Chúa Nhật XXVI Thường Niên B (2012)
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI này có thể được gọi là “CHIA SẺ”.
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Ds 11: 25-29
"Chia sẻ" những ân ban của Thần Khí hướng đến chia sẻ những trách nhiệm, mà không bất kỳ áp lực phàm nhân nào có thể giới hạn tác động của Thần Khí Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của chuyện tích trong sách Dân số về việc tấn phong các Kỳ Mục Ít-ra-en để là những công tác viên của ông Mô-sê.
Gc 5: 1-6
Thánh Gia-cô-bê khuyên hãy "chia sẻ" những của cải trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để hướng đến lý tưởng đức khó nghèo Tin Mừng.
Mc 9: 38-43, 45, 47-48
Đức Giê-su giáo huấn các môn đệ biết "chia sẻ" những ân ban Thần Khí, thậm chí bên ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu.
BÀI ĐỌC I (Ds 11: 25-29)
Sách Dân Số là sách thứ tư trong số năm cuốn sách của bộ Ngũ Thư; sách nầy được đặt ở giữa sách Lê-vi và sách Đệ Nhị Luật. Tên sách: “Dân Số”, do từ việc điều tra dân số của dân Do thái mà ông Mô-sê tiến hành trước khi rời bỏ núi Xi-nai. Việc điều tra dân số chiếm trọn những chương đầu tiên của sách.
Tiếp đó, sách tiếp tục thuật lại cuộc hành trình của dân Do thái qua sa mạc. Vài tình tiết, đã được tường thuật rồi trong sách Xuất Hành, được lập lại, thường với những biến thể hay những viễn cách khác. Như vậy chúng ta có hai bản văn về việc ông Mô-sê chọn những cộng tác viên để giúp đỡ ông trong công việc của mình: một bản văn “phàm trần” (Xh 18: 13-26) và một bản văn “đặc sủng”; chính bản văn đặc sủng mà chúng ta đọc ở chương 11 của sách Dân Số.
1. Bản văn phàm trần:
Trong bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26), chính bố vợ của ông Mô-sê đến gặp con rể của mình. Ông Gít-rô lo lắng khi nhận thấy ông Mô-sê đảm nhận công việc quá nặng nhọc và kiệt sức, vì thế, ông khuyên ông Mô-sê chọn “những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm những người chỉ huy…Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân” (Xh 18: 21-22). Ông Mô-sê vâng theo lời khuyên nầy.
2. Bản văn đặc sủng:
Bản văn đặc sủng của sách Dân Số do một nhà biên soạn khác. Ông Mô-sê phàn nàn với Thiên Chúa về công việc vất vả khó khăn mà ông đảm nhận. Việc dẫn dắt dân nầy, một dân không ngừng kêu ca ta thán, là một công việc quá nặng nề khó mà gánh vác nổi. Đức Chúa khuyên ông Mô-sê chọn cho mình những cộng tác viên ở giữa các Kỳ Mục của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê chọn, nhưng chính Thiên Chúa tấn phong.
3. Việc Tấn Phong:
Cách thức Thiên Chúa tấn phong bảy mươi Kỳ Mục thật lạ lùng nhưng thật có ý nghĩa. Đức Chúa lấy một phần thần khí đang ngự trên ông Mô-sê mà đặt trên bảy mươi vị Kỳ Mục. Cách thức nầy nhấn mạnh rằng các Kỳ Mục nầy lãnh nhận cùng một sứ mạng như ông Mô-sê và chia sẻ những trọng trách với ông, trong khi vẫn lệ thuộc ông và đường lối của ông.
“Khi thần khí ngự xuống trên các ông, các ông xuất thần như ngôn sứ”, nghĩa là cuộc tấn phong của các ông được bày tỏ bằng những dấu chỉ bên ngoài. Được thần khí chiếm đoạt, các Kỳ Mục phát ngôn, nghĩa là có những hành động như các ngôn sứ thời xưa: “xuất thần ngôn sứ” (1Sm 10: 10-13; 19: 20-24). Hiện tượng ấy chỉ ngắn ngũi. Những cách thức bày tỏ theo loại nầy sẽ biến mất với sự xuất hiện của truyền thống ngôn sứ bút ký sau nầy. Chúng ta nên ghi nhận ở đoạn văn nầy rằng những tình trạng nầy chỉ là phụ, không bao giờ do những nghi thức chè chén say sưa hay theo những phương thức đồng bóng của dân ngoại. Các ngôn sứ Ít-ra-en vẫn luôn luôn ý thức về nguồn gốc thần hứng của mình.
4. Thần Khí hoàn toàn tự do:
Hai thành viên của nhóm Kỳ Mục, được ghi trong danh sách các Kỳ Mục, nhưng đã không có mặt với bảy mươi thành viên khác trong cuộc nhóm họp ở Lều Thánh, lý do không được nêu lên. Do hờn dỗi? hay sợ trách nhiệm? Dù sao đi nữa, Thần Khí không quên họ, mặc dầu họ không đến tham dự cuộc hội họp ở Lều Thánh; các ông cũng được lãnh nhận ơn xuất thần ngôn sứ.
Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê. Chàng thanh niên này là ông Giô-suê, từng hầu cận ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, cậu lo lắng: những người được Đức Chúa tuyển chọn nầy đã không tham dự buỗi nhóm họp chính thức trong Lều Hội Ngộ, liệu họ sẽ hành xử ơn gọi ngôn sứ mà không vâng phục ông Mô-sê? Ông Mô-sê trả lời: “Phải chi Chúa ban thần khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”. Qua câu trả lời nầy, chúng ta hiểu ông Mô-sê, ông ước mong rằng dân nầy quá khó khăn để hướng dẫn, cần phải được Thần Khí thực sự ở cùng. Nếu dân để cho mình được sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn, họ sẽ thay đổi biết mấy.
Ước nguyện của ông Mô-sê đi xa hơn ước nguyện tức thời của ông nhiều. Ước nguyện nầy sẽ được lập lại trong những viễn cảnh của ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en và sẽ được ứng nghiệm một cách viên mãn vào ngày lễ Hiện Xuống (Cv 2: 16-21) và trong Giáo Hội (Ep 4: 3-4; 1Cr 12: 4-11). Tác động Thần Khí thì không bị giới hạn vào bất cứ đối tượng nào được xem là chính thức, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong việc ban phát Thiên Ân của Ngài. Đây là bài học vĩ đại của đoạn văn sách Dân Số nầy; bài học nầy được Tin Mừng hôm nay xác nhận.
BÀI ĐỌC II (Gc 5: 1-6)
Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay trình bày một trong những đề tài chủ đạo của thư: bênh vực những người nghèo và nhắc nhở lý tưởng Tin Mừng về sự nghèo khó.
Thánh Gia-cô-bê vừa mới chê bai sự khôn ngoan của thế gian (4: 13-17); bây giờ thánh nhân lên án những người giàu tích trữ của cải và những kẻ áp bức bốc lột những người nghèo. Thánh nhân định vị những lời cảnh báo của mình vào trong viễn cảnh của cuộc phán xét chung cuộc. Những lời kêu trách của ngài thì dữ dội: “Hỡi những người giàu có, các ông hãy khóc lóc than van”, những lời nầy nhắc nhớ ngôn từ của các ngôn sứ, như ngôn sứ I-sai-a gởi đến cư dân Ba-by-lon: “Hãy khóc lóc than van! Vì ngày của Đức Chúa sắp đến gần”. Ý tưởng thì cũng như nhau ở đây, viễn cảnh cũng là cánh chung. Những bất hạnh đang chờ đợi những người giàu có là những bất hạnh họ phải chịu vào Ngày Phán Xét.
1. Sự phù du của tài sản.
Chất đống của cải có ích gì? Được nhìn trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa, việc chất đống của cải, việc tích trử tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì: “tài sản của các ông đã hư nát, quần áo của các ông đã bị mối ăn”. Hình ảnh Kinh Thánh nầy rất kinh điển. Đức Giê-su cũng đã sử dụng những hình ảnh như vậy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6: 19-20).
Thánh Gia-cô-bê còn gợi ý thêm nữa: “vàng bạc của các ông bị rĩ sét”. Thật ra, vàng không bị oxi hóa và tiền bạc thì khá bền vững, nhưng hình ảnh thì rất mạnh: việc bị rĩ sét làm chứng, trước tòa án Thiên Chúa, về việc không chia sẻ của cải mà mình cố giữ riêng cho mình.
“Các ông đã lo tích trữ làm giàu trong những ngày sau hết”, nghĩa là trong thời kỳ nầy, thời kỳ được khai mạc bởi kỷ nguyên Thiên Sai và sẽ hoàn tất bởi ngày Quang Lâm của Chúa. Xưa kia, trong thời Cựu Ước, sự giàu có của cải được xem là lời chúc phúc của Đức Chúa thưởng ban cho những ai trung thành tuân giữ Lề Luật. Một phán đoán như vậy không còn nữa. Vương quốc Thiên Chúa đã đến: những của cải tinh thần được dâng hiến cho con người thì khôn sánh và đòi hỏi một tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Từ đó, thái độ ích kỷ của những người giàu có không chỉ là có tội, nhưng cũng là ngu xuẩn.
2. Người nghèo:
Còn thậm tệ hơn: “Các ông đã giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ông”. Ở đây, thánh Gia-cô-bê không còn nhắm đến những nhà tài chánh hay những thương nhân, nhưng những điền chủ.
Luật đòi buộc rằng tiền lương của người thợ được trả ngày nào theo ngày đó. Vì người nghèo sống theo tiền công nhật của mình. “Chính ngày hôm ấy, anh em phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Đức Chúa tố cáo anh em, và anh em sẽ không mang tội” (Đnl 24: 15).
Người giàu giữ lại tiền lương của người thợ, dù chỉ một thời gian, là phạm đến sự bất công. Hiền nhân Si-rác đã diễn tả nổi công phẩn tương tự: “Người túng nghèo còn chút bánh độ thân, ai lấy đi là kẻ hút máu. Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34: 21-22).
3. Thiên Chúa của những người nghèo:
Đức Chúa, Chúa Tể hoàn vũ, là Đấng bênh vực những người nghèo. Thánh Gia-cô-bê đối lập thái độ của những kẻ giàu có “trên cõi đất” nầy, những kẻ khinh bĩ người nghèo và sống xa hoa vô độ, với thái độ của Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn. Giờ phán xét sẽ bất ngờ ập xuống trên họ, những kẻ “đã ăn uống linh đình, đã buông theo khoái lạc, lòng họ đã được thỏa thuê vui thú trong ngày sát sinh”. Quả thật, hình ảnh “Ngày của Chúa” đôi khi được diễn tả bằng hình ảnh “ngày sát sinh”, vì vào ngày ấy, Đức Chúa sẽ hủy diệt mọi kẻ thù của Ngài.
Câu kết thúc của đoạn văn nầy quả thật khó hiểu. Ai là người công chính đã bị kết án và bị giết hại bởi những người giàu có mà không hề cưỡng kháng? Người ta có thể nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê trở lại hình ảnh của người nghèo bị tước đoạt tiền lương của mình, mà người giàu là kẻ sát nhân của họ, theo cách diễn tả của hiền nhân Si-rác. Vài người gợi ra rằng đây cốt là Đức Ki-tô, những người khác cho rằng Người Công Chính nầy là Người Công Chính theo cách chung chung đối lập với những kẻ gian ác như các sách minh triết thường hay gợi lên.
Ý tưởng căn bản vẫn là: vào ngày phán xét, người nghèo và người công chính sẽ được Thiên Chúa thi ân báo oán.
TIN MỪNG (Mc 9: 38-43, 45, 47-48)
Trong phân đoạn Tin Mừng nầy, thánh Mác-cô tường thuật những giáo huấn khác nhau của Chúa Giê-su, mà mối liên hệ giữa chúng thì khá lỏng lẽo. Tuy nhiên, Đức Giê-su không đánh mất mục đích của mình: huấn luyện các môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội tương lai của Ngài. Nỗi bận lòng của Chúa Giê-su đối với Giáo Hội là tuyến phát triển nối kết các yếu tố xem ra rời rạc.
1. Tinh thần khoan dung rộng mở của người môn đệ Chúa Ki tô.
Giáo huấn đầu tiên trong các giáo huấn nầy được khơi lên từ một sự kiện: một người trừ quỷ, không thuộc nhóm các ông, đã nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ. Thánh Gioan và các môn đệ khác đã cố ngăn cản, vì người đó không theo chúng ta. Thái độ bất bao dung nầy của thánh Gioan, một trong hai anh em trước đây đã được phong biệt danh là “Con của Sấm Sét” (3: 17), sau nầy chính ông là người hỏi Chúa Giê-su có muốn các ông sai lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Sa-ma-ri, vì họ không đón tiếp Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 54). Phản ứng của Gioan đối với người trừ quỷ không thuộc nhóm chúng ta cũng giống như phản ứng của ông Giô-suê đối với hai kỳ mục không đến Lều Hội Ngộ được mô tả trong bài đọc I.
Chúa Giê-su giữ thái độ thanh thản của một bậc thầy khôn ngoan và trả lời với một lương tâm ngay lành: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Nếu người nầy nhận ra quyền năng siêu nhiên của Đức Giê-su, chính là ở nơi người ấy có một bước khởi đầu chấp nhận sứ điệp của Ngài rồi. Ngài truyền cho họ phải trải lòng ra tối đa với mọi kẻ không công khai thù địch họ: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Lời chú giải tốt nhất của những lời dạy nầy chắc chắn được gặp thấy trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12: 3).
Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi cho họ một ví dụ: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cử chỉ của người đó đã là một cử chỉ tiếp đón; người ấy bày tỏ thái độ thân thiện rồi.
2. Thần Khí hoàn toàn tự do trong hành động:
Được liên kết với bài đọc I, bài học mà Chúa Giê-su đưa ra thì thật rõ ràng: Giáo Hội không được tin rằng mình giữ độc quyền những ân ban của Thần Khí; vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong lãnh vực hoạt động của Ngài.
Quả thật, ơn gọi của các ngôn sứ Cựu Ước cho chúng ta thấy điều đó. Trong Cựu Ước, ơn gọi ngôn sứ không là một định chế cha truyền con nối như định chế tư tế, nhưng là đặc sủng. Vì thế, không phải tất cả các ngôn sứ đều là tư tế. Trong số những vị ngôn sứ bút ký thời danh, chỉ có hai người: Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ, còn đa số còn lại đều là những dân thường, với gia thế và nghề nghiệp khác nhau trước khi được gọi làm ngôn sứ. Trong những hoàn cảnh Thiên Chúa thấy cần lên tiếng, Ngài chọn những ngôn sứ của Ngài để thay Ngài chuyển giao sứ điệp của Ngài đến những đối tượng mà Ngài muốn. Câu trả lời của ngôn sứ A-mốt với ông A-mát-gia, tư tế đền thánh Bết-Ên cũng đủ nói lên điều đó: “Tôi không phải ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Thiên Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn súc vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, dân Ta” (Am 7: 14-15).
Một trong những nét đặc trưng của các ngôn sứ Cựu Ước đó là, họ ý thức rất rõ họ được Chúa sai đi để chỉ nói lời Thiên Chúa không được nói lời của mình hay lời của bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các ngôn sứ giả cũng tự cho mình là phát ngôn viên của Thiên Chúa, một trong những tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngôn sứ giả và ngôn sứ thật khiến chúng ta phải suy nghĩ: ngôn sứ thật nhân danh Thiên Chúa lên án những bất công xã hội, bênh vực những kẻ nghèo khổ, những người bị áp bức, dù phải chịu sĩ nhục, nhạo báng và bách hại nữa; trong khi các ngôn sứ giả lại tâng bốc bợ đỡ những kẻ có quyền có thế, những kẻ áp bức và bốc lột những người nghèo hèn cô thế. Cuộc tranh cãi giữa ông Kha-nan-gia, vị ngôn sứ giả, và ông Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ thật, cho thấy điều đó (Gr 28: 1-17). Chính nhờ truyền thống ngôn sứ nầy mà Do thái giáo không chỉ đóng khung trong việc phụng thờ Thiên Chúa trong các lễ lạc và hội đường, nhưng còn trong mối liên đới với anh em của mình. Chúng ta có thể nói họ chuẩn bị giáo huấn của Đức Ki tô: “mến Chúa và yêu người là một”.
Thêm nữa, ân ban ngôn sứ đôi khi không chỉ giới hạn trong dân Chúa chọn nhưng tràn ra bên ngoài nữa như câu chuyện của ông Bi-lơ-am trong Ds 22-24. Quả thật, ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những người, đôi khi họ không phải là những người Ki-tô hữu, nhưng vì lương tâm ngay thẳng, lại xả thân bênh vực những người nghèo, lên án những bất công trong xã hội, dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát kể cả mạng sống của mình. Làm thế nào chúng ta không thể thấy những thiện ý của họ không phát xuất từ Thần Khí được chứ? Nói cho cùng, Thần Khí hoàn toàn tự do trong hoạt động của Ngài như lời khẳng định của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3: 8).
3. Kinh trọng những kẻ bé mọn. Nghiêm túc đối với chính mình.
Trong tất cả mọi cộng đoàn, đều có những người vững mạnh và những những người yếu nhược. “Những kẻ bé mọn đang tin đây” chắc chắn là những người mà đức tin của họ cần được soi sáng và được nâng đỡ bởi mẫu gương của những người vững mạnh trong đức tin. Đức Giê-su nhấn mạnh trách nhiệm của những người mà qua cách hành xử của mình, khiến những kẻ bé mọn đang tin có nguy cơ lầm đường lạc lối. Mỗi người phải xét mình một cách nghiêm túc. Bằng kiểu nói ngoa dụ gợi nhớ các ngôn sứ, Đức Giê-su khuyên chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu chúng gây cớ vấp ngã cho những người bé mọn đang tin nầy. Bởi vì có gì quý giá hơn sự sống đời đời. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh truyền thống: giòi bọ và lửa hỏa ngục để mô tả cái chết tinh thần của những kẻ gây cớ vấp phạm cho anh em mình.
Việc bảo vệ những kẻ bé mọn cho đến đức tin mõng dòn của họ rõ ràng thuộc về sứ điệp Tin Mừng. Đức Giê-su phối hợp sứ điệp nầy với những yêu sách cứng rắn mà một môn đệ chân chính và đặc biệt những người hướng dẫn cộng đoàn trong cuộc hành trình về Nước Trời đòi buộc phải ghi nhớ.
Nguồn: kinhthanh.org
Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI này có thể được gọi là “CHIA SẺ”.
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Ds 11: 25-29
"Chia sẻ" những ân ban của Thần Khí hướng đến chia sẻ những trách nhiệm, mà không bất kỳ áp lực phàm nhân nào có thể giới hạn tác động của Thần Khí Thiên Chúa. Đây là ý nghĩa của chuyện tích trong sách Dân số về việc tấn phong các Kỳ Mục Ít-ra-en để là những công tác viên của ông Mô-sê.
Gc 5: 1-6
Thánh Gia-cô-bê khuyên hãy "chia sẻ" những của cải trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để hướng đến lý tưởng đức khó nghèo Tin Mừng.
Mc 9: 38-43, 45, 47-48
Đức Giê-su giáo huấn các môn đệ biết "chia sẻ" những ân ban Thần Khí, thậm chí bên ngoài cộng đoàn Ki-tô hữu.
BÀI ĐỌC I (Ds 11: 25-29)
Sách Dân Số là sách thứ tư trong số năm cuốn sách của bộ Ngũ Thư; sách nầy được đặt ở giữa sách Lê-vi và sách Đệ Nhị Luật. Tên sách: “Dân Số”, do từ việc điều tra dân số của dân Do thái mà ông Mô-sê tiến hành trước khi rời bỏ núi Xi-nai. Việc điều tra dân số chiếm trọn những chương đầu tiên của sách.
Tiếp đó, sách tiếp tục thuật lại cuộc hành trình của dân Do thái qua sa mạc. Vài tình tiết, đã được tường thuật rồi trong sách Xuất Hành, được lập lại, thường với những biến thể hay những viễn cách khác. Như vậy chúng ta có hai bản văn về việc ông Mô-sê chọn những cộng tác viên để giúp đỡ ông trong công việc của mình: một bản văn “phàm trần” (Xh 18: 13-26) và một bản văn “đặc sủng”; chính bản văn đặc sủng mà chúng ta đọc ở chương 11 của sách Dân Số.
1. Bản văn phàm trần:
Trong bản văn phàm trần (Xh 18: 13-26), chính bố vợ của ông Mô-sê đến gặp con rể của mình. Ông Gít-rô lo lắng khi nhận thấy ông Mô-sê đảm nhận công việc quá nặng nhọc và kiệt sức, vì thế, ông khuyên ông Mô-sê chọn “những ai là người có tài, biết kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm những người chỉ huy…Họ sẽ thường trực xử kiện cho dân” (Xh 18: 21-22). Ông Mô-sê vâng theo lời khuyên nầy.
2. Bản văn đặc sủng:
Bản văn đặc sủng của sách Dân Số do một nhà biên soạn khác. Ông Mô-sê phàn nàn với Thiên Chúa về công việc vất vả khó khăn mà ông đảm nhận. Việc dẫn dắt dân nầy, một dân không ngừng kêu ca ta thán, là một công việc quá nặng nề khó mà gánh vác nổi. Đức Chúa khuyên ông Mô-sê chọn cho mình những cộng tác viên ở giữa các Kỳ Mục của dân Ít-ra-en. Ông Mô-sê chọn, nhưng chính Thiên Chúa tấn phong.
3. Việc Tấn Phong:
Cách thức Thiên Chúa tấn phong bảy mươi Kỳ Mục thật lạ lùng nhưng thật có ý nghĩa. Đức Chúa lấy một phần thần khí đang ngự trên ông Mô-sê mà đặt trên bảy mươi vị Kỳ Mục. Cách thức nầy nhấn mạnh rằng các Kỳ Mục nầy lãnh nhận cùng một sứ mạng như ông Mô-sê và chia sẻ những trọng trách với ông, trong khi vẫn lệ thuộc ông và đường lối của ông.
“Khi thần khí ngự xuống trên các ông, các ông xuất thần như ngôn sứ”, nghĩa là cuộc tấn phong của các ông được bày tỏ bằng những dấu chỉ bên ngoài. Được thần khí chiếm đoạt, các Kỳ Mục phát ngôn, nghĩa là có những hành động như các ngôn sứ thời xưa: “xuất thần ngôn sứ” (1Sm 10: 10-13; 19: 20-24). Hiện tượng ấy chỉ ngắn ngũi. Những cách thức bày tỏ theo loại nầy sẽ biến mất với sự xuất hiện của truyền thống ngôn sứ bút ký sau nầy. Chúng ta nên ghi nhận ở đoạn văn nầy rằng những tình trạng nầy chỉ là phụ, không bao giờ do những nghi thức chè chén say sưa hay theo những phương thức đồng bóng của dân ngoại. Các ngôn sứ Ít-ra-en vẫn luôn luôn ý thức về nguồn gốc thần hứng của mình.
4. Thần Khí hoàn toàn tự do:
Hai thành viên của nhóm Kỳ Mục, được ghi trong danh sách các Kỳ Mục, nhưng đã không có mặt với bảy mươi thành viên khác trong cuộc nhóm họp ở Lều Thánh, lý do không được nêu lên. Do hờn dỗi? hay sợ trách nhiệm? Dù sao đi nữa, Thần Khí không quên họ, mặc dầu họ không đến tham dự cuộc hội họp ở Lều Thánh; các ông cũng được lãnh nhận ơn xuất thần ngôn sứ.
Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê. Chàng thanh niên này là ông Giô-suê, từng hầu cận ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, cậu lo lắng: những người được Đức Chúa tuyển chọn nầy đã không tham dự buỗi nhóm họp chính thức trong Lều Hội Ngộ, liệu họ sẽ hành xử ơn gọi ngôn sứ mà không vâng phục ông Mô-sê? Ông Mô-sê trả lời: “Phải chi Chúa ban thần khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”. Qua câu trả lời nầy, chúng ta hiểu ông Mô-sê, ông ước mong rằng dân nầy quá khó khăn để hướng dẫn, cần phải được Thần Khí thực sự ở cùng. Nếu dân để cho mình được sự khôn ngoan của Thiên Chúa hướng dẫn, họ sẽ thay đổi biết mấy.
Ước nguyện của ông Mô-sê đi xa hơn ước nguyện tức thời của ông nhiều. Ước nguyện nầy sẽ được lập lại trong những viễn cảnh của ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en và sẽ được ứng nghiệm một cách viên mãn vào ngày lễ Hiện Xuống (Cv 2: 16-21) và trong Giáo Hội (Ep 4: 3-4; 1Cr 12: 4-11). Tác động Thần Khí thì không bị giới hạn vào bất cứ đối tượng nào được xem là chính thức, vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong việc ban phát Thiên Ân của Ngài. Đây là bài học vĩ đại của đoạn văn sách Dân Số nầy; bài học nầy được Tin Mừng hôm nay xác nhận.
BÀI ĐỌC II (Gc 5: 1-6)
Đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay trình bày một trong những đề tài chủ đạo của thư: bênh vực những người nghèo và nhắc nhở lý tưởng Tin Mừng về sự nghèo khó.
Thánh Gia-cô-bê vừa mới chê bai sự khôn ngoan của thế gian (4: 13-17); bây giờ thánh nhân lên án những người giàu tích trữ của cải và những kẻ áp bức bốc lột những người nghèo. Thánh nhân định vị những lời cảnh báo của mình vào trong viễn cảnh của cuộc phán xét chung cuộc. Những lời kêu trách của ngài thì dữ dội: “Hỡi những người giàu có, các ông hãy khóc lóc than van”, những lời nầy nhắc nhớ ngôn từ của các ngôn sứ, như ngôn sứ I-sai-a gởi đến cư dân Ba-by-lon: “Hãy khóc lóc than van! Vì ngày của Đức Chúa sắp đến gần”. Ý tưởng thì cũng như nhau ở đây, viễn cảnh cũng là cánh chung. Những bất hạnh đang chờ đợi những người giàu có là những bất hạnh họ phải chịu vào Ngày Phán Xét.
1. Sự phù du của tài sản.
Chất đống của cải có ích gì? Được nhìn trong ánh sáng của vương quốc Thiên Chúa, việc chất đống của cải, việc tích trử tiền bạc chẳng có nghĩa lý gì: “tài sản của các ông đã hư nát, quần áo của các ông đã bị mối ăn”. Hình ảnh Kinh Thánh nầy rất kinh điển. Đức Giê-su cũng đã sử dụng những hình ảnh như vậy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6: 19-20).
Thánh Gia-cô-bê còn gợi ý thêm nữa: “vàng bạc của các ông bị rĩ sét”. Thật ra, vàng không bị oxi hóa và tiền bạc thì khá bền vững, nhưng hình ảnh thì rất mạnh: việc bị rĩ sét làm chứng, trước tòa án Thiên Chúa, về việc không chia sẻ của cải mà mình cố giữ riêng cho mình.
“Các ông đã lo tích trữ làm giàu trong những ngày sau hết”, nghĩa là trong thời kỳ nầy, thời kỳ được khai mạc bởi kỷ nguyên Thiên Sai và sẽ hoàn tất bởi ngày Quang Lâm của Chúa. Xưa kia, trong thời Cựu Ước, sự giàu có của cải được xem là lời chúc phúc của Đức Chúa thưởng ban cho những ai trung thành tuân giữ Lề Luật. Một phán đoán như vậy không còn nữa. Vương quốc Thiên Chúa đã đến: những của cải tinh thần được dâng hiến cho con người thì khôn sánh và đòi hỏi một tinh thần siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Từ đó, thái độ ích kỷ của những người giàu có không chỉ là có tội, nhưng cũng là ngu xuẩn.
2. Người nghèo:
Còn thậm tệ hơn: “Các ông đã giữ lại tiền lương của những người thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ông”. Ở đây, thánh Gia-cô-bê không còn nhắm đến những nhà tài chánh hay những thương nhân, nhưng những điền chủ.
Luật đòi buộc rằng tiền lương của người thợ được trả ngày nào theo ngày đó. Vì người nghèo sống theo tiền công nhật của mình. “Chính ngày hôm ấy, anh em phải trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Đức Chúa tố cáo anh em, và anh em sẽ không mang tội” (Đnl 24: 15).
Người giàu giữ lại tiền lương của người thợ, dù chỉ một thời gian, là phạm đến sự bất công. Hiền nhân Si-rác đã diễn tả nổi công phẩn tương tự: “Người túng nghèo còn chút bánh độ thân, ai lấy đi là kẻ hút máu. Cướp phương tiện sống của kẻ khác là giết người; đoạt lương của người làm thuê là gây đổ máu” (Hc 34: 21-22).
3. Thiên Chúa của những người nghèo:
Đức Chúa, Chúa Tể hoàn vũ, là Đấng bênh vực những người nghèo. Thánh Gia-cô-bê đối lập thái độ của những kẻ giàu có “trên cõi đất” nầy, những kẻ khinh bĩ người nghèo và sống xa hoa vô độ, với thái độ của Thiên Chúa, Chúa Tể càn khôn. Giờ phán xét sẽ bất ngờ ập xuống trên họ, những kẻ “đã ăn uống linh đình, đã buông theo khoái lạc, lòng họ đã được thỏa thuê vui thú trong ngày sát sinh”. Quả thật, hình ảnh “Ngày của Chúa” đôi khi được diễn tả bằng hình ảnh “ngày sát sinh”, vì vào ngày ấy, Đức Chúa sẽ hủy diệt mọi kẻ thù của Ngài.
Câu kết thúc của đoạn văn nầy quả thật khó hiểu. Ai là người công chính đã bị kết án và bị giết hại bởi những người giàu có mà không hề cưỡng kháng? Người ta có thể nghĩ rằng thánh Gia-cô-bê trở lại hình ảnh của người nghèo bị tước đoạt tiền lương của mình, mà người giàu là kẻ sát nhân của họ, theo cách diễn tả của hiền nhân Si-rác. Vài người gợi ra rằng đây cốt là Đức Ki-tô, những người khác cho rằng Người Công Chính nầy là Người Công Chính theo cách chung chung đối lập với những kẻ gian ác như các sách minh triết thường hay gợi lên.
Ý tưởng căn bản vẫn là: vào ngày phán xét, người nghèo và người công chính sẽ được Thiên Chúa thi ân báo oán.
TIN MỪNG (Mc 9: 38-43, 45, 47-48)
Trong phân đoạn Tin Mừng nầy, thánh Mác-cô tường thuật những giáo huấn khác nhau của Chúa Giê-su, mà mối liên hệ giữa chúng thì khá lỏng lẽo. Tuy nhiên, Đức Giê-su không đánh mất mục đích của mình: huấn luyện các môn đệ của Ngài, tức Giáo Hội tương lai của Ngài. Nỗi bận lòng của Chúa Giê-su đối với Giáo Hội là tuyến phát triển nối kết các yếu tố xem ra rời rạc.
1. Tinh thần khoan dung rộng mở của người môn đệ Chúa Ki tô.
Giáo huấn đầu tiên trong các giáo huấn nầy được khơi lên từ một sự kiện: một người trừ quỷ, không thuộc nhóm các ông, đã nhân danh Đức Giê-su mà trừ quỷ. Thánh Gioan và các môn đệ khác đã cố ngăn cản, vì người đó không theo chúng ta. Thái độ bất bao dung nầy của thánh Gioan, một trong hai anh em trước đây đã được phong biệt danh là “Con của Sấm Sét” (3: 17), sau nầy chính ông là người hỏi Chúa Giê-su có muốn các ông sai lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Sa-ma-ri, vì họ không đón tiếp Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem (Lc 9: 54). Phản ứng của Gioan đối với người trừ quỷ không thuộc nhóm chúng ta cũng giống như phản ứng của ông Giô-suê đối với hai kỳ mục không đến Lều Hội Ngộ được mô tả trong bài đọc I.
Chúa Giê-su giữ thái độ thanh thản của một bậc thầy khôn ngoan và trả lời với một lương tâm ngay lành: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Nếu người nầy nhận ra quyền năng siêu nhiên của Đức Giê-su, chính là ở nơi người ấy có một bước khởi đầu chấp nhận sứ điệp của Ngài rồi. Ngài truyền cho họ phải trải lòng ra tối đa với mọi kẻ không công khai thù địch họ: “Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Lời chú giải tốt nhất của những lời dạy nầy chắc chắn được gặp thấy trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Cô-rin-tô: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ‘Giê-su là đồ khốn kiếp!’; cũng không ai có thể nói rằng: ‘Đức Giê-su là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1Cr 12: 3).
Chúa Giê-su còn đi xa hơn khi cho họ một ví dụ: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cử chỉ của người đó đã là một cử chỉ tiếp đón; người ấy bày tỏ thái độ thân thiện rồi.
2. Thần Khí hoàn toàn tự do trong hành động:
Được liên kết với bài đọc I, bài học mà Chúa Giê-su đưa ra thì thật rõ ràng: Giáo Hội không được tin rằng mình giữ độc quyền những ân ban của Thần Khí; vì Thần Khí hoàn toàn tự do trong lãnh vực hoạt động của Ngài.
Quả thật, ơn gọi của các ngôn sứ Cựu Ước cho chúng ta thấy điều đó. Trong Cựu Ước, ơn gọi ngôn sứ không là một định chế cha truyền con nối như định chế tư tế, nhưng là đặc sủng. Vì thế, không phải tất cả các ngôn sứ đều là tư tế. Trong số những vị ngôn sứ bút ký thời danh, chỉ có hai người: Giê-rê-mi-a và Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi lãnh nhận sứ vụ ngôn sứ, còn đa số còn lại đều là những dân thường, với gia thế và nghề nghiệp khác nhau trước khi được gọi làm ngôn sứ. Trong những hoàn cảnh Thiên Chúa thấy cần lên tiếng, Ngài chọn những ngôn sứ của Ngài để thay Ngài chuyển giao sứ điệp của Ngài đến những đối tượng mà Ngài muốn. Câu trả lời của ngôn sứ A-mốt với ông A-mát-gia, tư tế đền thánh Bết-Ên cũng đủ nói lên điều đó: “Tôi không phải ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Thiên Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn súc vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en, dân Ta” (Am 7: 14-15).
Một trong những nét đặc trưng của các ngôn sứ Cựu Ước đó là, họ ý thức rất rõ họ được Chúa sai đi để chỉ nói lời Thiên Chúa không được nói lời của mình hay lời của bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà các ngôn sứ giả cũng tự cho mình là phát ngôn viên của Thiên Chúa, một trong những tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngôn sứ giả và ngôn sứ thật khiến chúng ta phải suy nghĩ: ngôn sứ thật nhân danh Thiên Chúa lên án những bất công xã hội, bênh vực những kẻ nghèo khổ, những người bị áp bức, dù phải chịu sĩ nhục, nhạo báng và bách hại nữa; trong khi các ngôn sứ giả lại tâng bốc bợ đỡ những kẻ có quyền có thế, những kẻ áp bức và bốc lột những người nghèo hèn cô thế. Cuộc tranh cãi giữa ông Kha-nan-gia, vị ngôn sứ giả, và ông Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ thật, cho thấy điều đó (Gr 28: 1-17). Chính nhờ truyền thống ngôn sứ nầy mà Do thái giáo không chỉ đóng khung trong việc phụng thờ Thiên Chúa trong các lễ lạc và hội đường, nhưng còn trong mối liên đới với anh em của mình. Chúng ta có thể nói họ chuẩn bị giáo huấn của Đức Ki tô: “mến Chúa và yêu người là một”.
Thêm nữa, ân ban ngôn sứ đôi khi không chỉ giới hạn trong dân Chúa chọn nhưng tràn ra bên ngoài nữa như câu chuyện của ông Bi-lơ-am trong Ds 22-24. Quả thật, ngày hôm nay, chúng ta cũng gặp thấy những người, đôi khi họ không phải là những người Ki-tô hữu, nhưng vì lương tâm ngay thẳng, lại xả thân bênh vực những người nghèo, lên án những bất công trong xã hội, dù phải chịu nhiều hy sinh mất mát kể cả mạng sống của mình. Làm thế nào chúng ta không thể thấy những thiện ý của họ không phát xuất từ Thần Khí được chứ? Nói cho cùng, Thần Khí hoàn toàn tự do trong hoạt động của Ngài như lời khẳng định của Đức Giê-su trong cuộc nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu” (Ga 3: 8).
3. Kinh trọng những kẻ bé mọn. Nghiêm túc đối với chính mình.
Trong tất cả mọi cộng đoàn, đều có những người vững mạnh và những những người yếu nhược. “Những kẻ bé mọn đang tin đây” chắc chắn là những người mà đức tin của họ cần được soi sáng và được nâng đỡ bởi mẫu gương của những người vững mạnh trong đức tin. Đức Giê-su nhấn mạnh trách nhiệm của những người mà qua cách hành xử của mình, khiến những kẻ bé mọn đang tin có nguy cơ lầm đường lạc lối. Mỗi người phải xét mình một cách nghiêm túc. Bằng kiểu nói ngoa dụ gợi nhớ các ngôn sứ, Đức Giê-su khuyên chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu chúng gây cớ vấp ngã cho những người bé mọn đang tin nầy. Bởi vì có gì quý giá hơn sự sống đời đời. Chúa Giê-su dùng những hình ảnh truyền thống: giòi bọ và lửa hỏa ngục để mô tả cái chết tinh thần của những kẻ gây cớ vấp phạm cho anh em mình.
Việc bảo vệ những kẻ bé mọn cho đến đức tin mõng dòn của họ rõ ràng thuộc về sứ điệp Tin Mừng. Đức Giê-su phối hợp sứ điệp nầy với những yêu sách cứng rắn mà một môn đệ chân chính và đặc biệt những người hướng dẫn cộng đoàn trong cuộc hành trình về Nước Trời đòi buộc phải ghi nhớ.
Nguồn: kinhthanh.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét