Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật XXIII Thường Niên B –
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII này cho chúng ta thoáng thấy
những dấu chỉ về cuộc biến đổi của những người được cứu độ.
Is 35: 4-7
Ngôn sứ I-sai-a loan báo rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải
phóng họ khỏi cảnh lưu đày ở Ba-by-lon. Những dấu chỉ báo trước ơn cứu độ của
Ngài, đó là giải phóng con người khỏi những quyền lực sự dữ.
Gc 2: 1-5
Thánh Gia-cô-bê nhắc nhở rằng trong cộng đoàn của những người
đã đón nhận ơn cứu độ, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào giữa người giàu
và người nghèo, bởi vì Thiên Chúa dành chỗ ưu tiên cho người nghèo.
Mc 7: 31-37
Thánh Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su chữa lành một người
vừa câm vừa điếc ở miền Thập Tỉnh, việc chữa lành này là giáo huấn về dấu chỉ
thời Mê-si-a, thời cứu độ của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Is 35: 4-7)
Bản văn này được đưa vào trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a
đệ nhất (ch. 1-39), một trong những ngôn sứ thời tiền lưu đày, thuộc thế kỷ
VIII TCN. Nhưng rõ ràng giọng văn lại là của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (40-55),
một trong những ngôn sứ thời lưu đày với một viễn cảnh đặc thù của ông: ngày cứu
thoát những người lưu đày ở Ba-by-lon sắp đến rồi.
1. Ngày cứu thoát sắp đền gần rồi
Vị ngôn sứ mời gọi những người lưu đày: “Hãy can đảm lên, đừng
sợ!”, vì sắp tới ngày Thiên Chúa báo phục cho dân Ngài, ngày Thiên Chúa cứu
thoát họ khỏi những kẻ áp bức họ. Và ông trưng dẫn hai dấu chỉ của thời cứu
thoát này: những bệnh hoạn tật nguyền thể lý sẽ biến mất và sa mạc sẽ không còn
vùng đất khô cằn nữa, vì trên con đường hồi hương trở về (từ Ba-by-lon đến
Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri) Thiên Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu:
“kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” và “miền nóng bỏng
biến thành hồ ao, đất khô khan có suối nước dâng trào”.
Chắc chắn những hình ảnh này là lối nói ngoa dụ để diễn tả
niềm hân hoan của những người lưu đày mong ước được gặp lại cố hương. Nhưng sâu
xa hơn, những hình ảnh này diễn tả một thực tại tinh thần. Thiên Chúa đã bày tỏ
lòng xót thương; Ngài đã không còn nhớ đến những tội lỗi của dân Ngài và đưa họ
trở về quê cha đất tổ, theo cách nào đó Ngài làm mới lại Giao Ước của Ngài với
họ.
2. Cứu thoát khỏi những quyền lực sự ác
Những người mù sẽ được sáng mắt để thấy được ý nghĩa sâu xa
của biến cố; những người điếc nghe được những tin vui và những người què sẽ vui
mừng hớn hở. Trong một đoạn văn trước đó theo cùng văn mạch, chúng ta đọc thấy:
“Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe những lời trong sách, mắt người mù sẽ thoát khỏi
cảnh mù lòa tối tăm và sẽ được nhìn thấy. Nhờ Đức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ
ngày thêm phấn khởi, và vì Đức Thánh của Ít-ra-en, những người nghèo túng sẽ nhảy
múa tưng bừng” (Is 29: 18-19). Chúng ta có thể xác định thêm nữa: vào thời này,
cũng như vào thời Đức Giê-su, những tật nguyền thể lý được coi như những hình
phạt vì tội lỗi (Ga 9: 1-3); vì thế, nếu những người mù được mở đôi mắt để thấy,
nếu những người điếc được mở đôi tai để nghe, chính vì những nguyên nhân gây
nên những đau khổ của họ đã biến mất: những tội lỗi của họ đã được tha thứ.
Rõ ràng, sấm ngôn mang chiều kích Mê-si-a: “Chính Người sẽ đến
cứu anh em”, nghĩa là, Ngài bày tỏ lòng xót thương và ban ơn tha thứ tội lỗi của
thế giới. Việc chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền thể lý là tiên báo việc chữa
lành những đau khổ tinh thần. Khi Gioan Tẩy Giả băn khoăn muốn biết phải chăng
Đức Giê-su thật sự là Đấng Mê-si-a, Đức Giê-su trả lời cho ông qua những người
được thánh nhân sai đến: “Các ông cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt
thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc
nghe được…” (Mt 11: 4). Đây là những dấu chỉ thời Mê-si-a mà các ngôn sứ đã báo
trước. Tin Mừng hôm nay khẳng định lời loan báo này.
BÀI ĐỌC II (Gc 2: 1-5)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Gia-cô-bê. Bản văn là
kim chỉ nam thực hành những nhân đức, trong đó đức khó nghèo chiếm một chỗ quan
trọng.
1. Thái độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng
Có sự phân biệt đối xử giữa người giàu và người nghèo trong
buổi hội họp cộng đoàn Ki-tô hữu, vì thế thánh nhân đã lên án nghiêm khắc thái
độ phản chứng đối với những giá trị Tin Mừng này. Cách tiếp đón ân cần vồn vã
và khúm núm đối với những người giàu và cách chào đón khinh thường đối với những
người nghèo lại trở nên kỳ chướng hơn nữa khi những người Ki-tô hữu họp nhau lại
để cầu nguyện và chúc tụng “Đức Giê-su Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang”.
2. Tình huynh đệ Ki-tô hữu
Thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh rằng tình huynh đệ Ki-tô hữu phải
cho thấy không có bất kỳ cách đối xử thiên tư nào. Xem ra trong cộng đoàn Ki-tô
hữu gốc Do thái mà thánh nhân ngỏ lời có một sự phân biệt đáng kể giữa những
người nghèo và những người giàu, những người hèn mọn và những người có địa vị
trong xã hội. Chúng ta phải nhắc những người giàu nhớ chỗ danh dự mà Thiên Chúa
đã ban cho những người nghèo trong ý định của Ngài. Phù hợp với truyền thống
Kinh Thánh liên quan đến “những người nghèo của Đức Chúa”, thánh Gia-cô-bê ca
ngợi tấm lòng rộng mở và tràn đầy niềm tin của những người nghèo: người nghèo
thì “giàu đức tin và thừa hưởng vương quốc”.
TIN MỪNG (Mc 7: 31-37)
Đức Giê-su rảo khắp vùng đất dân ngoại để thi hành sứ mạng của
mình: “Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào
miền Thập Tỉnh”. Chúa Giê-su vừa mới chữa lành đứa con gái người phụ nữ dân ngoại
(7: 24-30), giờ đây Ngài sắp thi ân giáng phúc cho một dân ngoại khác, người vừa
câm vừa điếc. Thánh Mác-cô là tác giả duy nhất trong bốn thánh ký thuật lại việc
chữa lành người câm điếc này. Cuộc hành trình qua lãnh địa rộng lớn của dân ngoại
có thể do ý định của thánh Mác-cô như tham dự trước sứ mạng của Giáo Hội cho
dân ngoại.
1. Tác nhân chính của việc chữa lành
Thánh Mác-cô đã dàn dựng hoạt cảnh chữa lành này khá đặc biệt:
“Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ
nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Vào thời Đức Giê-su, người ta cho là nước miếng
có hiệu lực chữa lành, đặc biệt hơn đối với mắt, như một trong những bản văn của
sử gia La-tin, Tacite, làm chứng điều này (Tacite, Histoire, IV, 8, 1.). Đức
Giê-su cũng sẽ dùng cách thức này trong việc chữa lành người mù ở Bết-xai-đa
(Ga 9: 6). Đang ở giữa vùng đất dân ngoại, Chúa Giê-su đã thích ứng lối chữa bệnh
rất phổ biến này vào môi trường của họ. Loại chữa bệnh này được gặp thấy đầy dẫy
trong các giai thoại ở vùng đất dân ngoại thời đó, nên các độc giả đầu tiên của
Tin Mừng Mác-cô chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, vì họ biết các tập tục của những
người đương thời với họ.
Tuy nhiên, tác nhân chính của việc chữa lành chính là “lời của
Đức Giê-su” mà thánh Mác-cô trích dẫn bằng tiếng A-ram “Ép-pha-ta” nghĩa là
“hãy mở ra”. Ở giữa bản văn Hy ngữ, thánh ký đã gìn giữ những lời A-ram của
Chúa Giê-su như câu chuyện phục sinh con gái của ông Gia-ia: “Ta-li-tha-khum”,
nghĩa là: “Này cô bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” (5: 41). Đừng thấy ở
nơi chi tiết này ý muốn gây nên một điều kỳ lạ đến sửng sốt, nhưng đúng hơn nỗi
bận lòng về tính xác thực: chính những lời này của Đức Giê-su chứ không gì
khác, đã có hiệu lực chữa lành và phục sinh người chết.
Người ta có thể nghĩ rằng việc Đức Giê-su chữa lành người
câm điếc này có kèm theo lời cầu nguyện: “Người ngước mắt lên trời” chỉ cho thấy
tác động của lời cầu nguyện. Sau này, Đức Giê-su chữa lành một em bé bị quỷ ám
bằng cầu nguyện, mà trước đó, các môn đệ đã không thể vì thiếu cầu nguyện (Mc
9: 28-29).
2. Ý nghĩa cử chỉ của Đức Giê-su
Dù thế nào, chúng ta cũng thắc mắc những cử chỉ này của Đức
Giê-su có ý nghĩa gì, khi kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông và chỉ có các môn đệ
Ngài là những chứng nhân. Lời giải thích chắc chắn được gặp thấy ở nơi toàn cảnh
của các chương 6, 7 và 8 của Tin Mừng Mác-cô. Kể từ phép lạ bánh hóa nhiều,
thánh ký nêu bật tâm trí quá ngu muội của các môn đệ: “Các ông đã không hiểu ý
nghĩa phép lạ bánh hóa nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (6: 52). Đức
Giê-su quở trách sự mù lòa và câm điếc của các ông trước sứ điệp của Thầy mình:
“Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư?” (8: 18).
Đúng là những lời quở trách này được thốt lên vào thời điểm
phân cách hai việc chữa lành: việc chữa lành người vừa câm vừa điếc ở đây và chữa
lành một người mù ở Bết-xai-đa sau này (8: 22-26). Hai việc chữa này được thuật
lại gần giống nhau. Trong cả hai trường hợp, Đức Giê-su cách ly bệnh nhân, và
trong cả hai trường hợp, việc chữa lành không ngay lập tức (việc chữa lành anh
mù ở Bết-xai-đa được thực hiện qua hai giai đoạn). Cuối cùng, trong cả hai trường
hợp, thánh ký đều cho thấy chỉ có các môn đệ là những chứng nhân.
Chúng ta không thể nào không hiểu rằng cử chỉ này là một dấu
chỉ được diễn tả bằng hành động như hành động biểu tượng của các ngôn sứ kèm
theo những lời cảnh báo của họ: như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đập vỡ tan từng mãnh một
bình gốm trước cổng thành Giê-ru-sa-lem để loan báo cuộc tàn phá thành thánh
Giê-ru-sa-lem sắp đến gần rồi, hay như ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực hiện dáng điệu của
một người bị phát lưu trong nhiều ngày liền để loan báo cho đồng bào của mình số
phận đang chờ đợi họ. Cũng theo một cách như vậy, Đức Giê-su đã cho các môn đệ
thấy họ đã chậm hiểu như thế nào, Ngài muốn họ biết rằng Ngài đã đổ hết công sức
như thế nào để họ hiểu sứ điệp và con người của Ngài. Rõ ràng, lệnh truyền “Hãy
mở ra” được ngỏ lời trực tiếp đến từng môn đệ của Ngài, họ là những người vừa
câm vừa điếc.
3. Không được tiết lộ cho ai biết
Lẽ ra sau khi bệnh nhân được chữa lành, trình thuật có thể
chấm dứt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, Chúa Giê-su truyền cho những người chứng
kiến phải giữ kín chuyện này, không được tiết lộ cho ai biết, như trước kia
Chúa Giê-su đã truyền lệnh cho người phong hủi được chữa lành (1: 44) và cho
gia đình của cô bé được sống lại (5: 43). Trong sách Tin Mừng của mình, thánh
Mác-cô thường nhấn mạnh lệnh cấm này mà các nhà chuyên môn gọi là “Bí Mật Đấng
Thiên Sai”. Trong tất cả các trường hợp ấy, Đấng Mê-si-a đã biểu lộ quyền năng
Nước Thiên Chúa nơi bản thân Ngài. Tuy nhiên Ngài không muốn công bố sứ mệnh
Mê-si-a trước kỳ hạn, bởi vì người ta có thể hiểu sai tư cách “Mê-si-a” của
Ngài. Tước hiệu này Ngài chỉ nhận được cách thỏa đáng qua lời tuyên xưng đầy ý
thức của Phê-rô nhân danh các môn đệ: “Thầy là Đức Ki-tô” (8: 30). Và tước hiệu
ấy sẽ chỉ nhận được ý nghĩa trọn vẹn ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài qua lời tuyên
xưng của viên đại đội trưởng ngoại giáo: “Quả thật, người này là Con Thiên
Chúa” (15: 39).
4. Phản ứng của dân chúng
“Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra”: Như vậy,
ngay lúc này đây, thánh Mác-cô lại cho thấy rõ là lệnh truyền giữ im lặng của
Chúa Giê-su đã bị người ta cố tình vi phạm. Sở dĩ như thế là vì trong khi
Mác-cô ghi lại trình thuật này, Tin Mừng Chúa Ki-tô Cứu Thế đã loan ra đến tận
các vùng dân ngoại, đến tận cả Rô-ma. Giờ đây quả thực tốt đẹp biết bao khi Tin
Mừng ấy đã được “rao truyền” ở giữa lòng thế giới.
Lời phát biểu của đám đông: “Ông làm cho kẻ điếc nghe được
và kẻ câm nói được” ám chỉ đến sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I), như vậy,
sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ vụ của Chúa Giê-su, Ngài
là Đấng phải đến để cứu thoát con người khỏi quyền lực sự dữ. Cuối cùng, thánh
Mác-cô còn muốn trình bày ở đây phản ứng của quần chúng ngoại giáo bằng một lời
tuyên xưng đức tin rất mãnh liệt. Họ dùng những lời của ngôn sứ I-sai-a để chúc
tụng Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su thực sự mời gọi các bạn hữu của Ngài – kể cả
Mác-cô cũng như các độc giả của ông – mở rộng tấm lòng mà đón nhận lời nói và
hành động của Ngài, đồng thời can đảm “rao truyền” lời nói và hành động của
Ngài cho thế giới.
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét