khoăn về đời sống vật chất và cũng có những băn khoăn về đời sống tinh thần. Từ những băn khoăn đó, con người đi tìm lý giải cho ý nghĩa của cuộc đời. Vì mang trong phận mình là con người yếu đuối, bất toàn hay nói đúng hơn là bất lực trước những nghịch cảnh của cuộc đời để rồi sự băn khoăn đó cứ dồn dập trong cuộc đời.
Thiên Chúa nói với con người là Thiên Chúa ở bên, ở gần con người và chở che con người ấy nhưng mà thực tế trong cuộc sống, quá nhiều lần Thiên Chúa làm cho con người hụt hẫng và không biết là Thiên Chúa có ở cạnh bên mình hay không?
Trong bài ca thứ hai, bài ca người Tôi Trung trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta nghe đó diễn tả tâm trạng thổn thức, tâm trạng lo lắng rằng Thiên Chúa có ở bên mình hay không. Chúng ta vừa nghe: Sion từng nói: "Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi! " Nghe tiếng lòng thổn thức như vậy, Đức Chúa đã đáp lời: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.
Đức Chúa không cần phải nói nhiều, không cần giải thích nhiều, Đức Chúa chỉ lấy hình ảnh của một người mẹ để minh họa. Đã là mẹ thì không bao giờ có ai cam tâm bỏ con mình cả và rồi Đức Chúa nói rằng dẫu cho là người mẹ có quên đứa con mình đi chăng nữa vì lý do nào đó còn Đức Chúa thì Đức Chúa không hề quên.
Chúa Giêsu, hôm nay, trong trang tin mừng hết sức quen thuộc như muốn nhắc lại cho chúng ta về thao thức của con người về tương lai, về cuộc đời.
Với hình ảnh hết sức bình thường của con chim. Chúa Giêsu nói cho các môn đệ rằng chúng không gieo, không gặt và cũng chẳng thu vào kho lẫm thế nhưng mà lạ lùng là cha trên trời vẫn nuôi chúng. Quả thật là như vậy, bao nhiêu con chim trên trời nhưng chúng ta thấy có con nào phải chết vì đói đâu. Thiên Chúa vẫn nuôi chúng mỗi ngày, không chỉ có nuôi thôi nhưng còn nuôi một cách hết sức chu đáo nữa là đàng khác.
Kế đến, Chúa Giêsu lại dí dỏm về chiều cao của con người. Ai lùn thì sẽ rõ chuyện này. Biết mình lùn đấy nhưng làm sao mà có thể cao hơn được. Khoa học dù có can thiệp đi chăng nữa nhưng hình như chẳng được là bao.
Hết sức bình thường với con người là chuyện cơm ăn áo mặc. Dù cho con người cố gắng mặc đẹp thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng thể nào sánh bằng bông hoa huệ ngoài đồng. Không chỉ có hoa huệ mà còn nhiều loài hoa khác nữa áo quần của con người không thể nào sánh ví với vẻ đẹp mà tạo tác ban tặng cho nó.
Đi đến một bước xa hơn nữa, Chúa Giêsu nói rằng tất cả những gì lo cho con người thì mọi người và cả dân ngoại cũng đi tìm cái đó nhưng Cha của anh em trên Trời biết anh em đi tìm cái gì. Kết thúc những gì Ngài nói, đỉnh điểm của điều Ngài nói đó là chớ phải lo lắng gì về ngày mai cả. Ngày mai đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa.
Thánh Vịnh 61 mà chúng ta vừa nghe trong bài đáp ca nói lên tâm tình cuả người tin tưởng vào Chúa:
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà đến,
duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
Thánh Vịnh 61 quả thật là tuyệt vời khi nói đến kẻ thường dân, khi nói đến người quyền quý. Tất cả chỉ là không không trước mặt Thiên Chúa mà thôi:
Kẻ thường dân âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày mây khói.
Đừng tin tưởng ở trò áp bức nữa,
chớ hoài công cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
Thế đấy! Phận con người hết sức mong manh và dù cho có giàu có, dù tiền tài có sinh sôi nảy nở đi chăng nữa cũng chẳng giải quyết được chuyện gì. Tại sao không giải quyết được? Là vì khi nhắm mắt xuôi tay có mang theo được gì đâu và sinh mạng của mỗi người nằm trong tay ai?
Mới đây không lâu, một buổi chiều trung tuần tháng 1. Một linh mục thân quen vừa từ trên lầu xuống để đi dâng Lễ bỗng dưng té ngã. Anh em đưa vị linh mục ấy đi cấp cứu và rồi vừa vào nhà thương thì tim đã ngưng đập. Cố gắng hết sức chạy chữa nhưng không qua khỏi.
Được biết sáng hôm ấy thì địa phận Mỹ Tho phải ngậm ngùi chia tay với cha sở và cũng là giám đốc Trung Tâm Mục vụ của địa phận. Nghe đâu Ngài đang chơi thể thao với các thầy bỗng dưng té xuống. 15 giờ 30 Chúa gọi Ngài về.
Đang chuẩn bị cử hành lễ an táng cho Cha kia vừa té ngã ở chân cầu thang và được Chúa gọi về thì nghe tin nghệ sĩ ưu tú Kim Ngọc cũng vừa ra đi sau khi té ở nhà riêng. Con cái, bạn bè thân hữu không khỏi bàng hoàn trước sự ra đi của nghệ sĩ Kim Ngọc.
Đứng trước 3 cuộc ra đi vội vàng ấy những ai quen biết, những người thân trong gia đình không ai là không bàng hoàng, không thẩn thờ. 3 cuộc đời ấy, ba sinh mạng ấy chắc chắn không ai có thể ngờ được rằng đến ngày đó Thiên Chúa gọi về. Nhiều người vẫn tưởng là những người ấy không thể nào đi sớm như vậy. Trong Thánh Lễ an táng, vị giảng lễ hôm ấy ngậm ngùi thân thưa với cộng đoàn, với người quá cố rằng ngài không nghĩ rằng ngài giảng lễ an táng cho người quá cố. Lẽ ra người quá cố giảng lễ an táng cho ngài vì ngài lớn tuổi hơn người quá cố!
Lớn tuổi hơn, nhỏ tuổi hơn hay thậm chí tài giỏi hơn không quan trọng. Chuyện quan trọng là tất cả đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa tất cả.
Chúa đã khẳng định rằng tất cả những gì mà chúng ta chưa kịp xin thì Ngài thấu hiểu. Cuộc đời của chúng ta, chúng ta chưa biết ngày nào, giờ nào nhưng Thiên Chúa biết.
Thiên Chúa vẫn mời gọi chúng ta tin tưởng, quan phòng vào lòng bàn tay từ ái của Chúa. Thái độ tin tưởng hay ngờ vực vẫn là thái độ tự do và lời đáp trả của mỗi người chúng ta.
8. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
TIN TƯỞNG VÀO SỰ QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA TÌNH YÊU
"Chúa đã thương bênh đỡ phù trì, Người kéo tôi ra chỗ thảnh thơi, vì yêu thương tôi nên Người giải thoát". Ca nhập lễ Chúa nhật hôm nay như sợi chỉ đỏ xuyên suốt và là một chìa khóa để giải thích ý định của Thiên Chúa tình thương, Ngài muốn giải thoát chúng ta khỏi những ràng buộc thế trần, giúp chúng ta biết "vui vẻ phục vụ mà không lo lắng" và, mong sao "mọi việc ở trần gian luôn diễn tiến trong hòa bình trật tự, theo sự quan phòng của Chúa Cha" (x. Lời nguyện nhập lễ). Vì thế, tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa là sứ điệp chính yếu trong phụng vụ lời Chúa của Chúa nhật hôm nay.
Tin tưởng vào Chúa
Để tin tưởng vào Chúa, trước hết chúng ta phải sửa trị sự mất lòng tin của chúng ta, từ khi con rắn làm hư hỏng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người, nó ghen tị với hạnh phúc của chúng ta và hành hạ tâm hồn chúng ta, làm cho chúng ta kém tin vào Chúa. Lời tiên tri Isaia là một thần dược chống lại nọc độc của con rắn xưa: " Sion nói: " Chúa đã bỏ rơi tôi, Chúa đã quên tôi rồi ". Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ có quên, nhưng Ta sẽ không quên người đâu. Lời Thiên Chúa toàn năng phán "(Is 49, 14- 15). Ðó là lời mời gọi tin tưởng vào tình yêu không bao giờ phôi phai của Thiên Chúa. Tình yêu của đó được diễn tả qua hình ảnh của người mẹ. Thật cảm động khi lời tiên tri Isaia vang lên đúng vào lúc thành Giêrusalem bị tàn phá, điều này đem lại cho dân chúng niềm hy vọng, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa giữa lúc tưởng chừng như vô phương, mất hướng.
Lời mời gọi này cũng được đề cập đến trong Tin Mừng Matthêu, khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ của mình tin tưởng vào sự quan phòng của Cha trên Trời, Ðấng nuôi dưỡng mọi loài chim trời và điểm trang cho hoa huệ ngoài đồng, Ngài là Ðấng thấu biết mọi điều cần thiết của chúng ta (x. Mt 6, 24-34). Chúa Giêsu dạy: " Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì lấy gì mà mạc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều ấy"(Mt 6, 31-32). Và Người mời gọi chúng ta hãy đặt lên hàng đầu việc "tìm kiếm nước của Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó, Người sẽ ban them cho"(Mt 6, 33). Niềm tin vào sự quan phòng không thế chỗ cho những nỗ lực chiến đấu để hướng đến một cuộc sống đúng với phẩm giá con người, nhưng giải phóng chúng ta khỏi những nỗi bận tâm về của cải và những nỗi sợ hãi trong tương lai.
Nhưng thế giới chúng ta đang sống, theo Đức Thánh Cha Phanxicô, " một thế giới mà đồng tiền thống trị và điều khiển mọi sự ". Nên con người bị chi phối và nghiêng chiều về nó, sẵn lòng phàm hóa mọi sự, bỏ Chúa ra khỏi đời sống, chẳng tin tưởng vào Thiên Chúa nữa. Lời Chúa mời gọi chúng ta chọn Chúa, thờ phượng Chúa, và vững tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa tình yêu.
Không làm tôi của cải
Trong cuộc sống, luôn có cái lôi kéo, thậm trí cắt đứt tương quan giữa con người với Thiên Chúa, giam hãm con người vào trong sợ hãi: sợ về tương lai, sợ người khác, sợ bệnh, sợ không lường trước được, sợ sự đảo ngược của số phận, vì thế chúng ta đi tìm kiếm sự an toàn, bảo đảm mọi sự, với hy vọng sẽ tìm thấy ở tiền, và tiền được cho là bảo vệ chúng ta khỏi tất cả các thay đổi bất thường của cuộc sống.
Chúa Giêsu đã lấy tiền làm mô hình để áp dụng cho lòng tham, vì tiền của đề cập đến quyền lực và vinh quang theo kiểu thế gian. Tuy nhiên, tiền tự nó không phải là nguyên nhân gây nên sự bất hạnh của con người, nếu đặt nó làm nô lệ, phương tiện cho con người. Nếu không có tiền, cần phải đặt để một thứ khác để trao đổi, như thế sẽ tốt hơn. Điều Chúa Giêsu chỉ trích ở đây là tương quan của chúng ta với tiền: tiền là đầy tớ, hay đúng hơn là một phương tiện trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Nhưng nó đã trở thành một mục đích tự thân tuyệt đối, nghĩa là một thần tượng, người ta tôn thờ nó. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: "Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được " (Mt 6,24): hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền Của.
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi thật lòng mình: chúng ta đặt niềm tin tưởng vào ai? Nơi bản thân mình, nơi tiền bạc, hay nơi Thiên Chúa? Tất cả chúng ta bị cám dỗ đặt mình làm trung tâm, và tưởng rằng tự chúng ta có thể xây dựng đời mình và rằng đời mình chỉ được hạnh phúc nếu xây trên của cải, tiền bạc hay quyền lực. Không phải thế! Chắc chắn của cải, tiền bạc hay quyền lực có thể đem lại cảm xúc nhưng nhất thời, ảo tưởng hạnh phúc, rốt cuộc những thứ ấy lại ám ảnh chúng ta và làm cho chúng ta cứ muốn có nhiều và nhiều thêm nữa, không bao giờ thỏa mãn: "Hãy mặc lấy Đức Kitô"vào trong đời ta và đặt tin tưởng nơi Người.
Chúa là nơi ta trú ẩn, là hạnh phúc của đời ta
Chúng ta còn nhớ chuyện nhà phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: " Hồn ơi! mày có chán của cải, sẵn đó cho nhiều năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi điều ngươi đã soạn kia sẽ về tay ai? " Và Chúa Giêsu kết luận, nếu chúng ta không không cẩn thận thì sẽ "như thế đó, kẻ lo chất kho cho mình, mà không biết làm giàu nơi Thiên Chúa" ( Lc 12, 16-21 ).
Phúc cho người nào nói được như tác giả Thánh Vịnh: " Duy có nơi Thiên Chúa, hồn tôi mong được an nghỉ, tự nơi Người, ơn tế độ cho tôi. Duy có Người là tảng đá, là ơn tế độ cho tôi, là đồn trú của tôi, tôi sẽ không hề mảy may nao núng!" (Tv 61, 2-3), người ấy sẽ không thất vọng vì họ cậy dựa vào Đấng Toàn Năng. Điều này không có nghĩa là người ấy sẽ được chở che khỏi mọi thử thách, nhưng niềm tin vào Thiên Chúa đã đủ cho họ: "Hỡi anh em, hãy kể như niềm vui trọn hảo, khi anh em sa vòng trăm điều thử thách, bởi biết rằng: đức tin thí luyện của anh em làm nên kiên nhẫn; mà kiên nhẫn tất sinh quả phúc trọn lành, để anh em nên trọn lành, toàn bích, không thiếu sót về một sự gì" (Gc 1, 2-4).
Khi bàn về vấn đề tiền bạc, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: "Tiền bạc cho phép chúng ta hạnh phúc và làm ra của cải trên thế giới, nhưng tiền của mà thôi không đủ mang đến hạnh phúc cho chúng ta [...]Hạnh phúc là một cái gì đó mà tất cả chúng ta đều mong muốn, nhưng một trong những thảm kịch của thế gian này là con người không bao giờ tìm thấy, vì nó không ở chỗ con người tìm kiếm. Chìa khóa hạnh phúc rất đơn giản: hạnh phúc thật chỉ thấy ở nơi Thiên Chúa. Chúng ta phải can đảm đặt hy vọng tuyệt đối ở nơi Thiên Chúa, không phải nơi tiền của, nơi sự thành công thế gian, hay nơi người đời, nhưng là ở nơi Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy những khát vọng sâu xa nhất của lòng người" (Thư gửi các bạn trẻ trường công giáo Twickenham).
Lạy Chúa, chúng con chọn Chúa, Chúa là gia nghiệp đời con. Amen.
9. Thiên Chúa quan phòng
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho mạng sống mình: sẽ ăn gì? mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan phòng liên lỉ của Thiên Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính giá máu Ngài.
Đọc kỹ bản văn của Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
Thiên Chúa biết rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội. Chúa dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công việc: việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ, chúng ta đã chọn Chúa hay chọn tiền bạc? Đã quá lo lắng đến vật chât hay đã luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm trước hết Nước Chúa và sự thánh thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự khác mỗi khi chúng ta cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
10. Suy niệm của ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
Nghe qua bài Tin mừng này với những từ ngữ Chúa dùng như: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”, hoặc “Anh em đừng lo lắng lấy gì mà ăn… lấy gì mà mặc”, có lẽ chúng ta những doanh nhân đang theo đuổi mục đích làm ra của cải, cảm thấy lúng túng. Tin mừng muốn nói gì đây. Vì thế ta phải tìm hiểu cẩn thận để hiểu Lời Chúa hôm nay thực sự là một Tin mừng, là sự bằng an cho cuộc sống.
Trước hết bài Tin mừng này có liên quan đến bài diễn từ đầu tiên của Chúa Giêsu, cũng gọi là bài giảng về hiến chương nước Thiên Chúa, cho thấy đâu là hạnh phúc thật cho nhân loại, hay còn gọi là tám mối phúc thật với ba nội dung chính:
- Thiên Chúa Toàn Năng, đầy tình yêu thương nhân loại, chính Ngài là hạnh phúc thật của chúng ta, ngoài Người ra con người không tìm đâu được hạnh phúc, cho nên phải đặt hết tin tưởng, gắn bó yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
- Hai là con người là anh em với nhau, vì cùng mang dấu ấn Thiên Chúa nới mình. Cần theo đuổi cuộc sống đầy tình người, sống tinh thần hòa bình, khoan dung tha thứ, chân thành trong sáng và đặc biệt phải biết thương yêu những người yếu kém trông cộng đoàn.
- Ba là trước mọi gian nan thử thách, kể cả sự bắt bớ ngược đãi vì Tin mừng, hãy coi đây là cơ hội để làm chứng lòng trung tín và hy vọng nơi Thiên Chúa của mình.
Sau bài diễn từ quan trọng đó thì Chúa đem ra nhiều trường hợp cụ thể để thực hành cho đạt tới Hạnh phúc thật đó. Và coi chừng những trở ngại có thể làm ta sai lạc mục tiêu hạnh phúc thật. Một trong các trở ngại đó là vấn đề của cải, của cải có thể trở thành tà thần đầy nguy hiểm.
Trước vấn đề của cải, Chúa cẩn thận dạy các tông đồ: “Người ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi của cải được” hoặc “anh em đừng lo lắng lấy gì mà ăn…lấy gì mà mặc” thế là gì? Nhu cầu sự sống như cơm áo, phương tiện giao dịch của thời văn minh như tiền bạc, trương mục ngân hàng ta phải lo cho có để dùng mới được. Thực ra ở đây Chúa không kết án tiền bạc mà Chúa đề cập đến cách làm ra và sử dụng tiền bạc. Chúa nói “đừng lo lắng”, không có nghĩa là đề cao những người biếng nhác, những người vô trách nhiệm, siêng ăn nhác làm, không quan tâm đến gia đình con cái. Chúa cũng không phê phán những người lập ra những kế hoạch, lên chương trình trong công việc làm ăn. Kinh tế thị trường kinh tế tự do, không biết lo là thất bại. “Đừng lo lắng” ý Chúa muốn nói, phải kết hợp sao cho hài hòa giữa công việc làm ăn, với niềm tin vào Thiên Chúa Tình yêu, Ngài đang tham dự vào đời sống chúng ta. Trong đời sống đó có phần cố gắng của chúng ta, mà có cả quyền năng yêu thương của Thiên Chúa. Cái thất bại của con người tại vườn địa đàng là họ đã bỏ Thiên Chúa tin vào satan và kế hoạch riêng tư đầy kiêu căng của mình.
Sự tham dự của Thiên Chúa vào đời ta là kế hoạch kỳ diệu ta không tưởng tượng được. Tại tiệc cưới Cana, trông khi người ta cần mười lít rượu là cùng, nhờ lời Đức mẹ, Chúa tham dự giải quyết cuộc khủng hoảng với 600 lít rượu tặng đôi tân hôn. Tại bãi biển hoang vu, các tông đồ chỉ kiếm được năm chiếc bánh và mấy con cá, Chúa biến thành cả núi cá và bánh cho 4.000 người ăn no mà còn dư. Cho nên trong việc làm ăn, hãy biết trông cậy vào Chúa để Ngài yêu thương giúp đỡ. Bông hoa sớm nở chiều tàn, hay con chim bé nhỏ Chúa còn thương phương chi con người là con của Chúa.
Khi nói người ta không thể làm tôi hai chủ: vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ý Chúa muốn giải thoát, muốn tránh cho ta thói tham lam, lấy thế lực vạn năng mạnh mẽ của tiền của để bảo đảm tương lai, người ta coi tiền tài như thần thánh và tìm kiếm bằng bất cứ giá nào. Người ta quên thời gian hiện tại và hạt giống của tương lai, chỉ đi tìm của cải mà đánh mất tương lai đời đời thì đó là người ngu dại. Để làm sáng tỏ vấn đề Chúa lấy chuyện người phú hộ làm thí dụ, ông làm kinh tế giỏi, ông lập kế hoạch lớn, làm nhiều kho lẫm, và cho thế là an toàn, thủ hưởng lâu dài suốt đời. Nhưng Chúa bảo hắn: “Đồ ngu, nội đêm nay người ta cất linh hồn ngươi về thì những của cải đó ngươi để cho ai?”
Nhớ lại câu chuyện ông Giakêu, suốt một quá khứ dài ông mãi mê tìm tiền của, làm giàu bất chính. Vậy mà hạnh phúc chưa thấy vì lòng vẫn còn đói tiền của, trong khi những tiếng phê phán chê bai chỉ làm cho ông chán ngấy cuộc đời. Vậy mà sau một đêm, Lời Chúa soi sáng cho ông thấy rõ chân lý giá trị của hiện tại, ông đã có một quyết định thật lớn lao: “Ông sẵn sàng lấy một nữa gia tài cho người nghèo, đền lại gấp bốn sự thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.”, lúc đó Chúa nói ngay với ông: “Hôm nay ơn cứu độ đến với nhà này” (Lc19,9). Hai tiếng “hôm nay” ở đây rất quan trọng vì nó cho ta thấy Chúa hiện diện ngay lúc chúng ta làm việc bác ái để ghi công đời đời cho chúng ta. Cuộc sống này là thời kỳ gieo tỉa, mùa gặt sẽ đến mai sau. Nhưng kết quả việc bác ái là của cải cho đi đã trở thành hồng phúc vinh quang Chúa cất sẵn trên trời cho chúng ta.
Dụ ngôn Cuộc phán xét chung cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ở đây không thấy nói đến đạo nào, chức vị nào mà chỉ nói đến Tình Yêu. Lúc đó Chúa cho người ta thấy việc bác ái thực hành là tiêu chuẩn duy nhất làm cho chúng ta được thưởng công đời đời, vì mỗi lần giúp đỡ người nghèo là giúp cho chính Chúa. Chúa nói với họ: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ tạo Thiên lập địa.Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát các ngươi cho uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han”. Người ta sẽ ngạc nhiên hỏi Chúa: Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống đâu? Chúa đáp: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của ta là các ngươi đã làm cho chính ta vậy”. Đó là những người được tuyển chọn. Còn những người bị loại, bị xua đuổi vào lửa đời đời dành cho ác quỉ, thì lý do cũng là không biết thương những người đói khát, bơ vơ…v.v. Anh em thấy rõ Thiên đàng chúng ta ở đâu? Đó chính là “Tình Yêu”, là trân trọng và yêu thương con người vì có Chúa ở nơi họ. Như vậy các việc lành khác thì sao? Có cần không? Tất cả đều hướng về Tình yêu là điều răn trọng nhất.
Nói tóm lại, hiện tại ta hướng về Tình yêu thì Thiên Chúa Tình yêu sẽ đón nhận ta. Ta chỉ biết hướng về mình để dùng của cải phục vụ cho mình và gia đình thì chúng ta mất sự sống đời đời. Chúng ta chọn đường nào? Bài Tin mừng kết luận: “Trước hết anh em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người…”. Nước Thiên Chúa là Tình Yêu. Sự công chính của Ngài cũng là Tình Yêu, vì Ngài là Tình Yêu.
Cách đây không lâu, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong thông điệp Tình Yêu và chân lý, Ngài đã khẳng định rằng: “Mọi sự bắt nguồn từ Tình Yêu, mọi sự được định hướng trong Tình Yêu và mọi sự sẽ kết thúc trong Tình Yêu”.
Người doanh nhân có công làm cho tiền của luân chuyển để cho dân giàu nước mạnh thật là quý trông thời kỳ kinh tế thị trường này. Nhưng khi thành công ta phải biết chia sẻ cho người nghèo thì mới đúng nghĩa doanh nhân công giáo. Vì chỉ chờ cho đến lúc giàu có nhiều của mới chia sẻ thì đã bỏ mất cái ngày Hôm Nay. Chúa còn nói thêm: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái khổ của ngày mai.
11. Trung tín – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúa nhật 8 QN.A (Is 49, 14-15; 1Cor 4, 1-5; Mt 6, 24-34)! Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh liên hệ mẹ con nối liền ruột thịt để diễn tả một tình yêu gắn bó khó rời. Đúng thế, chẳng người mẹ nào có thể quên con mình đã cưu mang và sanh nở. Vì con cái chính là thịt máu của mẹ. Mỗi người đều khởi đầu sự sống trong cung lòng mẹ. Dạ nào cũng êm ấm, bảo đảm và an toàn. Cung lòng mẹ là cái nôi cho con bước vào đời. Thiên Chúa đã an bài để thai nhi được phát triển một cách nhiệm mầu trong cung lòng mẹ. Sau khi thụ thai, người mẹ lãnh nhận một món qùa vô giá là sự sống của một người con. Mẹ cứ việc sinh hoạt bình thường, đi lại, làm lụng, ăn uống, ngủ nghỉ, giải trí và dưỡng thai. Biết có thai nhi trong cung lòng, mẹ cảm nhận mọi biến chuyển của thân xác nhưng không nhìn biết sự phát triển của con. Mỗi ngày sự sống trong con phát triển để thay đổi hình hài và mỗi giây phút con đều nhận hởi thở và của nuôi dưỡng qua thân xác mẹ.!Mẹ con gắn liền sự sống bên nhau. Khi con còn ở trong lòng mẹ, mẹ con cùng chia sẻ sự sống. Nhưng mỗi thụ tạo dù bé nhỏ đều có một kết cấu hình thành riêng biệt. Với tình mẫu tử, các người mẹ đều yêu thương con cái mình. Qua sự quan phòng, Thiên Chúa còn yêu thương mỗi loài thụ tạo hơn nữa. Tiên tri Isaia diễn tả tình yêu: Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu (Is 49, 15). Thực tế cuộc sống, chúng ta biết không thiếu những trường hợp cha mẹ ruồng bỏ con, hủy diệt mạng sống non nớt của con và từ chối đón nhận con. Chúng ta không xét đoán những bà mẹ đáng thương này. Mỗi bà mẹ bỏ con đều có những uẩn khúc và lý do riêng. Chúng ta được biết mỗi ngày có biết bao nhiêu bào thai bị phá, trẻ sơ sinh bỏ rơi cho chết và trẻ em bị bán đi làm nô lệ tình dục và lao động. Cha mẹ thương con, nhưng nhiều khi cha mẹ rơi vào những trạng huống thật khó khăn. Tuy nhiên không có lý do nào chính đáng để bào chữa cho việc chối bỏ, quên lãng hay hủy diệt con cái mình. Chỉ vì nhiều cha mẹ đã chọn sai ông chủ! Thánh Matthêô đã vạch rõ con đường theo Chúa: Không ai có thể làm tô hai chủ: Vì hoặc nó sẽ ghét người này và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được (Mt 6, 24). Có nhiều cha mẹ đã phá thai bỏ con. Họ coi con cái như của nợ và như gánh nặng cuộc đời. Có rất nhiều trường hợp và lý do đưa đến sự từ bỏ con cái, khi còn là thai nhi. Các trường hợp có thể: Khi cha mẹ tuổi đời còn qúa trẻ, chưa hoàn tất việc học hành, lỡ lầm, chưa có tương lai, chưa có nghề nghiệp, kinh tế khó khăn, danh giá gia đình, sợ mang tiếng tăm, sợ gánh nặng, sợ tương lai, bạn trai trốn chạy, sợ trách nhiệm và có những liên hệ bất chính… Cha mẹ từ bỏ con cái mình vì đã tự chọn danh giá, quyền lợi, thú vui và tiền của để làm chủ cuộc đời. Cuộc sống luân lý bị ảnh hưởng của trào lưu xã hội tục hóa và hưởng thụ. Tiền bạc của cải đã chi phối toàn diện đời sống con người. Của cải là đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu.!Truyện kể: Một người giầu có thường đến xưng tội với thánh Philiphê Neri, nhưng không thấy tiến bộ trên đường nhân đức, nên ông đã chán nản thất vọng đến nỗi bỏ luôn việc xưng tội. Thánh nhân tìm đến nhà ông, sau một lúc truyện trò thân mật, ngài nhìn lên cây thánh giá treo trên trường và cân nhắc độ cao của thánh giá, rồi đề nghị với người giầu có rằng: Ông thử với tay xem có chạm tới thánh giá được không? Người đàn ông vươn cánh tay dài của mình ra nhưng không thể nào chạm tới thánh giá được. Bấy giờ thánh nhân mới dùng hết sức đẩy cái tủ đựng tiền của ông đến bên cạnh, ngài bảo ông hãy đứng lên cái tủ ấy để với tới thánh giá. Qủa thật, ông đã sờ chạm được Chúa Giêsu trên thánh giá. Lúc đó thánh nhân mới nói: Để có thể chạm được Chúa Giêsu và để tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải ‘đứng trên tiền bạc’.!Có một sự giằng co mãnh liệt trong đời sống luân lý đạo đức ngày nay. Hằng ngày chúng ta phải đối diện với sự tranh đấu sống còn về cơm áo gạo tiền. Những đòi hỏi nhu cầu cuộc sống càng ngày càng tăng. Chúng ta phải lăn xả và chìm đắm trong công ăn việc làm, tiền bạc của cải và đời sống bon chen từng ngày. Chúa Giêsu nhắc nhở tỉnh thức: Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó, Người sẽ ban thêm cho các con (Mt 6, 33). Chúng ta tự nhủ rằng phải lợi dụng mọi thời giờ, cơ hội và sức lực để thu bón của cải làm giầu. Và cứ thế, chúng ta mải mê ngày này qua ngày khác vun xới cho kho tàng tạm bợ này. Chúng ta quên rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chúa mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước, mọi sự Chúa sẽ ban cho! Chúa không khuyên dạy chúng ta ăn không ngồi rồi. Nhưng cần có lòng tin tưởng và phó thác trong sự quan phòng của Thiên Chúa: Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy (Mt 6, 34). Chúng ta quan sát sự vận hành trong vũ trụ, mỗi ngày là một ngày mới có nhiều thay đổi. Thế giới, môi trường và đời sống đổi thay từng giây phút. Không có gì tồn tại mãi ở đời. Khí hậu mỗi ngày mỗi khác và mưa nắng mỗi mùa mỗi thay đổi. Chúng ta không nắm chắc được điều gì trong tương lai. Chúng ta thường lo lắng tính toán nhiều cho ngày mai. Sự lo lắng của chúng ta là chính đáng, đó là sự khôn ngoan biết dự liệu trước sau. Nhưng sự thành bại còn tùy thuộc nhiều vào hoàn cảnh và môi trường chung quanh. Mỗi ngày luôn có những sự cố mới bất ngờ xảy ra không ai lường trước.!Mỗi ngày có biết bao nhiêu sự lạ xuất hiện. Vũ trụ tự nhiên thì cứ tiếp tục vận hành theo sự an bài của Đấng Tạo Hóa. Xã hội con người cũng tiến bước trong các ngành nghề và mọi khía cạnh cuộc sống. Kỹ thuật khoa học không ngừng phát triển. Đời sống tâm linh của con người không thể nhắm mắt đưa chân theo những đòi hỏi của bản năng hay trào lưu tục hóa. Sự chọn lựa thái độ sống của con người rất quan trọng. Đời sống con người có cùng đích và có hướng để tiến tới. Bước tiến đồng hành cả về trí, đức và dục. Chúng ta không thể tách biệt sứ mệnh của con người trong cuộc lữ hành dưới thế. Vì con người khởi đi từ đất nhưng kết thúc trên cõi cao. Chúng ta không thể chỉ bám víu vào tiền bạc, của cải, danh vọng và thỏa mãn các thú tính. Ơn gọi của chúng ta thật cao cả. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa và chọn Chúa làm chủ đời mình. Chúng ta sẽ được bước đi trên con đường tình yêu rộng mở.!Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Vì chưng, mặc dầu lương tâm không trách cứ tôi điều gì, nhưng không phải vì thế mà tôi đã được công chính hóa. Đấng xét đoán tôi chính là Chúa (1Cor 4, 4). Đôi khi chúng ta quá hài lòng về chính mình và tưởng rằng mình tốt lành, thánh thiện đủ rồi. Đôi khi chúng ta qúa tự tin vào khả năng hiểu biết, ý chí và sức mạnh phấn đấu của mình. Hãy nhớ lời thánh Phaolô nhắc nhở rằng đừng tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng xét đoán sau cùng. Thiên Chúa thấu tỏ mọi tâm tư, uẩn khúc và khát vọng của con người. Chúng ta đừng để của cải thế gian lôi cuốn vào những thực tại phù hoa thế trần. Hãy tỉnh thức chọn Chúa làm gia nghiệp cuộc đời, chúng ta sẽ có tất cả.!Lạy Chúa, Chúa yêu thương hết mọi loài. Chúa yêu chúng con hơn cả cha mẹ yêu chúng con. Chúng con yêu Chúa với hết tâm tình, linh hồn và thân xác. Chúa là nơi chúng con nương tựa và cậy trông. Chúa có lời ban sự sống đời đời.
12. Chọn Thiên Chúa hay tiền của
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Bất cứ ai đều phải có sự lựa chọn cho đời sống của mình về phương diện tinh thần cũng như vật chất. Trên bình diện tôn giáo, Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho chúng ta cách lựa chọn:”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được”(Mt 4,24). Và Ngài đã đòi chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát: một là Thiên Chúa, hai là Tiền của. Chúng ta có quyền tự do lựa chọn và phải gánh chịu hậu quả về sự lựa chọn đó.
Chúng ta là những người khôn ngoan đã dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa vì chúng ta là con của Ngài, đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài. Một khi đã chọn Thiên chúa, chúng ta phải tuyệt đối yêu mến và tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Chúa khuyên chúng ta đừng quá lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy nhìn xem chim trời, hoa cỏ đồng nội thì biết. Nhưng chúng ta phải lưu ý: Chúa khuyên chúng ta đừng “lo lắng” nhưng phải biêt “lo liệu”. Lo lắng là dấu chỉ chưa đủ tin tưởng vào Chúa, còn lo liệu là biết khôn ngoan sắp đặt mọi sự trong hiện tại cũng như trong tương lai trong sự yêu mến và tin tưởng phó thác cho Chúa.
Tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng không có nghĩa là ỷ lại, để cho Chúa lo mọi sự, nhưng trái lại, phải có sự cộng tác của chúng ta. Đây là bằng chứng: ngày từ đầu Thiên Chúa đã trao trái đất cho con người coi sóc, Đức Giêsu đã làm nghề thợ mộc tại Nazareth và thánh Phaolô cũng chủ trương ai không làm việc thì không có quyền ăn. Vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cứ làm việc bình thường, đừng bồn chồn lo lắng. Hãy quên đi quá khứ, hăng say làm việc trong hiện tại và đặt tương lai vào trong bàn tay Chúa quan phòng.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Is 49,14-15
Dân Israel bị lưu đày bên Babylon, sống cơ cực dưới sự đè nén của ngoại bang, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Họ cho rằng Thiên Chúa đã quên họ. Họ đã bị bỏ rơi. Niềm tin bị giảm sút.
Nhưng tiên tri Isaia đã khẳng định với dân: Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên họ bởi vì họ là con của Ngài. Ông đưa ra một hình ảnh sống động và cụ thể: có người mẹ nào mà bỏ quên con mình? Cho dù người mẹ có bỏ quên con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ quên đâu.
+ Bài đọc 2: 1Cr 4,1-5
Tín hữu Corintô có nhiều tinh xấu như óc bè phải, tính kiêu căng, tự phụ. Hôm nay thánh Phaolô nhắc nhở họ phải đề phòng một tính xấu khác, đó là xét đoán.
Thực ra, không ai biết được con tim khối óc của người khác, chỉ là phỏng đoán, duy một mình Thiên Chúa mới biết được chính xác. Vì thế, mọi người hãy dành quyến xét xử cho Thiên Chúa “Đấng thấu suốt lòng mọi người”.
+ Bài Tin mừng: Mt 6, 24-34
Hôm nay Đức Giêsu nói với cả người giầu lẫn người nghèo phải biết lựa chọn. Chỉ có hai con đường để lựa chọn, đó là phụng sự Thiên Chúa hay phụng sự Tiền của.
Phụng sự Thiên Chúa là sống theo Tin mừng, theo Hiến chương Nước Trời và tìm kiếm sự công chính của Thiên Chúa, nghĩa là tìm biết và thi hành thánh ý Ngài.
Nếu phụng sự Chúa thì phải tin vào Chúa quan phòng. Đành rằng chúng ta phải làm việc để giải quyết đời sống vật chất như cơm ăn áo mặc… nhưng chúng ta phải dành ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Bắt cá hai tay
Người Việt nam chúng ta thường dùng câu tục ngữ “Bắt cá hai tay” để chỉ những người tham lam, mưu cầu nhiều việc. Ta phải hiểu câu tục ngữ này như thế nào? Nhân dân ta hiểu câu tục ngữ này theo nghĩa đen là: mỗi tay bắt một con, và kết quả là tuột mất hết chẳng bắt được con cá nào. Chẳng thế mà ca dao Việt nam đã từng khuyên nhủ mọi người:
Thôi đừng bắt cá hai tay
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.
Câu tục ngữ này có thể minh họa một phần nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay:”Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia; hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24).
I. PHẢI BIẾT CHỌN LỰA
1. Lựa chọn là điều cần thiết
Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là dấn thân, mà dấn thân thì phải lựa chọn. Sống là một chuỗi những lựa chọn. Chính những lựa chọn này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở thành người tốt hay người xấu, được hạnh phúc hay phải đau khổ. Đã chọn lựa điều này thì phải bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ cũng là một giằng co, nuối tiếc.
Đức Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hôm nay phải chọn lựa hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền của.
2. Phải chọn lựa thế nào?
a) Thời xa xưa, trong thời vua Achab trị vì, dân Israel đã bỏ Chúa mà đi thờ dân ngoại Baal. Tiên tri Êlia đã hô hào dân chúng hảy trở về với Thiên Chúa, phải dứt khoát lựa chon:”Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal thì cứ theo nó” (1V 18,21)
b) Thời nay, Đức Giêsu cũng cảnh báo cho những người tôn thờ tiền của như sau:”Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6,24)
* Ý nghĩa chữ “Tiền của”
Tiền của ở đây được viết bằng chữ hoa, tiếng Aram là MAMMON, có nghĩa là Tiền của. Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường. Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta lựa chọn, thì quyền lực của nó phải là vô song.
* Ý nghĩa chữ “tôi” và “chủ”.
Đối với người xưa “không ai được làm tôi hai chủ” có ý nghĩa hơn đối với chúng ta. Từ ngữ là “tôi” trong nguyên ngữ Hy lạp là “nô lệ”, làm nô lệ cho; còn từ “chủ” để chỉ quyền sở hữu tuyệt đối. Ý nghĩa câu này sẽ rõ hơn nếu chúng ta dịch: không ai có thể làm nô lệ cho hai ông chủ.
Để hiểu ý nghĩa, có hai điều chúng ta cần nhớ về người nô lệ thời xưa. Nô lệ, trong quan điểm luật pháp, không phải là một con người mà là một đồ vật. Nô lệ tuyệt đối không có gì cả, chủ có thể sử dụng nô lệ thế nào cũng được. Đối với luật pháp, nô lệ là một dụng cụ sống, ông chủ có thể bán, đánh đập, quăng ra ngoài hoặc giết đi, vì ông ta sở hữu người nô lệ y như sở hữu một đồ vật. Thứ đến, nô lệ thời xưa không có chút thời giờ nào là của riêng. Mỗi giây phút của đời sống nô lệ đều thuộc về chủ…
Đây chính là mối dây liên hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, ta không có quyền gì cả. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối. Không bao giờ chúng ta được hỏi: tôi muốn làm gì? Nhưng luôn luôn hỏi: Chúa muốn tôi làm gì?
3. Nguy hại của thần Mammon.
Thần Mammon hay thần Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ lùng. Người Vệt nam chúng ta có câu:
Có tiền mua tiên cũng được
Hoặc:
Mạnh về gạo, bạo về tiền
Lắm tiền, nhiều gạo là tiên trên đời.
Ngay cả việc đạo cũng phải có tiền mới xong:
Có thực mới vực được đạo.
Nguyên ngữ Mammon chỉ có nghĩa là của cải vật chất. Nguyên nghĩa của nó không phải là một chữ mang ý nghĩa xấu. Các rabbi Do thái vẫn dạy:”Hãy quí trọng mammon của người khác như của chính ngươi”, nghĩa là mọi người phải coi tài sản vật chất của người khác quí trọng như tài sản của mình.
Tiền của là như vậy, nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế? Thật ra, Ngài không lên án tiền của, Ngài chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi. Hay nói cách khác, Thánh Kinh đã nói:”Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tim 6,10).
Và chúng ta phải công nhận rằng tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua Nước Thiên đàng đời sau. Tự bản chất của tiền là tốt, nó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho con người.
Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta.
Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta quá tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giầu có xử tệ với Lazarô nghèo khó.
Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.
Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy vào Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.
Vì thế, Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của. Ngài cảnh báo như thể để mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
Truyện: Nô lệ hay tự do
Hôm ấy, trời vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ:”Xem chừng anh mơ ước giầu có lắm. Vậy từ giờ này cho đến lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả nhữngg ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết”.
Anh vui sướng quá! Cha chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên con ngưa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh đồng bao la bát ngát. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước trong ngần huyền ảo phán chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chang lại chạy tiếp. Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỷ phú với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua”.
Nhưng vừa bước chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỷ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất.
Đó là kết cục của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng.
Sự nô lệ cho tiền của là một bệnh “ung thư” thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Tây phương đang tự phá hủy chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái “tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của “đồ bỏ đi ấy của Satan” như cách gọi của tác giả người Ý, Papini.
II. TIN VÀO CHÚA QUAN PHÒNG
1. “Đừng lo lắng về của ăn áo mặc”
Tiếp theo việc phải chọn lưa giữa Thiên Chúa và Tiền của, Đức Giêsu khuyên chúng ta đừng lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy xem chim trời và hoa đồng nội, chúng sống thế nào!
Chúng ta cần phân biệt giữa “lo lắng” và “lo liệu”. Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng chứ không phải đừng lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác cho Chúa.
Lo lắng chủ yếu là không tín thác vào Chúa. Sự không tín thác như thế có thể hiểu được nơi người ngoại giáo với tin tưởng vào một thần linh ganh tị, thất thường, không thể đoán trước được, nhưng không thể hiểu được nơi một người đã học gọi Thiên Chúa là Cha. Khi chúng ta đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, chúng ta mở lòng mình để hưởng nhờ ơn Chúa bảo vệ chúng ta. Và chúng ta có thể sống đời sống của mình và cử hành giây phút hiện tại.
2. Hãy tin vào Chúa quan phòng
Quan phòng là hành động của Thiên Chúa hướng dẫn con người và thế giới cách nào đó mà ta không ngờ. Nó không phải là định mệnh, hay số mệnh như quan niệm bình dân. Bình dân hiểu: số mệnh, định mệnh là sự ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành hay bại giống như rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Quan phòng là việc của người Cha khôn ngoan sáng suốt, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con, nhưng cũng rất tôn trọng tự do sáng kiến của con, khi con hết lòng yêu mến, kính phục Cha, nó sẽ hết lòng vâng theo lời hay lẽ phải của Cha.
Phụng vụ Chúa nhật hôm nay nhắc nhở cho ta điều mà ta không bao giờ được quên là ta tùy thuộc vào Chúa từng hơi thở. Chúa là Chúa các tạo vật. Ngài nắm quyền ban sự sống và đem lại cái chết. Ngài cầm vận mạng mọi loài trong tay.
Trong bài đọc 1, tiên tri Isaia nhắc nhở cho dân chúng là ngay cả khi họ bị lưu đầy bên Babylon, Chúa vẫn nhớ họ và không bỏ rơi họ. Mặc dầu bị án phạt, Chúa vẫn nhớ họ và giải thoát họ khỏi nô lệ. Sứ điệp của tiên tri Isaia bảo ta là phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa, ngay cả trong những ngày đen tối, bởi vì Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người. Isaia còn đưa ra hình ảnh người mẹ với đứa con, không bao giờ người mẹ bỏ quên con, và giả như người mẹ có quên con đi chằng nữa thì Thiên Chúa cũng không bao giờ bỏ ta là con Ngài.
Tin mừng cũng nói lên một sứ điệp tương tự Lời Chúa vang dội bên tai ta như là lời an ủi vỗ về:”Các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc… Cha trên trời biết rõ chúng con cần những sự đó” (Mt 6,31-32).
Truyện: Người mẹ không quên con
Một phụ nữ nghèo nàn ở trong một giáo xứ tại Dublin có một đứa con trai và đứa con này làm tan nát đời bà.
Anh ta không chịu làm việc mà dùng thời giờ để uống rượu và la cà với những kẻ phá rối. Anh lấy trộm hết những vật có giá trị của bà trong nhà. Bao nhiêu lần, bà đã cầu xin anh thay đổi đời sống, nhưng anh từ chối không làm. Anh làm cho trái tim mẹ anh tan nát và đời sống bà trở nên khốn khổ.
Có lúc anh ta phải vào tù. Hẳn là bà bỏ mặc anh ta? Không đời nào. Bà đến nhà tù thăm anh ta không bỏ tuần nào, mỗi lần đều mang theo thuốc lá và những đồ dùng khác cho anh ta trong một cái bao nhỏ. Một ngày nọ, một linh mục trong giáo xứ gặp bà lúc bà đang trên đường đến nhà tù.
“Đứa con trai này làm đời bà tan nát” vị linh mục nói. “Nó sẽ không bao giờ thay đổi. Tại sao bà không quên nó đi”?
“Làm sao tôi có thể quên nó được”? bà đáp lại. “Tôi không thích việc nó làm nhưng nó vẫn là con tôi”.
Bạn có thể nói rằng người mẹ ấy điên. Tuy nhiên bà chỉ làm điều mà bất cứ bà mẹ nào đúng nghĩa một bà mẹ không thể không làm, đó là yêu thương con của mình dù ở hoàn cảnh nào. Một bà mẹ không bao giờ bỏ cuộc. Đối với hầu hết chúng ta, tình thương của bà mẹ là một tình yêu của con người đáng tin cậy nhất. Nên không lạ gì khi Kinh Thánh dùng tình yêu của bà mẹ như một hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa (McCarthy).
3. Quan phòng và hành động.
Tin vào Chúa quan phòng không phải là trao hết mọi việc vào tay Chúa rồi sống ỷ lại với tư tưởng:”Trời sinh voi, trời sinh cỏ” rồi “ngồi há miệng chờ sung rụng”. Tin Chúa quan phòng không được mang tính cách thụ động, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm, càng tin, càng phải đem hết sức mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa: biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp.
Nếu Đức Giêsu nói:”Các con không phải làm gì cả, cứ tin vào Chúa quan phòng” thì tại sao trong toàn bộ Thánh Kinh, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã nói điều ngược lại? Chương đầu tiên của sách Sáng thế đã cho chúng ta lệnh truyền:”Hãy thống trị đất và bắt nó pục tùng”.
Thật ra, Đức Giêsu khẳng định:”Vì thợ đáng được nuôi ăn”(Mt 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như thánh Phaolô kết luận (2Tx 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã lãnh nhận (Mt 25,14-30). “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài”.
Vả lại, Ở Nazareth, Đức Giêsu đã có một nghề nghiệp: Ngài đã trải qua kinh nghiệm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như 20 gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy, Ngài cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích và cần thiết cho cuộc sống.
Nhà nho cũng hiểu điều đó khi nói:”Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”: trời hành động kiên cường thế nào thì quân tử cũng phải tự cường, hết sức làm như thế, không ngưng nghỉ. Quân tử là con trời, con vua, là hiền nhân, minh triết, phải biết tri thiên mệnh: biết ý trời, biết mệnh lệnh của trời để làm theo. Tin có thiên mệnh, tin cáo đạo Trời, chính là tin Thiên Chúa quan phòng sắp xếp mọi trật tự cho muôn loài trong trời đất.
Nhà nho chân chính Nguyễn công Trứ luôn luôn kiên cường hành đạo không mỏi mệt, không vụ danh lợi, dù làm tướng, làm quan hay làm lính “vẫn ra tay buồm lái với cuồng phong”. Nhờ thế, ông đã biến biển cả thành nương dâu, đồng ruộng Kim Sơn, Tiền Hải cho nhân dân ấm no. Nhất là ông đã biến những con người yếm thế thành những nam nhi anh hùng:”Chí những toan xẻ núi lấp sông”, biến những tâm hồn tham danh lợi thành trong sáng thanh tao:”Chẳng lợi danh gì lại hóa hay”. Một con người đầy chí khí không cầu thành công danh lợi, chỉ cầu thành nhân mưu ích cho đời:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Đức Giêsu đâu có thành công lúc sinh thời, nhưng đã thành Đấng Cứu Độ của muôn dân.
III. TÌM CÁI ƯU TIÊN CHO CUỘC SỐNG
Trong tất cả các tạo tạo vật nơi vũ trụ và tất cả các sinh vật trên mặt đất, mối quan tâm trước tiên của Chúa là con người, vì con người là một tuyệt tác phẩm của Thiên Chúa. Nếu Chúa quan tâm đến chim trời, đến hoa đồng cỏ nội, thì Chúa còn quan tâm hơn gấp bội đến con người, được tạo dựng giống hình ảnh của Chúa.
Nhưng chúng ta phải đặt vấn đề và giải quyết: Tại sao với đủ mọi thứ bảo hiểm cho thân xác mà ta vẫn cảm thấy bồn chồn lo lắng, chưa có hạnh phúc? Thưa, vì ta thiếu bảo hiểm cho tâm hồn. Khi mà chủ thể, cùng đích và lẽ sống của ta không phải là Chúa nhưng là thứ gì khác, và khi thứ khác đó bị mất đi, ta sẽ ngã gục, vì không còn gì để bám víu. Chúa không muốn ta để cho những hoàn cảnh hay trạng huống của cuộc sống điều khiển và chi phối. Chúa muốn ta sống thế nào để có thể cảm nghiệm được tình yêu và quan phòng của Chúa từ lúc này qua lúc khác, từ ngày nọ qua ngày kia. Để được như vậy, ta cần chiêm niệm Lời Chúa:”Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác, Người sẽ ban cho”(Mt 6,33).
Truyện: Nguyên tắc sinh tồn
Một giáo sư thực vật học, tay cầm một hạt giống nhỏ mầu nâu và nói với cả lớp rằng:
- Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm Hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.
Một học sinh đứng lên hỏi:
- Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?
Giáo sư trả lời:
- Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc mầu nhiệm mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.
Hạt giống là một cái gì chứa đựng sự sống. Con người, có thể với sự tài giỏi của khoa học, tạo ra những hạt giống tương tự hoặc tạo ra những người máy robot, song không thể tạo ra được sự sống được. Quyến sống chết chỉ duy nhất ở trong tay Thiên Chúa thôi.
Nếu Chúa đã nói:”Các con đừng lo lắng về ngay mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”(Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang nằm trong tay, phải chu toàn nó; tương lai là của Chúa, hãy phó thác cho Ngài và sống trong an bình thư thái.
13. Suy niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông
Chúa Nhật VIII Thường Niên này nói về ơn quan phòng của Thiên Chúa, gợi lên tấm lòng trìu mến yêu thương của Thiên Chúa.
Is 49,14-15
Qua vị ngôn sứ của Ngài, Thiên Chúa khẳng định cho dân Ngài rằng Ngài ân cần chăm sóc họ như tấm lòng của người mẹ đối với con thơ bé bỏng của bà.
Mt 6,24-34
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu miêu tả Thiên Chúa ân cần chăm sóc con người như một người cha hằng quan tâm đến những nhu cầu của con cái mình, và còn quan tâm đặc biệt hơn đối với những ai đặt quyền ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời và cho những đòi hỏi của sự thánh thiện như điều kiện của Nước Trời.
1Cr 4, 1-5
Bài đọc II không cho thấy những mối liên hệ với hai bài đọc kia: nó là đoạn trích sau cùng từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô như một lời kết luận. Thánh Phao-lô công bố rằng thánh nhân thực hiện sứ mạng của mình như một người quản lý trung thành của những mầu nhiệm Thiên Chúa. Các tín hữu Cô-rin-tô không có quyền tranh cãi về phẩm chất sứ điệp của thánh nhân. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền phán xét.
BÀI ĐỌC I (Is 49,14-15)
Tin Mừng Chúa Nhật này trình bày Thiên Chúa như một người cha, quan tâm đến những nhu cầu của con cái mình. Bản văn Cựu Ước trình bày cho chúng ta Thiên Chúa như một người mẹ, đầy trìu mến yêu thương đứa con thơ của mình.
Tác giả ca tụng tình mẫu tử của Thiên Chúa đối với dân Ngài là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Ông thi hành sứ vụ của mình bên cạnh những kẻ lưu đày ở Ba-by-lon. Tác phẩm của ông xứng đáng với nhan đề “Sách An Ủi” (40-55): ông hứa với những người bất hạnh này cuộc giải phóng gần kề và cuộc hồi hương sắp đến rồi. Trong những chương cuối cùng, từ chương 48 đến chương 55, vị ngôn sứ nhấn mạnh những viễn cảnh về một Giê-ru-sa-lem được hồi sinh từ hoang tàn đổ nát, sẽ gặp lại cảnh huy hoàng thịnh vượng như xưa, vì Đức Chúa không quên Thành Thánh Xi-on, đại diện toàn thể đất nước.
1. Lời phàn nàn của Giê-ru-sa-lem:
“Xi-on từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ rơi tôi, Chúa Thượng đã quên tôi rồi’”.
Lời phàn nàn của Giê-ru-sa-lem này mở ra phần thứ hai tác phẩm của vị ngôn sứ. Phần thứ nhất được thống trị bởi lời phàn nàn của những người lưu đày, họ nghĩ rằng Thiên Chúa không còn bận lòng đến số phận của họ: “Hỡi Gia-cóp, sao ngươi nói, hỡi Ít-ra-en, sao ngươi bảo: ‘Đường tôi đi, Đức Chúa không nhìn thấy, quyền lợi của tôi, Thiên Chúa chẳng đoái hoài?’” (40: 27). Đức Chúa đã nhắc nhở cho họ rằng Ngài là Đấng sáng tạo toàn cõi đất và là Đấng làm chủ mọi biến cố: Ngài có thể lật đổ kẻ áp bức, cho sa mạc nở hoa, vân vân.
Thành Thánh hoang tàn đổ nát và thưa thớt dân cư: biểu thị dân Thiên Chúa bất hạnh, than thân trách phận như một người vợ bị Thiên Chúa dứt tình đoạn nghĩa (hình ảnh đến từ các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ Hô-sê). Thiên Chúa trả lời khi công bố rằng Ngài yêu thương dân Ngài bằng trọn cả một tấm lòng, một tình yêu sắc son, không tì vết, như người mẹ hiền tận tình yêu thương đứa con thơ bé bỏng của mình.
2. Tình mẫu tử của Thiên Chúa:
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã thường diễn tả tấm lòng của Thiên Chúa đối với dân Ngài bằng động từ “thương” mà ngữ căn của nó có cùng một ngữ căn của từ “réhem” chỉ “dạ mẹ” (Isaiah 49:10,15; 55:7). Ngôn sứ I-sai-a đệ tam lấy lại động từ này từ thầy mình khi ông viết: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dẫu nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”. Chắc chắn đây là cách diễn tả tình yêu Thiên Chúa gây xúc động nhất mà chúng ta gặp thấy trong Kinh Thánh.
Thật ra, hai thế kỷ trước đó, trong vương quốc phương Bắc, ngôn sứ Hô-sê đã ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài, được sánh ví với tình yêu rất mực thủy chung của người chồng đối với vợ của mình hay của hôn phu đối với vị hôn thê của mình. Tuy nhiên, ông không phải là không biết những khía cạnh khác của tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài: “Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó….Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó…Ta xử với chúng như nguwofi nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn” (Hosea 11:1-4). Sau này, vài thập niên trước ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã đặt trên môi miệng Đức Chúa những lời đầy cảm xúc này: “Ép-ra-im có phải là đứa con Ta yêu dấu, một đứa con Ta rất mực mến yêu? Vì mỗi lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương, nên lòng Ta bồi hồi thổn thức, Ta thương nó, thương nó rất nhiều” (Gr 31: 20).
Chúng ta lưu ý rằng để diễn tả tấm lòng của Đức Giêsu, các thánh ký sẽ lấy lại cùng hình ảnh khi sử dụng một động từ Hy-lạp: “chạnh lòng thương” có cùng ngữ căn: “lòng dạ”, có nghĩa “mối cảm xúc dâng lên tận tâm can”. Đức Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi đau của người đàn bà góa khóc thương đứa con trai một của mình, trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng hay nỗi khốn cùng của những người bệnh hoạn tật nguyền.
Và nếu Đức Giêsu về phương diện thể lý mặc lấy nam tính, phải chăng Ngài đã không đảm nhận theo một cách nào đó nét đặc trưng của nữ tính khi sinh hạ một nhân loại mới trong đau đớn sao?: “Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga 16: 21).
BÀI ĐỌC II (1Cr 4, 1-5)
Với bản văn này, chúng ta hoàn tất phần thứ nhất thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô. Thánh nhân cố hàn gắn lại những bất đồng chia rẽ giữa những tín hữu Cô-rin-tô; thánh nhân lại càng nhiệt tâm hơn vì Giáo Đoàn này là công trình của ngài.
1. Người quản lý trung thành của các mầu nhiệm Thiên Chúa:
Vả lại, những chia rẽ này đụng chạm trực tiếp đến thánh nhân, bởi vì có “một phe nhóm thuộc về ông Phao-lô”. Tuy nhiên, thánh Phao-lô rất nhạy bén. Thánh nhân đã bị thương tổn, không ở nơi tình cảm riêng tư của ngài, nhưng ở nơi lý tưởng tông đồ của ngài. Cảm thấy mình bị bình phẩm hay bị nghi ngờ theo những tiêu chuẩn phàm nhân (có thể về thể chất của ngài, lập luận của ngài, ngôn từ của ngài, dáng điệu cử chỉ của ngài, vân vân), thế nên chỉ sứ điệp phải truyền đạt mới là điều quan trọng. Đây thật sự là một sự thử thách đối với vị sứ đồ hiến dâng bản thân mình cho sứ mạng của mình. Từ đó, thánh nhân thốt lên: “Vậy chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Ki-tô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa”.
2. Phải trả lẽ với lương tâm của mình:
Thánh nhân không là một siêu sao, nhưng chỉ là người quản lý trung thành của các mầu nhiệm Thiên Chúa. Đó là tiêu chuẩn duy nhất theo đó vị sứ đồ chịu quyền xét xử.
Thánh nhân phải trả lẽ với ai? Không với những Ki-tô hữu Cô-rin-tô. Những người này không có thẩm quyền phán xét lòng trung thành của thánh nhân. Cũng không tòa đời (chắc chắn thánh nhân nghĩ đến việc ngài bị điệu ra trước quan tổng trấn Rô-ma là Gallion ở Cô-rin-tô).
Phải chăng thánh nhân phải trả lẽ cho lương tâm của mình? Vâng, tất nhiên. Thánh Phao-lô diễn đạt ngay liền một cách tinh tế: “tôi chẳng thấy lương tâm áy náy điều gì”. Người duy nhất có thẩm quyền xét xử thánh nhân là chính Thiên Chúa, chứ không một ai khác.
Chúng ta thấy thánh Phao-lô nâng cao dần dần cuộc tranh luận như thế nào. Thánh nhân đưa ra một định nghĩa rất đẹp về sứ vụ tông đồ và dẫn đưa lập luận của mình cho đến khi gợi lên cuộc phán xét chung cuộc, ở đó những ý định ẩn kín trong thâm tâm con người được phơi bày ra và ở đó những khen thưởng xứng về những công việc của mình.
TIN MỪNG (Mt 6,24-34)
Bản văn này còn thuộc “Bài Giảng Trên Núi”, ở đó thánh Mát-thêu đã quy tụ những lời dạy khác nhau của Chúa Ki-tô. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương minh triết của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc, hình ảnh thi vị, được tô điểm với những lời khuyên xử thế thực tiển. Nhưng bên kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao vời: bài diễn từ mặc khải về Chúa Cha và sự ân cần chăm lo không ngừng của Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy cho các môn đệ Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không giới hạn theo hình ảnh đức ái của Cha trên trời. Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi lên đại gia đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội, chim trời và con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm lòng nhân ái của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa và tiền của:
Trước tiên Chúa Giêsu nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà Ngài áp dụng đặc biệt bằng cách đối lập Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã gìn giữ từ A-ram “mammon”, nguyên nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc chắn Chúa Giêsu đã muốn nhân cách hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông chủ.
Việc tôn thờ tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng trích trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.
2. Đừng lo lắng thái quá:
Chúa Giêsu không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn (6: 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6: 31-33) và về ngày mai (6: 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22: 35).
Cũng như cô Mác-ta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi cô em Ma-ri-a ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô Ma-ri-a chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.
3. Tin tưởng vào Chúa quan phòng:
Việc Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thọ tạo của mình là một chủ đề Kinh Thánh, được khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh ca ngợi: “Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn” (Tv 104, 27, 145, 15; 136, 25; 147, 9).
Giữa những thọ tạo khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để mời gọi con người phải sống trong sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người. Người đã ban cho chim trời có thức ăn hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công gieo vãi, không gặt hái và không trích trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.
“Hoa huệ”, từ ngữ chỉ không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ nội. Vào mùa xuân, miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. “Nay còn, mai đã quăng vào lò”. Chúa Giêsu biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội, bị héo khô, được các nông dân Ga-li-lê thu lượm lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng bánh.
Từ những tạo vật hèn mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội, Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất cao cả của con người. Con người là một tạo vật cao vời khôn sánh đối với chim trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho giúp người Ki-tô hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái độ lương dân. Người môn đệ của Chúa Ki-tô phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời.
4. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
“Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”. Từ “công chính” phải được hiểu theo nghĩa kinh thánh: “sự thánh thiện”. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
“Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những điều Ngài vừa mới đề cập đến: thức ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng đối với dân ngoại, nhưng không đối với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa với “những người công chính” là sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà Ngài vừa mới dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai”. Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin tưởng và một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó: “Chúa là hạnh phúc và tình yêu đời con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời đời”.
14. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Chế độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới.
Nhưng ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới.
Nước nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,
các phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục,
trẻ em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.
Xem ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ,
giữa một thế giới đề cao tự do và giải phóng.
Khi không muốn làm nô lệ cho ai,
con người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.
Khi không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,
con người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.
Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa.
“Anh em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.”
Nếu có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia.
Giữa Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai?
Tôi không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai.
Thần Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,
còn Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.
Chỉ khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do.
Có sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây.
Đức Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34).
Nhưng làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ?
Trên thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống?
Con người có thể sống vô tư như chim trời không
khi chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?
Chúng ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.
Ngài không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng.
Cái lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c. 30),
không tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác.
hơn giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội.
Lo âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi:
ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (c. 31).
Lo âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình,
quên rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32),
và sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33).
Lo âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình
hơn là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).
Kitô hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai.
Kitô hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ.
Nhưng họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.
Họ lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha.
Họ lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn.
Kitô hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an.
Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người - cũng như con -
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
15. Thiên Chúa quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6,34)
Suy niệm:
Phân tích
Bài Tin Mừng này có hai ý lớn:
1. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Vậy phải chọn làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi tiền của.
2. Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác: của ăn, áo mặc, tuổi thọ; vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Suy gẫm
1. Trong câu Chúa Giêsu cảnh cáo về việc làm tôi tiền của, chữ “Tiền Của” được viết hoa, ngụ ý đó là một thứ tà thần. Thật vậy, tiền của có sức ám người ta tất mạnh, và có sức phá hoại mọi thứ đạo đức. Đừng bao giờ coi thường nguy hiểm của nó.
2. Một ông già trúng số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ giết mất ông. Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông cụ sẽ làm gì nếu có 100 triệu. Ông nói: “Tôi sẽ cho ngài và cho nhà thờ một nửa” mục sư té xỉu.
3. Sở dĩ con người lo lắng thái quá và từ đó không còn được hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận từng giây phút hiện tại sống sung mãn từng khoảnh khắc cuộc sống. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cũng có nghĩa là chấp nhận các khuyết điểm của mình, khoan dung đối với những giới hạn của người khác, và nhìn mỗi thất bại như một cơ may mới.
4. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34).
Cuộc sống hiện tại với bao nhiêu mới mẻ, hấp dẫn khiến mình phải chạy đua với thời gian, với model của thời đại và ước muốn hoàn thiện bản thân. Mà muốn thành công trong một lĩnh vực nào đó, là cả một quá trình. Vậy mà mình muốn đạt được ngay. Thế là cứ lo nghĩ, dự định với kế hoạch mà không đủ can đảm thực hiện nó trong giây phút hiện tại và như thế ngày nào cũng bận tâm lo nghĩ về tương lai chỉ thêm chán nản.
Cuộc sống luôn đòi hỏi mỗi người chúng ta ở việc học, cách sống, sự an toàn, sự chia sẻ, sự cảm thông, khả năng yêu thương đối với tha nhân. Tại sao mình không chịu bắt tay vào những công việc đó ngay trong những giây phút này? Như thế có tốt hơn chăng hay cứ hoài lo âu nghĩ ngợi!
Lạy Chúa, mải loay hoay với những tính toán cho tương lai mà con quên mất mình đang sống ở đâu và phải làm gì. Xin Chúa cho con can đảm sống tốt giây phút hiện tại với Chúa, với anh em và chính bản thân con.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin chọn Chúa là gia nghiệp đời con. Vì chỉ nơi Chúa mà chúng con mới có sự sống đời đời. Xin Mình Thánh Chúa nâng đỡ những yếu đuối, nhẹ dạ nơi bản tính loài người chúng con. Xin giúp chúng con vượt thắng những cạm bẫy của thế gian để hồn xác chúng con mãi mãi thuộc trọn về Chúa.
Nhưng Chúa ơi! Ở đời người ta cần công danh. Ở đời người ta chuộng sự giàu có. Chúng con cũng nhiều lần chạy theo những danh lợi thú trần gian. Chúng con đã để tâm tìm kiếm của phù hoa mà quên đi hạnh phúc thiên đàng. Chúng con tin Chúa nhưng lại chưa thờ Chúa trên hết mọi sự. Chúng con chưa thực sự phó thác đời mình cho Chúa. Chúng con còn lắm bon chen để tìm kiếm danh lợi thú trần gian. Chúng con thích tích góp của cải hơn là tích đức đời sau. Chúng con lao tâm khổ trí vì của ăn mau hư nát hơn là giá trị vĩnh cửu Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin giúp chúng con biết yêu mến Chúa hơn mọi sự trần gian. Xin loại trừ nơi chúng con những quyến luyến của đam mê tội lỗi, lầm lạc. Xin cho chúng con luôn được trung thành phụng sự Chúa hết cuộc đời. Amen
16. Tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa
Kính thưa quý vị và các bạn
Tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa là sứ điệp chính yếu trong phụng vụ lời Chúa của ngày hôm qua, Chúa nhật thứ VIII thường niên. Đức Thánh Cha đã nhắc lại và nêu bật tầm quan trọng của sứ điệp ấy trước sự hiện diện đông đảo của các phái đoàn hành hương, là những người cùng tham dự giờ Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha tại quảng trường Thánh Phêrô. Ngài nói:
Anh chị em thân mến
Phụng vụ ngày hôm nay cho chúng ta nghe lại một trong những lời cảm động nhất của Kinh Thánh. Chúa Thánh Thần đã ban cho chúng ta những lời ấy ngang qua ngòi bút của tác giả mà chúng ta vẫn gọi là “Isaia đệ nhị”. Để an ủi dân Chúa trước sự kiện thành Giêrusalem bị tàn phá, tác giả này đã viết: “Có người phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”(Is 49, 15). Đó là lời mời gọi tin tưởng vào tình yêu không bao giờ phôi phai của Thiên Chúa.
Lời mời gọi này cũng được đề cập đến trong Tin Mừng Mat-thêu, khi Đức Giêsu dạy các môn đệ của mình tin tưởng vào sự quan phòng của Cha trên trời, Đấng nuôi dưỡng mọi loài chim trời và điểm trang cho hoa huệ ngoài đồng, là Đấng thấu biết mọi điều cần thiết của chúng ta (x. Mt 6, 24-34). Vị Thầy của chúng ta đã dạy: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó.”
Trước tình cảnh còn vô số những người đang phải sống trong đau khổ, dù là những người gần gũi hay những người xa lạ, những lời này của Đức Giêsu có vẻ như ít thực tiễn, nếu không muốn nói là lẫn tránh thực tế. Thế nhưng đúng ra, Đức Giêsu muốn chúng ta hiểu rõ rằng không ai có thể làm tôi hai chủ: Thiên Chúa và sự giàu có. Ai tin vào Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương yêu dành cho con cái mình, người ấy sẽ đặt lên hàng đầu việc tìm kiếm nước của Thiên Chúa và Thánh Ý của Người. Điều này rất khác với chủ thuyết định mệnh hay với một khuynh hướng nhân nhượng ngây thơ. Quả thế, niềm tin vào sự quan phòng không thế chỗ cho những nỗ lực chiến đấu để hướng đến một cuộc sống đúng với phẩm giá con người, nhưng giải phóng chúng ta khỏi những nỗi bận tâm hướng đến vật chất và những nỗi sợ hãi hướng về ngày mai.
Lời giáo huấn này của Đức Giêsu luôn chính đáng và chân thực đối với tất cả mọi người. Lời ấy được áp dụng vào cuộc sống với những cách thế khác nhau, ứng với những ơn gọi khác nhau, chẳng hạn: các tu sĩ dòng Phanxicô có thể bước theo lời giáo huấn này cách tận căn hơn; trong khi đó, một người gia trưởng của một gia đình thì luôn phải để ý đến những phận vụ của mình đối với vợ và con cái của mình... Dù trong trường hợp nào đi nữa, điểm đặc biệt của một người kitô hữu đó là: thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha Trên Trời, như Đức Giêsu đã thể hiện. Chính nhờ mối liên hệ với Thiên Chúa là Cha đã mang đến một ý nghĩa đặc biệt cho cuộc sống của Đức Giêsu, cho những lời rao giảng và những cử chỉ cứu độ của Người, cho cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người.
Chính Đức Giêsu đã thể hiện cho chúng ta thấy một cung cách sống đặc biệt: đôi chân đặt vững vàng trên mặt đất, lưu tâm đến những tình huống cụ thể của những người thân cận; nhưng đồng thời, luôn giữ vững con tim mình hướng về Trời, chìm sâu vào trong lòng thương xót của Thiên Chúa.
Các bạn thân mến,
Dưới ánh sáng của Lời Chúa trong ngày Chúa nhật hôm nay, tôi mời gọi các bạn hãy kêu cầu với Đức Trinh Nữ Maria với tước hiệu là Mẹ Quan Phòng. Trong tay Mẹ, chúng ta phó thác cuộc sống của chúng ta, phó thác cuộc lữ hành của Giáo hội chúng ta, và phó thác cả những diễn biến của lịch sử. Cách đặc biệt, chúng ta hãy kêu xin sự chuyển cầu của Mẹ để tất cả chúng ta biết sống một lối sống đơn sơ giản dị trong những công việc thường ngày, và trong sự tôn trọng các tất cả các tạo vật mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta chăm sóc.
(Lưu Minh Gian)
17. Tiền và Nước Trời
(Tổng hợp từ R. Veritas)
Có người đã luận bàn về đồng tiền như sau:
Tiền có thể:
- Mua được cao lương mỹ vị, nhưng không mua được sự ngon miệng
- Mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không mua được sức khỏe.
- Mua được chăn êm nệm ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon lành.
- Mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không mua được mái ấm gia đình.
- Mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an thanh thản của tâm hồn.
- Mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh, kiến thức.
- Mua được bạn bè, nhưng không mua được tình nghĩa.
- Mua được trái tim, nhưng không mua được tình yêu.
- Mua được thân xác, nhưng không mua được tâm hồn.
- Mua được đời này, nhưng không mua được đời sau.
- Mua được con người, nhưng không mua được Thiên Chúa
- Mua được visa để đi khắp nơi trên thế giới, nhưng không mua được hộ chiếu để vào Nước Trời…
***
Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tiền của: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt.6:24)
Đồng tiền là vật có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!” Tiền còn là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mẹ, mất vợ chồng, mất anh em bạn bè...
Tiền bạc không ưa thích con người, nhưng con người ưa thích tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình đặc biệt. Có ai chê tiền đâu! Từ người già cho tới em bé, ai ai cũng đều thích tiền.
Chúa Giêsu không bài bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở về thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo những người giàu có trong việc sử dụng đồng tiền.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tùy ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, đặt tiền của cao hơn Chúa, coi tiền của là mục đích của cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để chiếm hữu thật nhiều tiền.
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho biết bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Khi con người đề cao và bám víu vào tiền của, coi tiền của là vạn năng, là cùng đích của cuộc sống …thì con người sẽ trở thành nô lệ cho tiền của.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp ta đạt tới đích điểm là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy ta xa Chúa, đi tìm kiếm những sự phụ thuộc chóng qua của thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương tiện để tìm kiếm Nước Trời. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho” (Mt.6:33)
***
Tâm sự của con chim Sẻ:
Bạn thân mến!
Tôi chỉ là con Sẻ nhỏ. Một con chim thật tầm thường. Đời tôi cũng chẳng có giá trị gì nhiều, nhưng Thiên Chúa đã chăm sóc tôi…
Tôi không có kho lẫm, tôi không bao giờ gieo hạt hay gặt hái, nhưng Thiên Chúa đã ban cho tôi phần của một con chim sẻ, chỉ đủ dùng và không có được một hạt dư…
Tôi biết có nhiều con chim sẻ ở khắp nơi, nhưng khi một đứa trong chúng tôi bị rơi xuống đất, Cha trên trời cũng biết rõ điều ấy...
Dù nhỏ bé, nhưng tôi không bao giờ bị quên lãng – dù yếu đuối, nhưng tôi không bao giờ sợ hãi…Vì có Cha trên trời luôn nâng đỡ chở che …
Tôi bay lượn trong những khu rừng rậm rạp, hay nhẹ nhàng trên những khóm hoa – tôi không cần bản đồ hay la bàn, nhưng không bao giờ tôi lạc lối…
Lời Chúa hôm nay cất tiếng mời gọi: “Hãy nhìn xem chim trời…Cha anh em ở trên trời vẫn lo cho chúng! Anh em không đáng giá hơn các con chim ấy sao?... (Mt.6:26)
Vì thế xin đừng lo lắng! Nhưng hãy đặt tất cả đời ta trong vòng tay yêu thương quan phòng của Cha trên trời, Bạn nhé!
18. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
“Hãy tìm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”
Trong hai Chúa Nhật trước, các bài Tin Mừng nói về cách hành xử của Kitô hữu đối với những người thân cận. Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 6,24-34) dạy chúng ta về mối tương quan đối với những giá trị và thực tại vật chất trần gian.
1. “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24)
Trước hết, bài Tin Mừng bắt đầu bằng một giáo huấn quan trọng của Chúa Giêsu: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24).
Làm tôi (douleuein) là phục vụ với một lòng trung thành tuyệt đối, chấp nhận bị chủ sai khiến và quyết định thế nào mặc lòng. Người nô lệ không có quyền gì trên cuộc đời mình. Là vật sở hữu của chủ, anh ta phải chịu chủ sai khiến và phải tuyệt đối tùng phục theo những quyết định của chủ. Vì thế, không ai có thể làm tôi hai chủ, nhất là khi hai chủ ấy hoàn toàn trái ngược nhau và cả hai đều là những người rất đòi hỏi.
Nhưng sự “làm tôi” mà Đức Giêsu nói đến ở đây còn đi xa hơn cách hiểu thông thường rất nhiều. Khi đưa ra hai cặp đối lập yêu / ghét và gắn bó / khinh dể, Người muốn cho thấy sự “làm tôi” ở đây phải là sự dấn thân phục vụ hết mình, trọn vẹn, chân thành, với tất cả lòng yêu mến. Theo nghĩa này, người ta càng không thể làm tôi hai chủ được. “Vì anh ta hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ”.
Cuối câu 24, Đức Giêsu nêu rõ danh tánh hai ông chủ: Thiên Chúa và Tiền Của. Người khẳng định một cách rõ ràng và mạnh mẽ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Hạn từ “Tiền Của” ở đây có thể được hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau. Một số người hiểu đó là tiền bạc theo nghĩa thông thường. Một số khác hiểu đó là những tài sản vật chất khác nhau mà người ta kiếm chác được, nhất là bằng những hoạt động bất chính. Nhiều người hiểu (một cách hữu lý) rằng “Tiền Của” ở đây là tất cả những gì người ta tìm kiếm được và sở hữu được, ngay cả quyền lực, công danh, sự nghiệp, tài năng…, nói tóm lại là tất cả những giá trị và thực tại trần thế, không loại trừ đó là những thực tại tốt lành. Tất cả những thứ đó đều có thể được người ta sùng bái quá đáng, và đều có thể trở thành đối thủ cạnh tranh không khoan nhượng với Thiên Chúa trong tâm hồn và cuộc sống của người ta.
Chúa Giêsu không lên án “Tiền Của”, nhưng Người không chấp nhận những ai để cho thói tôn sùng “Tiền Của” làm chủ mình. Người nặng lời phê phán những ai yêu mến và gắn bó với những thực tại trần gian mà họ làm ra và sở hữu. Vấn đề không phải là không có “Tiền Của”, mà là không được ưu tiên nó như là thực tại quan trọng nhất và có sức chi phối khao khát, suy nghĩ, chọn lựa, quyết định và hành xử của chúng ta. Thiên Chúa phải chiếm vị trí số một, và các đồ đệ của Đức Giêsu phải không được từ nan bất cứ điều gì Thiên Chúa đòi hỏi. Họ phải làm tôi Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự gắn bó sâu xa với Ngài. Chính trong thái độ tâm linh căn bản đó, người đồ đệ sẽ có một cách hành xử đúng đắn đối với những thực tại và giá trị trần thế, ngay cả những thực tại và giá trị cốt thiết để hiện hữu và sống còn, như của ăn và áo mặc chẳng hạn.
2. Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống (cc.25-32)
Những của cải và giá trị trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào.
Chúa Giêsu dạy: " Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (cc.25-32).
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng âu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27).
Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định. Nhưng Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
3. Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (cc.33-34)
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta. Người nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (cc.33-34)
Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta phải hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực.
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
Trong hai Chúa Nhật trước, các bài Tin Mừng nói về cách hành xử của Kitô hữu đối với những người thân cận. Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 6,24-34) dạy chúng ta về mối tương quan đối với những giá trị và thực tại vật chất trần gian.
1. “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24)
Trước hết, bài Tin Mừng bắt đầu bằng một giáo huấn quan trọng của Chúa Giêsu: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (c.24).
Làm tôi (douleuein) là phục vụ với một lòng trung thành tuyệt đối, chấp nhận bị chủ sai khiến và quyết định thế nào mặc lòng. Người nô lệ không có quyền gì trên cuộc đời mình. Là vật sở hữu của chủ, anh ta phải chịu chủ sai khiến và phải tuyệt đối tùng phục theo những quyết định của chủ. Vì thế, không ai có thể làm tôi hai chủ, nhất là khi hai chủ ấy hoàn toàn trái ngược nhau và cả hai đều là những người rất đòi hỏi.
Nhưng sự “làm tôi” mà Đức Giêsu nói đến ở đây còn đi xa hơn cách hiểu thông thường rất nhiều. Khi đưa ra hai cặp đối lập yêu / ghét và gắn bó / khinh dể, Người muốn cho thấy sự “làm tôi” ở đây phải là sự dấn thân phục vụ hết mình, trọn vẹn, chân thành, với tất cả lòng yêu mến. Theo nghĩa này, người ta càng không thể làm tôi hai chủ được. “Vì anh ta hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ”.
Cuối câu 24, Đức Giêsu nêu rõ danh tánh hai ông chủ: Thiên Chúa và Tiền Của. Người khẳng định một cách rõ ràng và mạnh mẽ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Hạn từ “Tiền Của” ở đây có thể được hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau. Một số người hiểu đó là tiền bạc theo nghĩa thông thường. Một số khác hiểu đó là những tài sản vật chất khác nhau mà người ta kiếm chác được, nhất là bằng những hoạt động bất chính. Nhiều người hiểu (một cách hữu lý) rằng “Tiền Của” ở đây là tất cả những gì người ta tìm kiếm được và sở hữu được, ngay cả quyền lực, công danh, sự nghiệp, tài năng…, nói tóm lại là tất cả những giá trị và thực tại trần thế, không loại trừ đó là những thực tại tốt lành. Tất cả những thứ đó đều có thể được người ta sùng bái quá đáng, và đều có thể trở thành đối thủ cạnh tranh không khoan nhượng với Thiên Chúa trong tâm hồn và cuộc sống của người ta.
Chúa Giêsu không lên án “Tiền Của”, nhưng Người không chấp nhận những ai để cho thói tôn sùng “Tiền Của” làm chủ mình. Người nặng lời phê phán những ai yêu mến và gắn bó với những thực tại trần gian mà họ làm ra và sở hữu. Vấn đề không phải là không có “Tiền Của”, mà là không được ưu tiên nó như là thực tại quan trọng nhất và có sức chi phối khao khát, suy nghĩ, chọn lựa, quyết định và hành xử của chúng ta. Thiên Chúa phải chiếm vị trí số một, và các đồ đệ của Đức Giêsu phải không được từ nan bất cứ điều gì Thiên Chúa đòi hỏi. Họ phải làm tôi Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự gắn bó sâu xa với Ngài. Chính trong thái độ tâm linh căn bản đó, người đồ đệ sẽ có một cách hành xử đúng đắn đối với những thực tại và giá trị trần thế, ngay cả những thực tại và giá trị cốt thiết để hiện hữu và sống còn, như của ăn và áo mặc chẳng hạn.
2. Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống (cc.25-32)
Những của cải và giá trị trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào.
Chúa Giêsu dạy: " Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (cc.25-32).
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng âu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27).
Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định. Nhưng Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
3. Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (cc.33-34)
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta. Người nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (cc.33-34)
Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta phải hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực.
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
19. Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Dom. Châu Hoàng Ngọc)
Chuyện xưa:
Tề Tuyên Vương đến chơi nhà Nhan Súc. Vua bảo: “Súc lại đây”.
Nhan Súc cũng bảo: “Vua lại đây”.
Các quan thấy vậy, nói: “Vua là bậc chí tôn, Súc là kẻ thần hạ, vua bảo “Súc lại đây” thì không sao, nhưng Súc cũng bảo “Vua lại đây” thì như thế có nghe được hay không?”
Nhan Súc nói: “Vua gọi Súc, mà Súc lại, thì Súc là người hâm mộ thần thế. Súc gọi vua, mà vua lại, thì vua là người người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng hâm mộ quyền thế, thì sao bằng để nhà vua được tiếng quý trọng hiền tài.
Vua nghe nói, giận lắm, gắt lên rằng: “Vua quý hay kẻ sĩ quý?”
Nhan Súc đáp: “Sĩ quý, vua không quý”.
Vua hỏi: “Có sách nào nói thế không?”
Nhan Súc thưa: “Có. Ngày trước, nước Tần đánh nước Tề, có hạ lệnh rằng ai dám đến gần mộ ông Liễu Hạ Quý mà kiếm củi thì phải xử tử. Lại có lệnh rằng ai lấy được đầu vua Tề thì được phong hầu và thưởng nghìn lượng vàng. Xem thế thì đủ biết cái đầu ông vua sống thực không bằng cái mả của kẻ sĩ đã chết.
Tề Tuyên Vương nói: “Than ôi, người quân tử ai mà dám khinh! Quả nhân cam chịu lỗi. Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh chỉ bảo cho. Tiên sinh mà về với quả nhân, thì được ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa, vợ con được quần áo thênh thang tha hồ vinh hạnh?”
Nhan Súc từ chối, nói rằng: “Ngọc vốn ở trong núi, lấy ra mài dũa, chế làm đồ vật, tuy đem bày biện có phần quý báu, nhưng cũng là hỏng, vì vóc ngọc không còn. Kẻ sĩ sinh nơi thôn dã bỏ ra làm quan, tuy vinh hiển thật, song tinh thần không còn được vẹn toàn. Súc xin ở nhà, lúc đói mới ăn, thì cũng ngon miệng như ăn cơm thịt; lúc đi, cứ một bước một khoan thai, thì cũng nhẹ nhàng như lên xuống ngựa, suốt đời không tội lỗi cùng ai, thì cũng sung sướng như quan cao chức trọng. Hình thần lúc nào cũng được trong sạch chính đáng, thế là đủ khoan khoái cho Súc rồi.
Nói đoạn, Nhan Súc tạ vua Tuyên Vương mà lui vào.
Suy gẫm:
Nhan Súc đã sống tinh thần Phúc Âm tuyệt vời:
không lo âu: đói thì ăn cơm rau ngon hơn cơm thịt, đi thì bước khoan thai như vua,
không làm tôi hai chủ: không thích làm quan, làm tôi vua, vợ đẹp, nhà giàu, được trọng vọng. vì được tất cả mà mất cái tự nhien tự tại, tinh thần không được vẹn toàn.
Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa: Suốt đời không tội lỗi thì cũng sung sướng, tinh thần lúc nào cũng trong sạch chính đáng. thế là đủ khoan khoái
Chuyện xưa:
Tề Tuyên Vương đến chơi nhà Nhan Súc. Vua bảo: “Súc lại đây”.
Nhan Súc cũng bảo: “Vua lại đây”.
Các quan thấy vậy, nói: “Vua là bậc chí tôn, Súc là kẻ thần hạ, vua bảo “Súc lại đây” thì không sao, nhưng Súc cũng bảo “Vua lại đây” thì như thế có nghe được hay không?”
Nhan Súc nói: “Vua gọi Súc, mà Súc lại, thì Súc là người hâm mộ thần thế. Súc gọi vua, mà vua lại, thì vua là người người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng hâm mộ quyền thế, thì sao bằng để nhà vua được tiếng quý trọng hiền tài.
Vua nghe nói, giận lắm, gắt lên rằng: “Vua quý hay kẻ sĩ quý?”
Nhan Súc đáp: “Sĩ quý, vua không quý”.
Vua hỏi: “Có sách nào nói thế không?”
Nhan Súc thưa: “Có. Ngày trước, nước Tần đánh nước Tề, có hạ lệnh rằng ai dám đến gần mộ ông Liễu Hạ Quý mà kiếm củi thì phải xử tử. Lại có lệnh rằng ai lấy được đầu vua Tề thì được phong hầu và thưởng nghìn lượng vàng. Xem thế thì đủ biết cái đầu ông vua sống thực không bằng cái mả của kẻ sĩ đã chết.
Tề Tuyên Vương nói: “Than ôi, người quân tử ai mà dám khinh! Quả nhân cam chịu lỗi. Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh chỉ bảo cho. Tiên sinh mà về với quả nhân, thì được ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa, vợ con được quần áo thênh thang tha hồ vinh hạnh?”
Nhan Súc từ chối, nói rằng: “Ngọc vốn ở trong núi, lấy ra mài dũa, chế làm đồ vật, tuy đem bày biện có phần quý báu, nhưng cũng là hỏng, vì vóc ngọc không còn. Kẻ sĩ sinh nơi thôn dã bỏ ra làm quan, tuy vinh hiển thật, song tinh thần không còn được vẹn toàn. Súc xin ở nhà, lúc đói mới ăn, thì cũng ngon miệng như ăn cơm thịt; lúc đi, cứ một bước một khoan thai, thì cũng nhẹ nhàng như lên xuống ngựa, suốt đời không tội lỗi cùng ai, thì cũng sung sướng như quan cao chức trọng. Hình thần lúc nào cũng được trong sạch chính đáng, thế là đủ khoan khoái cho Súc rồi.
Nói đoạn, Nhan Súc tạ vua Tuyên Vương mà lui vào.
Suy gẫm:
Nhan Súc đã sống tinh thần Phúc Âm tuyệt vời:
không lo âu: đói thì ăn cơm rau ngon hơn cơm thịt, đi thì bước khoan thai như vua,
không làm tôi hai chủ: không thích làm quan, làm tôi vua, vợ đẹp, nhà giàu, được trọng vọng. vì được tất cả mà mất cái tự nhien tự tại, tinh thần không được vẹn toàn.
Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa: Suốt đời không tội lỗi thì cũng sung sướng, tinh thần lúc nào cũng trong sạch chính đáng. thế là đủ khoan khoái
20. Con là con của Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
SUY NIỆM
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, ta nghe Chúa Giêsu cho ta lời một giáo huấn rất dứt khoát: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt.6,24).
LÀM TÔI THIÊN CHÚA
Năm 1989, 1 trận động đất 8,2 độ Richter gần như san bằng Armenia, làm hơn 30.000 người chết trong vòng 4 phút. Trong cơn hỗn loạn, có 1 người đàn ông dặn vợ mình ở nhà cho an toàn, rồi chạy ào đến trường, nơi con trai ông đang học.
Ở đó, ông nhìn thấy 1 đống đổ nát - ngôi trường đã sập hoàn toàn. Ngay lúc đó, người đàn ông nhớ đến lời hứa ông luôn nói với con mình: "Dù thế nào, bố cũng luôn bảo vệ con!". Và ông bật khóc khi nhìn đóng gạch vụn đã từng là trường học. Rồi ông bắt đầu cố định hướng xem lớp của con mình nằm ở vị trí nào. Góc bên phải phía sau của trường học! Ông lao đến và bắt đầu bới đống gạch đá.
Nhiều vị phụ huynh thấy người đàn ông làm như vậy, họ vừa khóc vừa kéo ông ra, kêu lên: "Quá muộn rồi!","Anh không làm được gì đâu", "Về nhà đi" hoặc "Chúng ta phải chờ cứu hộ đến thôi"... Nhưng để đáp lại những lời đó, người đàn ông chỉ nói đúng 1 câu: "Giúp tôi 1 tay!". Và ông vẫn tiếp tục bới đống gạch, cẩn thận quẳng từng viên gạch, từng mảnh tường ra ngoài.
Đội cứu hộ đến và họ cũng cố lôi ông ra khỏi đống đổ nát.
- Chúng tôi sẽ lo việc này, ông về nhà đi!
Nhưng người cha vẫn dọn dẹp từng viên gạch và chỉ đáp:
- Giúp tôi 1 tay đi!
Cảnh sát cũng có mặt. Họ cũng khuyên can người đàn ông:
- Anh đang trong trạng thái không ổn định. Anh có thể gây nguy hiểm cho mình và cho người khác, đề nghị anh về nhà!
Nhưng họ cũng chỉ nghe được 1 câu:
- Giúp tôi 1 tay đi!
Một người rồi nhiều người vào "giúp 1 tay"
Họ đào bới đống gạch suốt 8 tiếng... 12 tiếng... 24 tiếng... 36 tiếng... Và đến tiếng thứ 38, khi kéo 1 tảng bê-tông ra, dường như họ thấy tiếng trẻ con.
- Armand? - Người đàn ông gọi to, giọng nghẹn lại
và ông nghe thấy tiếng trả lời:
- Bố phải không? Con ở đây này! Con đang bảo các bạn đừng lo, vì bố sẽ đến cứu con, và tất cả các bạn nữa! Bố đã hứa bố sẽ luôn bảo vệ con mà...
14 học sinh trong số 38 em ở lớp của Armand được cứu sống hôm đó, vì khi ngôi trường sập xuống, 1 tảng bê-tông to đã chèn vào tạo thành cái "hang" nhỏ và các em bị kẹt. Armand đã bảo các bạn đừng khóc, bởi vì "bố tớ sẽ đến cứu chúng ta!". Các em nhỏ hoảng sợ, đói khát, nhưng đã được cứu sống, bởi vì có 1 người cha đã hứa.
Làm tôi Thiên Chúa là làm con Thiên Chúa:
“Hạnh phúc thật” của con người.
Vì, làm tôi Thiên Chúa, là được Thiên Chúa yêu thương.
“Làm tôi Thiên Chúa” không phải là sống kiếp đời “Tôi mọi”, mà là được Ngài chia sẻ sự sống, và niềm hạnh phúc.
“Làm tôi Thiên Chúa” là sống khiêm nhường để tuân theo thánh ý Chúa, và như thế, là vâng phục Thiên Chúa và được Ngài che chở.
“Làm tôi Thiên Chúa” là được “công tác” vào chương trình cứu độ của Ngài, vì được Ngài nâng lên bậc “làm con Thiên Chúa”. “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
“Làm tôi Thiên Chúa” là bước theo con đường Giêsu và được Người xem là “bạn hữu”.
“Làm tôi Thiên Chúa” là được tất cả vì Thiên Chúa là Alpha và Omega, là hạnh phúc viên mãn.
“Làm tôi Thiên Chúa” chính là “làm con Thiên Chúa”. Và chính vì thế, ta có thể vui sống, vững tin, vì đời ta luôn trong vòng tay yêu thương che chở của Ngài.
“Làm tôi Thiên Chúa” ta được Ngài trao ban những gì có giá trị bền vững, sự vĩnh hằng.
Và như thế, ta có thể tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, Cha mình, như đứa bé trong câu chuyện kể trên: “Con ở đây này! Con tin rằng Chúa sẽ cứu con! Chúa đã hứa sẽ luôn bảo vệ con mà!”.
“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?
Cho dù nó có quên đi nữa,
thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is.49,15).
LÀM TÔI TIỀN CỦA
Làm tôi tiền của là “đại họa” cho bản thân và cộng đồng nhân loại.
“Làm tôi tiền của” là sống một kiếp đời đày đọa.
“Làm tôi tiền của” là sống “tôi mọi” không ngừng.
“Làm tôi tiền của” là trong tay thần chết, đã trong tay thần chết thì tất nhiên không được bảo vệ.
“Làm tôi tiền của” là sa lầy vào những hành vi đen tối.
“Làm tôi tiền của” là mất phương hướng ngay lành, đi vào thế giới hủy diệt.
“Làm tôi tiền của” là tin vào sự phù phiếm và bám víu vào những giá trị mỏng manh.
“Làm tôi tiền của” là mất tất cả.
“Tiền của” là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu! “Ông chủ” xấu đó không ai khác hơn là “ma quỷ”! Tiền của là phương tiện đáng sợ của ma quỷ. Thậm chí, nó chính là ma quỷ!
Thực tế, tiền của đem lại cho con người “cơm no, áo ấm”, “ăn ngon, mặc đẹp”. Nhưng tham vọng con người là “túi tham không đáy”, thường không dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày”, nên đi xa hơn, tiến đến hành vi “tom góp”, cưỡng đoạt, tìm cách sở hữu càng nhiều càng tốt, bằng mọi cách, bất chấp đạo đức, phi nhân, phi nghĩa, và tìm cách phá đổ tất cả những cản trở, mà cao điểm, chính loại bỏ lương tâm, chối từ Thiên Chúa.
Đó là sự tiến hóa về miền đất chết của nhân loại. Đó là nền văn minh sự chết. Nếu con người không “thức tỉnh”, con người dần dần biến Trái Đất này thành một hành tinh chết, không phải vì sự cạn kiệt của tài nguyên, mà là sự cạn kiệt những giá trị tinh thần.
Hãy xem sự phá hoại môi trường hiện nay, không hoàn toàn vì nhu cầu con người, thực ra, có sự đóng góp đáng kể của lòng ích kỷ và tham vọng.
Tin Mừng hôm nay không phải là bài học “nghệ thuật sống” về sự an nhàn thanh thản, mà là giáo huấn về “Tình Yêu Thiên Chúa”, để con người tìm thấy đâu là nơi nương tựa, đâu là hạnh phúc thật sự để con người nhắm tới, và đâu là sự mỏng manh vô nghĩa mà con người lầm tưởng là thứ giá trị như lòng mơ ước.
Sự lo lắng sẽ đến khi con người muốn được sở hữu và toàn quyền quyết định trên những gì con người mong muốn theo ý riêng mình, nhưng đáng tiếc thay, con người không có gì để sở hữu và tất nhiên không có quyền gì trên bất cứ thứ gì. Tất cả “là mây là khói”, là “là phù hoa”, là “cát bụi”, là vô nghĩa, nếu con người sống ngoài Thánh ý Thiên Chúa, sống ngoài Tình Yêu Thiên Chúa. “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc.12,20).
Ngược lại, sự bình an sẽ đến khi con người nương tựa vào Thiên Chúa và con người sẽ nhận ra sự giàu có của mình khi biết nhìn lên Thiên Chúa và gọi Ngài hai tiếng: Cha ơi!
Sự giàu có ấy là gia tài bất tận, bất biến, không ai xâm phạm được, và không bao giờ vì nó mà ta đau khổ. Đó là sự giàu có tâm hồn.
Con người chỉ hiểu được giá trị tiền của cùng với danh vọng trần thế, và biết chọn lựa thái độ thế nào đối với chúng, khi con người nhìn vào cuộc đời Chúa Cứu Thế, đặc biệt khi Người bị ma quỷ cám dỗ ở sa mạc.
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt.4,4).
“Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt.4,7).
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. (Mt.4,10).
“Thờ phượng một mình Người mà thôi”. Đó là con đường của chúng ta. Con đường sống của nhân loại.
Vì thờ phượng, là tâm tình con thảo đối với Cha mình, là Thiên Chúa. Và đó mới là nguồn vui, nguồn hạnh phúc thật sự của đời người. “Chúa là nguồn vui của con” (Tv.43,4).
Lạy Chúa,
Nghe nói phó thác tất cả trong tay Chúa, con đừng lo sợ.
Không khó đâu! Mặc dù con không biết Chúa Kitô đưa con đi đâu,
Ngài dành những gì bất ngờ cho con,
chỉ tin Chúa là Cha của con,
chừng ấy đủ rồi. Amen.
(Đường Hy Vọng. Hồng Y P.X. Nguyễn Văn Thuận).
Truyện áp dụng:
Chờ sung rụng
Xưa có một anh rất lười, không chịu làm gì, ngay cả việc ngủ và ăn mà anh ta cũng không muốn nữa.
Một hôm, anh ta nằm ngửa dưới gốc cây sung, há miệng chờ sung rụng vào, khỏi mất công hái mà ăn.
Xui quá, sung chín rơi rụng đầy trên mặt đất, quanh chỗ anh ta nằm mà chả có trái nào rớt trúng vào miệng anh ta cả.
Có một người đi qua thấy thế, đem lòng thương hại, lấy chân kẹp một trái sung rụng bỏ vào miệng anh ta. Anh chàng lười vừa nhai vừa lụng bụng:
- Rõ cái đồ lười.
SUY NIỆM
Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, ta nghe Chúa Giêsu cho ta lời một giáo huấn rất dứt khoát: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt.6,24).
LÀM TÔI THIÊN CHÚA
Năm 1989, 1 trận động đất 8,2 độ Richter gần như san bằng Armenia, làm hơn 30.000 người chết trong vòng 4 phút. Trong cơn hỗn loạn, có 1 người đàn ông dặn vợ mình ở nhà cho an toàn, rồi chạy ào đến trường, nơi con trai ông đang học.
Ở đó, ông nhìn thấy 1 đống đổ nát - ngôi trường đã sập hoàn toàn. Ngay lúc đó, người đàn ông nhớ đến lời hứa ông luôn nói với con mình: "Dù thế nào, bố cũng luôn bảo vệ con!". Và ông bật khóc khi nhìn đóng gạch vụn đã từng là trường học. Rồi ông bắt đầu cố định hướng xem lớp của con mình nằm ở vị trí nào. Góc bên phải phía sau của trường học! Ông lao đến và bắt đầu bới đống gạch đá.
Nhiều vị phụ huynh thấy người đàn ông làm như vậy, họ vừa khóc vừa kéo ông ra, kêu lên: "Quá muộn rồi!","Anh không làm được gì đâu", "Về nhà đi" hoặc "Chúng ta phải chờ cứu hộ đến thôi"... Nhưng để đáp lại những lời đó, người đàn ông chỉ nói đúng 1 câu: "Giúp tôi 1 tay!". Và ông vẫn tiếp tục bới đống gạch, cẩn thận quẳng từng viên gạch, từng mảnh tường ra ngoài.
Đội cứu hộ đến và họ cũng cố lôi ông ra khỏi đống đổ nát.
- Chúng tôi sẽ lo việc này, ông về nhà đi!
Nhưng người cha vẫn dọn dẹp từng viên gạch và chỉ đáp:
- Giúp tôi 1 tay đi!
Cảnh sát cũng có mặt. Họ cũng khuyên can người đàn ông:
- Anh đang trong trạng thái không ổn định. Anh có thể gây nguy hiểm cho mình và cho người khác, đề nghị anh về nhà!
Nhưng họ cũng chỉ nghe được 1 câu:
- Giúp tôi 1 tay đi!
Một người rồi nhiều người vào "giúp 1 tay"
Họ đào bới đống gạch suốt 8 tiếng... 12 tiếng... 24 tiếng... 36 tiếng... Và đến tiếng thứ 38, khi kéo 1 tảng bê-tông ra, dường như họ thấy tiếng trẻ con.
- Armand? - Người đàn ông gọi to, giọng nghẹn lại
và ông nghe thấy tiếng trả lời:
- Bố phải không? Con ở đây này! Con đang bảo các bạn đừng lo, vì bố sẽ đến cứu con, và tất cả các bạn nữa! Bố đã hứa bố sẽ luôn bảo vệ con mà...
14 học sinh trong số 38 em ở lớp của Armand được cứu sống hôm đó, vì khi ngôi trường sập xuống, 1 tảng bê-tông to đã chèn vào tạo thành cái "hang" nhỏ và các em bị kẹt. Armand đã bảo các bạn đừng khóc, bởi vì "bố tớ sẽ đến cứu chúng ta!". Các em nhỏ hoảng sợ, đói khát, nhưng đã được cứu sống, bởi vì có 1 người cha đã hứa.
Làm tôi Thiên Chúa là làm con Thiên Chúa:
“Hạnh phúc thật” của con người.
Vì, làm tôi Thiên Chúa, là được Thiên Chúa yêu thương.
“Làm tôi Thiên Chúa” không phải là sống kiếp đời “Tôi mọi”, mà là được Ngài chia sẻ sự sống, và niềm hạnh phúc.
“Làm tôi Thiên Chúa” là sống khiêm nhường để tuân theo thánh ý Chúa, và như thế, là vâng phục Thiên Chúa và được Ngài che chở.
“Làm tôi Thiên Chúa” là được “công tác” vào chương trình cứu độ của Ngài, vì được Ngài nâng lên bậc “làm con Thiên Chúa”. “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
“Làm tôi Thiên Chúa” là bước theo con đường Giêsu và được Người xem là “bạn hữu”.
“Làm tôi Thiên Chúa” là được tất cả vì Thiên Chúa là Alpha và Omega, là hạnh phúc viên mãn.
“Làm tôi Thiên Chúa” chính là “làm con Thiên Chúa”. Và chính vì thế, ta có thể vui sống, vững tin, vì đời ta luôn trong vòng tay yêu thương che chở của Ngài.
“Làm tôi Thiên Chúa” ta được Ngài trao ban những gì có giá trị bền vững, sự vĩnh hằng.
Và như thế, ta có thể tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, Cha mình, như đứa bé trong câu chuyện kể trên: “Con ở đây này! Con tin rằng Chúa sẽ cứu con! Chúa đã hứa sẽ luôn bảo vệ con mà!”.
“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?
Cho dù nó có quên đi nữa,
thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is.49,15).
LÀM TÔI TIỀN CỦA
Làm tôi tiền của là “đại họa” cho bản thân và cộng đồng nhân loại.
“Làm tôi tiền của” là sống một kiếp đời đày đọa.
“Làm tôi tiền của” là sống “tôi mọi” không ngừng.
“Làm tôi tiền của” là trong tay thần chết, đã trong tay thần chết thì tất nhiên không được bảo vệ.
“Làm tôi tiền của” là sa lầy vào những hành vi đen tối.
“Làm tôi tiền của” là mất phương hướng ngay lành, đi vào thế giới hủy diệt.
“Làm tôi tiền của” là tin vào sự phù phiếm và bám víu vào những giá trị mỏng manh.
“Làm tôi tiền của” là mất tất cả.
“Tiền của” là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu! “Ông chủ” xấu đó không ai khác hơn là “ma quỷ”! Tiền của là phương tiện đáng sợ của ma quỷ. Thậm chí, nó chính là ma quỷ!
Thực tế, tiền của đem lại cho con người “cơm no, áo ấm”, “ăn ngon, mặc đẹp”. Nhưng tham vọng con người là “túi tham không đáy”, thường không dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày”, nên đi xa hơn, tiến đến hành vi “tom góp”, cưỡng đoạt, tìm cách sở hữu càng nhiều càng tốt, bằng mọi cách, bất chấp đạo đức, phi nhân, phi nghĩa, và tìm cách phá đổ tất cả những cản trở, mà cao điểm, chính loại bỏ lương tâm, chối từ Thiên Chúa.
Đó là sự tiến hóa về miền đất chết của nhân loại. Đó là nền văn minh sự chết. Nếu con người không “thức tỉnh”, con người dần dần biến Trái Đất này thành một hành tinh chết, không phải vì sự cạn kiệt của tài nguyên, mà là sự cạn kiệt những giá trị tinh thần.
Hãy xem sự phá hoại môi trường hiện nay, không hoàn toàn vì nhu cầu con người, thực ra, có sự đóng góp đáng kể của lòng ích kỷ và tham vọng.
Tin Mừng hôm nay không phải là bài học “nghệ thuật sống” về sự an nhàn thanh thản, mà là giáo huấn về “Tình Yêu Thiên Chúa”, để con người tìm thấy đâu là nơi nương tựa, đâu là hạnh phúc thật sự để con người nhắm tới, và đâu là sự mỏng manh vô nghĩa mà con người lầm tưởng là thứ giá trị như lòng mơ ước.
Sự lo lắng sẽ đến khi con người muốn được sở hữu và toàn quyền quyết định trên những gì con người mong muốn theo ý riêng mình, nhưng đáng tiếc thay, con người không có gì để sở hữu và tất nhiên không có quyền gì trên bất cứ thứ gì. Tất cả “là mây là khói”, là “là phù hoa”, là “cát bụi”, là vô nghĩa, nếu con người sống ngoài Thánh ý Thiên Chúa, sống ngoài Tình Yêu Thiên Chúa. “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc.12,20).
Ngược lại, sự bình an sẽ đến khi con người nương tựa vào Thiên Chúa và con người sẽ nhận ra sự giàu có của mình khi biết nhìn lên Thiên Chúa và gọi Ngài hai tiếng: Cha ơi!
Sự giàu có ấy là gia tài bất tận, bất biến, không ai xâm phạm được, và không bao giờ vì nó mà ta đau khổ. Đó là sự giàu có tâm hồn.
Con người chỉ hiểu được giá trị tiền của cùng với danh vọng trần thế, và biết chọn lựa thái độ thế nào đối với chúng, khi con người nhìn vào cuộc đời Chúa Cứu Thế, đặc biệt khi Người bị ma quỷ cám dỗ ở sa mạc.
“Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt.4,4).
“Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt.4,7).
“Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. (Mt.4,10).
“Thờ phượng một mình Người mà thôi”. Đó là con đường của chúng ta. Con đường sống của nhân loại.
Vì thờ phượng, là tâm tình con thảo đối với Cha mình, là Thiên Chúa. Và đó mới là nguồn vui, nguồn hạnh phúc thật sự của đời người. “Chúa là nguồn vui của con” (Tv.43,4).
Lạy Chúa,
Nghe nói phó thác tất cả trong tay Chúa, con đừng lo sợ.
Không khó đâu! Mặc dù con không biết Chúa Kitô đưa con đi đâu,
Ngài dành những gì bất ngờ cho con,
chỉ tin Chúa là Cha của con,
chừng ấy đủ rồi. Amen.
(Đường Hy Vọng. Hồng Y P.X. Nguyễn Văn Thuận).
Truyện áp dụng:
Chờ sung rụng
Xưa có một anh rất lười, không chịu làm gì, ngay cả việc ngủ và ăn mà anh ta cũng không muốn nữa.
Một hôm, anh ta nằm ngửa dưới gốc cây sung, há miệng chờ sung rụng vào, khỏi mất công hái mà ăn.
Xui quá, sung chín rơi rụng đầy trên mặt đất, quanh chỗ anh ta nằm mà chả có trái nào rớt trúng vào miệng anh ta cả.
Có một người đi qua thấy thế, đem lòng thương hại, lấy chân kẹp một trái sung rụng bỏ vào miệng anh ta. Anh chàng lười vừa nhai vừa lụng bụng:
- Rõ cái đồ lười.
21. “Dân ngoại đạo!”.
Chúa Giêsu không thích những kẻ hay lo lắng. Họ làm thương tổn điều mà Ngài sống với Chúa Cha. Làm sao nghĩ rằng có giây phút nào Chúa Cha, Đấng đã tạo dựng vũ trụ vì hạnh phúc của con cái loài người, lại có thể để họ sống trong nghèo túng. “Dân ngoại đạo!”, Chúa Giêsu nói như thế với kẻ nào hay lo lắng. Người Kitô- ngoại đạo biết Chúa nhưng không biết lòng Chúa. “Những người kém tin!”. Chúng ta kém tin khi, để ngăn chận những mối lo, chúng ta chọn việc tin vào tài khoản ngân hàng của chúng ta ở ngân hàng hơn là tin vào Chúa.
- Không sao, tin vào Chúa rất có thể kèm theo sự cẩn thận theo lương tri đơn sơ! Những câu chuyện trong Tin Mừng nói về chim chóc và hoa cỏ này rất đẹp, nhưng có những lúc cạn lương vào cuối tháng, bệnh tật, thất nghiệp, lo âu muốn biết chúng ta có thể trang trải chuyện học hành cho đứa con nhỏ hay không, vết thương ăn sâu trong tâm trí khó xoá nhoà bằng một dịp tĩnh tâm ngắn ngủi. Tại Palestin, vào thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng phó thác vào Chúa hơn hay sao?
- Vấn đề không phải ở đó, Tin Mừng là lời nói dành cho các hoàn cảnh của chúng ta. Chúa Giêsu nói với tôi “Dân ngoại đạo!” hoặc”Con thật Cha trên trời” trong thế giới hiện tại. Chính so với thái độ của tôi trước những khó khăn hiện tại này mà sự kém tin của tôi làm Ngài nổi giận.
Bởi vì đây chính là một vấn đề đức tin. Đây không phải là chuyện chơi mà là tìm biết ai là kẻ giải thoát chúng ta khỏi những lo toan: Chúa hay cuốn sổ chi phiếu của chúng ta? Chúng ta ghét thế nước đôi này, chúng ta muốn giao phó chúng ta cho cả hai. Nhưng Chúa Giêsu nói:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.
Ngài nói điều đó bởi vì Ngài biết sự hấp dẫn của tiền bạc. Và chúng ta cũng biết sự hấp dẫn ấy! Trước tiên chúng ta muốn có tiền bạc để sống một cách liêm khiết, một cách đơn sơ. Chúng ta muốn có tiền bạc để đảm bảo không thiếu thốn. Sau đó chúng ta muốn có tiền bạc để có tiện nghi hơn. Và cuối cùng chính tiền bạc điều khiển cuộc sống của chúng ta, bỏ mặc cuộc sống chìm trong ba mối lo toan kiếm tiền, mua sắm và đảm bảo tương lai. Trong cuộc sống đó, nói với Chúa: “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ còn là một lời kinh máy móc mà thôi.
- Thế thì Chúa Giêsu muốn chúng ta cư xử như những người bất cẩn và vô trách nhiệm hay sao?
- Chúng ta biết rõ rằng cái được thua không phải ở đó. Chúng ta thấy rõ vấn đề mà Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta nhưng chúng ta lại muốn gạt đi: “Bạn có tin rằng bạn có một người Cha trên trời hay không?”
Nếu có, phải dẹp bỏ các lo lắng vừa quấy rầy nhưng rốt cục vừa trấn an bởi vì đây là điều đã biết. Chúng ta e sợ dấn mình sâu hơn trong cái không biết của niềm tin!
Cuối cùng có thể nói: “Lạy Cha, con biết Cha yêu con và con không sợ gì cả”. Đó là chọn sự an bình ở một mức độ rất sâu xa trong con tim của chúng ta. Đây là một sự an bình thường là khá dễ dàng, may thay, nhưng lại có thể đòi buộc tính anh hùng: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” trở thành một hành vi đức tin rất ý thức và là một hành vi tình yêu. “Các ngươi đừng lo lắng cho ngày mai” từ nay là sự khôn ngoan của chúng ta.
Điều mà Chúa Giêsu nói thêm: “Ngày mai, mai sẽ lo” không nói ngược lại ba lần “Các ngươi đừng lo lắng” trước đó, mà tô đậm chúng. Cần phải lo lắng đến công việc, lương bổng, bệnh tật, nhà cửa phải mua, việc hưu dưỡng phải dự kiến. Nhưng sự lo lắng này chỉ tốt nếu nó diễn ra trong niềm tin tưởng vào Chúa. Và dấu hiệu thì rõ ràng: vẫn an bình.
Tìm kiếm Nước trời trước tiên, chính là kiếm tìm Chúa trước tiên, bền bỉ quy hướng về Chúa, chắc chắn rằng với Ngài chúng ta có thể được giải thoát. Những người nào dám tin tưởng như thế thì có được kinh nghiệm kỳ diệu này là con tim có tự do.
- Không sao, tin vào Chúa rất có thể kèm theo sự cẩn thận theo lương tri đơn sơ! Những câu chuyện trong Tin Mừng nói về chim chóc và hoa cỏ này rất đẹp, nhưng có những lúc cạn lương vào cuối tháng, bệnh tật, thất nghiệp, lo âu muốn biết chúng ta có thể trang trải chuyện học hành cho đứa con nhỏ hay không, vết thương ăn sâu trong tâm trí khó xoá nhoà bằng một dịp tĩnh tâm ngắn ngủi. Tại Palestin, vào thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng phó thác vào Chúa hơn hay sao?
- Vấn đề không phải ở đó, Tin Mừng là lời nói dành cho các hoàn cảnh của chúng ta. Chúa Giêsu nói với tôi “Dân ngoại đạo!” hoặc”Con thật Cha trên trời” trong thế giới hiện tại. Chính so với thái độ của tôi trước những khó khăn hiện tại này mà sự kém tin của tôi làm Ngài nổi giận.
Bởi vì đây chính là một vấn đề đức tin. Đây không phải là chuyện chơi mà là tìm biết ai là kẻ giải thoát chúng ta khỏi những lo toan: Chúa hay cuốn sổ chi phiếu của chúng ta? Chúng ta ghét thế nước đôi này, chúng ta muốn giao phó chúng ta cho cả hai. Nhưng Chúa Giêsu nói:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.
Ngài nói điều đó bởi vì Ngài biết sự hấp dẫn của tiền bạc. Và chúng ta cũng biết sự hấp dẫn ấy! Trước tiên chúng ta muốn có tiền bạc để sống một cách liêm khiết, một cách đơn sơ. Chúng ta muốn có tiền bạc để đảm bảo không thiếu thốn. Sau đó chúng ta muốn có tiền bạc để có tiện nghi hơn. Và cuối cùng chính tiền bạc điều khiển cuộc sống của chúng ta, bỏ mặc cuộc sống chìm trong ba mối lo toan kiếm tiền, mua sắm và đảm bảo tương lai. Trong cuộc sống đó, nói với Chúa: “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” chỉ còn là một lời kinh máy móc mà thôi.
- Thế thì Chúa Giêsu muốn chúng ta cư xử như những người bất cẩn và vô trách nhiệm hay sao?
- Chúng ta biết rõ rằng cái được thua không phải ở đó. Chúng ta thấy rõ vấn đề mà Chúa Giêsu đặt ra cho chúng ta nhưng chúng ta lại muốn gạt đi: “Bạn có tin rằng bạn có một người Cha trên trời hay không?”
Nếu có, phải dẹp bỏ các lo lắng vừa quấy rầy nhưng rốt cục vừa trấn an bởi vì đây là điều đã biết. Chúng ta e sợ dấn mình sâu hơn trong cái không biết của niềm tin!
Cuối cùng có thể nói: “Lạy Cha, con biết Cha yêu con và con không sợ gì cả”. Đó là chọn sự an bình ở một mức độ rất sâu xa trong con tim của chúng ta. Đây là một sự an bình thường là khá dễ dàng, may thay, nhưng lại có thể đòi buộc tính anh hùng: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” trở thành một hành vi đức tin rất ý thức và là một hành vi tình yêu. “Các ngươi đừng lo lắng cho ngày mai” từ nay là sự khôn ngoan của chúng ta.
Điều mà Chúa Giêsu nói thêm: “Ngày mai, mai sẽ lo” không nói ngược lại ba lần “Các ngươi đừng lo lắng” trước đó, mà tô đậm chúng. Cần phải lo lắng đến công việc, lương bổng, bệnh tật, nhà cửa phải mua, việc hưu dưỡng phải dự kiến. Nhưng sự lo lắng này chỉ tốt nếu nó diễn ra trong niềm tin tưởng vào Chúa. Và dấu hiệu thì rõ ràng: vẫn an bình.
Tìm kiếm Nước trời trước tiên, chính là kiếm tìm Chúa trước tiên, bền bỉ quy hướng về Chúa, chắc chắn rằng với Ngài chúng ta có thể được giải thoát. Những người nào dám tin tưởng như thế thì có được kinh nghiệm kỳ diệu này là con tim có tự do.
22. Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy.
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Đời sống chúng ta hiện nay còn nhiều khó khăn. Vấn đề lương thực là một và có lẽ phải đứng hàng đầu. Chúng ta đầu tắt mặt tối mà vẫn chưa đủ cơm ăn áo mặc. Thế mà Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay lại bảo chúng ta đừng lo lắng! Chúng ta có thể bình thản sống như Lời Chúa dạy không?
Thiết tưởng trước hết phải hiểu đúng ý của Chúa đã! Và cho được như vậy, chúng ta phải nhờ chính Phụng vụ hôm nay giúp đỡ. Không phải vô lý mà trước khi đọc cho chúng ta nghe bài Tin Mừng, Phụng vụ đã công bố mấy lời của sách Isaia. Và chúng ta sẽ thấy những lời thư Phaolô cũng giúp chúng ta thi hành Lời Chúa.
1) Hơn một người mẹ thương con
Chắc chắn những lời sách Isaia hôm nay không phải của nhà tiên tri đã hoạt động trong dân Israel trước khi dân này mất Nước và bị đem đi lưu đày. Sấm ngôn của vị tiên tri này chỉ chiếm 39 chương đầu trong sách Isaia thôi. Những chương 40-55 là của một ngôn sứ khác, mai danh ẩn tích, thường được gọi là Isaia II. Và người ta phải nói đến một Isaia III làm tác giả cho những chương cuối cùng của sách Isaia hiện nay, gồm những chương 56-66.
Bài trích đọc hôm nay nằm trong Isaia II. Tác giả bấy giờ đang sống trong cảnh lưu đày với con cái Israel ở Babylon. Ông được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ: Người sắp tái tạo và tái sinh Dân Người, tức là phục hồi Israel và trùng tu lại Yêrusalem.
Sứ mạng không dễ đâu. Sion đã kiệt quệ rồi. Nó chỉ còn biết nói: “Yavê đã bỏ tôi, Đức Chúa đã quên tôi”. Và bề ngoài rõ ràng như vậy. Con cái Israel đã tha phương lâu quá rồi. Các tin tức từ Yêrusalem cho biết Đất Nước đã trở thành của ngoại bang; Đền thờ chẳng còn gì nữa; và ở tại nơi lưu đày này, đa số đã xây dựng cơ nghiệp như là vĩnh viễn. Có chăng chỉ còn một thiểu số đạo đức chẳng bao giờ chịu quên Sion và chỉ muốn được trở về để làm lại Dân Chúa. Nhưng đó là thành phần khó nghèo, hy vọng gì làm được công việc đáng kể. Người ta hiểu rằng “quyền năng của Thiên Chúa hay viên thành nơi sức yếu đuối của con người”, tức là Thiên Chúa càng biểu lộ sự cứu độ của Người khi con người tỏ ra bất lực.
Đó chính là trường hợp lúc bấy giờ, khi Thiên Chúa sai Isaia đến với Dân. Thay mặt Người, ông phải công bố cho họ biết Thiên Chúa sắp ra tay cứu Dân. Họ tưởng Người bỏ họ và quên họ rồi sao? Chỉ có họ đã bỏ Người và đường lối của Người, nên họ mới như ngày hôm nay. Họ đã quên Người và huấn giáo của Người nên mới nghi ngờ lòng tốt và quyền năng của Người. Trước kia, Người đã thi thố bao nhiêu kỳ công cho họ, đâu phải vì họ xứng đáng? Chính lúc họ thất vọng, chán nản như đã quên Người thì Người đã đến phục hồi họ. Tất cả quá khứ của lịch sử Israel là như vậy. Và bây giờ cũng sắp như thế. Bởi vì:
“Mẹ nào lại quên con đẻ của mình...?”.
Isaia cho chúng ta một hình ảnh khác về Êzêkiel. Nhà tiên tri này nói đến Thiên Chúa như là một người chồng trung thành. Không những chính Người đã làm ra thân thể kiều diễm, lộng lẫy của Dân Người khi lôi kéo nó ra khỏi cảnh bỏ rơi nhớp nhúa, đói ăn, xấu xí; Người đã đem về tắm rửa, dưỡng nuôi, may mặc và trang sức và dạy cho yêu thương... nhưng rồi nó đã trở thành bạc phục, chạy theo trăng gió để phá hoại thân thể và đời sống. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn trung thành và mãi mãi trung thành. Người sẽ tìm cách đưa bạn Người vào sa mạc để khuyên nhủ, để cải hóa... Theo Êzêkiel, tình yêu của Thiên Chúa nói lên sự trung thành không thể nào tưởng tượng được.
Isaia cũng nói đến tình yêu ấy. Nhưng nơi ông nó tha thiết, sâu xa, vô vị lợi và êm ái như lòng mẹ. Và hơn lòng mẹ, bởi vì cho dù “chúng quên được con mình, thì phần Ta, Ta sẽ không bao giờ quên ngươi”.
Thiết tưởng không cần giải thích thêm. Ai có thể phủ nhận tình hiền mẫu? Ai không biết nó chân thật, sâu xa, êm ái và vô vị lợi? Nó đáng tin và đáng tin hơn hết: vì người ta có thể đặt những nghi vấn về tình yêu vợ chồng hay bạn hữu, nhưng chẳng ai dám nghi ngờ gì về tình yêu của người mẹ.
Isaia có thể kéo được lòng con cái Israel trở về với Thiên Chúa nhờ lời sấm chân thật, đơn sơ và cảm động này. Chúng ta hoan hô các bà mẹ. Chúng ta cảm mến lòng các bà mẹ, nhất là các bà mẹ Việt Nam. Chúng ta hãy đi từ đó để hiểu về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, để hiểu lời Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về Cha trên trời.
2) Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy
Thật vậy, Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Người đã sinh ra chúng ta, nên Người không thể bỏ và quên chúng ta được. Loài người lầm lạc sa ngã, thì Người đã sai Con của Người đến để tìm gặp chúng ta, nơi Đức Yêsu Kitô.
Nhưng rất ít kẻ đón nhận Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người. Đại đa số bộ phận nhân loại vẫn dửng dưng với lời loan truyền Tin Mừng Cứu Độ. Vì sao, nếu không phải vì như lời nhận xét của chính Chúa Cứu thế? Là: Không ai có thể làm tôi hai chủ; người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.
Nhưng chúng ta muốn thưa lại với Người: Chúng tôi không tìm tiền của thì chúng tôi ăn gì, mặc gì? Thế là chúng ta mặc nhiên bỏ Thiên Chúa và quên Người đi, để lo có cơm ăn áo mặc. Những yêu cầu này khẩn trương và bức thiết quá!
Tuy nhiên chính vì vậy mà Thiên Chúa sai Con của Người đến. Người mời chúng ta coi chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm và Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời, nuôi nấng chúng. Các ngươi không hơn chúng sao? Chắc chắn chúng ta phải hơn chúng, không phải chỉ vì chúng ta linh ư vạn vật, nhưng nhất là vì Đấng nuôi chim trời lại là Cha của chúng ta. Người phải săn sóc đến chúng ta trước chứ. Lẽ tự nhiên là vậy; sau chúng ta yếu tin vậy?
Còn về áo mặc chúng ta lo làm gì? Kìa xem cỏ đồng nội nay còn mai sẽ quăng vào lò mà Thiên Chúa còn cho mặc đẹp hơn cả Salômon trong vinh hoa đời ông, huống chi là chúng ta, con của Thiên Chúa toàn năng và đầy tình yêu thương?
Lời Chúa dạy rất đơn sơ, chí lý. Nó chân thật rõ ràng. Nhưng sao chúng ta khó tin vậy. Phải chăng chúng ta mới chỉ nhìn thấy khía cạnh tiêu cực trong lời giáo huấn kia mà chưa đi sâu vào phương diện tích cực. Chúng ta mới chỉ nghĩ tới việc “đừng” lo ăn lo mặc. Nhưng Chúa không bảo chúng ta như vậy. Cùng lắm, chúng ta có thể hiểu rằng Người bảo chúng ta “chớ lo đến ngày mai, mai sẽ lo cho mai; khó ngày nào đủ cho ngày ấy”. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là giáo huấn tích cực, sâu xa và cốt yếu của Người. Điều Người muốn nói với chúng ta là “hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời trước đã, và các sự ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi”. Vì Cha trên trời biết rõ chúng ta cần những điều ấy. Người không thể bỏ và quên chúng ta. Chúng ta có lo cũng chẳng có thể thêm cho đời mình một gang nữa. Khởi đầu sự khôn ngoan chân thật là lòng kính sợ Thiên Chúa, là tin vào tình thương của Người, là được sự bình an của Người, rồi nhờ Người hướng dẫn sống trong sự bình an ấy.
Những con người như thế vẫn lo cơm ăn áo mặc; nhưng họ lo trong niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Cũng chẳng thể nói được rằng họ “lo”, bởi vì niềm tin luôn giữ họ trong sự bình an. Họ không bị các lo lắng đời này lôi đi đến nỗi chưa hết hôm nay đã lo sang ngày mai, để cuối cùng không còn suy nghĩ, yêu mến gì khác nữa ngoài tiền của và những sự ở đời này. Họ đã bỏ và quên Chúa, vì không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền của được. Còn kẻ tin Chúa, luôn tìm Nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Người trước đã và sẽ tìm thấy mọi điều cần khác ở đó; và sẽ thấy chúng chỉ là những phương tiện sinh sống chứ không phải là đối tượng của đời sống con người. Những người như vậy dù có vất vả vẫn thư thái bình an vì Chúa chẳng bỏ quên họ, hay nói đúng hơn vì họ chẳng bỏ quên Chúa. Họ luôn thấy Chúa là Cha là Mẹ. Họ được an ủi nhất là thấy Chúa yêu thương mình và Người không thể không săn sóc mình hơn chim trời và hoa cỏ ngoài đồng nội.
Nhưng con người không sống chỉ nhờ bánh, mà còn cần vinh dự, cảm thông của xã hội. Chúng ta cũng lo điều này không ít. Lời thư Phaolô hôm nay có lẽ giúp được chúng ta.
3) Đấng xét xử tôi chính là Chúa
Chúng ta ít có khi nào đau đớn như thánh Tông đồ. Người đã vất vả hình thành ra đoàn chiên ở Côrinthô. Chính người đã sinh ra giáo đoàn ấy. Thế mà bây giờ vì có kẻ thọc gậy bánh xe, và cũng vì tâm lý những người Côrinthô bồng bột nhẹ dạ không những ưa mới nới cũ mà còn nông nổi thích chạy theo những sự bay bướm, uy tín của Phaolô đang mất dần. Không thiếu những kẻ xấu miệng phê phán người thế này thế khác. Nói đúng ra, thánh Tông đồ không buồn cho mình. Người chỉ sợ vì thế mà đức tin ở Côrinthô sa sút và lầm lạc.
Người không chủ quan, chỉ thấy những sự tốt ở nơi mình. Người có tự kiểm điểm và kiểm điểm cả những dư luận về mình. Nhưng người không mảy may bận tâm. Không phải những dư luận và đánh giá ấy làm cho người xao xuyến lo lắng. Đấng xét xử tôi, người nói, chính là Chúa. Chỉ có Chúa là quan trọng. Chỉ có tình yêu của Người là cần thiết. Phaolô tìm Nước Đức Chúa Trời trước đã và sự công chính của Người. Chính Người là Cha là Mẹ và hơn cả cha mẹ vô vàn. Cho dù trước lương tâm chúng ta không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là chúng ta được giải án tuyên công. Không phải xã hội và người ta hay lương tâm của mình sẽ trao tặng lời tán thưởng đời đời cho chúng ta, nhưng là Thiên Chúa, Đấng xét xử chúng ta. Cho nên chúng ta đừng vội xét đoán trước khi Chúa đến và mọi dư luận trước đó cũng chỉ là không.
Tuy nhiên không vì vậy mà ai muốn sống thế nào cũng được. Trong xã hội, tất cả chúng ta đều là những người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa. Và trong các sách Tin Mừng, nhiều lần Người đã nói đến vai trò quản lý này. Người đòi họ phải trung thành với chức vụ, phân phát các ơn của Chúa trong bác ái khiêm tốn, và tỉnh thức cần mẫn chờ đợi chủ về. Tất cả những tư cách ấy, Chúa dạy chúng ta phải đem ra thi hành trong đời sống xã hội. Nếu đã thi hành thì chúng ta cứ yên tâm, không phải xao xuyến vì các dư luận đánh giá đoán xét công việc và thiện ý của chúng ta. Chỉ có điều chúng ta có thật là người quản lý trung thành và khôn ngoan không?
Giờ đây chúng ta hợp dâng thánh lễ. Chẳng có điều gì cần hơn trong lúc này là đến gần bên Chúa để cảm thấy tình Cha, tình Mẹ của Người. Đời sống của chúng ta đang có nhiều khó khăn và lo lắng ư? Kìa, Thiên Chúa đang ban Con Một của Người cho chúng ta; và Con Một của Người đang trao cả Mình Máu Người cho chúng ta. Thiên Chúa còn có thể tiếc gì, không muốn ban cho chúng ta khi hiến ban cho chúng ta mối tình to lớn như thế? Chúng ta hãy có niềm tin, đón nhận mối tình ấy, lãnh nhận chính Thiên Chúa. Chính Người ở trong chúng ta sẽ hướng dẫn chúng ta trong đời sống hàng ngày, để dù lam lũ vất vả, dù gặp những xét đoán bất lợi, chúng ta vẫn không mất niềm tin, vì có Chúa đang ở với chúng ta và giúp chúng ta là các người quản lý tốt ở trong một xã hội.
Lạy Cha, ước gì tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong lòng mẹ. Chúng con cũng luôn phó thác cuộc đời chúng con trong tay Cha trên trời. Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Cha. Tâm hồn chúng con luôn được bình an và hạnh phúc tràn đầy. Xin Đức Giêsu đưa chúng con vào trong tình yêu của Cha. Amen.
Đời sống chúng ta hiện nay còn nhiều khó khăn. Vấn đề lương thực là một và có lẽ phải đứng hàng đầu. Chúng ta đầu tắt mặt tối mà vẫn chưa đủ cơm ăn áo mặc. Thế mà Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay lại bảo chúng ta đừng lo lắng! Chúng ta có thể bình thản sống như Lời Chúa dạy không?
Thiết tưởng trước hết phải hiểu đúng ý của Chúa đã! Và cho được như vậy, chúng ta phải nhờ chính Phụng vụ hôm nay giúp đỡ. Không phải vô lý mà trước khi đọc cho chúng ta nghe bài Tin Mừng, Phụng vụ đã công bố mấy lời của sách Isaia. Và chúng ta sẽ thấy những lời thư Phaolô cũng giúp chúng ta thi hành Lời Chúa.
1) Hơn một người mẹ thương con
Chắc chắn những lời sách Isaia hôm nay không phải của nhà tiên tri đã hoạt động trong dân Israel trước khi dân này mất Nước và bị đem đi lưu đày. Sấm ngôn của vị tiên tri này chỉ chiếm 39 chương đầu trong sách Isaia thôi. Những chương 40-55 là của một ngôn sứ khác, mai danh ẩn tích, thường được gọi là Isaia II. Và người ta phải nói đến một Isaia III làm tác giả cho những chương cuối cùng của sách Isaia hiện nay, gồm những chương 56-66.
Bài trích đọc hôm nay nằm trong Isaia II. Tác giả bấy giờ đang sống trong cảnh lưu đày với con cái Israel ở Babylon. Ông được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ: Người sắp tái tạo và tái sinh Dân Người, tức là phục hồi Israel và trùng tu lại Yêrusalem.
Sứ mạng không dễ đâu. Sion đã kiệt quệ rồi. Nó chỉ còn biết nói: “Yavê đã bỏ tôi, Đức Chúa đã quên tôi”. Và bề ngoài rõ ràng như vậy. Con cái Israel đã tha phương lâu quá rồi. Các tin tức từ Yêrusalem cho biết Đất Nước đã trở thành của ngoại bang; Đền thờ chẳng còn gì nữa; và ở tại nơi lưu đày này, đa số đã xây dựng cơ nghiệp như là vĩnh viễn. Có chăng chỉ còn một thiểu số đạo đức chẳng bao giờ chịu quên Sion và chỉ muốn được trở về để làm lại Dân Chúa. Nhưng đó là thành phần khó nghèo, hy vọng gì làm được công việc đáng kể. Người ta hiểu rằng “quyền năng của Thiên Chúa hay viên thành nơi sức yếu đuối của con người”, tức là Thiên Chúa càng biểu lộ sự cứu độ của Người khi con người tỏ ra bất lực.
Đó chính là trường hợp lúc bấy giờ, khi Thiên Chúa sai Isaia đến với Dân. Thay mặt Người, ông phải công bố cho họ biết Thiên Chúa sắp ra tay cứu Dân. Họ tưởng Người bỏ họ và quên họ rồi sao? Chỉ có họ đã bỏ Người và đường lối của Người, nên họ mới như ngày hôm nay. Họ đã quên Người và huấn giáo của Người nên mới nghi ngờ lòng tốt và quyền năng của Người. Trước kia, Người đã thi thố bao nhiêu kỳ công cho họ, đâu phải vì họ xứng đáng? Chính lúc họ thất vọng, chán nản như đã quên Người thì Người đã đến phục hồi họ. Tất cả quá khứ của lịch sử Israel là như vậy. Và bây giờ cũng sắp như thế. Bởi vì:
“Mẹ nào lại quên con đẻ của mình...?”.
Isaia cho chúng ta một hình ảnh khác về Êzêkiel. Nhà tiên tri này nói đến Thiên Chúa như là một người chồng trung thành. Không những chính Người đã làm ra thân thể kiều diễm, lộng lẫy của Dân Người khi lôi kéo nó ra khỏi cảnh bỏ rơi nhớp nhúa, đói ăn, xấu xí; Người đã đem về tắm rửa, dưỡng nuôi, may mặc và trang sức và dạy cho yêu thương... nhưng rồi nó đã trở thành bạc phục, chạy theo trăng gió để phá hoại thân thể và đời sống. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn trung thành và mãi mãi trung thành. Người sẽ tìm cách đưa bạn Người vào sa mạc để khuyên nhủ, để cải hóa... Theo Êzêkiel, tình yêu của Thiên Chúa nói lên sự trung thành không thể nào tưởng tượng được.
Isaia cũng nói đến tình yêu ấy. Nhưng nơi ông nó tha thiết, sâu xa, vô vị lợi và êm ái như lòng mẹ. Và hơn lòng mẹ, bởi vì cho dù “chúng quên được con mình, thì phần Ta, Ta sẽ không bao giờ quên ngươi”.
Thiết tưởng không cần giải thích thêm. Ai có thể phủ nhận tình hiền mẫu? Ai không biết nó chân thật, sâu xa, êm ái và vô vị lợi? Nó đáng tin và đáng tin hơn hết: vì người ta có thể đặt những nghi vấn về tình yêu vợ chồng hay bạn hữu, nhưng chẳng ai dám nghi ngờ gì về tình yêu của người mẹ.
Isaia có thể kéo được lòng con cái Israel trở về với Thiên Chúa nhờ lời sấm chân thật, đơn sơ và cảm động này. Chúng ta hoan hô các bà mẹ. Chúng ta cảm mến lòng các bà mẹ, nhất là các bà mẹ Việt Nam. Chúng ta hãy đi từ đó để hiểu về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, để hiểu lời Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về Cha trên trời.
2) Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy
Thật vậy, Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Người đã sinh ra chúng ta, nên Người không thể bỏ và quên chúng ta được. Loài người lầm lạc sa ngã, thì Người đã sai Con của Người đến để tìm gặp chúng ta, nơi Đức Yêsu Kitô.
Nhưng rất ít kẻ đón nhận Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người. Đại đa số bộ phận nhân loại vẫn dửng dưng với lời loan truyền Tin Mừng Cứu Độ. Vì sao, nếu không phải vì như lời nhận xét của chính Chúa Cứu thế? Là: Không ai có thể làm tôi hai chủ; người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.
Nhưng chúng ta muốn thưa lại với Người: Chúng tôi không tìm tiền của thì chúng tôi ăn gì, mặc gì? Thế là chúng ta mặc nhiên bỏ Thiên Chúa và quên Người đi, để lo có cơm ăn áo mặc. Những yêu cầu này khẩn trương và bức thiết quá!
Tuy nhiên chính vì vậy mà Thiên Chúa sai Con của Người đến. Người mời chúng ta coi chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm và Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời, nuôi nấng chúng. Các ngươi không hơn chúng sao? Chắc chắn chúng ta phải hơn chúng, không phải chỉ vì chúng ta linh ư vạn vật, nhưng nhất là vì Đấng nuôi chim trời lại là Cha của chúng ta. Người phải săn sóc đến chúng ta trước chứ. Lẽ tự nhiên là vậy; sau chúng ta yếu tin vậy?
Còn về áo mặc chúng ta lo làm gì? Kìa xem cỏ đồng nội nay còn mai sẽ quăng vào lò mà Thiên Chúa còn cho mặc đẹp hơn cả Salômon trong vinh hoa đời ông, huống chi là chúng ta, con của Thiên Chúa toàn năng và đầy tình yêu thương?
Lời Chúa dạy rất đơn sơ, chí lý. Nó chân thật rõ ràng. Nhưng sao chúng ta khó tin vậy. Phải chăng chúng ta mới chỉ nhìn thấy khía cạnh tiêu cực trong lời giáo huấn kia mà chưa đi sâu vào phương diện tích cực. Chúng ta mới chỉ nghĩ tới việc “đừng” lo ăn lo mặc. Nhưng Chúa không bảo chúng ta như vậy. Cùng lắm, chúng ta có thể hiểu rằng Người bảo chúng ta “chớ lo đến ngày mai, mai sẽ lo cho mai; khó ngày nào đủ cho ngày ấy”. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là giáo huấn tích cực, sâu xa và cốt yếu của Người. Điều Người muốn nói với chúng ta là “hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời trước đã, và các sự ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi”. Vì Cha trên trời biết rõ chúng ta cần những điều ấy. Người không thể bỏ và quên chúng ta. Chúng ta có lo cũng chẳng có thể thêm cho đời mình một gang nữa. Khởi đầu sự khôn ngoan chân thật là lòng kính sợ Thiên Chúa, là tin vào tình thương của Người, là được sự bình an của Người, rồi nhờ Người hướng dẫn sống trong sự bình an ấy.
Những con người như thế vẫn lo cơm ăn áo mặc; nhưng họ lo trong niềm tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Cũng chẳng thể nói được rằng họ “lo”, bởi vì niềm tin luôn giữ họ trong sự bình an. Họ không bị các lo lắng đời này lôi đi đến nỗi chưa hết hôm nay đã lo sang ngày mai, để cuối cùng không còn suy nghĩ, yêu mến gì khác nữa ngoài tiền của và những sự ở đời này. Họ đã bỏ và quên Chúa, vì không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền của được. Còn kẻ tin Chúa, luôn tìm Nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Người trước đã và sẽ tìm thấy mọi điều cần khác ở đó; và sẽ thấy chúng chỉ là những phương tiện sinh sống chứ không phải là đối tượng của đời sống con người. Những người như vậy dù có vất vả vẫn thư thái bình an vì Chúa chẳng bỏ quên họ, hay nói đúng hơn vì họ chẳng bỏ quên Chúa. Họ luôn thấy Chúa là Cha là Mẹ. Họ được an ủi nhất là thấy Chúa yêu thương mình và Người không thể không săn sóc mình hơn chim trời và hoa cỏ ngoài đồng nội.
Nhưng con người không sống chỉ nhờ bánh, mà còn cần vinh dự, cảm thông của xã hội. Chúng ta cũng lo điều này không ít. Lời thư Phaolô hôm nay có lẽ giúp được chúng ta.
3) Đấng xét xử tôi chính là Chúa
Chúng ta ít có khi nào đau đớn như thánh Tông đồ. Người đã vất vả hình thành ra đoàn chiên ở Côrinthô. Chính người đã sinh ra giáo đoàn ấy. Thế mà bây giờ vì có kẻ thọc gậy bánh xe, và cũng vì tâm lý những người Côrinthô bồng bột nhẹ dạ không những ưa mới nới cũ mà còn nông nổi thích chạy theo những sự bay bướm, uy tín của Phaolô đang mất dần. Không thiếu những kẻ xấu miệng phê phán người thế này thế khác. Nói đúng ra, thánh Tông đồ không buồn cho mình. Người chỉ sợ vì thế mà đức tin ở Côrinthô sa sút và lầm lạc.
Người không chủ quan, chỉ thấy những sự tốt ở nơi mình. Người có tự kiểm điểm và kiểm điểm cả những dư luận về mình. Nhưng người không mảy may bận tâm. Không phải những dư luận và đánh giá ấy làm cho người xao xuyến lo lắng. Đấng xét xử tôi, người nói, chính là Chúa. Chỉ có Chúa là quan trọng. Chỉ có tình yêu của Người là cần thiết. Phaolô tìm Nước Đức Chúa Trời trước đã và sự công chính của Người. Chính Người là Cha là Mẹ và hơn cả cha mẹ vô vàn. Cho dù trước lương tâm chúng ta không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là chúng ta được giải án tuyên công. Không phải xã hội và người ta hay lương tâm của mình sẽ trao tặng lời tán thưởng đời đời cho chúng ta, nhưng là Thiên Chúa, Đấng xét xử chúng ta. Cho nên chúng ta đừng vội xét đoán trước khi Chúa đến và mọi dư luận trước đó cũng chỉ là không.
Tuy nhiên không vì vậy mà ai muốn sống thế nào cũng được. Trong xã hội, tất cả chúng ta đều là những người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa. Và trong các sách Tin Mừng, nhiều lần Người đã nói đến vai trò quản lý này. Người đòi họ phải trung thành với chức vụ, phân phát các ơn của Chúa trong bác ái khiêm tốn, và tỉnh thức cần mẫn chờ đợi chủ về. Tất cả những tư cách ấy, Chúa dạy chúng ta phải đem ra thi hành trong đời sống xã hội. Nếu đã thi hành thì chúng ta cứ yên tâm, không phải xao xuyến vì các dư luận đánh giá đoán xét công việc và thiện ý của chúng ta. Chỉ có điều chúng ta có thật là người quản lý trung thành và khôn ngoan không?
Giờ đây chúng ta hợp dâng thánh lễ. Chẳng có điều gì cần hơn trong lúc này là đến gần bên Chúa để cảm thấy tình Cha, tình Mẹ của Người. Đời sống của chúng ta đang có nhiều khó khăn và lo lắng ư? Kìa, Thiên Chúa đang ban Con Một của Người cho chúng ta; và Con Một của Người đang trao cả Mình Máu Người cho chúng ta. Thiên Chúa còn có thể tiếc gì, không muốn ban cho chúng ta khi hiến ban cho chúng ta mối tình to lớn như thế? Chúng ta hãy có niềm tin, đón nhận mối tình ấy, lãnh nhận chính Thiên Chúa. Chính Người ở trong chúng ta sẽ hướng dẫn chúng ta trong đời sống hàng ngày, để dù lam lũ vất vả, dù gặp những xét đoán bất lợi, chúng ta vẫn không mất niềm tin, vì có Chúa đang ở với chúng ta và giúp chúng ta là các người quản lý tốt ở trong một xã hội.
Lạy Cha, ước gì tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong lòng mẹ. Chúng con cũng luôn phó thác cuộc đời chúng con trong tay Cha trên trời. Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Cha. Tâm hồn chúng con luôn được bình an và hạnh phúc tràn đầy. Xin Đức Giêsu đưa chúng con vào trong tình yêu của Cha. Amen.
23. Thiên Chúa hay thần tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo.
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp Tết Nguyên Đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, - điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó".
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát... Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: "Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó". Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: "Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho." Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại "trả thù" con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng... Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa "thời mở cửa", điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi": Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát... Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: "Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó". Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: "Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho." Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại "trả thù" con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng... Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa "thời mở cửa", điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi": Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
24. Suy niệm của Lm. Giuse Lê Kim Ánh
“Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?” (Mt 6,25)
Phải chăng là thiếu suy nghĩ!
Trong giáo xứ kia có một nông dân nghèo. Ông vất vả nhọc nhằn để nuôi dưỡng một gia đình đông con bằng nghề nông của mình. Vào một Chúa nhật, sau khi công bố Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay, linh mục đã diễn giảng một cách mạnh mẽ khi nói rằng việc con người cứ băn khoăn lo lắng quá về của cải vật chất là không phù hợp với tinh thần Kitô hữu. Hơn nữa linh mục còn đề cao thái độ phó thác mà Đức Kitô đã khuyên dạy. Vừa xong Thánh lễ, người nông dân đó đã đến ý kiến linh mục này và khuyên ngài thực tế hơn mà rằng: "Có lẽ đối với cha, cuộc sống quá dễ dàng, cha không phải bận tâm nhiều về của cải vật chất! Nếu cha ở vào địa vị của con, với những món nợ mà con phải chi trả, với những mối bận tâm cho cuộc sống gia đình mà con phải gánh vác, cha sẽ không nói những điều mà cha vừa nói trên bục giảng!"
Anh ta thật có lý. Ngày hôm nay, trong một xã hội mà nền kinh tế đang nhiều khủng hoảng, hơn bao giờ hết, chúng ta cảm nhận lời khuyên của Đức Kitô có vẻ ngây ngô một cách không tưởng, thậm chí có vẻ khiêu khích. Thật khó khi phải nói rằng đừng bận tâm lo lắng về ngày mai, rằng hãy tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà người nghe là những người thất nghiệp, những người đang vất vả cho cơm bánh hằng ngày, những bậc cha mẹ đang bận tâm về tương lai con cái của họ.
Để hiểu đúng Tin Mừng
Vậy chúng ta phải đọc Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô như thế nào? Có chìa khóa nào giúp ta hiểu đúng Kinh Thánh không? Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay qua đoạn Tin Mừng này?
Trước hết, Đức Giêsu chỉ phê phán thái độ lo lắng thái quá theo bản năng tự nhiên của con người. Thái độ lo lắng thái quá này là dấu chỉ chúng ta không tin tưởng vào Thiên Chúa. Kế đến, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, hãy giải thoát mình khỏi sự nô lệ tiền của.
Phải chăng là lo lắng thái quá?
Trước hết, Đức Giêsu cho thấy chúng ta thường lo lắng thái quá. Vào thời Đức Giêsu, điều này thật đúng. Còn hôm nay thì sao! Chắc hẳn chúng ta có muôn vàn mối bận tâm lo lắng. Những bận tâm lo lắng này là kết quả của sự sợ hãi. Chúng ta sợ một nguy hiểm nào đó sẽ xảy đến, sợ cho tương lai, sợ cho giây phút hiện tại, sợ cho những gì mình sắp sửa thực hiện và những gì mình có thể đạt được. Con người hôm nay muốn được bảo đảm về mọi mặt. Không chỉ về nhà cửa và của cải vật chất, mà còn muốn được bảo đảm về cả mạng sống mình nữa. Đó là lẽ đương nhiên. Nhưng điều mà Đức Giêsu phê phán nặng nề, đó là thái độ đặt sự bảo đảm dựa trên những gì mình sở hữu. Con người thời nay lo âu về mọi sự, về những gì mình sở hữu được, về hiện tại, về tương lai và ngay cả về mạng sống của mình. Đức Giêsu nói với chúng ta: "Tất cả những thứ đó, dân ngoại đều tìm kiếm". Thái độ lo âu về mọi chuyện, ngay cả trong những điều nhỏ mọn, chứng tỏ chúng ta không nhận biết Thiên Chúa của chúng ta là Đấng nào.
Nếu chúng ta biết rõ Thiên Chúa chúng ta là ai, chúng ta sẽ không còn lo sợ, chúng ta sẽ không còn áy náy lo âu, chúng ta sẽ không còn bận tâm về ngày mai. Tự đáy lòng, chúng ta sẽ xác tín: "Ngày nào có sự khốn khó cho ngày đó". Tiên vàn hãy can đảm sống những gì Thiên Chúa cho xảy đến trong giây phút hiện tại. Ngày mai hãy để ngày mai lo.
Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương chúng ta, Ngài như một người cha và hơn nữa như một người mẹ. Lời Chúa trong bài đọc I từ sách tiên tri Isaia hôm nay: "Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu." Chúng ta phải đạt đến mức độ xác tín vào điều này. Phải sống tín thác vào Thiên Chúa.
Và để có thể tin vào tính xác thực của những lời Ngài đã nói, Đức Giêsu đưa ra hai luận chứng: chim trên trời và hoa huệ ngoài đồng. Ngài nói: Nếu chúng ta biết được Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào! Ngài yêu thương chúng ta hơn chim trời, hơn bông hoa huệ ngoài đồng, hơn tất cả mọi kỳ công khác trên vũ trụ này. Khi đó, chúng ta sẽ có thái độ khác trong cuộc sống. Thay vì để cho mình bị co cụm lại trong những gì mình có, chúng ta sẽ thanh thản, không lo lắng, sẽ buông thả cuộc đời mình trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa như những đứa con đích thực của Người. Và rồi chúng ta sẽ có cái nhìn trong sáng về mọi sự vật trên trần gian: tất cả đều có giá trị tương đối, duy chỉ có sự sống đích thực của chúng ta mới có giá trị vĩnh hằng.
Lời mời gọi đến sự tự do
Theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn đi một con đường khác với thế gian. Tin tưởng vào Thiên Chúa Tình Yêu, thay vì lo sợ theo bản tính tự nhiên, chúng ta hãy hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Thông thường, để tự trấn an mình, ta cho rằng không gì bảo đảm hơn là thu góp thật nhiều của cải vật chất, và ta hy vọng khi đó có thể tin tưởng về tương lai của mình! Nhưng hệ quả nào sẽ đến? Thay vì tìm được sự bảo đảm vững chắc và sự thanh thản tâm hồn, ta sẽ chỉ gặt hái được sầu phiền. Ta tưởng những gì ta sở hữu sẽ phục vụ ta, nhưng trái lại, ta trở thành nô lệ cho chúng. Đức Giêsu gọi những người lo lắng thái quá như vậy là những người "ngoại đạo". Ngài so sánh hai việc phục vụ: phục vụ Thiên Chúa đem lại sự tự do và phục vụ tiền của đánh mất con người. Đức Giêsu mời gọi ta đi theo con đường tự do.
Đây là một kinh nghiệm đích thực đối với của cải vật chất mà ta sở hữu: nếu chúng ta giữ nó, chúng ta sẽ đánh mất chính mình. Trước hết, chúng ta sẽ phải sống trong sự lo lắng triền miên để giữ những gì mình có. Thứ đến, việc bám víu vào những gì chúng ta sở hữu có nguy cơ tạo ra những tương quan sai lạc với tha nhân, dù họ là người giàu hay người nghèo. Những tương quan sai lạc này thường là những tương quan thống trị hoặc bị thống trị. Sau cùng, sự giàu có của chúng ta, nếu không để ý, có thể quật lại ta và làm cho ta có những thái độ ngờ vực đối với tha nhân. Tất cả những điều trên đều sai lầm. Hệ quả là những phương tiện sống (đặc biệt là tiền bạc) trở thành quan trọng hơn chính cuộc sống.
Đức Giêsu mời gọi ta sống tự do. Ngài mời gọi ta bước vào cuộc sống đích thực: đừng lấy những phương tiện làm mục đích. Tiền của và những gì ta có, những gì ta sở hữu do công sức làm việc nhằm mục đích đem lại cuộc sống ổn định, tất cả chỉ là những phương tiện. Trái lại, cuộc sống thì hoàn toàn khác: sống là tạo tương quan, tương quan đích thực giữa người với người; sống là thiết lập tình yêu giữa người với người. Đó chính là Nước Trời mà Đức Giêsu mời gọi ta tiên vàn hãy tìm kiếm và dùng mọi phương thế để đạt tới. Đó cũng chính là thế giới của tình huynh đệ giữa những người con đặt niềm tin tưởng vào một Thiên Chúa Tình Yêu, một Thiên Chúa là Cha và là Mẹ mà Kinh Thánh đã mạc khải cho chúng ta.
Phải chăng là thiếu suy nghĩ!
Trong giáo xứ kia có một nông dân nghèo. Ông vất vả nhọc nhằn để nuôi dưỡng một gia đình đông con bằng nghề nông của mình. Vào một Chúa nhật, sau khi công bố Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay, linh mục đã diễn giảng một cách mạnh mẽ khi nói rằng việc con người cứ băn khoăn lo lắng quá về của cải vật chất là không phù hợp với tinh thần Kitô hữu. Hơn nữa linh mục còn đề cao thái độ phó thác mà Đức Kitô đã khuyên dạy. Vừa xong Thánh lễ, người nông dân đó đã đến ý kiến linh mục này và khuyên ngài thực tế hơn mà rằng: "Có lẽ đối với cha, cuộc sống quá dễ dàng, cha không phải bận tâm nhiều về của cải vật chất! Nếu cha ở vào địa vị của con, với những món nợ mà con phải chi trả, với những mối bận tâm cho cuộc sống gia đình mà con phải gánh vác, cha sẽ không nói những điều mà cha vừa nói trên bục giảng!"
Anh ta thật có lý. Ngày hôm nay, trong một xã hội mà nền kinh tế đang nhiều khủng hoảng, hơn bao giờ hết, chúng ta cảm nhận lời khuyên của Đức Kitô có vẻ ngây ngô một cách không tưởng, thậm chí có vẻ khiêu khích. Thật khó khi phải nói rằng đừng bận tâm lo lắng về ngày mai, rằng hãy tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, mà người nghe là những người thất nghiệp, những người đang vất vả cho cơm bánh hằng ngày, những bậc cha mẹ đang bận tâm về tương lai con cái của họ.
Để hiểu đúng Tin Mừng
Vậy chúng ta phải đọc Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô như thế nào? Có chìa khóa nào giúp ta hiểu đúng Kinh Thánh không? Chúa muốn nói gì với chúng ta hôm nay qua đoạn Tin Mừng này?
Trước hết, Đức Giêsu chỉ phê phán thái độ lo lắng thái quá theo bản năng tự nhiên của con người. Thái độ lo lắng thái quá này là dấu chỉ chúng ta không tin tưởng vào Thiên Chúa. Kế đến, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, hãy giải thoát mình khỏi sự nô lệ tiền của.
Phải chăng là lo lắng thái quá?
Trước hết, Đức Giêsu cho thấy chúng ta thường lo lắng thái quá. Vào thời Đức Giêsu, điều này thật đúng. Còn hôm nay thì sao! Chắc hẳn chúng ta có muôn vàn mối bận tâm lo lắng. Những bận tâm lo lắng này là kết quả của sự sợ hãi. Chúng ta sợ một nguy hiểm nào đó sẽ xảy đến, sợ cho tương lai, sợ cho giây phút hiện tại, sợ cho những gì mình sắp sửa thực hiện và những gì mình có thể đạt được. Con người hôm nay muốn được bảo đảm về mọi mặt. Không chỉ về nhà cửa và của cải vật chất, mà còn muốn được bảo đảm về cả mạng sống mình nữa. Đó là lẽ đương nhiên. Nhưng điều mà Đức Giêsu phê phán nặng nề, đó là thái độ đặt sự bảo đảm dựa trên những gì mình sở hữu. Con người thời nay lo âu về mọi sự, về những gì mình sở hữu được, về hiện tại, về tương lai và ngay cả về mạng sống của mình. Đức Giêsu nói với chúng ta: "Tất cả những thứ đó, dân ngoại đều tìm kiếm". Thái độ lo âu về mọi chuyện, ngay cả trong những điều nhỏ mọn, chứng tỏ chúng ta không nhận biết Thiên Chúa của chúng ta là Đấng nào.
Nếu chúng ta biết rõ Thiên Chúa chúng ta là ai, chúng ta sẽ không còn lo sợ, chúng ta sẽ không còn áy náy lo âu, chúng ta sẽ không còn bận tâm về ngày mai. Tự đáy lòng, chúng ta sẽ xác tín: "Ngày nào có sự khốn khó cho ngày đó". Tiên vàn hãy can đảm sống những gì Thiên Chúa cho xảy đến trong giây phút hiện tại. Ngày mai hãy để ngày mai lo.
Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương chúng ta, Ngài như một người cha và hơn nữa như một người mẹ. Lời Chúa trong bài đọc I từ sách tiên tri Isaia hôm nay: "Nào người mẹ có thể quên con mình mà không thương xót chính đứa con mình đã cưu mang ư? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi đâu." Chúng ta phải đạt đến mức độ xác tín vào điều này. Phải sống tín thác vào Thiên Chúa.
Và để có thể tin vào tính xác thực của những lời Ngài đã nói, Đức Giêsu đưa ra hai luận chứng: chim trên trời và hoa huệ ngoài đồng. Ngài nói: Nếu chúng ta biết được Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào! Ngài yêu thương chúng ta hơn chim trời, hơn bông hoa huệ ngoài đồng, hơn tất cả mọi kỳ công khác trên vũ trụ này. Khi đó, chúng ta sẽ có thái độ khác trong cuộc sống. Thay vì để cho mình bị co cụm lại trong những gì mình có, chúng ta sẽ thanh thản, không lo lắng, sẽ buông thả cuộc đời mình trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa như những đứa con đích thực của Người. Và rồi chúng ta sẽ có cái nhìn trong sáng về mọi sự vật trên trần gian: tất cả đều có giá trị tương đối, duy chỉ có sự sống đích thực của chúng ta mới có giá trị vĩnh hằng.
Lời mời gọi đến sự tự do
Theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn đi một con đường khác với thế gian. Tin tưởng vào Thiên Chúa Tình Yêu, thay vì lo sợ theo bản tính tự nhiên, chúng ta hãy hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa. Thông thường, để tự trấn an mình, ta cho rằng không gì bảo đảm hơn là thu góp thật nhiều của cải vật chất, và ta hy vọng khi đó có thể tin tưởng về tương lai của mình! Nhưng hệ quả nào sẽ đến? Thay vì tìm được sự bảo đảm vững chắc và sự thanh thản tâm hồn, ta sẽ chỉ gặt hái được sầu phiền. Ta tưởng những gì ta sở hữu sẽ phục vụ ta, nhưng trái lại, ta trở thành nô lệ cho chúng. Đức Giêsu gọi những người lo lắng thái quá như vậy là những người "ngoại đạo". Ngài so sánh hai việc phục vụ: phục vụ Thiên Chúa đem lại sự tự do và phục vụ tiền của đánh mất con người. Đức Giêsu mời gọi ta đi theo con đường tự do.
Đây là một kinh nghiệm đích thực đối với của cải vật chất mà ta sở hữu: nếu chúng ta giữ nó, chúng ta sẽ đánh mất chính mình. Trước hết, chúng ta sẽ phải sống trong sự lo lắng triền miên để giữ những gì mình có. Thứ đến, việc bám víu vào những gì chúng ta sở hữu có nguy cơ tạo ra những tương quan sai lạc với tha nhân, dù họ là người giàu hay người nghèo. Những tương quan sai lạc này thường là những tương quan thống trị hoặc bị thống trị. Sau cùng, sự giàu có của chúng ta, nếu không để ý, có thể quật lại ta và làm cho ta có những thái độ ngờ vực đối với tha nhân. Tất cả những điều trên đều sai lầm. Hệ quả là những phương tiện sống (đặc biệt là tiền bạc) trở thành quan trọng hơn chính cuộc sống.
Đức Giêsu mời gọi ta sống tự do. Ngài mời gọi ta bước vào cuộc sống đích thực: đừng lấy những phương tiện làm mục đích. Tiền của và những gì ta có, những gì ta sở hữu do công sức làm việc nhằm mục đích đem lại cuộc sống ổn định, tất cả chỉ là những phương tiện. Trái lại, cuộc sống thì hoàn toàn khác: sống là tạo tương quan, tương quan đích thực giữa người với người; sống là thiết lập tình yêu giữa người với người. Đó chính là Nước Trời mà Đức Giêsu mời gọi ta tiên vàn hãy tìm kiếm và dùng mọi phương thế để đạt tới. Đó cũng chính là thế giới của tình huynh đệ giữa những người con đặt niềm tin tưởng vào một Thiên Chúa Tình Yêu, một Thiên Chúa là Cha và là Mẹ mà Kinh Thánh đã mạc khải cho chúng ta.
25. Nguồn sống – Lm Vũ Đình Tường
Cơm ăn, áo mặc là nhu yếu cần thiết cho cuộc sống con người. Vì là nhu yếu không thể thiếu nên nó chi phối cuộc sống đến độ trở thành mối lo, phiền toái chính cho mọi lứa tuổi. Giầu hay nghèo, Đông hay Tây, nơi nào cũng có mối lo riêng liên quan tới vấn đề cơm ăn, áo mặc.
Dân chúng nơi các quốc gia nghèo đói mong sao cho đủ cơm ăn, áo mặc hàng ngày. Ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Ăn no, mặc ấm là hạnh phúc rồi. Họ rất thấm Lời Chúa nói: Ngày nào có cái lo của ngày ấy.
Quả thực, gạo chợ, nước sông là vấn đề thực tế mỗi ngày. Ngày nào cũng lo đến miếng cơm, manh áo. Tảng sáng thức giấc mối lo ập đến; trưa đến chưa kiếm đủ cho bữa tối càng lo hơn. Càng về chiều niềm hy vọng nhạt dần như nắng chiều vàng úa quyện chặt gót chân. Mệt, đói lả nhưng vẫn phải lê chân bước về nhà, túi trống, bụng không. Niềm hy vọng cả nhà chợt tắt. Mắt nhìn nhau thông cảm. Lại một tối uống nước muối đi ngủ. Cái đói hành hạ về đêm, đòi ngủ chung giường. Có đêm nó xuất hiện dưới cơn ác mộng nhắc lại đói, khát. Đôi khi may mắn chiêm bao được hưởng bữa tiệc đầy cao lương, mỹ vị. Về y phục cũng thế lo sao cho đủ ấm, đủ áo quần che thân, tránh rét giá đông. Được như thế là hạnh phúc hơn người. Tết đến mong có áo mới, đóng bộ chúc tuổi bà con.
Nơi các quốc gia kỹ nghệ hoá vấn đề cơm ăn, áo mặc cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta không hài lòng với ăn no mặc đẹp. Quảng cáo tới tấp dậy người ta đua đòi, hơn thua nhau. Không phải lo đến miếng nên cần phải có tiếng. Chúng đội lốt dưới chiêu bài kiến thức, hiểu biết về xã hội đang sống. Chúng mặc cho lớp áo trưởng giả, giới thượng lưu. Trí thức cao hơn kẻ thất học, thượng lưu thuộc giai cấp cao hơn. Từ lối suy nghĩ đó người ta lao đầu chạy theo quảng cáo. Làm thế nào để ngồi ghế nhà hàng mới khai trương trước người khác. Như thế đủ hãnh diện có kiến thức hơn người. Mặc sao phải đẹp hơn người mới đáng hàng thượng lưu. Để thiên hạ ngồi sau ngắm lưng trần, như thế mới là có vai vế trong xã hội. Chưa hài lòng, phải diện đúng thời trang, theo mùa, vừa trình làng. Như thế mới đúng điệu, đi trước thiên hạ một bước. Đủ ăn, đủ mặc là một nhu cầu. Mong muốn hơn nhu cầu là xa xỉ. Mọi xa xỉ đều phí phạm. Phí phạm đáng chê, trách.
Xa xỉ
Gọi là xa xỉ vì đó không phải là nhu cầu mà là ước muốn. Ước muốn có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Tuy nhiên nhiều người muốn là phải được nên lầm lẫn ước muốn và nhu cầu là một. Lầm lẫn chết người này là một đại họa cho nhiều gia đình. Nhà người ta cái gì cũng mới; nhà mình toàn đồ cũ. Đây không phải là so sánh, không chạy theo thiên hạ, không đua đòi mà giải thích là cho có với người ta. Không hơn người ít ra cũng phải bằng người. Để thoả mãn ý tưởng hơn người thì phải làm tăng, dài giờ hơn. Căng thẳng, đè nén sinh ra từ đó. Rõ khổ.
Nhiều trường hợp cho thấy bề ngoài trưng diện sang trọng, sạch sẽ, ngăn nắp nhưng lòng người thì sô bồ, bề bộn, gian tham, mưu kế, rình rập, hằn thù, rối hơn tơ vò. Lo chạy đua để hơn người còn giờ đâu cho đời sống nội tâm. Có chăng thì qua loa, mong cho xong sớm còn lo việc riêng, gia đình, sinh nhai, tính kế. Một số tỏ ra hào hoa phong nhã, rộng rãi nơi công cộng. Về nhà thì thu lại, nhỏ mọn, tính toán hơn thiệt. Dễ hiểu vì nơi đô hội tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay tạo nên cảm giác quan trọng, hào sảng hơn người. Đối với niềm tin còn thu nhỏ hơn nữa. Tính toán chi li, từng phút giây cho Chúa. Không đủ giờ cho việc làm dấu đi ngủ nói chi đến đọc kinh tối. Đây không phải là xét đoán, tò mò hay dò lòng người. Nhìn cử chỉ bên ngoài để biết bên trong. Phản ảnh khao khát đời sống bên trong bộc lộ qua ao ước, lời nói, cử chỉ, hành động bên ngoài. Người giầu đời sống nội tâm không khao khát tràng pháo tay bề ngoài. Một người có nguồn vui nội tâm không cần bon chen, ao ước nguồn vui phù du, chóng qua, mau tàn.
Thực tế cuộc sống
Thực tế cuộc sống cho thấy ai cũng có mối lo. Kẻ ít người nhiều. Mấy ai thoát khỏi, trừ trẻ sơ sinh. Tuy nhiên có mối lo chi tiêu cần thiết, chính đáng. Bên cạnh đó có mối lo chi tiêu hầu như dư thừa, hoặc ngay cả bất chính. Chi tiêu chính đáng như tiền bắt buộc chi tiêu hàng tuần. Ngoài tiền mua thực phẩm còn nhiều thứ khác phải chi. Không tiền nhà, tiền điện, nước, thì tiền học phí, tiền xăng xe, tiền thuốc, tiền điện thoại. Thêm cả tiền bảo hiểm, quà tặng, nhà thờ, quyên góp lụt lội.
Chi tiêu thừa là chi tiêu không cần thiết, đôi khi để thoả mãn điều ước muốn, tệ hơn nữa là thoả mãn dục vọng. Chi tiêu mua vui bất chính làm cho đời thêm ưu phiền. Thực tế cho thấy càng lệ thuộc, bám víu vào vật chất nhiều chừng nào cuộc sống càng nặng nề, thêm đau khổ, lắm ưu phiền và giầu âu lo. Ít khao khát, dính bén vinh quang trần thế cuộc sống sẽ êm đềm hơn. Điều này không có nghĩa là phí phạm tài năng Chúa ban. Xử dụng chúng để phục vụ, mang lợi ích cho xã hội và Giáo Hội là cần thiết, rất thực tiễn. Điều nên nhớ là nguồn hạnh phúc thật không nhất thiết hệ tại ở bên ngoài. Lệ thuộc vào đời sống vật chất sẽ làm nghèo, giảm sức sống đời sống nội tâm. Một tâm hồn tìm nguồn an vui nơi ân sủng Chúa luôn sống vui tươi, hồn nhiên. Một tấm lòng khao khát đi tìm vật chất, nguồn vui trần thế, hào nhoáng ngoài xã hội là dấu chỉ nội tâm nghèo nàn. Như thế nguồn vui đích thực chỉ có thể tìm thấy trong Chúa, ân sủng Chúa ban.
Nguồn sống thật không đến từ vật chất, địa vị, vô tri, vô giác. Nguồn sống thật đến từ chủ thể sống động. Nguồn sống vĩnh cửu đến từ chủ thể vĩnh cửu. Ngoài Thiên Chúa ra không còn chủ thể nào vĩnh cửu. Chỉ ân sủng Chúa mà thôi, hồn tôi cũng đủ thảnh thơi muôn đời.
Dân chúng nơi các quốc gia nghèo đói mong sao cho đủ cơm ăn, áo mặc hàng ngày. Ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Ăn no, mặc ấm là hạnh phúc rồi. Họ rất thấm Lời Chúa nói: Ngày nào có cái lo của ngày ấy.
Quả thực, gạo chợ, nước sông là vấn đề thực tế mỗi ngày. Ngày nào cũng lo đến miếng cơm, manh áo. Tảng sáng thức giấc mối lo ập đến; trưa đến chưa kiếm đủ cho bữa tối càng lo hơn. Càng về chiều niềm hy vọng nhạt dần như nắng chiều vàng úa quyện chặt gót chân. Mệt, đói lả nhưng vẫn phải lê chân bước về nhà, túi trống, bụng không. Niềm hy vọng cả nhà chợt tắt. Mắt nhìn nhau thông cảm. Lại một tối uống nước muối đi ngủ. Cái đói hành hạ về đêm, đòi ngủ chung giường. Có đêm nó xuất hiện dưới cơn ác mộng nhắc lại đói, khát. Đôi khi may mắn chiêm bao được hưởng bữa tiệc đầy cao lương, mỹ vị. Về y phục cũng thế lo sao cho đủ ấm, đủ áo quần che thân, tránh rét giá đông. Được như thế là hạnh phúc hơn người. Tết đến mong có áo mới, đóng bộ chúc tuổi bà con.
Nơi các quốc gia kỹ nghệ hoá vấn đề cơm ăn, áo mặc cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta không hài lòng với ăn no mặc đẹp. Quảng cáo tới tấp dậy người ta đua đòi, hơn thua nhau. Không phải lo đến miếng nên cần phải có tiếng. Chúng đội lốt dưới chiêu bài kiến thức, hiểu biết về xã hội đang sống. Chúng mặc cho lớp áo trưởng giả, giới thượng lưu. Trí thức cao hơn kẻ thất học, thượng lưu thuộc giai cấp cao hơn. Từ lối suy nghĩ đó người ta lao đầu chạy theo quảng cáo. Làm thế nào để ngồi ghế nhà hàng mới khai trương trước người khác. Như thế đủ hãnh diện có kiến thức hơn người. Mặc sao phải đẹp hơn người mới đáng hàng thượng lưu. Để thiên hạ ngồi sau ngắm lưng trần, như thế mới là có vai vế trong xã hội. Chưa hài lòng, phải diện đúng thời trang, theo mùa, vừa trình làng. Như thế mới đúng điệu, đi trước thiên hạ một bước. Đủ ăn, đủ mặc là một nhu cầu. Mong muốn hơn nhu cầu là xa xỉ. Mọi xa xỉ đều phí phạm. Phí phạm đáng chê, trách.
Xa xỉ
Gọi là xa xỉ vì đó không phải là nhu cầu mà là ước muốn. Ước muốn có cũng được mà không có cũng chẳng sao. Tuy nhiên nhiều người muốn là phải được nên lầm lẫn ước muốn và nhu cầu là một. Lầm lẫn chết người này là một đại họa cho nhiều gia đình. Nhà người ta cái gì cũng mới; nhà mình toàn đồ cũ. Đây không phải là so sánh, không chạy theo thiên hạ, không đua đòi mà giải thích là cho có với người ta. Không hơn người ít ra cũng phải bằng người. Để thoả mãn ý tưởng hơn người thì phải làm tăng, dài giờ hơn. Căng thẳng, đè nén sinh ra từ đó. Rõ khổ.
Nhiều trường hợp cho thấy bề ngoài trưng diện sang trọng, sạch sẽ, ngăn nắp nhưng lòng người thì sô bồ, bề bộn, gian tham, mưu kế, rình rập, hằn thù, rối hơn tơ vò. Lo chạy đua để hơn người còn giờ đâu cho đời sống nội tâm. Có chăng thì qua loa, mong cho xong sớm còn lo việc riêng, gia đình, sinh nhai, tính kế. Một số tỏ ra hào hoa phong nhã, rộng rãi nơi công cộng. Về nhà thì thu lại, nhỏ mọn, tính toán hơn thiệt. Dễ hiểu vì nơi đô hội tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay tạo nên cảm giác quan trọng, hào sảng hơn người. Đối với niềm tin còn thu nhỏ hơn nữa. Tính toán chi li, từng phút giây cho Chúa. Không đủ giờ cho việc làm dấu đi ngủ nói chi đến đọc kinh tối. Đây không phải là xét đoán, tò mò hay dò lòng người. Nhìn cử chỉ bên ngoài để biết bên trong. Phản ảnh khao khát đời sống bên trong bộc lộ qua ao ước, lời nói, cử chỉ, hành động bên ngoài. Người giầu đời sống nội tâm không khao khát tràng pháo tay bề ngoài. Một người có nguồn vui nội tâm không cần bon chen, ao ước nguồn vui phù du, chóng qua, mau tàn.
Thực tế cuộc sống
Thực tế cuộc sống cho thấy ai cũng có mối lo. Kẻ ít người nhiều. Mấy ai thoát khỏi, trừ trẻ sơ sinh. Tuy nhiên có mối lo chi tiêu cần thiết, chính đáng. Bên cạnh đó có mối lo chi tiêu hầu như dư thừa, hoặc ngay cả bất chính. Chi tiêu chính đáng như tiền bắt buộc chi tiêu hàng tuần. Ngoài tiền mua thực phẩm còn nhiều thứ khác phải chi. Không tiền nhà, tiền điện, nước, thì tiền học phí, tiền xăng xe, tiền thuốc, tiền điện thoại. Thêm cả tiền bảo hiểm, quà tặng, nhà thờ, quyên góp lụt lội.
Chi tiêu thừa là chi tiêu không cần thiết, đôi khi để thoả mãn điều ước muốn, tệ hơn nữa là thoả mãn dục vọng. Chi tiêu mua vui bất chính làm cho đời thêm ưu phiền. Thực tế cho thấy càng lệ thuộc, bám víu vào vật chất nhiều chừng nào cuộc sống càng nặng nề, thêm đau khổ, lắm ưu phiền và giầu âu lo. Ít khao khát, dính bén vinh quang trần thế cuộc sống sẽ êm đềm hơn. Điều này không có nghĩa là phí phạm tài năng Chúa ban. Xử dụng chúng để phục vụ, mang lợi ích cho xã hội và Giáo Hội là cần thiết, rất thực tiễn. Điều nên nhớ là nguồn hạnh phúc thật không nhất thiết hệ tại ở bên ngoài. Lệ thuộc vào đời sống vật chất sẽ làm nghèo, giảm sức sống đời sống nội tâm. Một tâm hồn tìm nguồn an vui nơi ân sủng Chúa luôn sống vui tươi, hồn nhiên. Một tấm lòng khao khát đi tìm vật chất, nguồn vui trần thế, hào nhoáng ngoài xã hội là dấu chỉ nội tâm nghèo nàn. Như thế nguồn vui đích thực chỉ có thể tìm thấy trong Chúa, ân sủng Chúa ban.
Nguồn sống thật không đến từ vật chất, địa vị, vô tri, vô giác. Nguồn sống thật đến từ chủ thể sống động. Nguồn sống vĩnh cửu đến từ chủ thể vĩnh cửu. Ngoài Thiên Chúa ra không còn chủ thể nào vĩnh cửu. Chỉ ân sủng Chúa mà thôi, hồn tôi cũng đủ thảnh thơi muôn đời.
26. Đơn sơ như trẻ nhỏ.
(Trích trong ‘Đối Thoại với Thiên Chúa’ của Fernandez)
1) Sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, không lo lắng thái quá. Tư cách con Thiên Chúa. Tin tưởng và phó thác vào Người
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa khuyên chúng ta: "Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Ngày hôm qua đã qua đi rồi. Chúng ta không biết mình có thấy được ngày mai hay không, vì không một ai có khả năng biết trước về tương lai. Tất cả những vất vả nhọc nhằn của ngày hôm qua còn lại với chúng ta hôm nay đều là lý do cho chúng ta tạ ơn Thiên Chúa: chúng ta cám ơn Chúa đã đổ xuống muôn vàn ân sủng và phúc lành; chúng ta cũng mắc nợ lòng biết ơn đối với anh em đồng loại. Chúng ta cũng sẽ đặt thêm hy vọng, dù chỉ là thêm một chút, vào kho tàng của chúng ta ở trên trời. Từ những ngày đã qua, chúng ta có thêm động lực để thống hối và đền bù tội lỗi, sai phạm và thiếu sót của mình. Chúng ta có thể mượn lời Ca nhập lễ trong thánh lễ hôm nay để nói về ngày hôm qua: "Chúa đã cứu trợ tôi, đã đưa tôi đến chỗ thênh thang rộng rãi, và đã cứu sống tôi bởi vì Người thương tôi". Ngày mai “chưa bắt đầu”. Nếu nó đến, nó sẽ còn tuyệt vời hơn cả những gì chúng ta ước mong, bởi vì Thiên Chúa chúng ta đã chuẩn bị nó cho chúng ta được thánh hóa: "Số phận con ở trong tay Ngài " (Tv 31,16). Khách quan mà nói, chúng ta không thể để cho những băn khoăn lo lắng về ngày mai đè nặng lòng mìh: Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết đề vui lòng đón nhận bất cứ điều gì thâu hoạch được. Nhất định chúng ta sẽ chiến thắng lẫy lừng!
Điều quan trọng là ngày hôm nay. Hôm nay là ngày mà chúng ta cần có để yêu thương, để phát triển trong sự thánh thiện, qua vô số những sự kiện nhỏ nhặt, tự như những họa tiết dệt nên dải lụa cuộc đời. Một số sự việc tự nhiên làm chúng ta cảm thấy dễ chịu, một số khác có lẽ khiến chúng ta ít hài lòng hơn, nhưng mỗi một sự kiện ấy đều có thể góp phần làm rạng rỡ viên đá quý mà chúng ta dày công gọt dũa và đánh bóng bằng sự hoàn hảo nhân loại và ý nghĩa siêu nhiên, vì Chúa và vì sự sống vĩnh cửu.
Chúng ta không thể đùa giỡn với ý nghĩ ấy. Đôi khi óc tưởng tượng bay bổng của chúng ta "tô son trét phấn" cho các thực tại quá khứ và trói buộc chúng ta bằng cách lý tưởng hóa một tương lai không phải nhọc công nỗ lực; hay trái lại nó bày ra một chân trời u ám, một viễn cảnh đen tối khiến chúng ta phải lo sợ hãi hùng. "Kẻ nào mải ngóng theo gió sẽ không đủ tự tin gieo hạt, và kẻ nào cứ dõi mắt nhìn mây sẽ chẳng dám thu hoạch ". Đó là một lời mời gọi chúng ta bắt tay thực hiện ngay bổn phận của phút giây hiện tại, tuy vẫn để tâm tìm kiếm cơ hội tốt hơn có thể xảy đến. Trong hoạt động tông đồ, chúng ta cũng dễ dàng trì hoãn một dự án để tìm một dịp thuận tiện hơn. Công cuộc rao giảng Tin mừng của các Tông đồ sẽ ra sao nếu các ngài lần lữa chờ đợi và tìm kiếm những hoàn cảnh thuận lợi hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đệ Đức Kitô dậm chân tại chỗ "chờ thời "? Hic et nunc: Ngay tại đây và lúc này là kẻ khởi điểm mà chúng ta phải chứng tỏ tình yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng và bằng hành động.
Xét về mặt tự nhiên cũng như siêu nhiên, sự thánh thiện và hiệu năng hệ tại chủ yếu ở chỗ sống mỗi ngày như thể đó là ngày duy nhất trong cuộc đời mình: mỗi ngày đều là một ngày mà chúng ta phải lấy tình yêu dành cho Chúa lấp đầy vào đó; mỗi ngày đều là một ngày mà chúng ta phải hoàn tất, phải vun đắp "đầy tới miệng" bằng các việc tốt. Chúng ta không thể để cho bất kỳ cơ hội nào vuột khỏi tầm tay. Ngày hôm nay không quay lạil ần nữa đâu, mãi mãi, và Chúa mong chờ chúng ta lấp đầy ngày hôm nay bằng tình yêu và bằng những hành vi phục vụ nhỏ bé cho tha nhân. Thiên thần hộ thủ sẽ hân hoan vui sướng khi đem một ngày sống như thế dâng lên Thiên Chúa.
2) Lo lắng luống công vô ích. Chúng ta sẽ luôn luôn được ban đủ ơn để giữ vững lòng trung thành
“Anh em đừng lo lắng..." Lo lắng luống công vô ích chẳng không xóa được nỗi bất hạnh, mà còn làm chúng ta khổ sở hơn. Vì chúng ta phải nai lưng vác lấy gánh nặng mà chẳng nhận được ơn Chúa nâng đỡ. Sự lo lắng thổi phồng những khó khăn thử thách, trong khi lại bóp nghẹt khả năng thi hành bổn phận của giây phút hiện tại. Điều tệ hại nhất là chúng ta không tin tưởng Chúa Quan phòng luôn luôn can thiệp vào mọi tình huống của đời mình. Trong Bài đọc I hôm nay, Chúa hỏi chúng ta qua miệng ngôn sứ Isaia: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ". Qua mọi việc xảy đến hôm nay, Thiên Chúa Cha vẫn luôn luôn yêu thương nghĩ đến chúng ta.
Và Đức Giêsu vẫn thường nhắc nhở chúng ta như thế! Người nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ". Chúng ta không thể vừa quán xuyến mọi việc hôm nay vừa lo toan cho ngày mai. Chúng ta luôn luôn nhận được ơn nâng đỡ hiệu quả để sống trung thành hôm nay, sống ngày đặc biệt này với niềm vui và bình an. Ngày mai sẽ mang đến những ân huệ mới, và gánh nặng của ngày mai sẽ không nặng nề hơn ngày hôm nay đâu. Ngày nào có lao nhọc vất vả, thập giá và niềm vui của ngày ấy. Mỗi một ngày trong đời sống chúng ta đều được Thiên Chúa Cha canh phòng cẩn mật. Chúng ta không thể chỉ biết có hiện tại mà thôi. Mọi nỗi lo âu sợ hãi chỉ chực nổi lên khi chúng ta không dốc hết nỗ lực ở đây và lúc này, khi chúng ta không đặt hết niềm tin tưông vào Chúa Quan phòng; những nỗi lo lắng sẽ tiêu tan hết khi chúng ta chân thành lặp đi lặp lại: “Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, vì Chúa muốn, như Chúa muốn, bao lâu Chúa còn muốn”.Lúc đó niềm vui và bình an sẽ đến.
Đôi khi chúng ta có thể bị cám dỗ muốn điều khiển cả tương lai, quên mất rằng cuộc đời mình nằm trong tay chúa. Đừng để mình như đứa trẻ mất kiên nhẫn bỏ qua nhiều trang sách để khám phá câu chuyện kết thúc thế nào. Thiên Chúa ban cho chúng ta ngày giờ đẻ sống, từng ngày nối tiếp nhau, để chúng ta lấp đầy sự thánh thiện vào đó. Trong Cựu ước, chúng ta đọc thấy câu chuyện người Do thái sống trong sa mạc: họ thâu nhặt manna Thiên Chúa ban cho mỗi ngày làm thức ăn. Một số người vì muốn dự trữ cho tương lai nên đã tích trữ nhiều hơn mức cần thiết. Ngày hôm sau họ thấy số manna ấy bị hư đi không thể ăn được. Họ đã thiếu niềm tin vào Thiên Chúa Giavê, Đấng canh phòng họ bằng tình phụ tử. Dĩ nhiên chúng ta nên biết khôn ngoan tiên liệu cho tương lai, nhưng không như những người Do thái hồi còn lang thang trong sa mạc chỉ dựa vào sức mình.
Niềm hạnh phúc của chúng ta phải là niềm hạnh phúc đầy hy vọng, khi chúng ta thi hành bổn phận hàng ngày, tập trung trí óc, con tim và mọi năng lực vào đó. Sự tin tưông vào Chúa - sự phó thác thánh thiện không làm giảm sút trách nhiệm trong khi hành động, và trong khi tiên liệu những việc phải làm trong mỗi tình huống. Cũng không có nghĩa là chúng ta không cần vận dụng sự khôn ngoan. Nó hoàn toàn trái ngược với thái độ thiếu tin tưởng vào Chúa và có cái nhìn mơ hồ về những việc sắp sẩy đến. Chúa lặp lại với chúng ta: "Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai". Chúng ta hãy tận dụng tốt ngày hôm nay.
3) Tìm kiếm Chúa trong công việc. Khổ chế trong trí tưởng tượng để sống giây phút hiện tại: tại đây và lúc này
Thiên Chúa biết chúng ta cần gì. Chúng ta hãy lo trước tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và tất cả những cái khác sẽ được ban cho chúng ta.. "Chúng ta hãy vững vàng quyết tâm dành cả cuộc đời để phục vụ Chúa cách tận tụy. Chúng ta đừng mải tìm cách biết nhiều hơn về ngày mai, vì đó không phải là bận tâm chính đáng Mà đúng hơn chúng ta hãy quan tâm đến điều tốt có thể làm hôm nay. Ngay mai sẽ sớm trở thành hôm nay, và chúng ta sẽ quan tâm đến nó. Chúng ta cần tích lũy lượng manna cần thiết cho ngày hôm nay, chứ không nhiều hơn. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ rằng không biết Chúa có mưa manna xuống không vào ngày hôm sau, rồi ngày kế tiếp, và ngày kế tiếp nữa, bao lâu cuộc đời lữ thứ của chúng ta còn kéo dài”. Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta đâu.
Khi chúng ta sống trong phút hiện tại, chúng ta chú tâm vào những sự việc và những con người thật. Điều này có nghĩa là chúng ta khổ chế trong trí tưông tượng và không phí thời gian cho những hồi ức vô bổ và không thích đáng. Óc tưông tượng có thể lôi kéo chúng ta vào một thế giới khác, xa rời cái thế giới duy nhất được tạo dựng để làm môi trường cho chúng ta nên thánh. Óc tưởng tượng của chúng ta thường làm lãng phí thời gian quý báu, và khiến chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội chính đáng làm việc tốt. Thiếu sự khổ chế nội tâm, trí tưởng tượng và óc tò mò, là một trong những kẻ thù lớn nhất cản trở việcnên thánh.
Nếu chúng ta sống giây phút hiện tại, chúng ta sẽ chắc chắn loại bỏ được những nỗi sợ giả tạo về các hiểm họa tưởng tượng trong tương lai mà óc tưông tượng của chúng ta phóng đại lên hay bóp méo đi. Cũng có đôi khi những thập giá không có thực mà óc tương tượng của chúng ta vẽ vời ra đẩy chúng ta xa rời thực tế. Lúc đó chúng ta khổ sở một cách vô ích, thay vì vui vẻ chấp nhận những thập giá nho nhỏ Chúa gởi đến cho con cái của Người mỗi ngày để tâm hồn được đầy ắp bình an và mềm vui.
Nếu chúng ta sống trọn vẹn giây phút hiện tại vì Tình Yêu, chúng ta không thể không nhận ra những chi tiết khó hiểu mời gọi mình sống trung thành. Tại đây và lúc này chúng ta cần phải giữ đúng thời khóa biểu đã đặt ra cho bản thân: Tại đây và lúc này chúng ta cần phải quảng đại với Chúa, kẻo chứng ta rơi vào trạng thái dửng dưng nguội lạnh. Tại đây và lúc này Thiên Chúa đang mong đợi chúng ta chế ngự bản thân trong tiểu tiết này hay tiểu tiết khác mà chúng ta thấy khó thực hiện hay khó bỏ qua. Người muốn chúng ta tiến lên tại những "tọa độ nóng" này, những điểm quan trọng làm chất liệu cho cuộc hồi tâm đặc biệt.
Chúng ta hãy cầu xin Ba Ngôi Cực Thánh ban ơn giúp chúng ta sống giây phút hiện tại của từng ngày với một con tim đầy ắp Tình Yêu, như thể đó là lễ vật cuối cùng của cuộc đời chúng ta trên trần gian.
1) Sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn, không lo lắng thái quá. Tư cách con Thiên Chúa. Tin tưởng và phó thác vào Người
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa khuyên chúng ta: "Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Ngày hôm qua đã qua đi rồi. Chúng ta không biết mình có thấy được ngày mai hay không, vì không một ai có khả năng biết trước về tương lai. Tất cả những vất vả nhọc nhằn của ngày hôm qua còn lại với chúng ta hôm nay đều là lý do cho chúng ta tạ ơn Thiên Chúa: chúng ta cám ơn Chúa đã đổ xuống muôn vàn ân sủng và phúc lành; chúng ta cũng mắc nợ lòng biết ơn đối với anh em đồng loại. Chúng ta cũng sẽ đặt thêm hy vọng, dù chỉ là thêm một chút, vào kho tàng của chúng ta ở trên trời. Từ những ngày đã qua, chúng ta có thêm động lực để thống hối và đền bù tội lỗi, sai phạm và thiếu sót của mình. Chúng ta có thể mượn lời Ca nhập lễ trong thánh lễ hôm nay để nói về ngày hôm qua: "Chúa đã cứu trợ tôi, đã đưa tôi đến chỗ thênh thang rộng rãi, và đã cứu sống tôi bởi vì Người thương tôi". Ngày mai “chưa bắt đầu”. Nếu nó đến, nó sẽ còn tuyệt vời hơn cả những gì chúng ta ước mong, bởi vì Thiên Chúa chúng ta đã chuẩn bị nó cho chúng ta được thánh hóa: "Số phận con ở trong tay Ngài " (Tv 31,16). Khách quan mà nói, chúng ta không thể để cho những băn khoăn lo lắng về ngày mai đè nặng lòng mìh: Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết đề vui lòng đón nhận bất cứ điều gì thâu hoạch được. Nhất định chúng ta sẽ chiến thắng lẫy lừng!
Điều quan trọng là ngày hôm nay. Hôm nay là ngày mà chúng ta cần có để yêu thương, để phát triển trong sự thánh thiện, qua vô số những sự kiện nhỏ nhặt, tự như những họa tiết dệt nên dải lụa cuộc đời. Một số sự việc tự nhiên làm chúng ta cảm thấy dễ chịu, một số khác có lẽ khiến chúng ta ít hài lòng hơn, nhưng mỗi một sự kiện ấy đều có thể góp phần làm rạng rỡ viên đá quý mà chúng ta dày công gọt dũa và đánh bóng bằng sự hoàn hảo nhân loại và ý nghĩa siêu nhiên, vì Chúa và vì sự sống vĩnh cửu.
Chúng ta không thể đùa giỡn với ý nghĩ ấy. Đôi khi óc tưởng tượng bay bổng của chúng ta "tô son trét phấn" cho các thực tại quá khứ và trói buộc chúng ta bằng cách lý tưởng hóa một tương lai không phải nhọc công nỗ lực; hay trái lại nó bày ra một chân trời u ám, một viễn cảnh đen tối khiến chúng ta phải lo sợ hãi hùng. "Kẻ nào mải ngóng theo gió sẽ không đủ tự tin gieo hạt, và kẻ nào cứ dõi mắt nhìn mây sẽ chẳng dám thu hoạch ". Đó là một lời mời gọi chúng ta bắt tay thực hiện ngay bổn phận của phút giây hiện tại, tuy vẫn để tâm tìm kiếm cơ hội tốt hơn có thể xảy đến. Trong hoạt động tông đồ, chúng ta cũng dễ dàng trì hoãn một dự án để tìm một dịp thuận tiện hơn. Công cuộc rao giảng Tin mừng của các Tông đồ sẽ ra sao nếu các ngài lần lữa chờ đợi và tìm kiếm những hoàn cảnh thuận lợi hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đệ Đức Kitô dậm chân tại chỗ "chờ thời "? Hic et nunc: Ngay tại đây và lúc này là kẻ khởi điểm mà chúng ta phải chứng tỏ tình yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng và bằng hành động.
Xét về mặt tự nhiên cũng như siêu nhiên, sự thánh thiện và hiệu năng hệ tại chủ yếu ở chỗ sống mỗi ngày như thể đó là ngày duy nhất trong cuộc đời mình: mỗi ngày đều là một ngày mà chúng ta phải lấy tình yêu dành cho Chúa lấp đầy vào đó; mỗi ngày đều là một ngày mà chúng ta phải hoàn tất, phải vun đắp "đầy tới miệng" bằng các việc tốt. Chúng ta không thể để cho bất kỳ cơ hội nào vuột khỏi tầm tay. Ngày hôm nay không quay lạil ần nữa đâu, mãi mãi, và Chúa mong chờ chúng ta lấp đầy ngày hôm nay bằng tình yêu và bằng những hành vi phục vụ nhỏ bé cho tha nhân. Thiên thần hộ thủ sẽ hân hoan vui sướng khi đem một ngày sống như thế dâng lên Thiên Chúa.
2) Lo lắng luống công vô ích. Chúng ta sẽ luôn luôn được ban đủ ơn để giữ vững lòng trung thành
“Anh em đừng lo lắng..." Lo lắng luống công vô ích chẳng không xóa được nỗi bất hạnh, mà còn làm chúng ta khổ sở hơn. Vì chúng ta phải nai lưng vác lấy gánh nặng mà chẳng nhận được ơn Chúa nâng đỡ. Sự lo lắng thổi phồng những khó khăn thử thách, trong khi lại bóp nghẹt khả năng thi hành bổn phận của giây phút hiện tại. Điều tệ hại nhất là chúng ta không tin tưởng Chúa Quan phòng luôn luôn can thiệp vào mọi tình huống của đời mình. Trong Bài đọc I hôm nay, Chúa hỏi chúng ta qua miệng ngôn sứ Isaia: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ". Qua mọi việc xảy đến hôm nay, Thiên Chúa Cha vẫn luôn luôn yêu thương nghĩ đến chúng ta.
Và Đức Giêsu vẫn thường nhắc nhở chúng ta như thế! Người nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ". Chúng ta không thể vừa quán xuyến mọi việc hôm nay vừa lo toan cho ngày mai. Chúng ta luôn luôn nhận được ơn nâng đỡ hiệu quả để sống trung thành hôm nay, sống ngày đặc biệt này với niềm vui và bình an. Ngày mai sẽ mang đến những ân huệ mới, và gánh nặng của ngày mai sẽ không nặng nề hơn ngày hôm nay đâu. Ngày nào có lao nhọc vất vả, thập giá và niềm vui của ngày ấy. Mỗi một ngày trong đời sống chúng ta đều được Thiên Chúa Cha canh phòng cẩn mật. Chúng ta không thể chỉ biết có hiện tại mà thôi. Mọi nỗi lo âu sợ hãi chỉ chực nổi lên khi chúng ta không dốc hết nỗ lực ở đây và lúc này, khi chúng ta không đặt hết niềm tin tưông vào Chúa Quan phòng; những nỗi lo lắng sẽ tiêu tan hết khi chúng ta chân thành lặp đi lặp lại: “Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn, vì Chúa muốn, như Chúa muốn, bao lâu Chúa còn muốn”.Lúc đó niềm vui và bình an sẽ đến.
Đôi khi chúng ta có thể bị cám dỗ muốn điều khiển cả tương lai, quên mất rằng cuộc đời mình nằm trong tay chúa. Đừng để mình như đứa trẻ mất kiên nhẫn bỏ qua nhiều trang sách để khám phá câu chuyện kết thúc thế nào. Thiên Chúa ban cho chúng ta ngày giờ đẻ sống, từng ngày nối tiếp nhau, để chúng ta lấp đầy sự thánh thiện vào đó. Trong Cựu ước, chúng ta đọc thấy câu chuyện người Do thái sống trong sa mạc: họ thâu nhặt manna Thiên Chúa ban cho mỗi ngày làm thức ăn. Một số người vì muốn dự trữ cho tương lai nên đã tích trữ nhiều hơn mức cần thiết. Ngày hôm sau họ thấy số manna ấy bị hư đi không thể ăn được. Họ đã thiếu niềm tin vào Thiên Chúa Giavê, Đấng canh phòng họ bằng tình phụ tử. Dĩ nhiên chúng ta nên biết khôn ngoan tiên liệu cho tương lai, nhưng không như những người Do thái hồi còn lang thang trong sa mạc chỉ dựa vào sức mình.
Niềm hạnh phúc của chúng ta phải là niềm hạnh phúc đầy hy vọng, khi chúng ta thi hành bổn phận hàng ngày, tập trung trí óc, con tim và mọi năng lực vào đó. Sự tin tưông vào Chúa - sự phó thác thánh thiện không làm giảm sút trách nhiệm trong khi hành động, và trong khi tiên liệu những việc phải làm trong mỗi tình huống. Cũng không có nghĩa là chúng ta không cần vận dụng sự khôn ngoan. Nó hoàn toàn trái ngược với thái độ thiếu tin tưởng vào Chúa và có cái nhìn mơ hồ về những việc sắp sẩy đến. Chúa lặp lại với chúng ta: "Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai". Chúng ta hãy tận dụng tốt ngày hôm nay.
3) Tìm kiếm Chúa trong công việc. Khổ chế trong trí tưởng tượng để sống giây phút hiện tại: tại đây và lúc này
Thiên Chúa biết chúng ta cần gì. Chúng ta hãy lo trước tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và tất cả những cái khác sẽ được ban cho chúng ta.. "Chúng ta hãy vững vàng quyết tâm dành cả cuộc đời để phục vụ Chúa cách tận tụy. Chúng ta đừng mải tìm cách biết nhiều hơn về ngày mai, vì đó không phải là bận tâm chính đáng Mà đúng hơn chúng ta hãy quan tâm đến điều tốt có thể làm hôm nay. Ngay mai sẽ sớm trở thành hôm nay, và chúng ta sẽ quan tâm đến nó. Chúng ta cần tích lũy lượng manna cần thiết cho ngày hôm nay, chứ không nhiều hơn. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ rằng không biết Chúa có mưa manna xuống không vào ngày hôm sau, rồi ngày kế tiếp, và ngày kế tiếp nữa, bao lâu cuộc đời lữ thứ của chúng ta còn kéo dài”. Thiên Chúa không bỏ rơi chúng ta đâu.
Khi chúng ta sống trong phút hiện tại, chúng ta chú tâm vào những sự việc và những con người thật. Điều này có nghĩa là chúng ta khổ chế trong trí tưông tượng và không phí thời gian cho những hồi ức vô bổ và không thích đáng. Óc tưông tượng có thể lôi kéo chúng ta vào một thế giới khác, xa rời cái thế giới duy nhất được tạo dựng để làm môi trường cho chúng ta nên thánh. Óc tưởng tượng của chúng ta thường làm lãng phí thời gian quý báu, và khiến chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội chính đáng làm việc tốt. Thiếu sự khổ chế nội tâm, trí tưởng tượng và óc tò mò, là một trong những kẻ thù lớn nhất cản trở việcnên thánh.
Nếu chúng ta sống giây phút hiện tại, chúng ta sẽ chắc chắn loại bỏ được những nỗi sợ giả tạo về các hiểm họa tưởng tượng trong tương lai mà óc tưông tượng của chúng ta phóng đại lên hay bóp méo đi. Cũng có đôi khi những thập giá không có thực mà óc tương tượng của chúng ta vẽ vời ra đẩy chúng ta xa rời thực tế. Lúc đó chúng ta khổ sở một cách vô ích, thay vì vui vẻ chấp nhận những thập giá nho nhỏ Chúa gởi đến cho con cái của Người mỗi ngày để tâm hồn được đầy ắp bình an và mềm vui.
Nếu chúng ta sống trọn vẹn giây phút hiện tại vì Tình Yêu, chúng ta không thể không nhận ra những chi tiết khó hiểu mời gọi mình sống trung thành. Tại đây và lúc này chúng ta cần phải giữ đúng thời khóa biểu đã đặt ra cho bản thân: Tại đây và lúc này chúng ta cần phải quảng đại với Chúa, kẻo chứng ta rơi vào trạng thái dửng dưng nguội lạnh. Tại đây và lúc này Thiên Chúa đang mong đợi chúng ta chế ngự bản thân trong tiểu tiết này hay tiểu tiết khác mà chúng ta thấy khó thực hiện hay khó bỏ qua. Người muốn chúng ta tiến lên tại những "tọa độ nóng" này, những điểm quan trọng làm chất liệu cho cuộc hồi tâm đặc biệt.
Chúng ta hãy cầu xin Ba Ngôi Cực Thánh ban ơn giúp chúng ta sống giây phút hiện tại của từng ngày với một con tim đầy ắp Tình Yêu, như thể đó là lễ vật cuối cùng của cuộc đời chúng ta trên trần gian.
27. Quan tâm đúng, lo lắng không đúng.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Những người có trách nhiệm nặng nề đối với những người khác có thể đã nghĩ về lời giáo huấn của Chúa Giêsu hôm nay là tốt đẹp, tuyệt vời nhưng không thực tế. Điều đó có nghĩa là không thực hiện được. Thí dụ: nói những bậc làm cha mẹ đừng lo lắng về việc nuôi dưỡng may mặc và giáo dục cho con cái của họ. Những lời của Chúa Giêsu có vẻ như thích hợp với một vị ẩn tu sống trong một vùng hoang mạc, nhưng họ không nhìn thấy có một ứng dụng cho đa số những người trưởng thành như chúng ta đây.
Chúng ta không hề xua đuổi những lời của Chúa. Thật ra vì một lý do khác là chúng ta không đủ khả năng để lờ những lời ấy đi, chúng ta vẫn tuyên xưng rằng mình là những người Công giáo, những môn đệ của Người. Có lẽ chìa khóa cho những lời giáo huấn của Chúa Giêsu được tìm thấy trong một từ duy nhất “lo lắng”.
Có một sự khác nhau giữa lo lắng và quan tâm. Chúa Giêsu không nói rằng chúng ta sẽ không quan tâm. Người chỉ nói rằng chúng ta đừng lo lắng. Quan tâm là sự đáp trả chín mùi của những người nhận biết trách nhiệm của mình với những người khác, cũng như đối với chính họ. Lo lắng là sự bực dọc phiền phức của những người lòng đầy đau khổ. Quan tâm có thể trở thành viên mãn. Quan tâm là bông hoa lớn lên trên cây trách nhiệm. Lo lắng là hoa trái hư thối của sự lo âu.
Người lo lắng nghĩ rằng chính họ phải làm mọi sự. Trách nhiệm là một gánh nặng mà họ bực dọc khi mang lấy bởi họ nghi ngờ không biết mình mang gánh nặng ấy có nổi không. Thường thì họ hay quên sự trợ giúp của Thiên Chúa hoặc họ có thể thất vọng khi nhận lãnh bất cứ sự trợ giúp nào từ Thiên Chúa. Họ giống như những người mới đọc diễn văn lần đầu tiên.
Những người này ở nơi lưu đày xa nơi quê hương yêu dấu và Đền Thờ Giêrusalem, là trung tâm cuộc sống của họ. Bây giờ Đền Thờ bị đổ nát và hoang vu nên họ cảm thấy cuộc sống của mình bị hủy diệt. Họ đang hiện hữu giống như những người nô lệ hơn là sống cuộc sống tự do của con dân Chúa. Họ lo lắng rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi họ. Họ than khóc: “Chúa đã bỏ tôi, Chúa đã quên tôi rồi”. Nếu sự sợ hãi của họ trở thành sự thật thì đúng là họ có lý do để mà lo lắng. Nhưng vị tiên tri đã nói với họ những lời tốt đẹp đầy an ủi: “Có người mẹ nào quên con nhỏ của mình hoặc không chăm sóc đứa con của lòng bà ư? Mà nếu có người mẹ nào như thế thì Ta cũng sẽ không bao giờ quên ngươi đâu”.
Thiên Chúa cũng không quên chúng ta đâu mà là chúng ta quên Chúa thì đúng hơn. Hãy cầu nguyện, kiên bền cầu nguyện là điều cốt yếu. Tiếp theo kinh Lạy Cha trong Thánh Lễ, vị linh mục cầu nguyện nhân danh tất cả chúng ta: “Xin bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu đang khi chúng con chờ đợi niềm hy vọng vui mừng bởi việc ngự đến của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của chúng con”. Việc ngự đến của Đấng Cứu Chuộc không phải chỉ vào lúc tận thế. Chúng ta có thể hiểu việc cầu nguyện này là xin Chúa đến giúp đỡ mọi nhu cầu của chúng ta khi chúng ta chỉ trông mong vào Người, hướng đến Người bằng việc cầu nguyện nồng nhiệt nhất. Đặc biệt là tại Thánh Lễ, Người đến với chúng ta qua việc Hiệp lễ. Khi chúng ta lãnh nhận Mình và Máu Chúa, chúng ta phải biến đổi đời sống để cho Ngài làm chủ cuộc sống chúng ta. Trong khi cầu nguyện, hãy nói với Chúa rằng các bạn cần Người. Và ngay cả khi các bạn quan tâm về nhiều chuyện, bạn phải hứa là không lo lắng.
Những người có trách nhiệm nặng nề đối với những người khác có thể đã nghĩ về lời giáo huấn của Chúa Giêsu hôm nay là tốt đẹp, tuyệt vời nhưng không thực tế. Điều đó có nghĩa là không thực hiện được. Thí dụ: nói những bậc làm cha mẹ đừng lo lắng về việc nuôi dưỡng may mặc và giáo dục cho con cái của họ. Những lời của Chúa Giêsu có vẻ như thích hợp với một vị ẩn tu sống trong một vùng hoang mạc, nhưng họ không nhìn thấy có một ứng dụng cho đa số những người trưởng thành như chúng ta đây.
Chúng ta không hề xua đuổi những lời của Chúa. Thật ra vì một lý do khác là chúng ta không đủ khả năng để lờ những lời ấy đi, chúng ta vẫn tuyên xưng rằng mình là những người Công giáo, những môn đệ của Người. Có lẽ chìa khóa cho những lời giáo huấn của Chúa Giêsu được tìm thấy trong một từ duy nhất “lo lắng”.
Có một sự khác nhau giữa lo lắng và quan tâm. Chúa Giêsu không nói rằng chúng ta sẽ không quan tâm. Người chỉ nói rằng chúng ta đừng lo lắng. Quan tâm là sự đáp trả chín mùi của những người nhận biết trách nhiệm của mình với những người khác, cũng như đối với chính họ. Lo lắng là sự bực dọc phiền phức của những người lòng đầy đau khổ. Quan tâm có thể trở thành viên mãn. Quan tâm là bông hoa lớn lên trên cây trách nhiệm. Lo lắng là hoa trái hư thối của sự lo âu.
Người lo lắng nghĩ rằng chính họ phải làm mọi sự. Trách nhiệm là một gánh nặng mà họ bực dọc khi mang lấy bởi họ nghi ngờ không biết mình mang gánh nặng ấy có nổi không. Thường thì họ hay quên sự trợ giúp của Thiên Chúa hoặc họ có thể thất vọng khi nhận lãnh bất cứ sự trợ giúp nào từ Thiên Chúa. Họ giống như những người mới đọc diễn văn lần đầu tiên.
Những người này ở nơi lưu đày xa nơi quê hương yêu dấu và Đền Thờ Giêrusalem, là trung tâm cuộc sống của họ. Bây giờ Đền Thờ bị đổ nát và hoang vu nên họ cảm thấy cuộc sống của mình bị hủy diệt. Họ đang hiện hữu giống như những người nô lệ hơn là sống cuộc sống tự do của con dân Chúa. Họ lo lắng rằng Thiên Chúa đã bỏ rơi họ. Họ than khóc: “Chúa đã bỏ tôi, Chúa đã quên tôi rồi”. Nếu sự sợ hãi của họ trở thành sự thật thì đúng là họ có lý do để mà lo lắng. Nhưng vị tiên tri đã nói với họ những lời tốt đẹp đầy an ủi: “Có người mẹ nào quên con nhỏ của mình hoặc không chăm sóc đứa con của lòng bà ư? Mà nếu có người mẹ nào như thế thì Ta cũng sẽ không bao giờ quên ngươi đâu”.
Thiên Chúa cũng không quên chúng ta đâu mà là chúng ta quên Chúa thì đúng hơn. Hãy cầu nguyện, kiên bền cầu nguyện là điều cốt yếu. Tiếp theo kinh Lạy Cha trong Thánh Lễ, vị linh mục cầu nguyện nhân danh tất cả chúng ta: “Xin bảo vệ chúng con khỏi mọi lo âu đang khi chúng con chờ đợi niềm hy vọng vui mừng bởi việc ngự đến của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của chúng con”. Việc ngự đến của Đấng Cứu Chuộc không phải chỉ vào lúc tận thế. Chúng ta có thể hiểu việc cầu nguyện này là xin Chúa đến giúp đỡ mọi nhu cầu của chúng ta khi chúng ta chỉ trông mong vào Người, hướng đến Người bằng việc cầu nguyện nồng nhiệt nhất. Đặc biệt là tại Thánh Lễ, Người đến với chúng ta qua việc Hiệp lễ. Khi chúng ta lãnh nhận Mình và Máu Chúa, chúng ta phải biến đổi đời sống để cho Ngài làm chủ cuộc sống chúng ta. Trong khi cầu nguyện, hãy nói với Chúa rằng các bạn cần Người. Và ngay cả khi các bạn quan tâm về nhiều chuyện, bạn phải hứa là không lo lắng.
28. "Không ai có thể làm tôi hai chủ"
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Những ngày vừa qua, bức "Thư Ngỏ" viết ngày 17.2.2014 của ĐGM Giáo Phận Phan Thiết được công bố trên Vietcatholic (x.vietcatholic.net/media/140216PhanThiet.pdf), đã làm xôn xao công luận. "Một linh mục thuộc giáo phận Phan Thiết tự nhận là được Đức Giám Mục gửi qua Mỹ để xin tiền xây dựng Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao". Nhưng "TGM không Phan Thiết không cử linh mục nào sang Mỹ với nhiệm vụ trên", nên "xin quý vị vui lòng cảnh giác trước sự việc có dấu hiệu lừa đảo nêu trên".
Sức mạnh của Tiền Bạc thật là khủng khiếp. Chúa Giêsu đã so sánh nó với một ông chủ có khả năng cạnh tranh với chính Thiên Chúa. "Không ai có thể làm tôi hai chủ... Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được" (Lc 16, 13). Việc tôn thờ tiền bạc không xứng hợp với việc phụng sự Thiên Chúa. Chúa đã nói trước đó: "Kho tàng của anh ở đâu thì lòng trí anh ở đó".
Tiền Của luôn luôn là ông chủ xấu nhưng có thể là một người tôi tớ tốt. Nhưng bằng cách nào ta có thể bắt nó làm tôi tớ mình được?
Những lời dạy trên được Chúa Giêsu đưa ra sau dụ ngôn về người quản gia bất lương. Anh này đã biển thủ tiền bạc hoa lợi của chủ. Ông chủ biết được liền bắt anh ta làm phúc trình trước khi sa thải. Anh ta kêu các con nợ đến, đồng loã với họ làm ra những biên lai giả: kẻ mắc nợ chủ 100 thùng dầu ô liu, anh ta bảo viết 50 thùng; người mắc nợ 100 dạ lúa thì anh ta bảo viết lại thành 80. Như thế, các con nợ kia trở thành bạn hữu của tên quản gia vì đã chịu ơn anh ta, bởi thế sau khi bị sa thải anh ta được họ đón về nhà.Tại Palettin vào thời ấy, quản gia có thể cho người khác vay tài sản của chủ. Thường họ không có thù lao, nên khi lập hợp đồng thì hay ghi số lượng trội hơn số lượng cho vay, để lúc hoàn trả, họ giữ lại số dư làm của riêng. Trong dụ ngôn, người quản gia bất chính có thể đã tính toán lại để ông chủ thu đúng số tài sản của ông, và như vậy anh ta hy sinh số dư đáng lẽ thuộc về mình. Người chủ sẽ không bị thiệt hại mà các con nợ lại rất biết ơn anh ta. Chính vì đó mà "ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo" (Lc 16,8).
Từ cách xoay xở mau lẹ của tên quản gia trong một tình huống ngặt nghèo như thế, Chúa Giêsu rút ra bài học: "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cữu" (Lc 16, 9). Bạn bè đây là ai? Họ là ai mà lại có thể đón người ta vào nơi ở không phải tạm thời nhưng vĩnh cữu?
Muốn trả lời, cần liên kết dụ ngôn "người quản gia" với dụ ngôn "ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó" (Lc 16). Ông nhà giàu sống ích kỷ trong sự giàu sang của mình, ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc cho anh Lazarô nằm chờ chết trước cửa nhà ông ta. Sau khi cả hai chết, ông phú hộ sa hoả ngục, còn anh Lazarô thì được vào thiên đàng. Trong cơn cực hình, ông ta kêu van tổ phụ Abraham can thiệp để Lazarô cứu giúp mình cách nào, nhưng Abraham trả lời rằng số phận hai người như thế là công bằng và dứt khoát rồi, không thể thay đổi được nữa.
Như thế, của cải thường chia cách con người với nhau, nó đã chia cách ông nhà giàu với anh Lazarô khi còn sống, thì khi họ chết rồi, dẫu muốn cũng không còn cách nào nối lại dây liên lạc nữa. Ông ta giàu có như thế mà không biết dùng của cải để làm cho Lazarô nên bạn hữu của mình, để anh đón ông vào nơi hạnh phúc vĩnh cữu.
Tên quản gia bất chính (nhưng khôn khéo) hơn ông ta ở chỗ đã biết dùng "tiền bạc gian dối mà mua lấy bạn bè", bảo đảm cho tương lai của mình. Phần rỗi đời đời lại không đáng cho ta bỏ công bỏ của ra mà chăm lo hơn bội phần sao? Muốn được cứu rỗi đời đời, hãy có nhiều bạn bè. Bạn bè đó chính là những người nghèo khó mà chúng ta biết phục vụ, biết chia sẽ của cải với họ.
Câu hỏi: "Làm thế nào cho của cải thành tên tôi tớ phục vụ ta?".
Tin Mừng hôm nay cho câu trả lời.
1. Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình
Chúng ta phải để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình chứ không phải là Tiền Của. Không được để cho của cải đời này trở thành như mục đích của cuộc đời. Nó là một ông chủ xấu, một ông chủ khắc nghiệt, một ông chủ giả dối. Nó làm hư hỏng gia đình, hư hỏng xã hội, hư hỏng con người khi nó được coi như thần tượng, như giá trị cao nhất phải đạt tới bằng mọi cách.
Là ông chủ xấu nhưng tiền của có thể là người đầy tớ tốt và cần thiết.
Chúa Giêsu không lên án tiền bạc. Người không khinh chê của cải đời này. Chính Người đã phải lao động vất vả để sinh sống và nuôi sống cha mẹ mình. Khi ra rao giảng công khai, Người đã phải sống nhờ vào lòng tốt của kẻ khác, của bạn bè. Tiền của cần cho cuộc sống. Nó cần cho ta làm điều thiện và cho xã hội xây dựng các công trình công ích như nhà thương, nhà trường, nhà tình thương, nhà nuôi người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, xây dựng đường sá, cầu cống, nhà máy điện, Nhà thờ, nhà giáo lý, nhà mục vụ... Chúng ta cần tới tiền bạc nhưng phải giữ sự thanh thoát đối với nó. Ta sẽ không để cho của cải chóng qua làm chủ ta nếu ta thường xuyên nghiền ngẫm lời cảnh cáo sau đây của Chúa Giêsu: "Được cả thế gian mà thiệt mất mạng sống mình thì nào có lợi chi!" (Mt 16, 26).
Tiền của đời này được giao cho ta quản lý, và ta sẽ phải phúc trình trước mặt Chúa về cách quản lý của mình. Không thể nói: của tôi, tôi muốn làm gì thì làm! Cách thức tốt nhất để quản lý tiền của mà không sợ làm trái ý Chúa, đó là dùng nó để phục vụ, nhất là phục vụ# người nghèo. Như thế là chuẩn bị cho mình một chỗ chắc chắn trong Nước Trời.
Người nghèo được Thiên Chúa ưu đãi. Họ là công dân ưu tuyển của Nước Trời. Ta phải làm cho họ trở nên bạn hữu của ta. Giám mục Bossuet nói: "Người giàu là người ngoại kiều đối với Nước Trời, chính người nghèo làm cho họ nhập tịch thành công dân của Nước Trời". Còn thánh Âu Tinh viết đại ý như sau: Bạn có của cải ư? Tốt lắm. Cha bạn để lại cho bạn một gia tài kếch xù ư? Điều đó là hợp pháp. Nhà bạn chất đầy hoa lợi do công lao khó nhọc bạn làm ra: Tôi chẳng có gì trách bạn cả. Nhưng xin đừng gọi những thứ đó là sự "giàu có". Gọi chúng như thế là đã bắt đầu yêu thích chúng rồi, và nếu bạn yêu thích chúng, bạn sẽ cùng bị tiêu diệt với chúng. Bạn nên tiêu dùng chúng đi thì hơn, bạn sẽ không bị chết mất; hãy chia sẽ đi, rồi bạn sẽ nên giàu có, hãy gieo rồi bạn sẽ được gặt. Vâng, những của cải kia chỉ là giả dối. Hễ sở hữu chúng là bạn sinh ra lo âu. Nếu là sự giàu có đích thực, ắt chúng phải mang lại cho bạn sự bình an mới phải. Chỉ một mình Thiên Chúa là sự giàu có đích thực của chúng ta! (x. Hai Ông Chủ, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).
2. Tin tưởng vào ơn Quan Phòng của Thiên Chúa
Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thụ tạo đã được khẳng định trong nhiều bản văn Thánh kinh. Chúa Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm nói về sự quan phòng. Chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống; Cuộc đời của mỗi người có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, điều đó ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc; hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Salomon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó". Tin cậy vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng những quan tâm của Cha trên trời.
3. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Của cải vật chất là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi". Sống theo ưu tiên đó, chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh bằng cách thực thi thánh ý Thiên Chúa. "Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho", tức là những nhu cầu vật chất mà Chúa Giêsu đề cập đến như: thức ăn, áo mặc, đây là những nguyên do lo lắng của dân ngoại, nhưng không của con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa với "những người công chính" là Thiên Chúa sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày. (x. Thiên Chúa hay thần tài, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Những ngày vừa qua, bức "Thư Ngỏ" viết ngày 17.2.2014 của ĐGM Giáo Phận Phan Thiết được công bố trên Vietcatholic (x.vietcatholic.net/media/140216PhanThiet.pdf), đã làm xôn xao công luận. "Một linh mục thuộc giáo phận Phan Thiết tự nhận là được Đức Giám Mục gửi qua Mỹ để xin tiền xây dựng Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao". Nhưng "TGM không Phan Thiết không cử linh mục nào sang Mỹ với nhiệm vụ trên", nên "xin quý vị vui lòng cảnh giác trước sự việc có dấu hiệu lừa đảo nêu trên".
Sức mạnh của Tiền Bạc thật là khủng khiếp. Chúa Giêsu đã so sánh nó với một ông chủ có khả năng cạnh tranh với chính Thiên Chúa. "Không ai có thể làm tôi hai chủ... Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được" (Lc 16, 13). Việc tôn thờ tiền bạc không xứng hợp với việc phụng sự Thiên Chúa. Chúa đã nói trước đó: "Kho tàng của anh ở đâu thì lòng trí anh ở đó".
Tiền Của luôn luôn là ông chủ xấu nhưng có thể là một người tôi tớ tốt. Nhưng bằng cách nào ta có thể bắt nó làm tôi tớ mình được?
Những lời dạy trên được Chúa Giêsu đưa ra sau dụ ngôn về người quản gia bất lương. Anh này đã biển thủ tiền bạc hoa lợi của chủ. Ông chủ biết được liền bắt anh ta làm phúc trình trước khi sa thải. Anh ta kêu các con nợ đến, đồng loã với họ làm ra những biên lai giả: kẻ mắc nợ chủ 100 thùng dầu ô liu, anh ta bảo viết 50 thùng; người mắc nợ 100 dạ lúa thì anh ta bảo viết lại thành 80. Như thế, các con nợ kia trở thành bạn hữu của tên quản gia vì đã chịu ơn anh ta, bởi thế sau khi bị sa thải anh ta được họ đón về nhà.Tại Palettin vào thời ấy, quản gia có thể cho người khác vay tài sản của chủ. Thường họ không có thù lao, nên khi lập hợp đồng thì hay ghi số lượng trội hơn số lượng cho vay, để lúc hoàn trả, họ giữ lại số dư làm của riêng. Trong dụ ngôn, người quản gia bất chính có thể đã tính toán lại để ông chủ thu đúng số tài sản của ông, và như vậy anh ta hy sinh số dư đáng lẽ thuộc về mình. Người chủ sẽ không bị thiệt hại mà các con nợ lại rất biết ơn anh ta. Chính vì đó mà "ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo" (Lc 16,8).
Từ cách xoay xở mau lẹ của tên quản gia trong một tình huống ngặt nghèo như thế, Chúa Giêsu rút ra bài học: "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cữu" (Lc 16, 9). Bạn bè đây là ai? Họ là ai mà lại có thể đón người ta vào nơi ở không phải tạm thời nhưng vĩnh cữu?
Muốn trả lời, cần liên kết dụ ngôn "người quản gia" với dụ ngôn "ông nhà giàu và anh Lazarô nghèo khó" (Lc 16). Ông nhà giàu sống ích kỷ trong sự giàu sang của mình, ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc cho anh Lazarô nằm chờ chết trước cửa nhà ông ta. Sau khi cả hai chết, ông phú hộ sa hoả ngục, còn anh Lazarô thì được vào thiên đàng. Trong cơn cực hình, ông ta kêu van tổ phụ Abraham can thiệp để Lazarô cứu giúp mình cách nào, nhưng Abraham trả lời rằng số phận hai người như thế là công bằng và dứt khoát rồi, không thể thay đổi được nữa.
Như thế, của cải thường chia cách con người với nhau, nó đã chia cách ông nhà giàu với anh Lazarô khi còn sống, thì khi họ chết rồi, dẫu muốn cũng không còn cách nào nối lại dây liên lạc nữa. Ông ta giàu có như thế mà không biết dùng của cải để làm cho Lazarô nên bạn hữu của mình, để anh đón ông vào nơi hạnh phúc vĩnh cữu.
Tên quản gia bất chính (nhưng khôn khéo) hơn ông ta ở chỗ đã biết dùng "tiền bạc gian dối mà mua lấy bạn bè", bảo đảm cho tương lai của mình. Phần rỗi đời đời lại không đáng cho ta bỏ công bỏ của ra mà chăm lo hơn bội phần sao? Muốn được cứu rỗi đời đời, hãy có nhiều bạn bè. Bạn bè đó chính là những người nghèo khó mà chúng ta biết phục vụ, biết chia sẽ của cải với họ.
Câu hỏi: "Làm thế nào cho của cải thành tên tôi tớ phục vụ ta?".
Tin Mừng hôm nay cho câu trả lời.
1. Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình
Chúng ta phải để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc đời mình chứ không phải là Tiền Của. Không được để cho của cải đời này trở thành như mục đích của cuộc đời. Nó là một ông chủ xấu, một ông chủ khắc nghiệt, một ông chủ giả dối. Nó làm hư hỏng gia đình, hư hỏng xã hội, hư hỏng con người khi nó được coi như thần tượng, như giá trị cao nhất phải đạt tới bằng mọi cách.
Là ông chủ xấu nhưng tiền của có thể là người đầy tớ tốt và cần thiết.
Chúa Giêsu không lên án tiền bạc. Người không khinh chê của cải đời này. Chính Người đã phải lao động vất vả để sinh sống và nuôi sống cha mẹ mình. Khi ra rao giảng công khai, Người đã phải sống nhờ vào lòng tốt của kẻ khác, của bạn bè. Tiền của cần cho cuộc sống. Nó cần cho ta làm điều thiện và cho xã hội xây dựng các công trình công ích như nhà thương, nhà trường, nhà tình thương, nhà nuôi người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, xây dựng đường sá, cầu cống, nhà máy điện, Nhà thờ, nhà giáo lý, nhà mục vụ... Chúng ta cần tới tiền bạc nhưng phải giữ sự thanh thoát đối với nó. Ta sẽ không để cho của cải chóng qua làm chủ ta nếu ta thường xuyên nghiền ngẫm lời cảnh cáo sau đây của Chúa Giêsu: "Được cả thế gian mà thiệt mất mạng sống mình thì nào có lợi chi!" (Mt 16, 26).
Tiền của đời này được giao cho ta quản lý, và ta sẽ phải phúc trình trước mặt Chúa về cách quản lý của mình. Không thể nói: của tôi, tôi muốn làm gì thì làm! Cách thức tốt nhất để quản lý tiền của mà không sợ làm trái ý Chúa, đó là dùng nó để phục vụ, nhất là phục vụ# người nghèo. Như thế là chuẩn bị cho mình một chỗ chắc chắn trong Nước Trời.
Người nghèo được Thiên Chúa ưu đãi. Họ là công dân ưu tuyển của Nước Trời. Ta phải làm cho họ trở nên bạn hữu của ta. Giám mục Bossuet nói: "Người giàu là người ngoại kiều đối với Nước Trời, chính người nghèo làm cho họ nhập tịch thành công dân của Nước Trời". Còn thánh Âu Tinh viết đại ý như sau: Bạn có của cải ư? Tốt lắm. Cha bạn để lại cho bạn một gia tài kếch xù ư? Điều đó là hợp pháp. Nhà bạn chất đầy hoa lợi do công lao khó nhọc bạn làm ra: Tôi chẳng có gì trách bạn cả. Nhưng xin đừng gọi những thứ đó là sự "giàu có". Gọi chúng như thế là đã bắt đầu yêu thích chúng rồi, và nếu bạn yêu thích chúng, bạn sẽ cùng bị tiêu diệt với chúng. Bạn nên tiêu dùng chúng đi thì hơn, bạn sẽ không bị chết mất; hãy chia sẽ đi, rồi bạn sẽ nên giàu có, hãy gieo rồi bạn sẽ được gặt. Vâng, những của cải kia chỉ là giả dối. Hễ sở hữu chúng là bạn sinh ra lo âu. Nếu là sự giàu có đích thực, ắt chúng phải mang lại cho bạn sự bình an mới phải. Chỉ một mình Thiên Chúa là sự giàu có đích thực của chúng ta! (x. Hai Ông Chủ, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).
2. Tin tưởng vào ơn Quan Phòng của Thiên Chúa
Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thụ tạo đã được khẳng định trong nhiều bản văn Thánh kinh. Chúa Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm nói về sự quan phòng. Chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống; Cuộc đời của mỗi người có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, điều đó ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc; hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Salomon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó". Tin cậy vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hưởng những quan tâm của Cha trên trời.
3. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Của cải vật chất là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi". Sống theo ưu tiên đó, chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh bằng cách thực thi thánh ý Thiên Chúa. "Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho", tức là những nhu cầu vật chất mà Chúa Giêsu đề cập đến như: thức ăn, áo mặc, đây là những nguyên do lo lắng của dân ngoại, nhưng không của con cái Thiên Chúa. Chúa Giêsu không hứa với "những người công chính" là Thiên Chúa sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày. (x. Thiên Chúa hay thần tài, Lm Nguyễn Hồng Giáo, Ofm).
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
29. Không thể thờ hai chủ
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nói về tiền bạc, bao giờ Thánh Kinh cũng nói nghiêm túc. Thánh Kinh nói về tiền bạc hầu như nói về sự sống và sự chết. Với tiền bạc, người ta có thể cứu sống mình nhưng cũng có thể làm cho mình hư mất. Tiền bạc có thể mở cửa thiên đàng cho ai đó nếu biết dùng nó như một phương tiện, nhưng cũng có thể đóng lại với người ấy nếu chạy theo tôn thờ nó.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Phải lựa chọn một trong hai. Không được bắt cá hai tay.
1. Luận về đồng tiền.
Đồng tiền là đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ thiêng liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá, kiếm càng nhiều càng tốt.
Đồng tiền là thứ không ở lâu bền với người ta, nay nằm trên tay người này, mai đã sang túi người khác. Người có thu nhập thấp, cảm nhận điều này rõ lắm: Tiền lĩnh về, chưa kịp nóng túi, đã rủ rê nhau sang túi mấy bà bán gạo, bán rau ngoài chợ gần hết! Đồng tiền cũng còn được gọi là đồng bạc, một phần vì thế chăng? Cái sự chuyền của đồng tiền nhiều khi cũng bay bướm nghệ thuật lắm. Xin nêu một ví dụ: Chiều 24-4-2009, phía đầu chiếc xe CSGT màu trắng, người đại úy dí ngón tay trỏ vào tập biên bản, người vi phạm hiểu ý, “nhằn” ngay trong túi ra một tờ polyme màu xanh. Người đại úy lật mấy trang biên bản lên, người vi phạm vội vã nhét tờ 100.000 đ vào đó. Bỗng, một cơn gió vô tình thốc tới làm mấy trang biên bản bay tốc lên, tờ 100.000đ bay vèo theo gió, chờn vờn đậu xuống vỉa hè cách đó một quãng. Người đại úy vội vã chạy theo, vội vã cúi xuống nhặt, rồi khoan thai đút vào túi… Tờ 100.000đ màu xanh giờ đã nằm yên trong túi quần “ông” đại uý (Bài CSGT “làm luật” ngay tại Hà Nội, báo Khoa học & Đời sống, thứ ba ngày 5-5-2009).
Vì cái sự chuyền tay nhau như thế, nên nó rất bẩn. Có lẽ trên đời này, đồng tiền là thứ bẩn thỉu nhất, bởi nó giây đủ các mùi vị, từ mùi thịt cá tanh tưởi, đến mùi hoa quả thum thủm do bị ế, bị ủng; từ mùi mồ hôi của chị bán bánh cuốn đến mùi dầu mỡ của ông lão sửa xe…
Nhưng vì nó là đồng chuyền, cho nên đồng tiền luôn luôn mang trong mình nó sự tổng hợp vĩ đại nhất của tất thảy các mùi vị, không thiếu một thứ gì… Chính vì đặc điểm này, mà mặc dù quý đồng tiền đến mấy, người ta cũng chỉ mân mê chứ rất ít khi thấy một ai đó đưa nó đặt lên mũi, lên môi để ngửi hay để hôn! Không ngửi, không hôn vì nó rất bẩn; nhưng bẩn đến mấy chúng ta vẫn luôn luôn trân trọng đồng tiền. Ví dụ: Khi bề dưới muốn biếu tặng ai tiền, người đó phải cho nó vào phong bì, đưa bằng hai tay (thậm chí còn phải cung kính dâng lên). Ngược lại, khi được bề trên ban tặng thì bề dưới phải đưa cả hai bàn tay ra đón nhận, đồng thời cất tiếng “xin cảm ơn” (thêm chữ “ạ” nữa thì càng tốt).
Đồng tiền bẩn, nên nó chứa rất nhiều vi trùng; chứa nhiều vi trùng nên nó cũng là nguồn lây đủ mọi thứ bệnh, có loại bệnh không thể nói nên lời…!
Tiền bẩn, muốn sạch thì rửa. Nhưng có thứ tiền không bẩn, thậm chí còn nguyên đai nguyên kiện, thơm phức mùi mực in, mà người ta vẫn đem đi… rửa. Sự rửa như thế không được khen mà lại gọi là một thứ… tệ, vâng tệ rửa tiền! Nhà nước Việt Nam gần đây mới thành lập Ban chỉ đạo phòng chống nạn này! Quốc tế người ta làm cái công việc chống này từ lâu lắm rồi. Chắc vì họ quản lý kém, thậm chí rất thiếu kinh nghiệm? Ngay đến bây giờ Việt Nam mới thành lập ban chỉ đạo chống chứ đã trực tiếp chống đâu? Nghĩa là vẫn trên tinh thần phòng là chính, chứ không phải chống là chính.
Đồng tiền cũng có sự khôn sự dại! Bà con ta vẫn thường nhắc nhau: “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” là gì? Tiền đi đâu mà được gọi là khôn vậy? Thời nào chứ thời buổi này, có lẽ ngay đến trẻ con nước mình cũng cảm nhận được điều đó. Bây giờ đi đâu, làm gì mà có sự đưa đường chỉ lối của đồng tiền (nhất là tiền ngoại), thì khó mấy cũng vượt qua, “kẻ thù nào đánh thắng”. Có tiền, mua gì cũng được. Thời nay người ta thường nói: “Cái gì không mua được bằng tiền, thì sẽ mua được bằng nhiều tiền hơn”. Cái vị thế của đồng tiền còn tạo thế lực cho người nắm giữ nó. Trong phạm vi hẹp là gia đình, ai có khả năng kiếm nhiều tiền, người đó là chủ; điều đó ai cũng thấy. Trong xã hội, thì dân gian có câu: “Vai mang túi bạc kè kè. Nói quấy nói quá, người nghe rầm rầm!”.
Sống đã vậy, chết thì sao? Có người nói, khi hai tay buông xuôi, đồng tiền chả có nghĩa gì nữa cả. Nói thế là xạo. Chết không kịp mang, nhưng chết rồi thì vẫn cần. Ngay lúc vừa ngậm hàm, người trong gia đình đã phải nghĩ ngay đến việc bỏ vào cái miệng vô hồn ấy một chút vẩy vàng. Rồi trên dọc đường tiễn đưa người quá cố, nhất là khi qua cầu, lại phải rải tiền xuống đường, xuống sông, cả tiền thật lẫn tiền âm phủ. Đó là tiền làm luật đối với bọn ma quỷ cản đường. “Trần sao âm vậy mà”! Ngoài ra, nhiều gia đình vào ngày giỗ, ngày Tết mua vàng mã đốt cúng cho người chết. Vậy người chết không cần tiền là cái gì?
Đồng tiền còn là vật có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!”. Có thể xuất phát vì ngày xưa tiền làm bằng kim loại mà nhận xét như thế? Bây giờ dùng tiền giấy là chính, người ta vẫn không thay đổi cách nghĩ và cách nói đó. Thực ra cái “lạnh” của đồng tiền còn mang một ý nghĩa khác, nghĩa bóng nhiều hơn là nghĩa đen, chỉ những khi ta thiếu nó quá, cần đến nó quá, mới thực sự cảm nhận được cái chất “lạnh” của nó, đồng tiền!
Tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng. Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”. Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.
Tiền bạc không cần con người nhưng ai cũng cần tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình. Có ai chê tiền đâu, từ người già cho tới trẻ em. Mà lạ lắm, những người lớn tuổi, dù có là mắt kém, thông manh lông quặm, tai điếc đặc ra, nhưng tiền vẫn không đếm lộn. Ai mượn bao nhiêu, thiếu nợ ngày nào, các cụ vẫn nhớ rõ ràng và nhớ chính xác. Chẳng trách chi, người ta cứ nói, “Đồng tiền nó liền khúc ruột”. Đụng tới khúc ruột, ai mà chẳng đau chẳng xót.
Vâng! Thế đó, đồng tiền là đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ thiêng liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá, kiếm càng nhiều càng tốt. Kiếm đến đâu, cất ngay vào ví, vào két hoặc gửi ra ngân hàng các nước trung lập. Nếu trót để bẩn quá, hoặc nghi… bẩn, phải rửa ngay. Rửa kín đáo, chớ để Ban phòng chống rửa tiền phát hiện! Còn khi chết? Yên tâm, đã có con cháu lo! Tuy nhiên cũng cần nhắc điều này: đồng tiền là rất bạc. Bạc tình, bạc cả nghĩa nữa. Không kín đáo, không có thế lực, dễ bị nó đưa tay vào còng có ngày! (Trần Huy Thuận).
Người ta thường nói rằng, tiền bạc có thể:
* mua được cao lương mỹ vị, nhưng không thể mua được sự ngon miệng.
* mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không thể mua được sức khỏe.
* mua được giường êm nệm ấm, nhưng không thể mua được giấc ngủ.
* mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không thể mua lấy mái ấm gia đình.
* mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an tâm hồn.
* mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh.
* mua được tôn giáo, nhưng không mua được ơn cứu độ.
* mua được Passe-port và Visa để đi khắp thế giới, nhưng không thể mua được hộ chiếu để vào Nước Trời.
2. Chúa Giêsu đối với tiền của.
Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán những người giàu trong việc sử dụng tiền của.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và danh phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31: dụ ngôn người giàu và Lazarô), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.
3. Ưu tiên tìm kiếm Nước Trời
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi".
Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
4. Kết luận:
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ... Giá trị của tiền của hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.
Nếu tiền của có thể là phương tiện mua tình bạn, để chia sẻ với tha nhân, thì nó cũng là một sức mạnh xấu, là cạm bẫy cần cảnh giác, như thư thánh Phaolô đã viết: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm6,17-18). Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
Nói về tiền bạc, bao giờ Thánh Kinh cũng nói nghiêm túc. Thánh Kinh nói về tiền bạc hầu như nói về sự sống và sự chết. Với tiền bạc, người ta có thể cứu sống mình nhưng cũng có thể làm cho mình hư mất. Tiền bạc có thể mở cửa thiên đàng cho ai đó nếu biết dùng nó như một phương tiện, nhưng cũng có thể đóng lại với người ấy nếu chạy theo tôn thờ nó.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Phải lựa chọn một trong hai. Không được bắt cá hai tay.
1. Luận về đồng tiền.
Đồng tiền là đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ thiêng liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá, kiếm càng nhiều càng tốt.
Đồng tiền là thứ không ở lâu bền với người ta, nay nằm trên tay người này, mai đã sang túi người khác. Người có thu nhập thấp, cảm nhận điều này rõ lắm: Tiền lĩnh về, chưa kịp nóng túi, đã rủ rê nhau sang túi mấy bà bán gạo, bán rau ngoài chợ gần hết! Đồng tiền cũng còn được gọi là đồng bạc, một phần vì thế chăng? Cái sự chuyền của đồng tiền nhiều khi cũng bay bướm nghệ thuật lắm. Xin nêu một ví dụ: Chiều 24-4-2009, phía đầu chiếc xe CSGT màu trắng, người đại úy dí ngón tay trỏ vào tập biên bản, người vi phạm hiểu ý, “nhằn” ngay trong túi ra một tờ polyme màu xanh. Người đại úy lật mấy trang biên bản lên, người vi phạm vội vã nhét tờ 100.000 đ vào đó. Bỗng, một cơn gió vô tình thốc tới làm mấy trang biên bản bay tốc lên, tờ 100.000đ bay vèo theo gió, chờn vờn đậu xuống vỉa hè cách đó một quãng. Người đại úy vội vã chạy theo, vội vã cúi xuống nhặt, rồi khoan thai đút vào túi… Tờ 100.000đ màu xanh giờ đã nằm yên trong túi quần “ông” đại uý (Bài CSGT “làm luật” ngay tại Hà Nội, báo Khoa học & Đời sống, thứ ba ngày 5-5-2009).
Vì cái sự chuyền tay nhau như thế, nên nó rất bẩn. Có lẽ trên đời này, đồng tiền là thứ bẩn thỉu nhất, bởi nó giây đủ các mùi vị, từ mùi thịt cá tanh tưởi, đến mùi hoa quả thum thủm do bị ế, bị ủng; từ mùi mồ hôi của chị bán bánh cuốn đến mùi dầu mỡ của ông lão sửa xe…
Nhưng vì nó là đồng chuyền, cho nên đồng tiền luôn luôn mang trong mình nó sự tổng hợp vĩ đại nhất của tất thảy các mùi vị, không thiếu một thứ gì… Chính vì đặc điểm này, mà mặc dù quý đồng tiền đến mấy, người ta cũng chỉ mân mê chứ rất ít khi thấy một ai đó đưa nó đặt lên mũi, lên môi để ngửi hay để hôn! Không ngửi, không hôn vì nó rất bẩn; nhưng bẩn đến mấy chúng ta vẫn luôn luôn trân trọng đồng tiền. Ví dụ: Khi bề dưới muốn biếu tặng ai tiền, người đó phải cho nó vào phong bì, đưa bằng hai tay (thậm chí còn phải cung kính dâng lên). Ngược lại, khi được bề trên ban tặng thì bề dưới phải đưa cả hai bàn tay ra đón nhận, đồng thời cất tiếng “xin cảm ơn” (thêm chữ “ạ” nữa thì càng tốt).
Đồng tiền bẩn, nên nó chứa rất nhiều vi trùng; chứa nhiều vi trùng nên nó cũng là nguồn lây đủ mọi thứ bệnh, có loại bệnh không thể nói nên lời…!
Tiền bẩn, muốn sạch thì rửa. Nhưng có thứ tiền không bẩn, thậm chí còn nguyên đai nguyên kiện, thơm phức mùi mực in, mà người ta vẫn đem đi… rửa. Sự rửa như thế không được khen mà lại gọi là một thứ… tệ, vâng tệ rửa tiền! Nhà nước Việt Nam gần đây mới thành lập Ban chỉ đạo phòng chống nạn này! Quốc tế người ta làm cái công việc chống này từ lâu lắm rồi. Chắc vì họ quản lý kém, thậm chí rất thiếu kinh nghiệm? Ngay đến bây giờ Việt Nam mới thành lập ban chỉ đạo chống chứ đã trực tiếp chống đâu? Nghĩa là vẫn trên tinh thần phòng là chính, chứ không phải chống là chính.
Đồng tiền cũng có sự khôn sự dại! Bà con ta vẫn thường nhắc nhau: “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” là gì? Tiền đi đâu mà được gọi là khôn vậy? Thời nào chứ thời buổi này, có lẽ ngay đến trẻ con nước mình cũng cảm nhận được điều đó. Bây giờ đi đâu, làm gì mà có sự đưa đường chỉ lối của đồng tiền (nhất là tiền ngoại), thì khó mấy cũng vượt qua, “kẻ thù nào đánh thắng”. Có tiền, mua gì cũng được. Thời nay người ta thường nói: “Cái gì không mua được bằng tiền, thì sẽ mua được bằng nhiều tiền hơn”. Cái vị thế của đồng tiền còn tạo thế lực cho người nắm giữ nó. Trong phạm vi hẹp là gia đình, ai có khả năng kiếm nhiều tiền, người đó là chủ; điều đó ai cũng thấy. Trong xã hội, thì dân gian có câu: “Vai mang túi bạc kè kè. Nói quấy nói quá, người nghe rầm rầm!”.
Sống đã vậy, chết thì sao? Có người nói, khi hai tay buông xuôi, đồng tiền chả có nghĩa gì nữa cả. Nói thế là xạo. Chết không kịp mang, nhưng chết rồi thì vẫn cần. Ngay lúc vừa ngậm hàm, người trong gia đình đã phải nghĩ ngay đến việc bỏ vào cái miệng vô hồn ấy một chút vẩy vàng. Rồi trên dọc đường tiễn đưa người quá cố, nhất là khi qua cầu, lại phải rải tiền xuống đường, xuống sông, cả tiền thật lẫn tiền âm phủ. Đó là tiền làm luật đối với bọn ma quỷ cản đường. “Trần sao âm vậy mà”! Ngoài ra, nhiều gia đình vào ngày giỗ, ngày Tết mua vàng mã đốt cúng cho người chết. Vậy người chết không cần tiền là cái gì?
Đồng tiền còn là vật có máu “lạnh”. Từ xa xưa ông cha ta đã nói: “Lạnh như tiền!”. Có thể xuất phát vì ngày xưa tiền làm bằng kim loại mà nhận xét như thế? Bây giờ dùng tiền giấy là chính, người ta vẫn không thay đổi cách nghĩ và cách nói đó. Thực ra cái “lạnh” của đồng tiền còn mang một ý nghĩa khác, nghĩa bóng nhiều hơn là nghĩa đen, chỉ những khi ta thiếu nó quá, cần đến nó quá, mới thực sự cảm nhận được cái chất “lạnh” của nó, đồng tiền!
Tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng. Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”. Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.
Tiền bạc không cần con người nhưng ai cũng cần tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ… người ta vẫn dành cho nó một cảm tình. Có ai chê tiền đâu, từ người già cho tới trẻ em. Mà lạ lắm, những người lớn tuổi, dù có là mắt kém, thông manh lông quặm, tai điếc đặc ra, nhưng tiền vẫn không đếm lộn. Ai mượn bao nhiêu, thiếu nợ ngày nào, các cụ vẫn nhớ rõ ràng và nhớ chính xác. Chẳng trách chi, người ta cứ nói, “Đồng tiền nó liền khúc ruột”. Đụng tới khúc ruột, ai mà chẳng đau chẳng xót.
Vâng! Thế đó, đồng tiền là đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ thiêng liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá, kiếm càng nhiều càng tốt. Kiếm đến đâu, cất ngay vào ví, vào két hoặc gửi ra ngân hàng các nước trung lập. Nếu trót để bẩn quá, hoặc nghi… bẩn, phải rửa ngay. Rửa kín đáo, chớ để Ban phòng chống rửa tiền phát hiện! Còn khi chết? Yên tâm, đã có con cháu lo! Tuy nhiên cũng cần nhắc điều này: đồng tiền là rất bạc. Bạc tình, bạc cả nghĩa nữa. Không kín đáo, không có thế lực, dễ bị nó đưa tay vào còng có ngày! (Trần Huy Thuận).
Người ta thường nói rằng, tiền bạc có thể:
* mua được cao lương mỹ vị, nhưng không thể mua được sự ngon miệng.
* mua được thuốc thang đắt giá, nhưng không thể mua được sức khỏe.
* mua được giường êm nệm ấm, nhưng không thể mua được giấc ngủ.
* mua được nhà cao cửa rộng, nhưng không thể mua lấy mái ấm gia đình.
* mua được trò chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an tâm hồn.
* mua được sách vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh.
* mua được tôn giáo, nhưng không mua được ơn cứu độ.
* mua được Passe-port và Visa để đi khắp thế giới, nhưng không thể mua được hộ chiếu để vào Nước Trời.
2. Chúa Giêsu đối với tiền của.
Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán những người giàu trong việc sử dụng tiền của.
Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và danh phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31: dụ ngôn người giàu và Lazarô), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.
3. Ưu tiên tìm kiếm Nước Trời
"Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi".
Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
4. Kết luận:
Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ... Giá trị của tiền của hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.
Nếu tiền của có thể là phương tiện mua tình bạn, để chia sẻ với tha nhân, thì nó cũng là một sức mạnh xấu, là cạm bẫy cần cảnh giác, như thư thánh Phaolô đã viết: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm6,17-18). Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
30. Tin Chúa quan phòng.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)
Quan phòng là hành động của Chúa hướng dẫn con người và thế giới cách nào đó mà ta không ngờ. Nó không phải là định mệnh, hay số mệnh như quan niệm bình dân. Bình dân hiểu: Số mệnh, định mệnh là sự ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành hay bại giống như rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Quan phòng là việc của Người Cha khôn ngoan sáng suốt, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con, nhưng cũng rất tôn trọng tự do sáng kiến của con, khi con hết lòng yêu mến, kính phục Cha, nó sẽ hết lòng vâng theo lời hay lẽ phải của Cha.
Cũng vậy, khi ai hết lòng thảo kính, vâng theo ý Cha trên trời như Abraham, Giuse tổ phụ, đặc biệt như Đức Giêsu, thì luôn luôn phó thác trong tay Chúa quan phòng hướng dẫn, vì thấy rằng chim trời, chồn đất còn được Cha trên trời nuôi dưỡng, cỏ hoa ngoài đồng sớm nở tối tàn còn được Cha trên trời trang điểm xinh đẹp hơn cả cẩm bào Salômon, huống chi con người trọng hơn muôn phần.
Vì tin vào Chúa quan phòng ban cho mọi sự tốt lành, Abraham đã vâng lời Chúa đem con lên núi giết đi tế lễ Chúa.
Vì tin vào Chúa quan phòng, tổ phụ Giuse đã không kết án anh em trói mình bán làm nô lệ, ông tin việc đó do Chúa quan phòng định liệu trước, để cứu sống ông và dân tộc mình. Ông nói: “Không phải các anh, nhưng chính Thiên Chúa đã lo cho tôi đến đây. Sự dữ các anh đã làm cho tôi đã biến thành điều lành... để cứu sống một dân tộc đông đúc (Is. 49, 14-15; 1Cr. 4, 1-5; Mt. 6, 24-34; Stk. 45,8 - 50,20).
Vì hoàn toàn tin vào chương trình cứu độ của Chúa Cha vô cùng khoan dung, Đức Giêsu đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”, dù đó là chén đắng thập giá khủng khiếp!
Với đức tin mãnh liệt như thế, đâu còn lo âu, áy náy phải ăn gì, mặc gì, sống chết ra sao, vì “Cha các con trên trời biết tất cả những gì các con cần và những gì xẩy ra cho các con” cho nên “chỉ một điều cần thiết là các con hãy tìm nước Trời và sự công chính của Người, và mọi điều khác sẽ ban thêm cho các con” (Mt. 6, 2-33)
Chính vì thế, để củng cố đức tin của giáo đoàn Rôma đang chao đảo vì bắt bớ, khủng bố, thánh Phaolô đã nói với họ rằng: “Thiên Chúa đã an bài mọi sự để làm ích cho anh chị em” không có gì phải sợ “dù gian khổ, dù đói khát, dù nguy hiểm, dù bắt bớ cực hình” (Rm. 8, 28. 35).
Sự tin tưởng vào Chúa Quan Phòng, không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. “Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa; biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp; biết xây dựng nước Trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi người.
“Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”. Trời hành động kiên cường thế nào thì quân tử cũng phải tự cường, hết sức làm như thế, không ngừng nghỉ. Quân tử là con vua, con Trời, là hiền nhân, minh triết, phải biết tri thiên mệnh: Biết ý Trời, biết mệnh lệnh của Trời để làm theo. Bởi vì: Trời có đạo sáng tỏ, muôn loài đều thấy rõ: “Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” (Kinh Thư Thái Hệ Hạ 2). Ai làm theo đạo Trời mới được Trời phù giúp, chứ Trời không có vị nể ai: “Hoàng Thiên vô thân, duy đức thị phù” (Kinh Thư, Thái trọng chi mệnh, 4)
Tin có thiên mệnh, tin có đạo Trời, chính là tin Thiên Chúa Quan Phòng sắp xếp mọi trật tự cho muôn loài trong trời đất, và tuân theo Minh Đạo là thực hiện Đạo có nguồn gốc xuất phát từ trời: “Thủ Minh Đạo chi bản nguyên xuất ư Thiên” (Trung Dung, Chương II, 1). Nhờ hết tâm linh hành Đạo Trời, các bậc Thánh hiền đã chuyển hóa cả thiên hạ: “Chung ngôn Thánh Thần công hóa chi cực “.
Nhà nho chân chính Nguyễn Công Trứ luôn luôn kiên cường hành đạo không mỏi mệt, không vụ danh lợi, dù làm tướng, làm quan hay làm lính “vẫn ra tay buồm lái với cuồng phong”. Nhờ thế, ông đã biến biển cả thành nương dâu, đồng ruộng Kim Sơn, Tiền Hải cho muôn dân được ấm no. Nhất là ông đã biến những con người yếm thế thành những nam nhi anh hùng: “Chí những toan sẻ núi lấp sông”, biến những tâm hồn tham danh lợi thành trong sáng thanh tao: “Chẳng lợi danh gì lại hóa hay”.
Một con người đầy chí khí không cầu thành công danh lợi, chỉ cầu thành nhân mưu ích cho đời: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Đức Giêsu đâu có thành công lúc sinh thời, nhưng đã thành Đấng Cứu Độ của muôn dân.
“Lậy Chúa con,.. Chúa tốt lành biết bao! Tình yêu Chúa đã giữ gìn con tránh khỏi bao nhiêu tai nạn” té ngựa, những cuộc đấu kiếm rùng rợn, những cuộc mạo hiểm ghê sợ, những cuộc hành trình sống sót... Chúa đã cứu con... giữ gìn con nhiều quá, ấp ủ con dưới đôi cánh dịu hiền vô hạn... Ôi lậy Chúa, Đấng chăn chiên nhân lành của con. Xin cảm tạ ơn Người, Amen. (Charles Foucauld).
Quan phòng là hành động của Chúa hướng dẫn con người và thế giới cách nào đó mà ta không ngờ. Nó không phải là định mệnh, hay số mệnh như quan niệm bình dân. Bình dân hiểu: Số mệnh, định mệnh là sự ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành hay bại giống như rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Quan phòng là việc của Người Cha khôn ngoan sáng suốt, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con, nhưng cũng rất tôn trọng tự do sáng kiến của con, khi con hết lòng yêu mến, kính phục Cha, nó sẽ hết lòng vâng theo lời hay lẽ phải của Cha.
Cũng vậy, khi ai hết lòng thảo kính, vâng theo ý Cha trên trời như Abraham, Giuse tổ phụ, đặc biệt như Đức Giêsu, thì luôn luôn phó thác trong tay Chúa quan phòng hướng dẫn, vì thấy rằng chim trời, chồn đất còn được Cha trên trời nuôi dưỡng, cỏ hoa ngoài đồng sớm nở tối tàn còn được Cha trên trời trang điểm xinh đẹp hơn cả cẩm bào Salômon, huống chi con người trọng hơn muôn phần.
Vì tin vào Chúa quan phòng ban cho mọi sự tốt lành, Abraham đã vâng lời Chúa đem con lên núi giết đi tế lễ Chúa.
Vì tin vào Chúa quan phòng, tổ phụ Giuse đã không kết án anh em trói mình bán làm nô lệ, ông tin việc đó do Chúa quan phòng định liệu trước, để cứu sống ông và dân tộc mình. Ông nói: “Không phải các anh, nhưng chính Thiên Chúa đã lo cho tôi đến đây. Sự dữ các anh đã làm cho tôi đã biến thành điều lành... để cứu sống một dân tộc đông đúc (Is. 49, 14-15; 1Cr. 4, 1-5; Mt. 6, 24-34; Stk. 45,8 - 50,20).
Vì hoàn toàn tin vào chương trình cứu độ của Chúa Cha vô cùng khoan dung, Đức Giêsu đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”, dù đó là chén đắng thập giá khủng khiếp!
Với đức tin mãnh liệt như thế, đâu còn lo âu, áy náy phải ăn gì, mặc gì, sống chết ra sao, vì “Cha các con trên trời biết tất cả những gì các con cần và những gì xẩy ra cho các con” cho nên “chỉ một điều cần thiết là các con hãy tìm nước Trời và sự công chính của Người, và mọi điều khác sẽ ban thêm cho các con” (Mt. 6, 2-33)
Chính vì thế, để củng cố đức tin của giáo đoàn Rôma đang chao đảo vì bắt bớ, khủng bố, thánh Phaolô đã nói với họ rằng: “Thiên Chúa đã an bài mọi sự để làm ích cho anh chị em” không có gì phải sợ “dù gian khổ, dù đói khát, dù nguy hiểm, dù bắt bớ cực hình” (Rm. 8, 28. 35).
Sự tin tưởng vào Chúa Quan Phòng, không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. “Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa; biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp; biết xây dựng nước Trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi người.
“Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”. Trời hành động kiên cường thế nào thì quân tử cũng phải tự cường, hết sức làm như thế, không ngừng nghỉ. Quân tử là con vua, con Trời, là hiền nhân, minh triết, phải biết tri thiên mệnh: Biết ý Trời, biết mệnh lệnh của Trời để làm theo. Bởi vì: Trời có đạo sáng tỏ, muôn loài đều thấy rõ: “Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” (Kinh Thư Thái Hệ Hạ 2). Ai làm theo đạo Trời mới được Trời phù giúp, chứ Trời không có vị nể ai: “Hoàng Thiên vô thân, duy đức thị phù” (Kinh Thư, Thái trọng chi mệnh, 4)
Tin có thiên mệnh, tin có đạo Trời, chính là tin Thiên Chúa Quan Phòng sắp xếp mọi trật tự cho muôn loài trong trời đất, và tuân theo Minh Đạo là thực hiện Đạo có nguồn gốc xuất phát từ trời: “Thủ Minh Đạo chi bản nguyên xuất ư Thiên” (Trung Dung, Chương II, 1). Nhờ hết tâm linh hành Đạo Trời, các bậc Thánh hiền đã chuyển hóa cả thiên hạ: “Chung ngôn Thánh Thần công hóa chi cực “.
Nhà nho chân chính Nguyễn Công Trứ luôn luôn kiên cường hành đạo không mỏi mệt, không vụ danh lợi, dù làm tướng, làm quan hay làm lính “vẫn ra tay buồm lái với cuồng phong”. Nhờ thế, ông đã biến biển cả thành nương dâu, đồng ruộng Kim Sơn, Tiền Hải cho muôn dân được ấm no. Nhất là ông đã biến những con người yếm thế thành những nam nhi anh hùng: “Chí những toan sẻ núi lấp sông”, biến những tâm hồn tham danh lợi thành trong sáng thanh tao: “Chẳng lợi danh gì lại hóa hay”.
Một con người đầy chí khí không cầu thành công danh lợi, chỉ cầu thành nhân mưu ích cho đời: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Đức Giêsu đâu có thành công lúc sinh thời, nhưng đã thành Đấng Cứu Độ của muôn dân.
“Lậy Chúa con,.. Chúa tốt lành biết bao! Tình yêu Chúa đã giữ gìn con tránh khỏi bao nhiêu tai nạn” té ngựa, những cuộc đấu kiếm rùng rợn, những cuộc mạo hiểm ghê sợ, những cuộc hành trình sống sót... Chúa đã cứu con... giữ gìn con nhiều quá, ấp ủ con dưới đôi cánh dịu hiền vô hạn... Ôi lậy Chúa, Đấng chăn chiên nhân lành của con. Xin cảm tạ ơn Người, Amen. (Charles Foucauld).
31. Gợi ý giảng của Lm Carôlô.
SỐNG TRONG SỰ CHĂM SÓC CỦA CHÚA
1. “Có người mẹ nào quên con mình được không?”
Tại Dublin có một người mẹ hết sức đau khổ vì bà có một đứa con trai hư đốn. Nó không chịu học hành mà cũng chẳng chịu làm ăn. Suốt ngày chỉ biết ăn uống nhậu nhẹt và kết bạn với những tên lưu manh. Tiền bạc và đồ đạc gì có giá trị của bà hể hở ra thì bị nó ăn cắp. Nhiều lần Bà hết khuyên dạy đến năn nỉ nó sửa mình, nhưng chẳng bao giờ nó nghe theo. Cuối cùng nó bị bắt giam trong tù. Nhiều người nghĩ rằng bây giờ bà có thể nhẹ gánh khỏi phải lo cho nó nữa. Nhưng không, tuần nào bà cũng đều đặn vào tù thăm nó với một túi xách đầy những thứ nó cần.
Một hôm khi Bà đang trên đường vào tù thăm con thì gặp Cha Xứ. Cha nói:
- Thằng con của Bà đã phá hỏng tất cả hạnh phúc của đời Bà. Thôi từ này về sau đừng thèm nghĩ tới nó nữa.
Nhưng Cha rất đỗi ngạc nhiên khi Bà đáp lại:
- Dù nó đã gây biết bao tội lỗi và dù con không hề thích những tội lỗi của nó, nhưng dù sao nó vẫn luôn là con của con, con không thể bỏ nó được.
Lời bà mẹ này nói cũng chính là lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Isaia trong bài đọc I hôm nay: “Có người mẹ nào quên con mình được chăng? Và cho dù có người mẹ nào như thế, thì Ta, Ta sẽ chẳng bao giờ quên ngươi đâu”.
Quả thật không có tình yêu nào bao la và bền vững như tình mẹ, tình cha, và trên cả tình mẹ cha là tình yêu Thiên Chúa.
Chính vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta với một tình yêu bao là bền vững như thế cho nên trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mới khuyên chúng ta hãy phó thác tất cả nơi tình yêu của Ngài: Đừng lo chi đến cái ăn, cái mặc, cũng đừng lo đến mạng sống và tuổi thọ. Hãy chỉ lo một điều duy nhất mà thôi là lo tím kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
2. Hãy xem chim trời và cỏ hoa đồng nội
Những người lớn quá bận rộn nên không còn thời giờ làm một việc mà hồi nhỏ rất thường làm, đó là ngắm nhìn thiên nhiên. Hôm nay, chúng ta hãy tạm gác qua một bên mọi bận rộn của người lớn để tìm lại thú vui thời con nít.
Hãy ngắm chim trời: mặt trời mọc lên, chim thức giấc với những tiếng hót líu lo, bắt đầu một ngày cách rất lạc quan. Rồi chim mẹ đi kiếm ăn. Xem ra ngay cả việc kiếm ăn này dù cực khổ nhưng cũng rất lạc quan: chim bay đi bay lại trong bầu trời cao rộng, lượn lờ trên những khóm cây, vừa bay lượn vừa tíu tít ca hót. Tìm được một chút thức ăn, chim vui mừng mang về tổ cho con, chim còn vui mừng hơn nữa khi thấy đám con vui sướng với những miếng mồi nhỏ xíu mình mang về… Cứ thế cho đến khi mặt trời sắp gác bóng, chim tìm về tổ ấm, cả gia đình chim cùng nhau đi vào giấc ngủ thảnh thơi, không cần lo lắng gì cho ngày mai…
Hãy ngắm hoa cỏ ngoài đồng: chúng đẹp rực rỡ, “ngay cả Salomon trong tất cả vinh hoa của ông cũng không trang phục được bằng một trong những đóa hoa đó”. Có đóa màu vàng tươi sáng, có đóa màu hồng êm dịu, có đóa màu trắng khiết trinh, rồi màu tím, màu đỏ, màu xanh… Thật là muôn màu muôn sắc. Nhưng thử hỏi hoa làm gì để có những màu sắc tuyệt vời ấy? Ta có hỏi hoa thì hoa cũng chẳng biết trả lời. Hoa chỉ nói: “Em chỉ biết sống trong thiên nhiên thôi, em hứng lấy sương trời, em tiếp nhận nhựa sống từ thân cây, em vui đùa trong ánh nắng. Em không biết tại sao từ một chiếc búp rồi tới ngày em hé nhụy, cánh em nở ra, sắc màu em tươi thắm”. Nếu hoa biết suy nghĩ thì hoa sẽ nói thêm: “Chúa làm đó!”
Chim và hoa chỉ biết làm theo những gì mà thiên nhiên hướng dẫn chúng làm. Ngoài ra, chúng chẳng lo lắng gì cả. Mọi kết quả tốt đẹp rực rỡ đều là thiên nhiên làm cho chúng. Mà “thiên nhiên” là gì? Thưa là Tạo Hoá, là Thiên Chúa. “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn tất cả những điều khác Người sẽ ban thêm cho các con”.
3. Suy nghĩ về sự lo lắng
Theo kết quả thống kê, người Mỹ thường lo lắng về những điều sau đây:
- Lo về tiền bạc: 45 %
- Lo về người khác: 39 %
- Lo về sức khoẻ bản thân: 32 %
- Lo về học hành thi cử: 20 %
- Lo mất công ăn việc làm: 15 %
Thực ra biết lo không phải là vô ích, vì nhờ biết lo xa nên người ta mới thoát khỏi những tình trạng bối rối (như chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến của Lafontaine). Nhưng sự lo lắng thái quá rất có hại.
Chính vì thế, Đức Giêsu không bảo ta đừng lo gì hết. Ngài dạy chúng ta cách giảm bớt sự lo lắng: một mặt là tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha, mặt khác là hãy tập trung lo điều chủ yếu quan trọng nhất mà thôi, tức là lo làm theo ý Chúa (ý nghĩa của kiểu nói “Tìm Nước Thiên Chúa và Sự công chính của Ngài”).
Thánh Augustinô chia xẻ cho chúng ta một cách sống hồn nhiên và vô tư như sau: “Phó thác quá khứ cho lòng Thương xót của Chúa, hiện tại cho Tình yêu của Ngài, và tương lai cho sự Quan phòng của Ngài”.
4. Làm tôi tiền của
“Làm tôi tiền của”, một câu nói quá nặng! Chắc không ai chịu nhận rằng mình đang làm tôi mọi cho tiền của. Tuy nhiên, ta hãy bình tĩnh để làm hai bảng trắc nghiệm.
A/ Bảng trắc nghiệm thứ nhất:
- Tôi vừa khai trương quán ăn. Mấy bữa trước khách đến lưa thưa. Hôm nay Chúa nhựt chắc chắn sẽ đông từ sáng tới chiều. Tiếc quá, tôi phải đến nhà thờ dự lễ. Không có tôi thì ai đón khách? ai coi chừng tủ tiền? rủi có chuyện gì xảy đến thì ai có thể xử lý? Tôi nên bỏ lễ không?
- Con của thằng em tôi bệnh nặng phải đưa vào bệnh viện. Nó túng quá đến mượn tiền tôi. Mà tôi thì đang để dành tiền để sắm một chiếc Wave. Tôi sẽ từ chối nó?
- Khi trả tiền mua một món hàng, cô bán hàng thối lại cho tôi dư một số. Tôi biết cô này thường bán mắc lắm, tôi nghĩ bấy lâu này cô đã lời của tôi hơn số tiền này nhiều. Vậy tôi sẽ làm như không biết gì cả, coi như hôm nay mình hên vậy chăng?
Đặt mình vào 3 tình huống trên, nếu bạn đều trả lời “Phải” hay “Có” thì bạn đã làm tôi cho tiền của rồi, vì rõ ràng bạn đã coi tiền của trọng hơn Chúa, trọng hơn anh em ruột của mình, thậm chí còn trọng hơn danh dự và lương tâm của mình nữa.
B/ Bảng trắc nghiệm thứ hai:
- Nhà tôi bị trộm, vợ tôi tiếc nên cứ than vắn thở dài mãi. Phần tôi thì nghĩ “Có tiếc thì cũng mất rồi. Thôi từ từ sẽ làm lại”.
- Đồng bào nhiều nơi đang bị lũ lụt. Nhiều tổ chức từ thiện đi quyên góp. Gia đình tôi thì không dư dả gì, nhưng cũng hy sinh góp một ít tiền, vì tôi nghĩ “Mình nhịn ăn nhịn xài một chút, để giúp cho những người đang thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống”.
- Tôi đang thất nghiệp. Có người bạn chỉ tôi đi buôn lậu, vốn rất ít mà lời rất nhiều. Tôi thà nghèo chứ không thèm đến những đồng tiền bất chính.
Nếu tôi đồng ý với cách những giải quyết trên thì chứng tỏ tôi quả thực không bị nô lệ cho đồng tiền.
5. Đừng xét đoán
Một thực tế rất rõ ràng là người ta hay xét đoán nhau, chính chúng ta cũng hay xét đoán người khác: Anh đó sai, Cô đó làm vậy là xấu, mấy người ấy thật đáng trách… Thử nhớ lại những cuộc trò chuyện của chúng ta. Có bao nhiêu cuộc trò chuyện mà trong đó không có những lời xét đoán người khác?
Giả như ai đó vì tín nhiệm chúng ta nên đem một vụ việc đến nhờ chúng ta xét đoán. Muốn xét đoán cho nghiêm túc, chúng ta phải làm gì? Trước tiên là tìm hiểu vụ việc, không chỉ tìm hiểu một phía mà cả hai, có khi nhiều phía. Rồi tìm bằng chứng hay lý chứng. Rồi suy nghĩ thật kỹ. Sau cùng mới đưa ra kết luận.
Có khi nào chúng ta làm đúng và đủ những việc cần thiết đó không? Ngay cả các quan tòa làm việc rất nghiêm túc mà cũng có khi đưa ra những xét đoán sai lầm.
Bởi vậy, Thánh Giacôbê hỏi: “Bạn là ai mà dám xét đoán người khác?”
Còn thánh Phaolô trong bài Thánh thư hôm nay nhắc: “Anh em đừng đoán xét; Đấng đoán xét chính là Thiên Chúa”.
6. Chuyện minh họa
Dân chúng ở một thành phố nọ có quá nhiều điều phải lo lắng. Vì thế họ họp nhau bàn cách giải quyết vấn đề này.
Một người đề nghị phải lập một công viên để người ta đến đó giải khuây. Người thứ hai đề nghị làm một sân chơi golf. Người thứ ba đề nghị xây một rạp xinê. Người thứ tư có một đề nghị độc đáo:
- Chúng ta hãy hùn tiền mướn một người gánh hết mọi nỗi lo của chúng ta.
- Nhưng người đó là ai?
- Là anh thợ vá giày David đó.
- Mướn bao nhiêu?
- Mỗi tuần 1000 bảng anh.
Tất cả mọi người đồng ý. Họ hỏi David người thợ vá giày:
- Anh có đồng ý với việc làm mới này không?
David cười rạng rỡ:
- Tại sao không!
Tưởng là mọi việc đã thu xếp ổn thỏa. Nhưng bỗng một người đặt vấn đề:
- Chúng ta mướn David gánh hết mọi nỗi lo. Nhưng mỗi tuần hắn có 1000 bảng anh thì hắn còn gì phải lo nữa? (Flor McCarthy)
1. “Có người mẹ nào quên con mình được không?”
Tại Dublin có một người mẹ hết sức đau khổ vì bà có một đứa con trai hư đốn. Nó không chịu học hành mà cũng chẳng chịu làm ăn. Suốt ngày chỉ biết ăn uống nhậu nhẹt và kết bạn với những tên lưu manh. Tiền bạc và đồ đạc gì có giá trị của bà hể hở ra thì bị nó ăn cắp. Nhiều lần Bà hết khuyên dạy đến năn nỉ nó sửa mình, nhưng chẳng bao giờ nó nghe theo. Cuối cùng nó bị bắt giam trong tù. Nhiều người nghĩ rằng bây giờ bà có thể nhẹ gánh khỏi phải lo cho nó nữa. Nhưng không, tuần nào bà cũng đều đặn vào tù thăm nó với một túi xách đầy những thứ nó cần.
Một hôm khi Bà đang trên đường vào tù thăm con thì gặp Cha Xứ. Cha nói:
- Thằng con của Bà đã phá hỏng tất cả hạnh phúc của đời Bà. Thôi từ này về sau đừng thèm nghĩ tới nó nữa.
Nhưng Cha rất đỗi ngạc nhiên khi Bà đáp lại:
- Dù nó đã gây biết bao tội lỗi và dù con không hề thích những tội lỗi của nó, nhưng dù sao nó vẫn luôn là con của con, con không thể bỏ nó được.
Lời bà mẹ này nói cũng chính là lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Isaia trong bài đọc I hôm nay: “Có người mẹ nào quên con mình được chăng? Và cho dù có người mẹ nào như thế, thì Ta, Ta sẽ chẳng bao giờ quên ngươi đâu”.
Quả thật không có tình yêu nào bao la và bền vững như tình mẹ, tình cha, và trên cả tình mẹ cha là tình yêu Thiên Chúa.
Chính vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta với một tình yêu bao là bền vững như thế cho nên trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mới khuyên chúng ta hãy phó thác tất cả nơi tình yêu của Ngài: Đừng lo chi đến cái ăn, cái mặc, cũng đừng lo đến mạng sống và tuổi thọ. Hãy chỉ lo một điều duy nhất mà thôi là lo tím kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
2. Hãy xem chim trời và cỏ hoa đồng nội
Những người lớn quá bận rộn nên không còn thời giờ làm một việc mà hồi nhỏ rất thường làm, đó là ngắm nhìn thiên nhiên. Hôm nay, chúng ta hãy tạm gác qua một bên mọi bận rộn của người lớn để tìm lại thú vui thời con nít.
Hãy ngắm chim trời: mặt trời mọc lên, chim thức giấc với những tiếng hót líu lo, bắt đầu một ngày cách rất lạc quan. Rồi chim mẹ đi kiếm ăn. Xem ra ngay cả việc kiếm ăn này dù cực khổ nhưng cũng rất lạc quan: chim bay đi bay lại trong bầu trời cao rộng, lượn lờ trên những khóm cây, vừa bay lượn vừa tíu tít ca hót. Tìm được một chút thức ăn, chim vui mừng mang về tổ cho con, chim còn vui mừng hơn nữa khi thấy đám con vui sướng với những miếng mồi nhỏ xíu mình mang về… Cứ thế cho đến khi mặt trời sắp gác bóng, chim tìm về tổ ấm, cả gia đình chim cùng nhau đi vào giấc ngủ thảnh thơi, không cần lo lắng gì cho ngày mai…
Hãy ngắm hoa cỏ ngoài đồng: chúng đẹp rực rỡ, “ngay cả Salomon trong tất cả vinh hoa của ông cũng không trang phục được bằng một trong những đóa hoa đó”. Có đóa màu vàng tươi sáng, có đóa màu hồng êm dịu, có đóa màu trắng khiết trinh, rồi màu tím, màu đỏ, màu xanh… Thật là muôn màu muôn sắc. Nhưng thử hỏi hoa làm gì để có những màu sắc tuyệt vời ấy? Ta có hỏi hoa thì hoa cũng chẳng biết trả lời. Hoa chỉ nói: “Em chỉ biết sống trong thiên nhiên thôi, em hứng lấy sương trời, em tiếp nhận nhựa sống từ thân cây, em vui đùa trong ánh nắng. Em không biết tại sao từ một chiếc búp rồi tới ngày em hé nhụy, cánh em nở ra, sắc màu em tươi thắm”. Nếu hoa biết suy nghĩ thì hoa sẽ nói thêm: “Chúa làm đó!”
Chim và hoa chỉ biết làm theo những gì mà thiên nhiên hướng dẫn chúng làm. Ngoài ra, chúng chẳng lo lắng gì cả. Mọi kết quả tốt đẹp rực rỡ đều là thiên nhiên làm cho chúng. Mà “thiên nhiên” là gì? Thưa là Tạo Hoá, là Thiên Chúa. “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn tất cả những điều khác Người sẽ ban thêm cho các con”.
3. Suy nghĩ về sự lo lắng
Theo kết quả thống kê, người Mỹ thường lo lắng về những điều sau đây:
- Lo về tiền bạc: 45 %
- Lo về người khác: 39 %
- Lo về sức khoẻ bản thân: 32 %
- Lo về học hành thi cử: 20 %
- Lo mất công ăn việc làm: 15 %
Thực ra biết lo không phải là vô ích, vì nhờ biết lo xa nên người ta mới thoát khỏi những tình trạng bối rối (như chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến của Lafontaine). Nhưng sự lo lắng thái quá rất có hại.
Chính vì thế, Đức Giêsu không bảo ta đừng lo gì hết. Ngài dạy chúng ta cách giảm bớt sự lo lắng: một mặt là tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha, mặt khác là hãy tập trung lo điều chủ yếu quan trọng nhất mà thôi, tức là lo làm theo ý Chúa (ý nghĩa của kiểu nói “Tìm Nước Thiên Chúa và Sự công chính của Ngài”).
Thánh Augustinô chia xẻ cho chúng ta một cách sống hồn nhiên và vô tư như sau: “Phó thác quá khứ cho lòng Thương xót của Chúa, hiện tại cho Tình yêu của Ngài, và tương lai cho sự Quan phòng của Ngài”.
4. Làm tôi tiền của
“Làm tôi tiền của”, một câu nói quá nặng! Chắc không ai chịu nhận rằng mình đang làm tôi mọi cho tiền của. Tuy nhiên, ta hãy bình tĩnh để làm hai bảng trắc nghiệm.
A/ Bảng trắc nghiệm thứ nhất:
- Tôi vừa khai trương quán ăn. Mấy bữa trước khách đến lưa thưa. Hôm nay Chúa nhựt chắc chắn sẽ đông từ sáng tới chiều. Tiếc quá, tôi phải đến nhà thờ dự lễ. Không có tôi thì ai đón khách? ai coi chừng tủ tiền? rủi có chuyện gì xảy đến thì ai có thể xử lý? Tôi nên bỏ lễ không?
- Con của thằng em tôi bệnh nặng phải đưa vào bệnh viện. Nó túng quá đến mượn tiền tôi. Mà tôi thì đang để dành tiền để sắm một chiếc Wave. Tôi sẽ từ chối nó?
- Khi trả tiền mua một món hàng, cô bán hàng thối lại cho tôi dư một số. Tôi biết cô này thường bán mắc lắm, tôi nghĩ bấy lâu này cô đã lời của tôi hơn số tiền này nhiều. Vậy tôi sẽ làm như không biết gì cả, coi như hôm nay mình hên vậy chăng?
Đặt mình vào 3 tình huống trên, nếu bạn đều trả lời “Phải” hay “Có” thì bạn đã làm tôi cho tiền của rồi, vì rõ ràng bạn đã coi tiền của trọng hơn Chúa, trọng hơn anh em ruột của mình, thậm chí còn trọng hơn danh dự và lương tâm của mình nữa.
B/ Bảng trắc nghiệm thứ hai:
- Nhà tôi bị trộm, vợ tôi tiếc nên cứ than vắn thở dài mãi. Phần tôi thì nghĩ “Có tiếc thì cũng mất rồi. Thôi từ từ sẽ làm lại”.
- Đồng bào nhiều nơi đang bị lũ lụt. Nhiều tổ chức từ thiện đi quyên góp. Gia đình tôi thì không dư dả gì, nhưng cũng hy sinh góp một ít tiền, vì tôi nghĩ “Mình nhịn ăn nhịn xài một chút, để giúp cho những người đang thiếu thốn những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống”.
- Tôi đang thất nghiệp. Có người bạn chỉ tôi đi buôn lậu, vốn rất ít mà lời rất nhiều. Tôi thà nghèo chứ không thèm đến những đồng tiền bất chính.
Nếu tôi đồng ý với cách những giải quyết trên thì chứng tỏ tôi quả thực không bị nô lệ cho đồng tiền.
5. Đừng xét đoán
Một thực tế rất rõ ràng là người ta hay xét đoán nhau, chính chúng ta cũng hay xét đoán người khác: Anh đó sai, Cô đó làm vậy là xấu, mấy người ấy thật đáng trách… Thử nhớ lại những cuộc trò chuyện của chúng ta. Có bao nhiêu cuộc trò chuyện mà trong đó không có những lời xét đoán người khác?
Giả như ai đó vì tín nhiệm chúng ta nên đem một vụ việc đến nhờ chúng ta xét đoán. Muốn xét đoán cho nghiêm túc, chúng ta phải làm gì? Trước tiên là tìm hiểu vụ việc, không chỉ tìm hiểu một phía mà cả hai, có khi nhiều phía. Rồi tìm bằng chứng hay lý chứng. Rồi suy nghĩ thật kỹ. Sau cùng mới đưa ra kết luận.
Có khi nào chúng ta làm đúng và đủ những việc cần thiết đó không? Ngay cả các quan tòa làm việc rất nghiêm túc mà cũng có khi đưa ra những xét đoán sai lầm.
Bởi vậy, Thánh Giacôbê hỏi: “Bạn là ai mà dám xét đoán người khác?”
Còn thánh Phaolô trong bài Thánh thư hôm nay nhắc: “Anh em đừng đoán xét; Đấng đoán xét chính là Thiên Chúa”.
6. Chuyện minh họa
Dân chúng ở một thành phố nọ có quá nhiều điều phải lo lắng. Vì thế họ họp nhau bàn cách giải quyết vấn đề này.
Một người đề nghị phải lập một công viên để người ta đến đó giải khuây. Người thứ hai đề nghị làm một sân chơi golf. Người thứ ba đề nghị xây một rạp xinê. Người thứ tư có một đề nghị độc đáo:
- Chúng ta hãy hùn tiền mướn một người gánh hết mọi nỗi lo của chúng ta.
- Nhưng người đó là ai?
- Là anh thợ vá giày David đó.
- Mướn bao nhiêu?
- Mỗi tuần 1000 bảng anh.
Tất cả mọi người đồng ý. Họ hỏi David người thợ vá giày:
- Anh có đồng ý với việc làm mới này không?
David cười rạng rỡ:
- Tại sao không!
Tưởng là mọi việc đã thu xếp ổn thỏa. Nhưng bỗng một người đặt vấn đề:
- Chúng ta mướn David gánh hết mọi nỗi lo. Nhưng mỗi tuần hắn có 1000 bảng anh thì hắn còn gì phải lo nữa? (Flor McCarthy)
32. Chú giải của Noel Quesson
Ngày nay, một cách đọc Tin Mừng hời hợi thật ra sẽ có hại. Đức Giêsu có lên án tiền bạc không? Người có khuyên người ta vô lo và lười viếng không? Đức Giêsu có thể có lý khi khuyên một người cha trong gia đình đang thất nghiệp đừng lo lắng cho ngày mai không? Khi cho ví dụ “chim trời không gieo, không gặt”, Đức Giêsu có bảo các bà mẹ. Trong gia đình đừng chuẩn bị các bữa ăn, đừng mua lương thực không? Có thật là Người bảo những người nghèo đôi khi thiếu cá nhưng nhu cần thiết phải chờ một phép lạ của sự quan phòng để không chết đói. Từ đó, Đức Giêsu chẳng phải là một con người hiền lành mơ mộng mà ngôn ngữ mang chất thi ca là một thứ trò chơi không có thật, không thể nào phù hợp với thực tế khắc nghiệt của kinh tế và những vấn đề nghiêm túc của việc phân chia các tài nguyên hay sao?
Hẳn ở đây phải có một ngộ nhận. Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu những lời của Chúa.
“Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được...".
Thật là tai hại khi những dịch giả đã không dám giữ lại ở đây một chữ, quả thật là huyền bí mà Đức Giêsu chắc chắn đã sử dụng. "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Mam-mon...". Từ ngữ này bằng ngôn ngữ A-ram đã được Matthêu giữ lại trong bản văn Hy-lạp bởi vì chắc đúng là do chính Đức Giêsu nói ra bằng tiếng mẹ đẻ của Người là tiếng Aram. Trong ngôn ngữ này; “Mam-mon" có nghĩa cụ thể là "tiền bạc", "thu hoạch", "lợi nhuận", "sự giàu có". Khi đặt "Thiên Chúa" đối lập với "Tiền Của”, Đức Giêsu dường nhu muốn nhân cách hóa tiền bạc... làm nó thành một thứ ngẫu tượng. Người ta có cảm tưởng rằng Đức Giêsu nghĩ đến "Tiền Của" như đó là đối thủ của Thiên Chúa, một cách diễn tả cụ thể về Xa-tan, “Ông Hoàng của thế gian này" bắt con người làm nô lệ và cố gắng đoạt chỗ của Thiên Chúa…Để hiểu rõ tư tưởng của Đức Giêsu, chúng ta cũng ghi nhận ở đây hai từ quan trọng. Người nói về "chủ”.. về “làm tôi"... Từ "chữ” dịch từ "kurios" thường có nghĩa là “Đức Chúa". Từ "làm tôi" dịch từ "douleuô"' có nghĩa là "làm nô lệ". Những nhận xét ấy làm chúng ta phải nghĩ rằng Đức Giêsu không chống lại tiền của một cách ngây thơ và không thực tế. Ở Nagiaret, Người đã có một nghề nghiệp: Người đã trải " qua kinh nghiệm kiếm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như hai mươi gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy; "Người cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích trong các giao dịch thương mại. Người không có phản ứng sơ đẳng chống lại các ngân hàng,. hoặc các đồng tiền hoặc tiền thuế hoặc những người thu thuế! Điều này là một phần của đời sống Người và chúng ta các dụ ngôn..của Người: “Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi ". Người bảo họ: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda" (Mt 22,19). Trong dụ ngôn những nén bạc và của cải chôn giấu Đức Giêsu còn khuyên những kẻ nghe Người nói "đem số tiền của họ gởi vào ngân hàng?. Đức Giêsu luôn tự đo đối với mọi ý thức (Matthêu 25,27).
Không, Đức Giêsu không lên án tiền của tự thân, trong việc sử dụng bình thường của tiền của. Trái lại, không có từ ngữ nào đủ mạnh để lên án "sự nô lệ cho tiền của": Anh em không thể làm tôi Mam-mon! anh em không có quyền làm mình trở thành nô lệ của ông chủ đáng sợ đó. "Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!" (Luca 6,24). "Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất: vì kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Matthêu 6,19). "Hãy đi bán tài sản của mình" (Mt 19,21). Những lời ấy rất mạnh mẽ, những không lỗi thời và cổ lỗ: sự nô lệ cho tiền của là một bệnh "ung thư" thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Phương Tây đang tự phá huỷ chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái "tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nền văn minh của ‘đồ bỏ đi ấy của Xa-tan’: tiện nghi, xa hoa, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của "đồ bỏ đi ấy của Xa-tan" như cách gọi của tác giả người Ý, Papini. Biết bao nhiêu nhà doanh nghiệp có một cuốn lịch đen ghi các cuộc hẹn gặp nhưng không bao giờ còn sống chung với vợ và con cái của họ nữa? Càng không còn sống với Thiên Chúa! Còn nói gì về sự “phung phí" các nguồn tài nguyên của hành tinh này có nguy cơ làm ghẹt thở nhân loại của thế kỷ XXI? Còn nói gì về sự "cướp bóc” các nước thuộc thế giới thứ ba bởi các nước giàu có?
Không, tiền của không có mùi thơm. Đó là một quyền lực của cái ác đáng sợ khi nó "nô lệ hóa" Một người nào. Giá một chiếc xe tăng đủ để mua lương thực cho hàng trăm ngàn người đói khát!!! Và chúng ta không hề xấu hổ. Một máy bay siêu thanh khu trục và ném bom có giá bằng 40.000 nhà thuốc tây ở các làng mạc để cứu sống những em nhỏ!!! Và chúng ta không hay biết. Tiền của lẽ ra phải là một "đầy tớ" tuyệt vời, hiện đang là một "ông chủ” xấu.
“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Công thức "đừng lo" sẽ trở lại bốn lần trong một vài hàng. Quả thật, sự "lo lắng" là một trong những hình thức nô lệ mà của cải kéo theo nó. Theo thống kê, thế giới Phương Tây hiện đại rất dễ bị tổn thương bởi chúng nhồi máu cơ tim và trầm uất thần kinh hơn phần còn lại của thế giới. Dường như Đức Giêsu muốn nói: Hãy nắm lấy đời sống ở khía cạnh tốt đẹp. Anh em hãy sống, nhưng hãy sống đi! Anh em dùng thời gian của mình để chạy, để lúc nào cũng có được nhiều tiền hơn: thỉnh thoảng anh em hãy dùng thời gian để sống! Và Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta trật tự rõ ràng của các giá trị. Lương thực, quần áo dù rất cần thiết... cũng chỉ để phục vụ sự sống! Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II, trong một thông điệp của ngài đã nhắc lại những nguyên tắc ấy về sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Ý nghĩa nền tảng sự thống trì của con người trên thế giới hữu hình…. chủ yếu là sự ưu tiên
Của luân lý (đạo đức) trên kỹ thuật, vị trí hàng đầu của con người trên đồ vật, sự ưu việt của tinh thần trên vật chất… Điều quan trọng là sự phát triển của con người chứ không chỉ là sự tăng bội của các đồ vật... Thà có ít hơn để hiện hữu nhiều hơn".
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vùa Sa-lô-môn, đủ vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế thì huống hồ là anh em, Ôi những kẻ kém tin?".
Những hình ảnh này không thể nào quên được. Nhưng chúng quá ấn tượng nên người ta có thể hiểu sai. Các bạn hãy đọc lại những lời ấy. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng không nên làm việc. Đức Giêsu không bao giờ khuyến khích người nghèo đi xin xỏ hoặc nằm chờ sung rụng. Người không đề cao sự vô lo hoặc thói lười biếng. Thật là quá đáng. Có một thu "tôi mặc kệ". nào đó làm cho chính những người khác phải mang lấy những lo lắng vì chúng ta vô lo, chúng ta chất lên đầu họ. Trái lại, có những lo lắng, do lòng thương yêu người khác, những người mà chúng ta có trách nhiệm: Tin Mừng bảo chúng ta nhận lấy những lo láng này trên vai chúng ta như người ta vác một cây thập giá. Vả lại, nếu Đức Giêsu nói: "Anh em chớ làm gì cả, cư vô tích sự đi..." thì tại sao trong toàn bộ Kinh Thánh ngay từ đầu, Chúa đã nói điều ngược lại. Chương đầu tiên của sách Sáng Thế cho chúng ta lệnh truyền "hãy thống trị đất và bắt nó phục tùng". Thật ra Đức Giêsu khẳng định: “Vì thợ đáng được nuôi ăn" (Matthêu 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như lời Thánh Phaolô đã kết luận (2 Thê-xa-lô-ni-ca 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của..người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã nhận (Matthêu. 25,14-30). "Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài".
Vậy Đức Giêsu muốn nói điều gì? Khi Người nói "lo lắng mà làm gì?”.
Thế thì người nói một điều thật sự rất tốt cho mỗi người-chúng ta: Người bảo chúng ta phải thư giãn một chút phải chống lại sự căng thẳng thần kinh thái quá…
Người bảo chúng ta phải làm việc như "chim trời và hoa cỏ ngoài đồng": Các bạn hãy nhìn kỹ chúng... hãy nhìn hoạt động và các sự khéo léo mà chúng sử dụng để sống, để nuôi thân, để có nới trú ẩn? Và rồi Đức Giêsu nói với chúng ta nhiều nhất về Chúa Cha: anh em còn đáng giá hơn tất cả những tạo vật khác, vậy mà Người đã chăm lo cho chúng với sự chính xác.
“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoài vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Tất cả lập luận của Đức Giêsu nhằm mời gọi chúng ta chớ quá lo lắng dựa trên một sự tin chắc của đức tin: Cha anh em “biết"? Trước đó, Người đã nói về sự cầu nguyện: "anh em đừng lải nhải như dân ngoại, vì Cha anh em đã "biết" rõ anh em cần gì (Matthêu 6,8). Hai quan niệm về Thiên Chúa đối lập nhau: Thiên Chúa ma thuật của những dân ngoại... và Thiên Chúa là Cha yêu thương con cái Người. Con người theo Đức Giêsu không hề là một người "vô lo"... mà chính là con người đã thay đổi mối lo! Người ấy đã trở nên say mê Nước Thiên Chúa: "Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa!".
Làm tôi tớ cho Mam-mon trên thực tế là chỉ lo cho chính mình. Còn phục vụ cho Thiên Chúa là bắt đầu phục vụ tình yêu, là được tự do...
“Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ đề ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ về ngày ấy”.
Một câu châm ngôn bình dân. Đức Giêsu biết mình nói về điều gì. Cả cuộc đời, Người đã sống như thế. Đúng vậy Tại s ao lại thêm vào những lo lắng của hôm nay những lo lắng của ngày mai? Như thế, người ta sống mỗi ngày với nỗi sợ hãi những bất hạnh là có lẽ sẽ không đến. Chỉ cần sống những lo lắng mỗi ngày... ngày mai rồi sẽ biết! Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa.
Hẳn ở đây phải có một ngộ nhận. Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu những lời của Chúa.
“Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được...".
Thật là tai hại khi những dịch giả đã không dám giữ lại ở đây một chữ, quả thật là huyền bí mà Đức Giêsu chắc chắn đã sử dụng. "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Mam-mon...". Từ ngữ này bằng ngôn ngữ A-ram đã được Matthêu giữ lại trong bản văn Hy-lạp bởi vì chắc đúng là do chính Đức Giêsu nói ra bằng tiếng mẹ đẻ của Người là tiếng Aram. Trong ngôn ngữ này; “Mam-mon" có nghĩa cụ thể là "tiền bạc", "thu hoạch", "lợi nhuận", "sự giàu có". Khi đặt "Thiên Chúa" đối lập với "Tiền Của”, Đức Giêsu dường nhu muốn nhân cách hóa tiền bạc... làm nó thành một thứ ngẫu tượng. Người ta có cảm tưởng rằng Đức Giêsu nghĩ đến "Tiền Của" như đó là đối thủ của Thiên Chúa, một cách diễn tả cụ thể về Xa-tan, “Ông Hoàng của thế gian này" bắt con người làm nô lệ và cố gắng đoạt chỗ của Thiên Chúa…Để hiểu rõ tư tưởng của Đức Giêsu, chúng ta cũng ghi nhận ở đây hai từ quan trọng. Người nói về "chủ”.. về “làm tôi"... Từ "chữ” dịch từ "kurios" thường có nghĩa là “Đức Chúa". Từ "làm tôi" dịch từ "douleuô"' có nghĩa là "làm nô lệ". Những nhận xét ấy làm chúng ta phải nghĩ rằng Đức Giêsu không chống lại tiền của một cách ngây thơ và không thực tế. Ở Nagiaret, Người đã có một nghề nghiệp: Người đã trải " qua kinh nghiệm kiếm sống đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như hai mươi gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê ấy; "Người cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích trong các giao dịch thương mại. Người không có phản ứng sơ đẳng chống lại các ngân hàng,. hoặc các đồng tiền hoặc tiền thuế hoặc những người thu thuế! Điều này là một phần của đời sống Người và chúng ta các dụ ngôn..của Người: “Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi ". Người bảo họ: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda" (Mt 22,19). Trong dụ ngôn những nén bạc và của cải chôn giấu Đức Giêsu còn khuyên những kẻ nghe Người nói "đem số tiền của họ gởi vào ngân hàng?. Đức Giêsu luôn tự đo đối với mọi ý thức (Matthêu 25,27).
Không, Đức Giêsu không lên án tiền của tự thân, trong việc sử dụng bình thường của tiền của. Trái lại, không có từ ngữ nào đủ mạnh để lên án "sự nô lệ cho tiền của": Anh em không thể làm tôi Mam-mon! anh em không có quyền làm mình trở thành nô lệ của ông chủ đáng sợ đó. "Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có!" (Luca 6,24). "Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất: vì kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Matthêu 6,19). "Hãy đi bán tài sản của mình" (Mt 19,21). Những lời ấy rất mạnh mẽ, những không lỗi thời và cổ lỗ: sự nô lệ cho tiền của là một bệnh "ung thư" thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Phương Tây đang tự phá huỷ chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái "tiện nghi”, cái “xa hoa”, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nền văn minh của ‘đồ bỏ đi ấy của Xa-tan’: tiện nghi, xa hoa, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của "đồ bỏ đi ấy của Xa-tan" như cách gọi của tác giả người Ý, Papini. Biết bao nhiêu nhà doanh nghiệp có một cuốn lịch đen ghi các cuộc hẹn gặp nhưng không bao giờ còn sống chung với vợ và con cái của họ nữa? Càng không còn sống với Thiên Chúa! Còn nói gì về sự “phung phí" các nguồn tài nguyên của hành tinh này có nguy cơ làm ghẹt thở nhân loại của thế kỷ XXI? Còn nói gì về sự "cướp bóc” các nước thuộc thế giới thứ ba bởi các nước giàu có?
Không, tiền của không có mùi thơm. Đó là một quyền lực của cái ác đáng sợ khi nó "nô lệ hóa" Một người nào. Giá một chiếc xe tăng đủ để mua lương thực cho hàng trăm ngàn người đói khát!!! Và chúng ta không hề xấu hổ. Một máy bay siêu thanh khu trục và ném bom có giá bằng 40.000 nhà thuốc tây ở các làng mạc để cứu sống những em nhỏ!!! Và chúng ta không hay biết. Tiền của lẽ ra phải là một "đầy tớ" tuyệt vời, hiện đang là một "ông chủ” xấu.
“Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Công thức "đừng lo" sẽ trở lại bốn lần trong một vài hàng. Quả thật, sự "lo lắng" là một trong những hình thức nô lệ mà của cải kéo theo nó. Theo thống kê, thế giới Phương Tây hiện đại rất dễ bị tổn thương bởi chúng nhồi máu cơ tim và trầm uất thần kinh hơn phần còn lại của thế giới. Dường như Đức Giêsu muốn nói: Hãy nắm lấy đời sống ở khía cạnh tốt đẹp. Anh em hãy sống, nhưng hãy sống đi! Anh em dùng thời gian của mình để chạy, để lúc nào cũng có được nhiều tiền hơn: thỉnh thoảng anh em hãy dùng thời gian để sống! Và Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta trật tự rõ ràng của các giá trị. Lương thực, quần áo dù rất cần thiết... cũng chỉ để phục vụ sự sống! Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II, trong một thông điệp của ngài đã nhắc lại những nguyên tắc ấy về sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Ý nghĩa nền tảng sự thống trì của con người trên thế giới hữu hình…. chủ yếu là sự ưu tiên
Của luân lý (đạo đức) trên kỹ thuật, vị trí hàng đầu của con người trên đồ vật, sự ưu việt của tinh thần trên vật chất… Điều quan trọng là sự phát triển của con người chứ không chỉ là sự tăng bội của các đồ vật... Thà có ít hơn để hiện hữu nhiều hơn".
“Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vùa Sa-lô-môn, đủ vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế thì huống hồ là anh em, Ôi những kẻ kém tin?".
Những hình ảnh này không thể nào quên được. Nhưng chúng quá ấn tượng nên người ta có thể hiểu sai. Các bạn hãy đọc lại những lời ấy. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng không nên làm việc. Đức Giêsu không bao giờ khuyến khích người nghèo đi xin xỏ hoặc nằm chờ sung rụng. Người không đề cao sự vô lo hoặc thói lười biếng. Thật là quá đáng. Có một thu "tôi mặc kệ". nào đó làm cho chính những người khác phải mang lấy những lo lắng vì chúng ta vô lo, chúng ta chất lên đầu họ. Trái lại, có những lo lắng, do lòng thương yêu người khác, những người mà chúng ta có trách nhiệm: Tin Mừng bảo chúng ta nhận lấy những lo láng này trên vai chúng ta như người ta vác một cây thập giá. Vả lại, nếu Đức Giêsu nói: "Anh em chớ làm gì cả, cư vô tích sự đi..." thì tại sao trong toàn bộ Kinh Thánh ngay từ đầu, Chúa đã nói điều ngược lại. Chương đầu tiên của sách Sáng Thế cho chúng ta lệnh truyền "hãy thống trị đất và bắt nó phục tùng". Thật ra Đức Giêsu khẳng định: “Vì thợ đáng được nuôi ăn" (Matthêu 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như lời Thánh Phaolô đã kết luận (2 Thê-xa-lô-ni-ca 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của..người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã nhận (Matthêu. 25,14-30). "Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài".
Vậy Đức Giêsu muốn nói điều gì? Khi Người nói "lo lắng mà làm gì?”.
Thế thì người nói một điều thật sự rất tốt cho mỗi người-chúng ta: Người bảo chúng ta phải thư giãn một chút phải chống lại sự căng thẳng thần kinh thái quá…
Người bảo chúng ta phải làm việc như "chim trời và hoa cỏ ngoài đồng": Các bạn hãy nhìn kỹ chúng... hãy nhìn hoạt động và các sự khéo léo mà chúng sử dụng để sống, để nuôi thân, để có nới trú ẩn? Và rồi Đức Giêsu nói với chúng ta nhiều nhất về Chúa Cha: anh em còn đáng giá hơn tất cả những tạo vật khác, vậy mà Người đã chăm lo cho chúng với sự chính xác.
“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoài vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Tất cả lập luận của Đức Giêsu nhằm mời gọi chúng ta chớ quá lo lắng dựa trên một sự tin chắc của đức tin: Cha anh em “biết"? Trước đó, Người đã nói về sự cầu nguyện: "anh em đừng lải nhải như dân ngoại, vì Cha anh em đã "biết" rõ anh em cần gì (Matthêu 6,8). Hai quan niệm về Thiên Chúa đối lập nhau: Thiên Chúa ma thuật của những dân ngoại... và Thiên Chúa là Cha yêu thương con cái Người. Con người theo Đức Giêsu không hề là một người "vô lo"... mà chính là con người đã thay đổi mối lo! Người ấy đã trở nên say mê Nước Thiên Chúa: "Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa!".
Làm tôi tớ cho Mam-mon trên thực tế là chỉ lo cho chính mình. Còn phục vụ cho Thiên Chúa là bắt đầu phục vụ tình yêu, là được tự do...
“Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ đề ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ về ngày ấy”.
Một câu châm ngôn bình dân. Đức Giêsu biết mình nói về điều gì. Cả cuộc đời, Người đã sống như thế. Đúng vậy Tại s ao lại thêm vào những lo lắng của hôm nay những lo lắng của ngày mai? Như thế, người ta sống mỗi ngày với nỗi sợ hãi những bất hạnh là có lẽ sẽ không đến. Chỉ cần sống những lo lắng mỗi ngày... ngày mai rồi sẽ biết! Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa.
33. “Các con chớ áy náy về ngày mai”
(Trích trong ‘Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật’ của nhóm Nha Trang)
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay trích từ bài giảng trên núi. Chúa Giêsu dạy về việc cởi bỏ những lo lắng về tiền của và của ăn áo mặc để thúc đẩy ta tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng.
SUY NIỆM:
1/ “Không ai có thể làm tôi hai chủ”:
Chúa Giêsu đưa ra một tiền đề như một nguyên tắc chung là không thể làm tôi hai chủ một trật. Nguyên tắc này muốn nhấn mạnh khía cạnh phải dứt khoát lựa chọn chủ này hay chủ kia.
2/ “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được”:
“Làm tôi” ở đây mang ý nghĩa như một người nô lệ hoàn toàn, tuỳ thuộc vào ông chủ, không còn tự chủ về việc định đoạt riêng cho mình.
“Tiền của” tiếng Aram là Mammôn, nghĩa là Thần tiền: Tiền được nhân cách hoá như một sức mạnh của một vị thần có sức chinh phục thế giới.
Áp dụng nguyên tắc trên, ở đây Chúa Giêsu khuyên phải có thái độ dứt khoát trong việc chọn lựa Thiên Chúa hay tiền của. Làm tôi Thiên Chúa thì phải từ bỏ sự lo lắng về tiền của.
3/ “Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình…”:
Không những Chúa cấm làm tôi tiền của, Chúa còn khuyên ta đừng lo lắng về sự thế tục như đồ ăn áo mặc nữa. Vì khi làm tôi tiền của, sẽ dần dần xa lìa Thiên Chúa, còn lo lắng về sự thế tục sẽ trái với niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
“Lo lắng”: Matthêô dùng động từ này ở đây đến 6 lần là để nói lên lời khẩn bách mời gọi từ bỏ mọi âu lo thái quá, vì cả cuộc sống của ta đã được đặt trước mặt Thiên Chúa Cha là Đấng “biết rõ điều ta cần” (Mt 6,8 và 6,32).
Tuy Chúa Giêsu khuyên như vậy nhưng Người không có ý cổ võ sự nhàn cư rảnh rỗi, lạc quan vô tâm hay phó thác thụ động vào Thiên Chúa, nhưng đúng hơn Người muốn nêu rõ sự đối nghịch hai thái độ sâu xa trước các nhu cầu của cuộc sống con người là sự bình tâm và lo lắng. Bình tâm vì phó thác vào Thiên Chúa, lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Dĩ nhiên sự bình tâm này đòi hỏi con người phải làm việc kiếm cơm áo hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng điều cốt yếu là trong mọi sự phải bíêt qui hướng về Thiên Chúa Cha.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”: (Mt 6,11); “Hãy xin thì sẽ được…” (Mt 7,7-11).
4/ “Nào mạng sống không hơn miếng ăn…”:
Chúa Giêsu muốn nói lên rằng: nếu Thiên Chúa đã ban cho ta hai thứ quý là sự sống và tạo dựngthân xác, thì Người cũng sẽ bảo đảm cho chúng mọi thứ cần thiết. Vậy đừng lo lắng làm chi.
5/ “Hãy nhìn xem chim trời…”:
Chúa Giêsu lấy bằng chứng về Thiên Chúa quan phòng cho chim trời để giải thích về việc Thiên Chúa quan phòng việc nuôi sống con người.
“Chúng không gieo không gặt…”: diễn tả việc Thiên Chúa quan phòng bằng cách tạo điều kiện và phương tiện để nuôi, còn chim trời phải thực hiện việc nuôi sống mình bằng cách không ngừng làm việc để kiếm thức ăn. Chỉ cần đưa mắt quan sát, ta sẽ thấy chúng bay khắp bốn phương tìm của ăn thích hợp loài nào thức ăn ấy.
6/ “Nào các con không hơn chúng sao?”:
Chim trời còn được Thiên Chúa quan phòng như vậy phương chi chúng ta làm con cái Thiên Chúa. Vậy đừng lo lắng về của ăn nhưng đừng làm biếng.
7/ “Nào có ai trong các con lo lắng áy náy…”:
Con người có lo lắng cũng vô ích, chẳng đi đến đâu “Phaolô trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa cho mọc lên” và “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” là vậy.
8/ “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng…”:
Về áo mặc, Chúa Giêsu lấy bằng chứng Thiên Chúa quan phòng về vẻ đẹp cho hoa huệ ngoài đồng để giải thích về sự Thiên Chúa quan phòng trong việc trang sức cho con người.
Hoa huệ là thứ hoa cỏ đồng nội nay còn mai mất mà Thiên Chúa còn làm cho nó một vẻ đẹp hơn vinh quang của Salomon phương chi loài người chúng ta là con cái của Thiên Chúa, lại không được Thiên Chúa quan phòng săn sóc cho hay sao?
Cũng như loài chim trên trời phải đi kiếm ăn, hoa huệ ngoài đồng không ngừng đâm rễ ngày càng sâu hơn trong lòng đất để hút lấy nhựa cần thiết cho sự sống hay sắc hương.
9/ “Vậy các con chớ áy náy lo lắng…”:
Chúa bảo chúng ta quan sát chim trời và hoa huệ ngoài đồng, tức là quan sát vũ trụ vạn vật, để giúp lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa quan phòng, chứ đừng áy náy về đồ ăn áo mặc, khiến sao lãng việc tin cậy vào quyền năng và tình thương chăm sóc của Thiên Chúa.
10/ “Vì chưng dân ngoại tìm kiếm những điều đó…”:
- “Tìm kiếm”: đồng nghĩa với đam mê và lo âu.
- Khi xem những của cải vật chất và những sự thế tục là những đối tượng tìm kiếm không ngơi và đầy lo lắng, dân ngoại tỏ ra chẳng hề biết Đấng Tạo Hoá của mình. Vì vậy người Kitô hữu chỉ mải miết tìm kiếm của ăn và áo mặc thì chẳng hơn gì dân ngoại và như vậy làm mất danh nghĩa là con cái Thiên Chúa.
11/ “Nhưng Cha các con biết rõ các con cần…”:
Chính Thiên Chúa biết những nhu cầu chính đáng của ta và hằng muốn thoả mãn cho ta. Cái sai lầm cho dân ngoại là ở chỗ không nhận ra tình yêu quan phòng ấy của Thiên Chúa và vì vậy sinh ra bạo hành với tại vật của Chúa và muốn chiếm đọat cho kỳ được, khiến gây nên nhiều bất công xã hội.
12/ “ Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa”:
Chữ “tiên vàn” gợi lên ý nghĩa nằm trong tinh thần Kinh Lạy Cha: Nước Chúa trước tiên đã rồi mới đến cơm bánh.
“Tiềm kiến Nước Thiên Chúa”: Thiên Chúa lo lắng cho con người mọi sự họ cần, nhưng Thiên Chúa cũng mong muốn con người chia sẻ sự bận tâm của Ngài về Nước Thiên Chúa “Nguệyn danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến…”.
“Sự công chính của Nước Trời” có nghĩa là cách ăn nết ở phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.
Người Kitô hữu tiên vàn phải tìm cách để Thiên Chúa ngự trị trong đời mình để lời mình là lời đáp trả với tình yêu thánh ý Thiên Chúa.
13/ “Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.
Ở đây Chúa khuyên ta đừng lo lắng về ngày mai, tức là hãy tín vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta vì:
- Quá khứ đã qua rồi.
- Hiện tại ở trong tầm tay ta, ta phải chu toàn bổn phận của ta.
- Tương lai, ngày mai là của Chúa, hãy phó thác nơi Người.
14/ “Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai”:
Ngày nào có công việc cho ngày ấy, vì thế mỗi ngày đều có công việc phải làm, đừng chồng chất công việc ngày mai vào ngày hôm nay, kẻo làm cho công việc ra nặng hơn.
15/ “Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy”:
Chúa Giêsu chỉ cho ta ý thức rõ ràng cuộc đời không phải chỉ màu hồng hay phẳng lặng êm đẹp như mặt hồ mùa thu, nhưng cũng lắm khổ cực gian nan. Vì thế Người khuyên chúng ta đừng thổi phồng sự khổ cực này cách vô ích vì quá ưu tư, lo lắng, áy náy cho ngày mai.
ÁP DỤNG
A/ Áp dụng theo Tin Mừng
Qua bài Tin Mừng hôm nay Giáo Hội muốn khuyên nhủ chúng ta phải biết cởi mở bỏ sự ham mê của cải vật chất và sự lo lắng về những sự thế tục để được bình tâm trong sự tín thác vào Thiên Chúa quan phòng.
B/ Áp dụng thực hành
Nghe lời Chúa nói:
1/ “Không ai có thể làm tôi hai chủ”: Chúa cấm ta không được bắt cá hai tay, vì sẽ chẳng được con nào nghĩa là chúng ta phải dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa thì phải cởi bỏ sự ham tiền của.
2/ “Các con chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình”: Chúa khuyên ta phải bình tâm trong việc làm ăn sinh sống. Đừng lo lắng áy náy kẻo mất thêm niềm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Đấng biết rõ những nhu cầu trong cuộc sống của ta.
3/ “Hãy xem chim trời, bông huệ ngoài đồng…”: Chúa khuyên ta phải biết nhìn ngắm vũ trụ vạn vật để nhận ra bàn tay quan phòng săn sóc của Thiên Chúa để tín thác vào Ngài trong mọi sự.
4/ “Dân ngoại tìm kiếm những điều đó”: Dân ngoại vì không nhận biết Đấng Tạo Thành nên say mê và lo lắng những nhu cầu của cuộc sống. Nếu chúng ta lo lắng áy náy về của ăn áo mặc, thì coi như chúng ta là dân ngoại, đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng.
5/ “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa”: Chúa khuyên nhủ chúng ta phải ưu tiên cho việc Chúa trước, việc đời sau. Ưu tiên cho sự sống siêu nhiên trước sự sống tự nhiên sau…và đồng thời hãy lo chu toàn bổn phận làm con Chúa bằng cách sống cho phù hợp với thánh ý của Chúa.
6/ “Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy”: Đời sống của con người không tránh khỏi những gian nan thử thách. Vì thế phải biết chịu đựng mỗi ngày:
- Đau khổ trong quá khứ: đừng gợi lại làm chi vì đã qua.
- Đau khổ trong hiện tại: rồi sẽ qua đi đừng bối rối.
- Đau khổ trong tương lai:chắc gì xảy đến, hãy cứ vui sống.
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay trích từ bài giảng trên núi. Chúa Giêsu dạy về việc cởi bỏ những lo lắng về tiền của và của ăn áo mặc để thúc đẩy ta tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng.
SUY NIỆM:
1/ “Không ai có thể làm tôi hai chủ”:
Chúa Giêsu đưa ra một tiền đề như một nguyên tắc chung là không thể làm tôi hai chủ một trật. Nguyên tắc này muốn nhấn mạnh khía cạnh phải dứt khoát lựa chọn chủ này hay chủ kia.
2/ “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và tiền của được”:
“Làm tôi” ở đây mang ý nghĩa như một người nô lệ hoàn toàn, tuỳ thuộc vào ông chủ, không còn tự chủ về việc định đoạt riêng cho mình.
“Tiền của” tiếng Aram là Mammôn, nghĩa là Thần tiền: Tiền được nhân cách hoá như một sức mạnh của một vị thần có sức chinh phục thế giới.
Áp dụng nguyên tắc trên, ở đây Chúa Giêsu khuyên phải có thái độ dứt khoát trong việc chọn lựa Thiên Chúa hay tiền của. Làm tôi Thiên Chúa thì phải từ bỏ sự lo lắng về tiền của.
3/ “Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình…”:
Không những Chúa cấm làm tôi tiền của, Chúa còn khuyên ta đừng lo lắng về sự thế tục như đồ ăn áo mặc nữa. Vì khi làm tôi tiền của, sẽ dần dần xa lìa Thiên Chúa, còn lo lắng về sự thế tục sẽ trái với niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
“Lo lắng”: Matthêô dùng động từ này ở đây đến 6 lần là để nói lên lời khẩn bách mời gọi từ bỏ mọi âu lo thái quá, vì cả cuộc sống của ta đã được đặt trước mặt Thiên Chúa Cha là Đấng “biết rõ điều ta cần” (Mt 6,8 và 6,32).
Tuy Chúa Giêsu khuyên như vậy nhưng Người không có ý cổ võ sự nhàn cư rảnh rỗi, lạc quan vô tâm hay phó thác thụ động vào Thiên Chúa, nhưng đúng hơn Người muốn nêu rõ sự đối nghịch hai thái độ sâu xa trước các nhu cầu của cuộc sống con người là sự bình tâm và lo lắng. Bình tâm vì phó thác vào Thiên Chúa, lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Dĩ nhiên sự bình tâm này đòi hỏi con người phải làm việc kiếm cơm áo hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng điều cốt yếu là trong mọi sự phải bíêt qui hướng về Thiên Chúa Cha.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”: (Mt 6,11); “Hãy xin thì sẽ được…” (Mt 7,7-11).
4/ “Nào mạng sống không hơn miếng ăn…”:
Chúa Giêsu muốn nói lên rằng: nếu Thiên Chúa đã ban cho ta hai thứ quý là sự sống và tạo dựngthân xác, thì Người cũng sẽ bảo đảm cho chúng mọi thứ cần thiết. Vậy đừng lo lắng làm chi.
5/ “Hãy nhìn xem chim trời…”:
Chúa Giêsu lấy bằng chứng về Thiên Chúa quan phòng cho chim trời để giải thích về việc Thiên Chúa quan phòng việc nuôi sống con người.
“Chúng không gieo không gặt…”: diễn tả việc Thiên Chúa quan phòng bằng cách tạo điều kiện và phương tiện để nuôi, còn chim trời phải thực hiện việc nuôi sống mình bằng cách không ngừng làm việc để kiếm thức ăn. Chỉ cần đưa mắt quan sát, ta sẽ thấy chúng bay khắp bốn phương tìm của ăn thích hợp loài nào thức ăn ấy.
6/ “Nào các con không hơn chúng sao?”:
Chim trời còn được Thiên Chúa quan phòng như vậy phương chi chúng ta làm con cái Thiên Chúa. Vậy đừng lo lắng về của ăn nhưng đừng làm biếng.
7/ “Nào có ai trong các con lo lắng áy náy…”:
Con người có lo lắng cũng vô ích, chẳng đi đến đâu “Phaolô trồng, Apôlô tưới, còn Thiên Chúa cho mọc lên” và “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” là vậy.
8/ “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng…”:
Về áo mặc, Chúa Giêsu lấy bằng chứng Thiên Chúa quan phòng về vẻ đẹp cho hoa huệ ngoài đồng để giải thích về sự Thiên Chúa quan phòng trong việc trang sức cho con người.
Hoa huệ là thứ hoa cỏ đồng nội nay còn mai mất mà Thiên Chúa còn làm cho nó một vẻ đẹp hơn vinh quang của Salomon phương chi loài người chúng ta là con cái của Thiên Chúa, lại không được Thiên Chúa quan phòng săn sóc cho hay sao?
Cũng như loài chim trên trời phải đi kiếm ăn, hoa huệ ngoài đồng không ngừng đâm rễ ngày càng sâu hơn trong lòng đất để hút lấy nhựa cần thiết cho sự sống hay sắc hương.
9/ “Vậy các con chớ áy náy lo lắng…”:
Chúa bảo chúng ta quan sát chim trời và hoa huệ ngoài đồng, tức là quan sát vũ trụ vạn vật, để giúp lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa quan phòng, chứ đừng áy náy về đồ ăn áo mặc, khiến sao lãng việc tin cậy vào quyền năng và tình thương chăm sóc của Thiên Chúa.
10/ “Vì chưng dân ngoại tìm kiếm những điều đó…”:
- “Tìm kiếm”: đồng nghĩa với đam mê và lo âu.
- Khi xem những của cải vật chất và những sự thế tục là những đối tượng tìm kiếm không ngơi và đầy lo lắng, dân ngoại tỏ ra chẳng hề biết Đấng Tạo Hoá của mình. Vì vậy người Kitô hữu chỉ mải miết tìm kiếm của ăn và áo mặc thì chẳng hơn gì dân ngoại và như vậy làm mất danh nghĩa là con cái Thiên Chúa.
11/ “Nhưng Cha các con biết rõ các con cần…”:
Chính Thiên Chúa biết những nhu cầu chính đáng của ta và hằng muốn thoả mãn cho ta. Cái sai lầm cho dân ngoại là ở chỗ không nhận ra tình yêu quan phòng ấy của Thiên Chúa và vì vậy sinh ra bạo hành với tại vật của Chúa và muốn chiếm đọat cho kỳ được, khiến gây nên nhiều bất công xã hội.
12/ “ Tiên vàn các con hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa”:
Chữ “tiên vàn” gợi lên ý nghĩa nằm trong tinh thần Kinh Lạy Cha: Nước Chúa trước tiên đã rồi mới đến cơm bánh.
“Tiềm kiến Nước Thiên Chúa”: Thiên Chúa lo lắng cho con người mọi sự họ cần, nhưng Thiên Chúa cũng mong muốn con người chia sẻ sự bận tâm của Ngài về Nước Thiên Chúa “Nguệyn danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến…”.
“Sự công chính của Nước Trời” có nghĩa là cách ăn nết ở phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.
Người Kitô hữu tiên vàn phải tìm cách để Thiên Chúa ngự trị trong đời mình để lời mình là lời đáp trả với tình yêu thánh ý Thiên Chúa.
13/ “Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.
Ở đây Chúa khuyên ta đừng lo lắng về ngày mai, tức là hãy tín vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta vì:
- Quá khứ đã qua rồi.
- Hiện tại ở trong tầm tay ta, ta phải chu toàn bổn phận của ta.
- Tương lai, ngày mai là của Chúa, hãy phó thác nơi Người.
14/ “Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai”:
Ngày nào có công việc cho ngày ấy, vì thế mỗi ngày đều có công việc phải làm, đừng chồng chất công việc ngày mai vào ngày hôm nay, kẻo làm cho công việc ra nặng hơn.
15/ “Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy”:
Chúa Giêsu chỉ cho ta ý thức rõ ràng cuộc đời không phải chỉ màu hồng hay phẳng lặng êm đẹp như mặt hồ mùa thu, nhưng cũng lắm khổ cực gian nan. Vì thế Người khuyên chúng ta đừng thổi phồng sự khổ cực này cách vô ích vì quá ưu tư, lo lắng, áy náy cho ngày mai.
ÁP DỤNG
A/ Áp dụng theo Tin Mừng
Qua bài Tin Mừng hôm nay Giáo Hội muốn khuyên nhủ chúng ta phải biết cởi mở bỏ sự ham mê của cải vật chất và sự lo lắng về những sự thế tục để được bình tâm trong sự tín thác vào Thiên Chúa quan phòng.
B/ Áp dụng thực hành
Nghe lời Chúa nói:
1/ “Không ai có thể làm tôi hai chủ”: Chúa cấm ta không được bắt cá hai tay, vì sẽ chẳng được con nào nghĩa là chúng ta phải dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa thì phải cởi bỏ sự ham tiền của.
2/ “Các con chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình”: Chúa khuyên ta phải bình tâm trong việc làm ăn sinh sống. Đừng lo lắng áy náy kẻo mất thêm niềm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa là Đấng biết rõ những nhu cầu trong cuộc sống của ta.
3/ “Hãy xem chim trời, bông huệ ngoài đồng…”: Chúa khuyên ta phải biết nhìn ngắm vũ trụ vạn vật để nhận ra bàn tay quan phòng săn sóc của Thiên Chúa để tín thác vào Ngài trong mọi sự.
4/ “Dân ngoại tìm kiếm những điều đó”: Dân ngoại vì không nhận biết Đấng Tạo Thành nên say mê và lo lắng những nhu cầu của cuộc sống. Nếu chúng ta lo lắng áy náy về của ăn áo mặc, thì coi như chúng ta là dân ngoại, đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng.
5/ “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa”: Chúa khuyên nhủ chúng ta phải ưu tiên cho việc Chúa trước, việc đời sau. Ưu tiên cho sự sống siêu nhiên trước sự sống tự nhiên sau…và đồng thời hãy lo chu toàn bổn phận làm con Chúa bằng cách sống cho phù hợp với thánh ý của Chúa.
6/ “Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy”: Đời sống của con người không tránh khỏi những gian nan thử thách. Vì thế phải biết chịu đựng mỗi ngày:
- Đau khổ trong quá khứ: đừng gợi lại làm chi vì đã qua.
- Đau khổ trong hiện tại: rồi sẽ qua đi đừng bối rối.
- Đau khổ trong tương lai:chắc gì xảy đến, hãy cứ vui sống.
34. Suy niệm của Lm Hồ Thông
ƠN QUAN PHÒNG CỦA THIÊN CHÚA
Bản văn này còn thuộc “Bài Giảng Trên Núi”, ở đó thánh Matthêu đã quy tụ những lời dạy khác nhau của Chúa Kitô. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương minh triết của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc, hình ảnh thi vị, được tô điểm với những lời khuyên xử thế thực tiển. Nhưng bên kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao vời: bài diễn từ mặc khải về Chúa Cha và sự ân cần chăm lo không ngừng của Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy cho các môn đệ Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không giới hạn theo hình ảnh đức ái của Cha trên trời. Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi lên đại gia đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội, chim trời và con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm lòng nhân ái của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa và tiền của:
Trước tiên Chúa Giêsu nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà Ngài áp dụng đặc biệt bằng cách đối lập Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã gìn giữ từ A-ram “mammon”, nguyên nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc chắn Chúa Giêsu đã muốn nhân cách hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông chủ.
Việc tôn thờ tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng trích trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.
2. Đừng lo lắng thái quá:
Chúa Giêsu không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn (6, 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6, 31-33) và về ngày mai (6, 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22,35).
Cũng như cô Mácta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi cô em Maria ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô Maria chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.
3. Tin tưởng vào Chúa quan phòng:
Việc Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thọ tạo của mình là một chủ đề Kinh Thánh, được khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh ca ngợi: “Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn” (Tv 104, 27. 145,15; 136,25; 147,9).
Giữa những thọ tạo khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để mời gọi con người phải sống trong sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người. Người đã ban cho chim trời có thức ăn hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công gieo vãi, không gặt hái và không trích trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.
“Hoa huệ”, từ ngữ chỉ không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ nội. Vào mùa xuân, miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. “Nay còn, mai đã quăng vào lò”. Chúa Giêsu biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội, bị héo khô, được các nông dân Galilê thu lượm lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng bánh.
Từ những tạo vật hèn mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội, Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất cao cả của con người. Con người là một tạo vật cao vời khôn sánh đối với chim trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho giúp người Kitô hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái độ lương dân. Người môn đệ của Chúa Kitô phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời.
4. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
“Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”. Từ “công chính” phải được hiểu theo nghĩa kinh thánh: “sự thánh thiện”. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
“Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những điều Ngài vừa mới đề cập đến: thức ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng đối với dân ngoại, nhưng không đối với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa với “những người công chính” là sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà Ngài vừa mới dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
“Anh em đừng lo lắng về ngày mai”. Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin tưởng và một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó: “Chúa là hạnh phúc và tình yêu đời con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời đời”.
Bản văn này còn thuộc “Bài Giảng Trên Núi”, ở đó thánh Matthêu đã quy tụ những lời dạy khác nhau của Chúa Kitô. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương minh triết của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc, hình ảnh thi vị, được tô điểm với những lời khuyên xử thế thực tiển. Nhưng bên kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao vời: bài diễn từ mặc khải về Chúa Cha và sự ân cần chăm lo không ngừng của Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy cho các môn đệ Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không giới hạn theo hình ảnh đức ái của Cha trên trời. Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi lên đại gia đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội, chim trời và con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm lòng nhân ái của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa và tiền của:
Trước tiên Chúa Giêsu nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành: “Không ai có thể làm tôi hai chủ” mà Ngài áp dụng đặc biệt bằng cách đối lập Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã gìn giữ từ A-ram “mammon”, nguyên nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc chắn Chúa Giêsu đã muốn nhân cách hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông chủ.
Việc tôn thờ tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng trích trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.
2. Đừng lo lắng thái quá:
Chúa Giêsu không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn (6, 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6, 31-33) và về ngày mai (6, 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?”. Các ông đáp: “Thưa không” (Lc 22,35).
Cũng như cô Mácta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi cô em Maria ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô Maria chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.
3. Tin tưởng vào Chúa quan phòng:
Việc Đấng Tạo Hóa ân cần chăm lo cho các loài thọ tạo của mình là một chủ đề Kinh Thánh, được khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh ca ngợi: “Hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn” (Tv 104, 27. 145,15; 136,25; 147,9).
Giữa những thọ tạo khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để mời gọi con người phải sống trong sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người. Người đã ban cho chim trời có thức ăn hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công gieo vãi, không gặt hái và không trích trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.
“Hoa huệ”, từ ngữ chỉ không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ nội. Vào mùa xuân, miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. “Nay còn, mai đã quăng vào lò”. Chúa Giêsu biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội, bị héo khô, được các nông dân Galilê thu lượm lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng bánh.
Từ những tạo vật hèn mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội, Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất cao cả của con người. Con người là một tạo vật cao vời khôn sánh đối với chim trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho giúp người Kitô hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái độ lương dân. Người môn đệ của Chúa Kitô phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời.
4. Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
“Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người”. Từ “công chính” phải được hiểu theo nghĩa kinh thánh: “sự thánh thiện”. Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
“Còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”, tức là những điều Ngài vừa mới đề cập đến: thức ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng đối với dân ngoại, nhưng không đối với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa với “những người công chính” là sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà Ngài vừa mới dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
“Anh em đừng lo lắng về ngày mai”. Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin tưởng và một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó: “Chúa là hạnh phúc và tình yêu đời con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời đời”.
35. Giằng co – Trầm Thiên Thu
Đời người là cuộc chiến đấu không ngừng giữa Thiện và Ác, hai phe luôn GIẰNG CO không ngừng và rất dữ dội: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19).
Cuộc chiến đời người không chỉ giới hạn giữa Thiện và Ác, mà rất đa dạng và nhiều mức độ. Khi nói về việc ở độc thân để lo việc Chúa, Thánh Phaolô nói: “Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Đặc biệt là giằng co còn có dạng xem chừng “thanh thản” lắm, như Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1:23-24).
Giằng co rất gay cấn, nhất là khi hai bên ngang ngửa, khó chọn lựa. Về sự chọn lựa, có triết lý này: Khi phải chọn lựa mà chúng ta không chọn lựa, đó cũng là chọn lựa – tức là chúng ta chọn cách “không chọn lựa”. Vì thế, chúng ta rất cần có sự sáng suốt và thái độ dứt khoát, không thể lờ lững nước đôi, càng mạnh mẽ càng dễ dứt khoát. Và Thiên Chúa cũng muốn chúng ta phải dứt khoát: “Vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:16).
Sion từng nói: “Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!” (Is 49:14). Chúng ta cũng thường xuyên có động thái như vậy. Cũng có thể vì chúng ta yếu đuối, cũng có thể vì chúng ta cứng lòng và cố chấp. Thế nhưng chúng ta đã ngộ nhận, hoàn toàn lầm tưởng, vì Thiên Chúa hứa chắc chắn: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15). Ngài đã hứa thì Ngài luôn giữ đúng lời, trước sau như một.
Con người luôn bị giằng co, nghĩa là luôn bất an, dù đôi khi nhìn có vẻ… rất thanh thản. Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng” (Tv 62:2-3). Bí quyết đơn giản là “bám vào Chúa”. Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì khó lắm. Vì thế, chúng ta phải không ngừng nỗ lực và quyết tâm giằng co với chính mình để có thể giảm bớt mức độ giằng co. Muốn vậy, chúng ta chỉ có cách duy nhất là cậy nhờ Chúa.
Tác giả Thánh Vịnh đã dày kinh nghiệm: “Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang, Người là núi đá vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân. Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi, trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can: Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu” (Tv 62:6-9). Chắc hẳn là vậy, vì có lẽ mỗi chúng ta cũng đã và đang có chút kinh nghiệm nào đó về phương diện này.
Là người đã từng bị giằng co dữ dội và vượt qua chính mình, Thánh Phaolô bộc bạch: “Chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành. Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình. Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng xét xử tôi chính là Chúa” (1 Cr 4:1-4). Như vậy là Thánh Phaolô đã thực sự thanh thản, chẳng còn sợ hãi gì nữa. Được như vậy thì hẳn phải chiến đấu nhiều lắm!
Chắc chắn không ai lại không muốn được Thiên Chúa cứu độ, được hưởng phúc trường sinh, được làm công dân nơi Thiên Quốc, thế nhưng người ta lại thường “ngại” sống “khác người”, cứ so đo thế này hay thế nọ. Đó chính là sự giằng co trong mỗi chúng ta hằng ngày, thậm chí là từng phút, từng giây. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng” (1 Cr 4:5).
Cuộc đời nhiêu khê, đủ dạng giằng co – nhất là về lĩnh vực vật chất, tiền bạc, danh vọng, địa vị, chức tước,... Người ta thường nói: “Ở hiền gặp lành”. Thế nhưng có người luôn sống tốt lành, ngoan hiền, đại lượng, nhân hậu,... mà vẫn gặp nghịch cảnh. Người ta cũng thường nhắc tới “luật nhân – quả”. Thế nhưng vẫn có những người sống ngang ngược, ích kỷ, ác độc, không coi ai ra gì, vậy mà họ vẫn phây phây, sống ung dung tự tại, sung sướng, không hề biết khổ là gì. Lạy Chúa tôi!
Quả thật, trí óc con người như bã đậu, không thể nào hiểu nổi. Cuộc đời là bí số như một hằng số, một số vô tỷ hoặc phương trình vô nghiệm!
Vì nghèo mà bị khinh, chịu thua thiệt, thế nên người ta phải nỗ lực làm giàu, nhưng đâu phải ai cũng “xuôi chèo mát mái”, có người trở thành hèn hạ và độc ác chỉ vì tiền bạc. Thật là rắc rối và tội lỗi quá!
Chuyện kể rằng...
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp, chẳng dám tiêu xài. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được một gia tài kếch xù. Một ngày nọ, Tử Thần đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới chợt nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia.
Anh ta năn nỉ: “Tôi chia 1/3 tài sản của tôi cho ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi”. Tử Thần lắc đầu: “Không được”. Anh ta van nài: “Vậy tôi đưa ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không?”. Tử Thần vẫn không đồng ý: “Không được”. Anh ta vội nói: “Vậy… tôi xin giao hết của cải cho ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?”. Tử Thần vừa nói vừa giơ cao lưỡi hái trên tay: “Không được”. Anh ta tuyệt vọng cầu xin lần cuối: “Thế thì ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy”. Lần này Tử Thần đồng ý. Anh run rẩy viết: “Xin hãy nhớ: Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
Chắc hẳn người này đã từng bị giằng co rất nhiều trong suốt cuộc sống, thế mà đến lúc sắp chết vẫn chưa hết bị giằng co. Cuộc đời là thế! Tuy nhiên, thứ giá trị nhất trong cuộc sống là thời gian. Khi chúng ta chưa làm được gì có ích cho đời thì cũng đừng làm điều gì vô vị. Có một danh nhân đã nói: “Dù chưa làm được điều mình muốn thì ít ra cũng phải biết muốn điều mình làm”. Quả là một triết-lý-sống độc đáo lắm! Dù không có ý xấu, nhưng ông Alfred Nobel (1) và Mikhail Kalashnikov (2) vẫn bị giằng co. Ông Alfred Nobel cảm thấy hối hận vì đã “lỡ” phát minh chất nổ, còn ông Mikhail Kalashnikov cũng bị dằn vặt vì đã “lỡ” phát minh súng AK-47.
Chúa Giêsu biết nhân loại luôn bị giằng co, thế nên Ngài muốn chúng ta phải dứt khoát: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6:24).
Ngài khuyên răn và đưa ra ví dụ cụ thể: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6:25-29).
Vâng, rất rạch ròi, rất chi tiết. Thế nhưng con người lại không dễ đạt được mức tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, dù thâm tâm vẫn tự nhủ phải ghi nhớ lời Đại Sư Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Kiếp người chán thật! Thế nhưng đừng vì thế mà tuyệt vọng, dù có những lúc chúng ta hoang mang và thất vọng (x. 2 Cr 4:8). Chúa Giêsu biết rõ chúng ta hơn chính chúng ta tự biết mình, chắc chắn Ngài cảm thông lắm. Đừng lo, đừng sợ! Ngài sẽ ra tay tế độ nếu chúng ta thật lòng muốn “sờ vào tua áo” của Ngài (x. Mt 9:20; Mt 14:36; Lc 8:44).
Chúa Giêsu vừa lý luận vừa quở trách chúng ta: “Nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6:30-32). Ôi chao, thật là xấu hổ quá đi thôi!
Chúa Giêsu rất nghiêm túc và thẳng thắn: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:33-34). Hiểu và chấp nhận như vậy thì chúng ta sẽ bớt bị giằng co!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vui vẻ chấp nhận những đau khổ hằng ngày, chấp nhận chính sự giằng co để chúng con khả dĩ “xé lòng” mà biến đổi không ngừng theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
-------------------
(1) Alfred Nobel sinh ngày 21-10-1833 tại Stockholm, Thụy Điển, mất ngày 10-12-1896. Ông phát minh chất nổ rất có lợi cho nhân loại, nhưng người ta lại dùng nó để giết hại con người. Tài sản của ông để lại được dùng làm Giải Nobel để tặng thưởng những người có công lớn đối với nhân loại về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực hòa bình.
(2) Mikhail Timofeyevich Kalashnikov (Nga) đã thực sự hối tiếc vì phát minh súng AK-47, loại súng trường nổi tiếng nhất thế giới, ông lo lắng cuộc sống bị huỷ diệt vì vũ khí của mình, và điều đó đã luôn ám ảnh ông. Ông sinh ngày 10-11-1919 trong một gia đình nông dân ở Nga. Gia đình ông không được chính quyền Soviet chấp thuận nên đã bị trục xuất về Siberia, nơi ông phải đi săn với cây súng trường để nuôi sống gia đình. Ngày 23-12-2013, ông chết trong sự cô đơn, không một người thân, nhưng vũ khí AK-47 vẫn đang gây ra biết bao cái chết!
Cuộc chiến đời người không chỉ giới hạn giữa Thiện và Ác, mà rất đa dạng và nhiều mức độ. Khi nói về việc ở độc thân để lo việc Chúa, Thánh Phaolô nói: “Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị giằng co” (1 Cr 7:35). Đặc biệt là giằng co còn có dạng xem chừng “thanh thản” lắm, như Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1:23-24).
Giằng co rất gay cấn, nhất là khi hai bên ngang ngửa, khó chọn lựa. Về sự chọn lựa, có triết lý này: Khi phải chọn lựa mà chúng ta không chọn lựa, đó cũng là chọn lựa – tức là chúng ta chọn cách “không chọn lựa”. Vì thế, chúng ta rất cần có sự sáng suốt và thái độ dứt khoát, không thể lờ lững nước đôi, càng mạnh mẽ càng dễ dứt khoát. Và Thiên Chúa cũng muốn chúng ta phải dứt khoát: “Vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:16).
Sion từng nói: “Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!” (Is 49:14). Chúng ta cũng thường xuyên có động thái như vậy. Cũng có thể vì chúng ta yếu đuối, cũng có thể vì chúng ta cứng lòng và cố chấp. Thế nhưng chúng ta đã ngộ nhận, hoàn toàn lầm tưởng, vì Thiên Chúa hứa chắc chắn: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49:15). Ngài đã hứa thì Ngài luôn giữ đúng lời, trước sau như một.
Con người luôn bị giằng co, nghĩa là luôn bất an, dù đôi khi nhìn có vẻ… rất thanh thản. Tác giả Thánh Vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành luỹ chở che: tôi chẳng hề nao núng” (Tv 62:2-3). Bí quyết đơn giản là “bám vào Chúa”. Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì khó lắm. Vì thế, chúng ta phải không ngừng nỗ lực và quyết tâm giằng co với chính mình để có thể giảm bớt mức độ giằng co. Muốn vậy, chúng ta chỉ có cách duy nhất là cậy nhờ Chúa.
Tác giả Thánh Vịnh đã dày kinh nghiệm: “Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu độ và vinh quang, Người là núi đá vững vàng, ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn thân. Hỡi dân ta, hãy tin tưởng vào Người luôn mãi, trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm can: Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu” (Tv 62:6-9). Chắc hẳn là vậy, vì có lẽ mỗi chúng ta cũng đã và đang có chút kinh nghiệm nào đó về phương diện này.
Là người đã từng bị giằng co dữ dội và vượt qua chính mình, Thánh Phaolô bộc bạch: “Chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành. Đối với tôi, dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình. Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng xét xử tôi chính là Chúa” (1 Cr 4:1-4). Như vậy là Thánh Phaolô đã thực sự thanh thản, chẳng còn sợ hãi gì nữa. Được như vậy thì hẳn phải chiến đấu nhiều lắm!
Chắc chắn không ai lại không muốn được Thiên Chúa cứu độ, được hưởng phúc trường sinh, được làm công dân nơi Thiên Quốc, thế nhưng người ta lại thường “ngại” sống “khác người”, cứ so đo thế này hay thế nọ. Đó chính là sự giằng co trong mỗi chúng ta hằng ngày, thậm chí là từng phút, từng giây. Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Xin anh em đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng” (1 Cr 4:5).
Cuộc đời nhiêu khê, đủ dạng giằng co – nhất là về lĩnh vực vật chất, tiền bạc, danh vọng, địa vị, chức tước,... Người ta thường nói: “Ở hiền gặp lành”. Thế nhưng có người luôn sống tốt lành, ngoan hiền, đại lượng, nhân hậu,... mà vẫn gặp nghịch cảnh. Người ta cũng thường nhắc tới “luật nhân – quả”. Thế nhưng vẫn có những người sống ngang ngược, ích kỷ, ác độc, không coi ai ra gì, vậy mà họ vẫn phây phây, sống ung dung tự tại, sung sướng, không hề biết khổ là gì. Lạy Chúa tôi!
Quả thật, trí óc con người như bã đậu, không thể nào hiểu nổi. Cuộc đời là bí số như một hằng số, một số vô tỷ hoặc phương trình vô nghiệm!
Vì nghèo mà bị khinh, chịu thua thiệt, thế nên người ta phải nỗ lực làm giàu, nhưng đâu phải ai cũng “xuôi chèo mát mái”, có người trở thành hèn hạ và độc ác chỉ vì tiền bạc. Thật là rắc rối và tội lỗi quá!
Chuyện kể rằng...
Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp, chẳng dám tiêu xài. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được một gia tài kếch xù. Một ngày nọ, Tử Thần đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới chợt nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia.
Anh ta năn nỉ: “Tôi chia 1/3 tài sản của tôi cho ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi”. Tử Thần lắc đầu: “Không được”. Anh ta van nài: “Vậy tôi đưa ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không?”. Tử Thần vẫn không đồng ý: “Không được”. Anh ta vội nói: “Vậy… tôi xin giao hết của cải cho ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?”. Tử Thần vừa nói vừa giơ cao lưỡi hái trên tay: “Không được”. Anh ta tuyệt vọng cầu xin lần cuối: “Thế thì ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy”. Lần này Tử Thần đồng ý. Anh run rẩy viết: “Xin hãy nhớ: Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”.
Chắc hẳn người này đã từng bị giằng co rất nhiều trong suốt cuộc sống, thế mà đến lúc sắp chết vẫn chưa hết bị giằng co. Cuộc đời là thế! Tuy nhiên, thứ giá trị nhất trong cuộc sống là thời gian. Khi chúng ta chưa làm được gì có ích cho đời thì cũng đừng làm điều gì vô vị. Có một danh nhân đã nói: “Dù chưa làm được điều mình muốn thì ít ra cũng phải biết muốn điều mình làm”. Quả là một triết-lý-sống độc đáo lắm! Dù không có ý xấu, nhưng ông Alfred Nobel (1) và Mikhail Kalashnikov (2) vẫn bị giằng co. Ông Alfred Nobel cảm thấy hối hận vì đã “lỡ” phát minh chất nổ, còn ông Mikhail Kalashnikov cũng bị dằn vặt vì đã “lỡ” phát minh súng AK-47.
Chúa Giêsu biết nhân loại luôn bị giằng co, thế nên Ngài muốn chúng ta phải dứt khoát: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6:24).
Ngài khuyên răn và đưa ra ví dụ cụ thể: “Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6:25-29).
Vâng, rất rạch ròi, rất chi tiết. Thế nhưng con người lại không dễ đạt được mức tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, dù thâm tâm vẫn tự nhủ phải ghi nhớ lời Đại Sư Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Kiếp người chán thật! Thế nhưng đừng vì thế mà tuyệt vọng, dù có những lúc chúng ta hoang mang và thất vọng (x. 2 Cr 4:8). Chúa Giêsu biết rõ chúng ta hơn chính chúng ta tự biết mình, chắc chắn Ngài cảm thông lắm. Đừng lo, đừng sợ! Ngài sẽ ra tay tế độ nếu chúng ta thật lòng muốn “sờ vào tua áo” của Ngài (x. Mt 9:20; Mt 14:36; Lc 8:44).
Chúa Giêsu vừa lý luận vừa quở trách chúng ta: “Nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6:30-32). Ôi chao, thật là xấu hổ quá đi thôi!
Chúa Giêsu rất nghiêm túc và thẳng thắn: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:33-34). Hiểu và chấp nhận như vậy thì chúng ta sẽ bớt bị giằng co!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vui vẻ chấp nhận những đau khổ hằng ngày, chấp nhận chính sự giằng co để chúng con khả dĩ “xé lòng” mà biến đổi không ngừng theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
-------------------
(1) Alfred Nobel sinh ngày 21-10-1833 tại Stockholm, Thụy Điển, mất ngày 10-12-1896. Ông phát minh chất nổ rất có lợi cho nhân loại, nhưng người ta lại dùng nó để giết hại con người. Tài sản của ông để lại được dùng làm Giải Nobel để tặng thưởng những người có công lớn đối với nhân loại về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực hòa bình.
(2) Mikhail Timofeyevich Kalashnikov (Nga) đã thực sự hối tiếc vì phát minh súng AK-47, loại súng trường nổi tiếng nhất thế giới, ông lo lắng cuộc sống bị huỷ diệt vì vũ khí của mình, và điều đó đã luôn ám ảnh ông. Ông sinh ngày 10-11-1919 trong một gia đình nông dân ở Nga. Gia đình ông không được chính quyền Soviet chấp thuận nên đã bị trục xuất về Siberia, nơi ông phải đi săn với cây súng trường để nuôi sống gia đình. Ngày 23-12-2013, ông chết trong sự cô đơn, không một người thân, nhưng vũ khí AK-47 vẫn đang gây ra biết bao cái chết!
36. Tiền có cứu độ con người được không?
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Khi đến tuổi trưởng thành, người ta phải đối diện với thực tế cuộc sống như: nghề nghệp, đi tu hay xây dựng gia đình...? Vì thế, đòi mỗi người phải có sự chọn lựa, để chọn sao cho trọn, nhằm tránh đừng “đứng núi này trông núi nọ”. Tuy nhiên, khi đã chọn cho mình một nghề nghệp hay một ơn gọi, con người cần phải tiến xa hơn nữa để chọn lựa cho mình một giá trị tinh thần trong cuộc đời phù hợp với nghề nghiệp, lương tâm và ơn gọi, hầu mang lại sự hạnh phúc và bình an, nhất là ơn cứu độ của mình.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng giúp cho các môn đệ đi đến tận căn khi xác định chọn Chúa hay tiền tài, Ngài nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được" (Lc 16,13b). Một là Thiên Chúa, hai là tiền của. Không có chuyện “bắt cá hai tay”. Thật vậy, chúng ta có hoàn toàn tự do để chọn lựa. Nhưng như một quy luật, chúng ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước sự chọn lựa của mình.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Cả ba bài đọc hôm nay đều nói về sự chọn lựa và hậu quả của sự chọn lựa đó. Nếu chọn Chúa thì con người sẽ được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Ngược lại, không chọn Chúa và đi theo những trào lưu tục hóa, hay những cái mau qua chóng hết thì ắt sẽ bị đau khổ hay dẫn tới hành vi gian ác.
Khởi đi từ bài đọc I: nói về việc dân Israel bị lưu đầy bên Babylon. Trong lúc đau khổ như thế, họ lên tiếng than thân trách phận và trách luôn cả Chúa. Họ cho rằng Chúa đã bỏ mặc họ cho người ta hành hạ và làm nhục. Từ đó, niềm tin của dân chúng đã bị hao mòn và dần dần lạnh nhạt với Thiên Chúa, đã đi theo và tôn thờ thần Baal là thần của dân ngoại.
Khi ấy, tiên tri Isaia lên tiếng khuyên răn và củng cố lòng tin của dân, ông nói: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49, 15). Vì thế, tuy không nói, nhưng ông ngầm gợi lại hình ảnh của một bà mẹ để thấy được rằng Thiên Chúa không bao giờ quên lời hứa của mình, là đã chọn họ làm dân riêng và sẽ cứu độ.
Sang bài đọc II: khi thấy dân thành Corintô đang có dấu hiệu bị phân tán do những tật xấu như: tham lam, ích kỷ, tự phụ và hay có sự phê phán, xét đoán người khác, làm cho trong cộng đoàn mất sự bình an và nghi kị nhau. Nhận ra điều đó, thánh Phaolô đã mạnh mẽ lên tiếng khuyên ngăn dân chúng đừng có đi vào con đường nguy hiểm đó, con đường đó là con đường dẫn đến diệt vong, bởi lẽ những hành vi xấu xa ấy xuất phát nơi Ma Quỷ chứ không đến từ Thiên Chúa.
Nếu chọn Chúa thì phải gạt ra bên lề tất cả những tật xấu đó và để dành quyền xét xử cho Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Người mới thấu xuốt lòng dạ con người, và cũng chỉ có mình Người mới có quyền xét xử mà thôi. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã nói: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy” (Mt 7, 1-2).
Cuối cùng là bài Tin Mừng: Đức Giêsu thấy rất rõ mối nguy hại của đồng tiền, nên Ngài lên tiếng dạy cho mọi người phải biết chọn lựa. Chọn Chúa hay tiền của. Nếu chọn Chúa thì phải từ bỏ những điều bất chính của đồng tiền gây nên, để chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa mà thôi: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16, 13a). Chọn Chúa thì phải coi tiền bạc chỉ là phương tiện. Nếu đã coi nó là phương tiện, tức khắc, nó trở thành nô lệ. Chúa mới là niềm cậy trông, phó thác và cùng đích, là niềm vui và hy vọng, là Chủ của cuộc đời. Nói như thế, Đức Giêsu không dạy người ta: “ngồi mát ăn bát vàng”; hay “bắc nước chờ gạo người”; hoặc “không làm cũng có ăn”. Không phải như vậy, vì nếu như thế thì một cách vô hình trung, Chúa cổ xúy cho cái nghèo, hay bảo người ta “an phận thủ thường”. Nhưng Ngài muốn nói rằng: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Khi chọn Chúa, chúng ta có quyền tin tưởng vào tình thương của Ngài qua sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao!” (Lc 12, 22-24).
2. Chọn sao cho trọn
Trong cuộc sống, nhất là thời điểm hiện đại như ngày nay, con người luôn bị cuốn vào vòng soáy của đủ thứ. Mọi chuyện trong xã hội thay đổi từng ngày. Nhiều giá trị cuộc sống cũng bị đổi thay không ngừng theo thời gian làm cho con người ngày nay cũng hay thay đổi và chạy theo những trào lưu hoặc xu hướng thời đại mà ít quan tâm đến tính bền vững của sự lựa chọn. Họ thượng tôn đồng tiền lên làm chúa của mình. Vì thế, không lạ gì khi có nhiều người cho rằng: đồng tiền giải quyết được mọi sự: “Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”. Hoặc: “Mạnh về gạo, bạo về tiền”; “Lắm tiền, nhiều gạo là tiên trên đời”. Ngay cả việc đạo, nhiều người cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”.
Tuy nhiên, có phải vậy không? Thưa không! Tiền có thể mua được nhiều thứ, nhưng nếu coi nó như ông chủ thì sẽ không thể mua được: mái ấm; thời gian; mục đích; hạnh phúc; bình an; trân trọng; nhân cách; tình nghĩa; tâm hồn; đời sau; Thiên Đàng. Còn nếu nó là đầy tớ thì mới hy vọng đạt được những thứ trên.
Sứ điệp mà bài Tin Mừng hôm nay muốn nhắm tới chính là chúng ta chọn Chúa hay chọn đồng tiền? Chọn điều chính yếu hay phụ thuộc? Đồng thời cũng mời gọi con người không được lo lắng, nhưng biết tin tưởng vào Chúa Quan Phòng.
Thật vậy, không được lo lắng, bởi vì lo lắng thái quá sẽ mất niềm hy vọng, mà ơn cứu độ của chúng ta nhờ vào hy vọng. Nhưng Chúa dạy chúng ta hãy biết lo liệu, bởi vì: “Không biết lo xa ắt phải rầu gần”. Lo liệu là một trong Bẩy ơn của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ giúp cho con người biết khôn ngoan để cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Đừng lo lắng, bồn chồn quá sức, bởi vì quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, và giây phút hiện tại là tốt đẹp nhất, vì thế, ai đang làm gì và nắm giữ vai trò nào thì chúng ta cứ thi hành với lòng mến, chu toàn, tin tưởng và trao phó cho Chúa: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? (32) Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6,31-32). Ý của Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự khôn ngoan và biết tiên liệu.
3. Sống Lời Chúa
Thật ra, Đức Giêsu không lên án tiền của, bởi vì đã có lần Đức Giêsu nói: “Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá" (Lc 12,33). Nếu biết sử dụng thì nó thì nó là tên đầy tớ tốt. Còn không thì nó sẽ là ông chủ tồi. Thật vậy, chính đồng tiền nó sẽ gây nên lòng tham, vì: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1Tm 6,10). Đồng tiền, nó có thể làm cho chúng ta mù mắt và bất chấp mọi sự để đạt được mục đích, cho dù “mục đích rẻ tiền hay bẩn thỉu”. Đồng tiền nó rất rễ điều khiển con người, khiến con người bị lớp bụi ham lợi phủ lên lương tâm, làm cho lương tâm trở nên mù quáng và từ đó dẫn đến mọi chuyện bất chính, khuất tất. Tiền có thể làm cho trí khôn u mê. Giuđa là điển hình cho vấn đề này: ông đã được Chúa chọn, gọi để đi theo Ngài, để rồi sẽ như các tông đồ khác kế tục sứ vụ của Chúa, ấy vậy mà chỉ vì 30 đồng bạc, ông sẵn sàng bán Thầy của mình để Thầy phải chết.
Tiền có thể làm cho tâm hồn vô cảm. Chúng ta cứ xem chuyện ông phú hộ giàu có và Larazô nghèo khó. Ông ta dửng dưng với người anh em chỉ vì chúa của ông ta là đồng tiền và cái bụng. Tiền có thể làm cho ý chí chai lì. "Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong " (1 Tm 6, 9).
Khi diễn tả về việc đồng tiền hay làm cho con người “thay trắng đổi đen”, ngạn ngữ Trung Quốc cũng có câu: “Ngồi trên đống cát, ai cũng quân tử và hiền nhân. Nhưng khi ngồi trên đống vàng mới biết ai thực sự là hiền nhân, quân tử”.
Thật vậy, người môn đệ của Chúa mà ham tiền hơn cả Chúa, hơn cả sứ mạng, thì hạng người đó là đồ bỏ, vì nó đã bị “hư thối”, bị “hết đát”, không dùng được nữa, họ như muối mà hết mặn thì chỉ còn đổ ra đường cho người ta trà đạp lên mà thôi. Nhưng có lẽ đau đớn hơn cả khi những người đó ham tiền thì chẳng khác nào một khối “ung thư di căn”. Họ sẽ dùng mọi lời lẽ khôn khéo xảo quyệt để ngụy biện cho hành vi trục lợi của mình. Khiến cho nhiều người bị họ “đánh lận con đen” nên không biết đâu là thật, đâu là giả nữa.
Những người ham tiền, họ sẵn sàng tôn thờ chúng mà bỏ Chúa, bất chấp tình nghĩa cha con, anh em, bạn bè. Đọc lại lịch sử các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy rất rõ: nhiều đấng bị ngay chính con của mình làm hại chỉ vì ham tiền, tham danh vọng. Cũng vì ham tiền, nên họ có thể sẵn sàng hồ nghi sự quan phòng của Thiên Chúa, và họ khấn vái tứ phương: “gió chiều nào thì ngả theo chiều đó”, miễn sao được lợi. Những hạng người này được ví như người “ba phải”, kẻ “bắt cá hai tay”
Tuy nhiên, người bắt cá hai tay khó có thể thành công, mà nếu có thành công thì không bền vững. Bởi vì, họ bắt được con cá này thì ngỡ con khác to hơn. Đi tìm con khác thì hóa ra nó nhỏ hơn con trước, nhưng như một cái giá phải trả, con cá trước đã cao chạy xa bay, và con cá sau cũng không còn nữa, nên cuối cùng không bắt được con nào. Những người như thế là những người vô dụng và đáng bị nguyền rủa: “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25, 30).
Lạy Chúa, xin tha thứ cho mỗi người chúng con vì những lần con đã thượng tôn tiền của mà đánh mất hay làm ngơ trước tiếng nói của Lương Tâm. Xin cũng cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm Chủ cuộc đời mình và tin tưởng vào Chúa Quan Phòng. Amen.
Khi đến tuổi trưởng thành, người ta phải đối diện với thực tế cuộc sống như: nghề nghệp, đi tu hay xây dựng gia đình...? Vì thế, đòi mỗi người phải có sự chọn lựa, để chọn sao cho trọn, nhằm tránh đừng “đứng núi này trông núi nọ”. Tuy nhiên, khi đã chọn cho mình một nghề nghệp hay một ơn gọi, con người cần phải tiến xa hơn nữa để chọn lựa cho mình một giá trị tinh thần trong cuộc đời phù hợp với nghề nghiệp, lương tâm và ơn gọi, hầu mang lại sự hạnh phúc và bình an, nhất là ơn cứu độ của mình.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng giúp cho các môn đệ đi đến tận căn khi xác định chọn Chúa hay tiền tài, Ngài nói: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được" (Lc 16,13b). Một là Thiên Chúa, hai là tiền của. Không có chuyện “bắt cá hai tay”. Thật vậy, chúng ta có hoàn toàn tự do để chọn lựa. Nhưng như một quy luật, chúng ta phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước sự chọn lựa của mình.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Cả ba bài đọc hôm nay đều nói về sự chọn lựa và hậu quả của sự chọn lựa đó. Nếu chọn Chúa thì con người sẽ được hạnh phúc, bình an và giải thoát. Ngược lại, không chọn Chúa và đi theo những trào lưu tục hóa, hay những cái mau qua chóng hết thì ắt sẽ bị đau khổ hay dẫn tới hành vi gian ác.
Khởi đi từ bài đọc I: nói về việc dân Israel bị lưu đầy bên Babylon. Trong lúc đau khổ như thế, họ lên tiếng than thân trách phận và trách luôn cả Chúa. Họ cho rằng Chúa đã bỏ mặc họ cho người ta hành hạ và làm nhục. Từ đó, niềm tin của dân chúng đã bị hao mòn và dần dần lạnh nhạt với Thiên Chúa, đã đi theo và tôn thờ thần Baal là thần của dân ngoại.
Khi ấy, tiên tri Isaia lên tiếng khuyên răn và củng cố lòng tin của dân, ông nói: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49, 15). Vì thế, tuy không nói, nhưng ông ngầm gợi lại hình ảnh của một bà mẹ để thấy được rằng Thiên Chúa không bao giờ quên lời hứa của mình, là đã chọn họ làm dân riêng và sẽ cứu độ.
Sang bài đọc II: khi thấy dân thành Corintô đang có dấu hiệu bị phân tán do những tật xấu như: tham lam, ích kỷ, tự phụ và hay có sự phê phán, xét đoán người khác, làm cho trong cộng đoàn mất sự bình an và nghi kị nhau. Nhận ra điều đó, thánh Phaolô đã mạnh mẽ lên tiếng khuyên ngăn dân chúng đừng có đi vào con đường nguy hiểm đó, con đường đó là con đường dẫn đến diệt vong, bởi lẽ những hành vi xấu xa ấy xuất phát nơi Ma Quỷ chứ không đến từ Thiên Chúa.
Nếu chọn Chúa thì phải gạt ra bên lề tất cả những tật xấu đó và để dành quyền xét xử cho Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Người mới thấu xuốt lòng dạ con người, và cũng chỉ có mình Người mới có quyền xét xử mà thôi. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã nói: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy” (Mt 7, 1-2).
Cuối cùng là bài Tin Mừng: Đức Giêsu thấy rất rõ mối nguy hại của đồng tiền, nên Ngài lên tiếng dạy cho mọi người phải biết chọn lựa. Chọn Chúa hay tiền của. Nếu chọn Chúa thì phải từ bỏ những điều bất chính của đồng tiền gây nên, để chỉ phụng sự một mình Thiên Chúa mà thôi: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16, 13a). Chọn Chúa thì phải coi tiền bạc chỉ là phương tiện. Nếu đã coi nó là phương tiện, tức khắc, nó trở thành nô lệ. Chúa mới là niềm cậy trông, phó thác và cùng đích, là niềm vui và hy vọng, là Chủ của cuộc đời. Nói như thế, Đức Giêsu không dạy người ta: “ngồi mát ăn bát vàng”; hay “bắc nước chờ gạo người”; hoặc “không làm cũng có ăn”. Không phải như vậy, vì nếu như thế thì một cách vô hình trung, Chúa cổ xúy cho cái nghèo, hay bảo người ta “an phận thủ thường”. Nhưng Ngài muốn nói rằng: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Khi chọn Chúa, chúng ta có quyền tin tưởng vào tình thương của Ngài qua sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao!” (Lc 12, 22-24).
2. Chọn sao cho trọn
Trong cuộc sống, nhất là thời điểm hiện đại như ngày nay, con người luôn bị cuốn vào vòng soáy của đủ thứ. Mọi chuyện trong xã hội thay đổi từng ngày. Nhiều giá trị cuộc sống cũng bị đổi thay không ngừng theo thời gian làm cho con người ngày nay cũng hay thay đổi và chạy theo những trào lưu hoặc xu hướng thời đại mà ít quan tâm đến tính bền vững của sự lựa chọn. Họ thượng tôn đồng tiền lên làm chúa của mình. Vì thế, không lạ gì khi có nhiều người cho rằng: đồng tiền giải quyết được mọi sự: “Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”. Hoặc: “Mạnh về gạo, bạo về tiền”; “Lắm tiền, nhiều gạo là tiên trên đời”. Ngay cả việc đạo, nhiều người cho rằng: “Có thực mới vực được đạo”.
Tuy nhiên, có phải vậy không? Thưa không! Tiền có thể mua được nhiều thứ, nhưng nếu coi nó như ông chủ thì sẽ không thể mua được: mái ấm; thời gian; mục đích; hạnh phúc; bình an; trân trọng; nhân cách; tình nghĩa; tâm hồn; đời sau; Thiên Đàng. Còn nếu nó là đầy tớ thì mới hy vọng đạt được những thứ trên.
Sứ điệp mà bài Tin Mừng hôm nay muốn nhắm tới chính là chúng ta chọn Chúa hay chọn đồng tiền? Chọn điều chính yếu hay phụ thuộc? Đồng thời cũng mời gọi con người không được lo lắng, nhưng biết tin tưởng vào Chúa Quan Phòng.
Thật vậy, không được lo lắng, bởi vì lo lắng thái quá sẽ mất niềm hy vọng, mà ơn cứu độ của chúng ta nhờ vào hy vọng. Nhưng Chúa dạy chúng ta hãy biết lo liệu, bởi vì: “Không biết lo xa ắt phải rầu gần”. Lo liệu là một trong Bẩy ơn của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ giúp cho con người biết khôn ngoan để cậy trông vào Chúa Quan Phòng. Đừng lo lắng, bồn chồn quá sức, bởi vì quá khứ đã qua, tương lai chưa tới, và giây phút hiện tại là tốt đẹp nhất, vì thế, ai đang làm gì và nắm giữ vai trò nào thì chúng ta cứ thi hành với lòng mến, chu toàn, tin tưởng và trao phó cho Chúa: “Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? (32) Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6,31-32). Ý của Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự khôn ngoan và biết tiên liệu.
3. Sống Lời Chúa
Thật ra, Đức Giêsu không lên án tiền của, bởi vì đã có lần Đức Giêsu nói: “Hãy sắm lấy túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá" (Lc 12,33). Nếu biết sử dụng thì nó thì nó là tên đầy tớ tốt. Còn không thì nó sẽ là ông chủ tồi. Thật vậy, chính đồng tiền nó sẽ gây nên lòng tham, vì: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1Tm 6,10). Đồng tiền, nó có thể làm cho chúng ta mù mắt và bất chấp mọi sự để đạt được mục đích, cho dù “mục đích rẻ tiền hay bẩn thỉu”. Đồng tiền nó rất rễ điều khiển con người, khiến con người bị lớp bụi ham lợi phủ lên lương tâm, làm cho lương tâm trở nên mù quáng và từ đó dẫn đến mọi chuyện bất chính, khuất tất. Tiền có thể làm cho trí khôn u mê. Giuđa là điển hình cho vấn đề này: ông đã được Chúa chọn, gọi để đi theo Ngài, để rồi sẽ như các tông đồ khác kế tục sứ vụ của Chúa, ấy vậy mà chỉ vì 30 đồng bạc, ông sẵn sàng bán Thầy của mình để Thầy phải chết.
Tiền có thể làm cho tâm hồn vô cảm. Chúng ta cứ xem chuyện ông phú hộ giàu có và Larazô nghèo khó. Ông ta dửng dưng với người anh em chỉ vì chúa của ông ta là đồng tiền và cái bụng. Tiền có thể làm cho ý chí chai lì. "Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong " (1 Tm 6, 9).
Khi diễn tả về việc đồng tiền hay làm cho con người “thay trắng đổi đen”, ngạn ngữ Trung Quốc cũng có câu: “Ngồi trên đống cát, ai cũng quân tử và hiền nhân. Nhưng khi ngồi trên đống vàng mới biết ai thực sự là hiền nhân, quân tử”.
Thật vậy, người môn đệ của Chúa mà ham tiền hơn cả Chúa, hơn cả sứ mạng, thì hạng người đó là đồ bỏ, vì nó đã bị “hư thối”, bị “hết đát”, không dùng được nữa, họ như muối mà hết mặn thì chỉ còn đổ ra đường cho người ta trà đạp lên mà thôi. Nhưng có lẽ đau đớn hơn cả khi những người đó ham tiền thì chẳng khác nào một khối “ung thư di căn”. Họ sẽ dùng mọi lời lẽ khôn khéo xảo quyệt để ngụy biện cho hành vi trục lợi của mình. Khiến cho nhiều người bị họ “đánh lận con đen” nên không biết đâu là thật, đâu là giả nữa.
Những người ham tiền, họ sẵn sàng tôn thờ chúng mà bỏ Chúa, bất chấp tình nghĩa cha con, anh em, bạn bè. Đọc lại lịch sử các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy rất rõ: nhiều đấng bị ngay chính con của mình làm hại chỉ vì ham tiền, tham danh vọng. Cũng vì ham tiền, nên họ có thể sẵn sàng hồ nghi sự quan phòng của Thiên Chúa, và họ khấn vái tứ phương: “gió chiều nào thì ngả theo chiều đó”, miễn sao được lợi. Những hạng người này được ví như người “ba phải”, kẻ “bắt cá hai tay”
Tuy nhiên, người bắt cá hai tay khó có thể thành công, mà nếu có thành công thì không bền vững. Bởi vì, họ bắt được con cá này thì ngỡ con khác to hơn. Đi tìm con khác thì hóa ra nó nhỏ hơn con trước, nhưng như một cái giá phải trả, con cá trước đã cao chạy xa bay, và con cá sau cũng không còn nữa, nên cuối cùng không bắt được con nào. Những người như thế là những người vô dụng và đáng bị nguyền rủa: “Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25, 30).
Lạy Chúa, xin tha thứ cho mỗi người chúng con vì những lần con đã thượng tôn tiền của mà đánh mất hay làm ngơ trước tiếng nói của Lương Tâm. Xin cũng cho mỗi người chúng con biết chọn Chúa làm Chủ cuộc đời mình và tin tưởng vào Chúa Quan Phòng. Amen.
37. Nô lệ hay tự do – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Hôm ấy, trời vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ: “Xem chừng anh mơ ước giàu có lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thgi cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết”.
Anh vui sướng quá! Cha chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên con ngựa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước trong ngần huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chàng lại chạy tiếp. Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng thở hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỉ phú với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua”.
Nhưng vừa bước chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỉ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất!
***
Đó là kết cục của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng!
Đức Giêsu đã cảnh báo cho những con người tôn thờ tiền của ấy như sau: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6, 24). Tiền của ở đây được viết hoa, tiếng Aram là Mammon, có nghĩa là Thần tiền. Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường. Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta chọn lựa, thì quyền lực của nó phải là vô song.
Sống là một chuỗi những chọn lựa. Chính những chọn lựa này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở nên người tốt hay hóa ra kẻ xấu, được hạnh phúc hay phải khổ đau. Đã chọn lựa điều này thì phải từ bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ cũng nuối tiếc dằng co. Đức Giêsu muốn các môn đệ của Người phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi tiền của.
Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ thường. Việt nam ta có câu: “Có tiền mua tiên cũng được”. Ngay cả việc đạo cũng phải có tiền mới xong: “Có thực mới vực được đạo”. Nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế? Thật ra, Người không lên án tiền của, Người chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi.
Tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua nước Thiên Đàng đời sau. Tự bản chất tiền của là tốt, nó là hồng ân của Thiên Chúa tặng ban cho con người.
Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta như anh đầy tớ trong câu chuyện trên đây.
Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta qúa tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giàu có xử tệ với Ladarô nghèo khó.
Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.
Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy nơi Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.
Vì thế Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của. Người còn khuyên chúng ta đừng lo lắng về “của ăn, áo mặc”. Động từ “lo lắng” được lập đi lập lại 6 lần, chứng tỏ tính cấp bách phải từ bỏ mọi lo âu thái quá, vì cả cuộc sống chúng ta đều ở trước mặt Chúa Cha, Đấng biết rõ mọi thứ chúng ta cần.
Nói như thế, không phải là Người cổ vũ cho sự lười biếng ỷ lại, hay sự vô tâm thụ động, không làm gì để Chúa làm tất cả. Người khuyên chúng ta đừng lo lắng, chứ không cản chúng ta lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác nơi Chúa.
Nếu Chúa đã nói: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngài mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: Quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang trong tầm tay, phải chu toàn nó; tương là là của Chúa, hãy phó thác cho Người.
***
Lạy Chúa, Chúa đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người trước” (Mt 6,33), xin cho chúng con trong khi bôn ba cho cuộc sống này, vẫn dành ưu tiên cho việc làm sáng danh Chúa và luôn sống theo thánh ý Người. Amen.
Hôm ấy, trời vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ: “Xem chừng anh mơ ước giàu có lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thgi cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết”.
Anh vui sướng quá! Cha chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên con ngựa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với mặt nước trong ngần huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chàng lại chạy tiếp. Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng thở hổn hển quay bước trở về, để làm bậc tỉ phú với “Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua”.
Nhưng vừa bước chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc… Nhưng vô hiệu. Nhà tỉ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất!
***
Đó là kết cục của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng!
Đức Giêsu đã cảnh báo cho những con người tôn thờ tiền của ấy như sau: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được” (Mt 6, 24). Tiền của ở đây được viết hoa, tiếng Aram là Mammon, có nghĩa là Thần tiền. Nếu tiền được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường. Nếu tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta chọn lựa, thì quyền lực của nó phải là vô song.
Sống là một chuỗi những chọn lựa. Chính những chọn lựa này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở nên người tốt hay hóa ra kẻ xấu, được hạnh phúc hay phải khổ đau. Đã chọn lựa điều này thì phải từ bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ cũng nuối tiếc dằng co. Đức Giêsu muốn các môn đệ của Người phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi tiền của.
Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của con người, nên tiền của hấp dẫn lạ thường. Việt nam ta có câu: “Có tiền mua tiên cũng được”. Ngay cả việc đạo cũng phải có tiền mới xong: “Có thực mới vực được đạo”. Nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế? Thật ra, Người không lên án tiền của, Người chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi.
Tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự sống đời này, và để mua nước Thiên Đàng đời sau. Tự bản chất tiền của là tốt, nó là hồng ân của Thiên Chúa tặng ban cho con người.
Tiền của chỉ trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta, thậm chí lấy luôn mạng sống ta như anh đầy tớ trong câu chuyện trên đây.
Tiền của chỉ trở nên đáng ghét khi ta qúa tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ với anh em, như người giàu có xử tệ với Ladarô nghèo khó.
Tiền của chỉ trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì mê 30 đồng bạc.
Tiền của chỉ trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy nơi Thiên Chúa quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.
Vì thế Đức Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của. Người còn khuyên chúng ta đừng lo lắng về “của ăn, áo mặc”. Động từ “lo lắng” được lập đi lập lại 6 lần, chứng tỏ tính cấp bách phải từ bỏ mọi lo âu thái quá, vì cả cuộc sống chúng ta đều ở trước mặt Chúa Cha, Đấng biết rõ mọi thứ chúng ta cần.
Nói như thế, không phải là Người cổ vũ cho sự lười biếng ỷ lại, hay sự vô tâm thụ động, không làm gì để Chúa làm tất cả. Người khuyên chúng ta đừng lo lắng, chứ không cản chúng ta lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày mai, nhưng luôn tin cậy phó thác nơi Chúa.
Nếu Chúa đã nói: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngài mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: Quá khứ đã qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang trong tầm tay, phải chu toàn nó; tương là là của Chúa, hãy phó thác cho Người.
***
Lạy Chúa, Chúa đã dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người trước” (Mt 6,33), xin cho chúng con trong khi bôn ba cho cuộc sống này, vẫn dành ưu tiên cho việc làm sáng danh Chúa và luôn sống theo thánh ý Người. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét