Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ
Nạn và Phục Sinh. Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo
cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài.
Is 50: 5-9
Bài
đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn
bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa
sức mạnh của mình và chấp nhận mọi thử thách đau thương.
Gc 2: 14-18
Trong
đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không
việc làm là đức tin chết”.
Mc 8: 27-35
Trong
Tin Mừng Mác-cô, sau khi nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng
Ki-tô”, Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 50:
5-9)
Bản
văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của Người
Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55).
Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ
(bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã
nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi
dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giê-su, Đấng
chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
1. Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ
Người
Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết sứ mạng
được trao phó cho ông không là dễ dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng
tháo lui” 50: 5). Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ
ai rã rời kiệt sức” (50: 4). Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa:
bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức
mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ
ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì
phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện
cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi!” (50: 8).
2. Dung mạo của Đức Ki tô
Ở
nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy dung mạo của Đức Ki-tô.
Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là
Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn
đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố:
“Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và
Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.
BÀI ĐỌC II (Gc 2:
14-18)
Chúng
ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.
1. Đức tin không việc làm là đức tin chết
Đoạn
trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin
chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái.
Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được một ví dụ
cụ thể minh họa và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như
gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương
sách cứu giúp những người anh chị em đau khổ của mình.
2. So sánh giáo huấn của thánh Gia-cô-bê và của thánh Phao-lô
Khi
tuyên bố “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, phải chăng thánh Gia-cô-bê
chủ trương một lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong
các thư gởi tín hữu Ga-lát và Rô-ma: “Con người được nên công chính không phải
nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô” (Gl 2: 16; x. Rm 3:
20)? Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái
coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta
không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi việc làm, đặc biệt là đức ái,
vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèng la inh ỏi”.
Tuy
nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành
phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn
ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm
nổi bật những thành quả của luật mới, mà hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin
là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công
chính, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ
không èo uột héo khô.
TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)
Chúng
ta đang ở giai đoạn Đức Giê-su tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền
Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn
luyện họ.
1. Bối cảnh của cuộc chuyện trò
Như
chúng ta đã biết, Đức Giê-su đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây
giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc
xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê
An-ti-pát, nhưng em của ông là tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị cẩn
trọng và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp-phê là người xây dựng thành
Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức
Giê-su đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn
của dòng sông Giô-đan. Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh
bình. Đức Giê-su đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông
Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và thanh bình
này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.
Thánh
Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giê-su cầu nguyện một mình và
có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra
việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh
Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giê-su và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với
nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giê-su, lắng nghe Ngài,
mà chúng ta có thể hiểu được dung mạo đích thật của Ngài hơn.
2. Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài
Trước
hết Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu
giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy
là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào
đó”. Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giê-su với ông Gioan Tẩy
Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe
danh tiếng Đức Giê-su: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi
dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết
Đức Giê-su là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con
đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn rất xa chân tính của Ngài.
Thật
ra, câu hỏi của Đức Giê-su: “Người ta nói Thầy là ai?” chỉ là câu hỏi khởi động
cuộc nói chuyện nhằm giúp các môn đệ cởi mở tấm lòng với Thầy, nhưng câu hỏi mà
Ngài muốn hỏi các ông chính là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Với câu
hỏi này, Đức Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những
ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc
Ngài làm. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại
thánh Mát-thêu, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống” (Mt 16: 16). Tại thánh Lu-ca, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của
Thiên Chúa” (Lc 9: 20). Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của
thánh Phê-rô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của
Đức Giê-su: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của
Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài
đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người
của Ngài. Theo Tin Mừng Mác-cô, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng
Ki-tô” là đỉnh cao của phẩn thứ nhất về “mầu nhiệm Đấng Ki-tô” (Mc 1-10) và lời
tuyên xưng của viên quan ngoại giáo dưới chân thập giá: “Quả thật, người này là
Con Thiên Chúa” (15: 39) là đỉnh cao của phần thứ hai về “mầu nhiệm Con Thiên
Chúa” (Mc 11-16).
Ngay
lập tức Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này
được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi
“bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép
lạ, bây giờ chính là chân tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này?
Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a theo nghĩa một vị vua toàn
thắng trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không
thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ
ràng, Đức Giê-su sắp vén bức màn mầu nhiệm này.
3. Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài
Đây
là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài:
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giê-su
nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất
yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa.
Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một
phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giê-su không cho
các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) này.
4. Phản ứng của thánh Phê-rô
Trong
lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su cẩn
trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng
như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị,
“thánh Phê-rô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản
ứng của thánh Phê-rô. Trong tâm trí của mình, thánh nhân đã hình thành nên ở
nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ
vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu
mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình thương yêu
có thể bị đau khổ.
5. Phản ứng của Đức Giê-su
Đức
Giê-su phản ứng rất quyết liệt; thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí
của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa (Mt 4: 8-9; Lc 4: 5-7);
Đức Giê-su đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để
trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10; x. Mc 8: 33), nhưng với
thánh Phê-rô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh phải
hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.
Và
với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giê-su cũng căn dặn một lời
như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết
các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ để
đạt đến vinh quang này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất
mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức
Giê-su sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa là cuộc sống trần thế tạm thời
này vừa là cuộc sống muôn đời mai sau.
Những
lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó
thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét