Câu hỏi 91. Vai Trò của Các Phó Tế, Linh Mục, và Giám Mục
Bí Tích Truyền Chức Thánh là bí tích mà nhờ đó một người được làm linh mục, phó tế hoặc giám mục. Bí tích này là một trong hai bí tích được xếp vào hàng bí tích ơn gọi (a sacrament of vocation), bí tích còn lại là bí tích Hôn Nhân. Đó là bí tích trao một ấn tín không thể phai mờ trên linh hồn, như bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, và do đó, người ta chỉ được phong chức một lần qua bí tích Truyền Chức phó tế, linh mục hay giám mục.
Chúa Giêsu Kitô đã thiết lập bí tích Truyền Chức Thánh trong Bữa Tiệc Ly vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh khi Ngài đồng thời cũng thiết lập bí tích Thánh Thể. Ngài muốn rằng hy lễ thánh lễ sẽ được tiếp nối cho muôn ngàn thế hệ. Hai bí tích này được nối kết mật thiết với nhau. Không có bí tích Truyền Chức Thánh, thì không thể có thánh lễ; và không có thánh lễ thì cũng không có bí tích Thánh Thể. Mục đích chính của chức tư tế là để dâng hy lễ thánh lễ. Bằng những lời: “Các con hãy làm điều này mà tưởng nhớ đến Thầy”, các Tông Đồ đã được thụ phong một cách trọn vẹn cho chức tư tế với tư cách là các giám mục, một sự trọn vẹn ngụ ý rằng đức giám mục là một mục tử đứng đầu, đấng thánh hóa và thầy dạy dỗ trong giáo phận riêng của ngài. Các đức giám mục có thể cử hành cả thảy bảy bí tích. Đức Giáo Hoàng, trước hết và quan trọng nhất, là một giám mục; với tư cách là giám mục Rôma, Ngài tự động có quyền đầy đủ, tối cao, trực tiếp và phổ quát như là người đứng đầu hữu hình của Giáo Hội Công Giáo. Ngài được gọi là Giáo Hoàng Tối Cao Rôma, vị đại diện của Chúa Kitô, đấng kế vị thánh Phêrô, và là đầy tớ của các đầy tớ của Thiên Chúa.
Các linh mục chia sẻ trách nhiệm mục tử của đức giám mục trong giáo phận. Như các đức giám mục được coi là người kế vị các thánh Tông Đồ, các linh mục cũng được coi là người kế vị các môn đệ, đặc biệt là nhóm Bảy Mươi Hai được đề cập trong các Tin Mừng, những người khác biệt và tách biệt với nhóm Mười Hai Tông Đồ. Khi Giáo Hội Kitô Giáo sơ khai nhanh chóng mở rộng, Tân Ước liệt kê ra ba cấp bậc của sứ vụ được phong chức: giám mục, phó tế và chủ tế (ngày nay được gọi là linh mục). Khi các bí tích không chỉ được phân phát trong nhà thờ mẹ, tức nhà thờ chánh tòa, và bởi đức giám mục, mà còn cả trong các nhà thờ nhỏ hơn gắn liền với nhà thờ chánh tòa được gọi là giáo xứ ngày càng gia tăng; thì các linh mục là những cánh tay nối dài hay những người đại diện đức giám mục. Họ đã thi hành quyền giáo huấn, rao giảng và thánh hóa trong chừng mực đức giám mục của giáo phận ban cho họ. Trong Công Vụ Tông Đồ chương 14:23, được viết vào thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, chúng ta đã đọc thấy, “Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.”
Trong thư thánh Phaolô viết cho ông Titô chương 1: 7- 9 chúng ta đọc thấy những phẩm chất của một giám quản (presbyter) (giám mục hay linh mục): “Thật vậy, giám quản, với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; trái lại, phải hiếu khách, yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ; người ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng dùng giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối.”
Bản chất vai trò của linh mục trong Tân Ước xuất phát từ thư gởi cho các tín hữu Do Thái 5: 6 “Con là tư tế muôn đời, theo phẩm hàm Men-ki-xê-đê, (Men-ki-xê-đê là một tư tế, một nhân vật trong Cựu Ước không có nguồn gốc, người đã dâng tiến bánh cho Áp-ra-ham). Tất cả điều này đã khắc họa trước dung mạo Chúa Kitô, Đấng là Thượng tế, Đấng không có khởi đầu, không có kết thúc bởi thiên tính của Ngài.
Một người được phong chức chia sẻ chức tư tế của Chúa Giêsu Kitô, để Chúa Kitô có thể tiếp tục hành động thông qua người ấy, bằng cách phân phát ân sủng của các bí tích. Các linh mục nghe giải tội, dâng lễ, chứng hôn, rửa tội, thêm sức (với sự ủy quyền đặc biệt từ đức giám mục), chôn cất người chết, cử hành Thánh Thể và là những cánh tay nối dài của đức giám mục trong việc giảng dạy đức tin cho các tín hữu.
Bạn có thể thấy một linh mục được Đức Thánh Cha ban tước đức ông (monsignor). Linh mục không được phong chức đức ông, nhưng được vinh danh với tước hiệu này vì công việc tốt ngài đã hoàn thành.
Các phó tế cũng được phong chức, và họ được mời gọi để phục vụ đức giám mục, các linh mục và dân Chúa. Theo Kinh Thánh, họ được gọi để làm việc giữa những người nghèo. Thậm chí ngày nay, nhiều phó tế chủ trì Hiệp Hội Bác Ái Thánh Vĩnh Sơn của giáo xứ. Chức năng chính của hiệp hội này là giúp đỡ người nghèo. Các phó tế cũng có thể rửa tội, loan báo và rao giảng Tin Mừng, chứng hôn, ốp lễ, chôn cất các Kitô hữu và các cử hành Thánh Thể như phép lành Thánh Thể. Có hai hình thức phó tế: phó tế vĩnh viễn và phó tế chuyển tiếp. Phó tế vĩnh viễn là phó tế sẽ không được phong chức thêm nữa như là linh mục hoặc giám mục. Chức phó tế vĩnh viễn trong Giáo Hội Latinh đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI khôi phục sau Công Đồng Vatican II. Giáo Hội Công Giáo Đông Phương và Byzantine vẫn còn phó tế vĩnh viễn, cũng như phó tế chuyển tiếp. Phó tế chuyển tiếp là một người sẽ được phong chức linh mục sau này. Tuy nhiên, cả hai đều là giáo sĩ và có chức năng hoàn toàn như nhau. Một người đàn ông đã có vợ có thể được phong chức phó tế vĩnh viễn, nhưng một phó tế chưa lập gia đình không thể kết hôn sau khi chịu chức theo phong tục cổ xưa. Ngay cả các linh mục Chính Thống Byzantine và Đông Phương, những người mà có một giới giáo sĩ đã kết hôn, vẫn duy trì cùng một phong tục là phải kết hôn trước khi chịu chức. Đàn ông đã kết hôn có thể được phong chức phó tế hoặc linh mục theo truyền thống đó (tức, truyền thống Chính Thống Byzantine và Đông Phương), nhưng nếu một người được phong chức khi còn độc thân, thì sau đó, vị ấy không thể kết hôn nữa. Tuy nhiên, chỉ có các phó tế hoặc linh mục chưa lập gia đình trong Giáo Hội Đông Phương mới được phong chức và được thánh hiến làm giám mục, do đó không có giám mục đã kết hôn. Giáo Hội Latinh sẽ cho phép ngoại lệ cho các phó tế vĩnh viễn mà đã kết hôn, có vợ đã qua đời trong khi vẫn còn con nhỏ để nuôi nấng, những phó tế này có thể viết thỉnh nguyện xin tái hôn, nhưng thỉnh nguyện đó phải được gửi cho Đức Giáo Hoàng.
Các đức giám mục, linh mục và phó tế có thể nghỉ hưu, rời khỏi chức vụ đang hoạt động nhưng không có gì có thể chấm dứt chức thánh mà họ đã được thụ phong. Thư gởi tín hữu Do Thái (5: 6), trích dẫn Thánh Vịnh 110, nói rằng “Con là tư tế muôn đời”, vì thế Giáo Hội coi các chức thánh là vĩnh viễn, không chỉ cho đến chết như hôn nhân, mà còn vượt xa cả ở trong đời sau nữa. Đó là một ấn tín không thể xóa nhòa trong linh hồn họ, ngay cả khi họ hoàn tục hoặc “treo chén.” Thuật ngữ “treo chén” đề cập đến thực tế là linh mục không còn có thể mặc phẩm phục giáo sĩ hoặc giữ thói quen của cộng đoàn giáo sĩ của mình. Sau thủ tục theo giáo luật, Đức Thánh Cha có thể cho các thành viên của giới giáo sĩ hoàn tục. Một cách chính thức, họ không thể thi hành chức vụ trong khả năng được phong chức cho họ. Họ được miễn đọc kinh thần vụ và trong một số trường hợp họ có thể kết hôn. Vào cuối những năm 1960, có một cuộc hoàn tục hàng loạt giữa các linh mục. Nhiều vị đã đệ đơn xin Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho họ được hoàn tục và có thể kết hôn trong Giáo Hội. Dưới triều đại của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đơn xin hồi tục không còn thường xuyên được cấp nữa. Trong thời gian gần đây, việc khai trừ khỏi hàng giáo sĩ (thường được gọi là “treo chén”) được coi là một hình phạt cho việc phạm một tội ác rất nghiêm trọng hoặc gây ra một vụ bê bối công khai. Những giáo sĩ bị khai trừ này bị tước danh hiệu “cha” và “quý cha”, nếu là các linh mục, và bị tước chức “đức cha” và “quý đức cha”, nếu là các giám mục, và tước hiệu “phó tế”, và “quý thầy”, nếu là phó tế. Bí tích Truyền Chức vẫn còn với họ, nhưng họ bị cấm thi hành cách hợp pháp và cử hành bất kỳ bí tích nào vì họ không còn là thừa tác viên được ủy quyền. Họ vẫn đã được phong chức, nhưng chức vụ của họ hoàn toàn bị hạn chế. Chỉ khi ai đó nguy tử, thì một linh mục bị hoàn tục mới có thể cử hành các bí tích thống hối và xức dầu cho người bệnh, và chỉ khi không có bất kỳ một linh mục được ủy quyền nào.
Chuyển ngữ: Nhóm Majorica, Học viện Dòng Tên
Nguồn: Rev. John Trigilio JR., Ph.D., and Rev. Kenneth D. Brighenti, Ph.D., The Catholicism Answer Book- The 300 Most Frequently Asked Question, (Naperville, Illinois: Sourcebooks, Inc., 2007), 126-28
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét