Trang

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2019

NIỀM HY VỌNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA THƯ THỨ NHẤT PHÊRÔ

NIỀM HY VỌNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA THƯ THỨ NHẤT PHÊRÔ

Dẫn Nhập
Khi đối diện với những nguy khó cuộc sống, con người thường có khuynh hướng co cụm, buông xuôi và thất vọng. Thấu cảm được nỗi lòng người tín hữu trước những gian nan, thánh Phêrô đã chiếu vào cuộc đời họ ánh sáng hy vọng khởi đi từ Thiên Chúa khả dĩ giúp họ có cái nhìn lạc quan và tín thác để vượt thắng những chướng ngại trên đường đời. Thánh nhân cho biết những thử thách mà các tín hữu đang đối diện chưa phải là dấu chấm hết, nhưng là cơ hội giúp họ giúp họ thanh luyện đức tin, kiến tạo lương tâm ngay thẳng hầu xây dựng cuộc sống chan hoà niềm vui và hạnh phúc. Như vậy, niềm hy vọng mà thánh Phêrô rót vào cung lòng người tín hữu là cánh cửa mở ra với Thiên Chúa qua cầu nguyện và lối dẫn tới tha nhân bằng yêu thương phục vụ.

Vậy để phần nào hiểu niềm hy vọng dưới cái nhìn của Thánh Phêrô, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những điểm sau.

  1.   Khái Niệm
Dưới cái nhìn của Thánh Kinh Tân Từ Điển thì chia làm hai khía cạnh:

*  Tâm Lý: Hy vọng là điều tất yếu muốn nghĩ về tương lai, ngay cả khi không có lý do chính đáng để hy vọng.

*  Niềm Tin
: Niềm hy vọng dựa trên nền tảng Kinh Thánh gắn liền với niềm tin nơi Thiên Chúa, vì những gì Ngài đã làm trong quá khứ, đặt biệt nơi Đức Kitô Giêsu, Đấng cứu độ con người. Niềm hy vọng sẽ được vinh hiển trong tương lai vì có Đức Kitô ở cùng, chia sẽ những thăng trầm cuộc sống và cứu độ cn người. Bởi đức tin, người Kitô hữu xác tín niềm hy vọng này là có thực và sẽ không bao giờ làm cho họ thất vọng. Trái lại, giúp họ mạnh mẽ chống lại điều ác, bảo vệ đức tin và làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu[1].

Theo quan điển của Công Giáo Phổ Thông, niềm hy vọng được hiểu dưới hai chiều kích khác:

*  Nhân Đức: Hy vọng là nhân đức ta có được khi chịu phép Rửa tội; đối tượng ưu tiên của nhân đức này là có Thiên Chúa ở với mình. Niềm hy vọng dựa vào sự toàn năng, tốt lành của Chúa và sự trung tín của Người đối với những gì Người đã hứa. Niềm hy vọng cần thiết cho ơn cứu độ.

*  Hành Vi
: Hành vi biểu lộ sự mong chờ và tin tưởng sẽ có được Thiên Chúa trên trời và những ơn cần thiết để đạt đến hạnh phúc đó. Phải thực hiện hành vi hy vọng khi bị cám dỗ và thất vọng. Mọi việc tốt về mặt siêu nhiên đều giả thiết phải có niềm hy vọng[2].

Nhìn chung, niềm hy vọng hệ tại việc đặt niềm tin vào Thiên Chúa và ơn Người cứu độ được thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu. Niềm hy vọng này giúp người tín hữu vượt qua những thử thách, rèn luyện nhân đức và củng cố ân sủng Chúa ban.

  1.   Thiên Chúa- Cội Nguồn Hy Vọng
Thư thứ nhất Phêrô chỉ cho các tín hữu biết rằng niềm hy vọng đích thực không thể đến từ cái bất toàn của trần gian. Có chăng, đó chỉ là sự an ủi giả tạo và chống qua, không có sức giải thoát con người khỏi những bế tắc cuộc sống. Niềm hy vọng đích thực chỉ có nơi Thiên Chúa mà thôi, được thể hiện trong Đức Kitô Giêsu. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cho ta được tái sinh nhờ cái chết và phục sinh của Đức Kitô, để ta nhận lãnh niềm hy vọng sống động và mang lại cho cuộc sống một giá trị. Thánh Phêrô viết: “Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại” (1, 3).

Như vậy, niềm hy vọng mà người tín hữu nhận lãnh từ Thiên Chúa sẽ là hành trang giúp họ đứng vững trước những chống đối, bách hại và cám dỗ. Có Thiên Chúa làm khiên che thuẫn đỡ, người tín hữu luôn an lòng tiến bước và có khả năng “trả lời cho bất cứ ai chất vần về niềm hy vọng của mình” (3, 15).

Dĩ nhiên, Thiên Chúa vẫn dành một “khoảng trống” cho sự đáp trả của con người. Niềm hy vọng này cần được xây dựng trên mối tương quan “song phương” giữa Thiên Chúa và con người, chứ không mang tính áp đặt. Do đó, để đáp lại tình yêu Thiên Chúa và củng cố niềm hy vọng ngày một vững chắc, người tín hữu cần có một đời sống cầu nguyện và dấn thân phục vụ tha nhân.


a. Cầu Nguyện

Trong khung trời cầu nguyện, người tín hữu tạo nên mối giây hiệp thông thân tình với Thiên Chúa. Nhờ đó, họ có thể soi dọi đời mình trong lăng kính của Chúa, hầu có thể nhận ra những gì là chân thiện mỹ, những gì đẹp lòng Chúa, cũng như tạo cho mình cuộc sống chừng mực và tiết độ. Thánh nhân khuyên các tín hữu: “Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ hầu có thể cầu nguyện được” (4, 7). Điều này đống nghĩa một cuộc sống buông thả không thể đi đôi với cầu nguyện. Một con người thuộc trọn về Chúa, được nuôi dưỡng bằng ân sủng và Lời của Ngài thì khó trở thành một con người phóng túng và bị những sự đời lèo lái, mua chuộc. Bởi vì, “Chính Thiên Chúa là nguồn ân sủng, cũng chính Người kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô… Chính Thiên Chúa sẽ cho anh em nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên trì” (5, 10). Dĩ nhiên, thánh nhân cũng không quyên cảnh tỉnh người tín hữu “hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (5, 8- 9).

Niềm hy vọng chỉ có được từ việc gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa và có khả năng trao ban cho người khác. Do đó, cầu nguyện không chỉ là chiếc cầu nối kết con người với Thiên Chúa, mà còn là cửa ngõ mở ra với tha nhân bằng yêu thương phục vụ.

  1.   Yêu Thương- Phúc Vụ
Có thể nói phục vu tha nhân với tất cả tình yêu là chiếc cân đo lường mức độ đón nhận ân sủng của mỗi người nơi Thiên Chúa. Ơn Thiên Chúa ban không phải là “của hồi môn” hay một kỷ vật để trang trí. Đúng hơn, nó là nén bạc Thiên Chúa muốn con người làm sinh lời vì lợi ích bản thân và tha nhân, cũng như nhằm tôn vinh Ngài. Có thế, người tín hữu mới là người quản lý trung tín và tài giỏi các ân huệ của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã nói: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em hãy dung mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là người quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (4, 10).

Tất nhiên, khi bước vào con đường dấn thân phục vụ, mỗi người cần gác sang một bên những điều mình cần làm vì lợi ích cá nhân để ưu tiên những gì mang lại lợi ích cho người khác[3]. Chính cuộc sống tràn đầy hy vọng sẽ mang lại cho chúng ta một cái nhìn lạc quan về người- về đời hầu có thể cảm thông và tha thứ những nỗi yếu hèn của tha nhân. Bởi vì, người tín hữu chân nhận rằng mình cũng là tội nhân được Thiên Chúa thứ tha, một lữ khách được người khác cùng đồng hành và chia sẻ.

Như vậy, niềm hy vọng kín múc từ Thiên Chúa là lối mở giúp người tín hữu bước ra khỏi cái tôi vị kỷ để phục vụ người khác với tất cả sự tin yêu và chân thành. Đàng khác, nó cũng là chất xúc tác tẩy trừ tội lỗi (x. 4, 18), tinh luyện đức tin và kiến tạo cuộc sống chan chứa niềm vui.

  1.   Kiên Trì Trong Thử Thách
  1.   Tinh Luyện Đức Tin
Hành trình bước theo Đức Kitô, không Làn cho người tín hữu hết khổ đau, cám dỗ và thử thách. Tất cả vẫn còn đó và lắm lúc làm cho cuộc sống người môn đệ chao đảo, buông xuôi. Điều làm cho người tín hữu vững bước là vì tin rằng Thiên Chúa vẫn có đó khi đời mình cô đơn, Ngài vẫn yêu thương khi ta lỗi lầm và Ngài hằng nâng đỡ khi ta tưởng chừng quỵ ngã. Những thử thách có thể là hố sâu chôn vùi cuộc đời trong u mê hờn oán, nhưng cũng là phương thế gột rửa tội lỗi, thanh luyện đức tin và thắp sáng niềm hy vọng. Thánh Phêrô đã nói lên ý hướng này: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quí hơn vàng gấp bội… Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi và đem lại vinh quang, danh dự” (1,7).  

Có thể nói, một ngôi nhà được đặt trên nền đá sẽ vững bền theo thời gian. Cũng vậy, một khi “đặt đức tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1, 21), các tín hữu cũng sẽ đứng vững trước những thế lực sự dữ và đủ sức vượt qua những bóng đêm thử thách. Người tín hữu không dừng lại ở thử thách mà nhắm tới hạnh phúc vĩnh hằng mà Thiên Chúa đang gọi mời. Nói cách khác, niềm tin vào Thiên Chúa đã mở ra chân trời hy vọng và thanh luyện con người từ nội tâm và hành động. Về điểm này, đức thánh Phanxicô cho chúng ta biết rõ hơn: “Niềm tin trong Chúa Kitô cứu thoát chúng ta chỉ vì trong Người, cuộc sống được mở ra cách tuyệt đối cho một tình yêu đi trước và chuyển hoá chúng ta từ nội tâm, hành động[4].


Chắc hẳn, một đức tin được thanh luyện sẽ luôn hướng về chân trời lạc quan và hy vọng. Từ đây, người tín hữu xác tín rằng tất cả đều sinh ích lợi cho những ai đặt niềm tin yêu vào Đức Kitô, Đấng đã hiến dâng mạng sống vì người mình yêu. Nhờ đó, những thử thách mà họ gặp phải trong hành trình chứng nhân đã trở nên lời khen ngợi và niềm vui, vì tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương và ở cùng tôi.

  1.   Mang Lại Niềm Vui
Niềm vui trong Chúa Kitô không đương nhiên làm cho người môn đệ vắng bóng đau khổ, thử thách. Đúng hơn, niềm vui này là dưỡng chất cho hành trình chứng nhân và luôn hướng về một tương lai tươi sáng. Thánh Phêrô cho ta biết về điều này khi nói: “Anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa tram chiều thử thách” (1, 6). Như vậy, những thử thách mà người tín hữu trải qua không phải là một ngỏ cụt, mà là cách thức giúp cải quá tự tân hầu xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ ngang qua con đường đức tin. Thánh phêrô viết: “Anh em được chan chứa niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả đức tin là ơn cứu độ con người” (1, 8- 9).

Hơn nữa, niềm vui của người môn đệ không dừng lại ở phần thưởng cá nhân mà còn là được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô. Nói cách khác, những đau khổ của người môn đệ không đi vào quyên lãng hay trở nên đơn điệu, vô ích nhưng thành cơ hội thông phần vào cuộc thương khó của Đức Kitô và để tôn vinh Thiên Chúa (x. 4, 12). Đó cũng là ý tưởng thánh Phêrô muốn trình bày: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cũng được vui mừng hoan hỷ” (4, 13).

Dĩ nhiên, thánh nhân không cổ võ người tín hữu đi tìm đau khổ. Ngài chỉ muốn họ đón nhận  những ngang trái cuộc đời với tâm tình tin yêu và phó thác. Đồng thời, ngài soi chiếu vào người tín hữu ánh sáng hy vọng: những đau khổ chưa phải là vực thẳm chôn vùi tất cả; nó sẽ mang lại cho đời nét xuân tươi ngay giữa những chông gai của gian khó. Đàng sau đau khổ, người tín hữu luôn tìm được sự an ủi vỗ về và vòng tay Chúa mở rộng chờ đợi ta bước tới.


  1.   Dấu Chứng Cho Nhân Thế
  1.   Lương Tâm Ngay Thẳng
Sống giữa cảnh đời tranh đua xua nịnh, người ta đang chờ đợi nơi người kitô hữu một dấu chứng về sự chân thành và ngay thẳng. Với lương tâm ngay thẳng, cánh cửa cuộc đời Kitô hữu sẽ mở rộng và có sức thúc đẩy người khác tìm đến Chúa. Francois Varillon chia sẻ cho ta về kinh nghiệm này: “Tất cả những gì người Kitô hữu có thể làm, đó là giúp người không Kitô giáo khám phá ra mình đang ở trong sự thật và giúp họ nhận ra điều đó[5].

Tư tưởng này chúng ta gặp thấy nơi thư thứ nhất của Phêrô. Với thánh nhân, cách làm chứng tá tốt nhất để giúp người khác nhận ra và tôn vinh Thiên Chúa chính là cuộc sống ngay lành và đượm chất Tin Mừng. Ngài viết: “Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại… để họ thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người viếng thăm” (2, 12). Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói về điểm này nhưng theo một cách thức khác: “Thế giới hôm nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy”. Có thể, chúng ta nói về Chúa thì dễ, nhưng diễn tả về Chúa bằng chính cuộc sống thường ngày quả là điều không đơn giản chút nào. Nó đòi hỏi mỗi người “ngụp lặn” trong tình yêu Thiên Chúa để nhờ Ngài tẩy xoá những cặn bã tội lỗi và mặc lấy con người mới giống hình ảnh Thiên Chúa với một lương tâm trong sáng và đơn thành.

Như vậy, với lương tâm trong sáng và ngay thẳng sẽ cho ta biết thế nào là hy vọng. Bởi vì, chúng ta khó hướng về một chân trời tươi đẹp và thắp lên nơi tha nhân ánh sáng hy vọng khi cuộc đời mình bị bao phủ bởi bóng đêm tội lỗi, hận thù và chia rẽ. Do đó, giữa hy vọng và lương tâm ngay thẳng có mối tương quan hỗ tương: Nó tựa như đôi cánh giúp người tín hữu có khả năng vươn tới chân trời hạnh phúc đích thực. Còn nhìn dưới khía cạnh tiêu cực thì lương tâm ngay thẳng chẳng khác nào chiếc “băng keo” khiến cho những kẻ phỉ báng, chống đối phải xấu hổ và bị khuất phục. Trong bối cảnh này, lương tâm ngay thẳng là lời biện hộ có sức thuyết phục hơn những lời trau chuốt hời hợt. Thánh Phêrô đã nói rõ: “Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ bang anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống” (3, 16).

Trước những thế lực sự dữ đang muốn thâu tóm, lèo lái người tín hữu đi vào con đường lầm lạc thì với lương tâm ngay thẳng sẽ cho họ đủ tỉnh táo để biện phân và chọn lựa hướng đi thích hợp với thánh ý Thiên Chúa. Nhờ đó, người tín hữu nuôi dưỡng lòng nhiệt thành và nghị lực để sống chiều kích Tin Mừng và giới thiệu Chúa cho người khác.

  1.   Niềm Phó Thác
Khuynh hướng chung của con người là tự chọn cho mình một hướng đi và hoạch định một chương trình cuộc sống. Họ khó chấp nhận người khác xen vào cuộc sống riêng tư. Lối sống này thường dẫn đến ích kỷ và khép kín.

Tuy nhiên, thánh Phêrô vạch ra cho người tín hữu một con đường khác với lẽ thường, đó là phó thác. Dĩ nhiên, sự phó thác khác với việc ỷ lại, buông xuôi. Nó nói lên ý chí mạnh mẽ, một tấm lòng chân thành và đức tin kiên vững, vì cuộc đời họ được đặt để nơi Thiên Chúa và để Ngài dùng họ “như những viên đá sống động mà xây ên ngôi đền thờ thiêng kliêng” (2, 4- 5). Thánh Phêrô chân nhận với sức mạnh của sự dữ và sự mỏng dòn bản thân nên người tín hưu rất khó đứng vững trước những cơn cám dỗ. Do đó, ngài mời gọi họ trao gửi cuộc đời cho Thiên Chúa, để Người nên chốn tựa nương, nên thành trì bảo vệ và để Người điều hướng cuộc đời theo Thiên ý. Thánh nhân khuyên các tín hữu: “Những ai chịu đau khổ theo ý Thiên Chúa, hãy phó mạng mình cho Đấng Tạo Hoá trung thành, và cứ làm điều thiện” (4, 19). Như vậy, theo thánh Phêrô, phó thác không có nghĩa là “ở nhưng”, mà là nhiệt tâm làm điều thiện. Bởi chưng, Đấng mà họ trao gửi cuộc đời luôn đồng hành và hướng dẫn họ bước theo Ngài (x. 2, 21).

Một điểm tựa chắc chắn cho những ai sống chiều kích phó thác là Thiên Chúa luôn yêu thương, trung thành với lời hứa và không ngừng chăm sóc đỡ nâng, nhất là khi gặp hoạn nạn hay sờn lòng nản chí. Thánh Phêrô khuyến khích: “Mọi âu lo hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (5, 7). Thánh nhân cho biết với tâm tình phó thác, người tín hữu có thể hoán chuyển những âu lo thành niềm vui, những tẻ nhạt cuộc sống mang dấu ấn ý nghĩa. Ở đây, chúng ta cùng nghe xác tín của đức thánh cha Phanxicô: “Người Kitô hữu biết rằng không thể loại trừ đau khổ, nhưng nó có thể nhận được một ý nghĩa, trở thành một hành động tình yêu, tin tưởng trong bàn tay Thiên Chúa, Đấng không bao giờ lìa bỏ chúng ta[6].

Có thể nói, ý nghĩa cuộc đời không dừng lại ở việc mình làm được gì, mà hệ tại nơi mức độ phó thác cho Thiên Chúa. Điều này có vẽ nghịch lý cho những ai không tin, nhưng với những ai đặt niềm tin nơi Thiên Chúa lại là một xác tín mạnh mẽ. Người tín hữu biết rằng những việc làm nhằm qui hướng bản ngã dễ trở thành những “viên gạch ích kỷ” xây nên lâu đài cố thủ và an phận với những gì đang có. Những việc làm này không mua được bình an, thanh thản và hạnh phúc, mà chỉ nhận được những ngánh nặng của bất an và đố kỵ. Do đó, thánh Phêrô dẫn người tín hữu tới chỗ nhìn nhận rằng chỉ nơi Chúa mới làm cho tâm hồn no thoả, chỉ có Người mới khoả lấp được nỗi trống vắng và chỉ trong Người, con người mới được lớn lên trong ân sủng và tình yêu.

c. Ơn Cứu Độ

Ơn cứu độ là bến bờ hạnh phúc mà mỗi tín hữu hằng mong chờ. Đó là động lực giúp họ vượt lên trên sự ngã và lỗi lầm hầu kiến tạo một con người mới như Thiên Chúa muốn. Trong Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức thánh cha Phanxicô đã nói: “Mọi người đều phải đến với sự an ủi và khích lệ của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, là điều hoạt động cách mầu nhiệm trong bất cứ ai, vượt trên và vượt ra ngoài những lỗi lầm và sa ngã[7].

Thánh Phêrô cũng đã nói về niềm hy vọng vào ơn cứu độ trong thư thứ nhất. Ngài nói: “Anh em đẽ được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích là Đức Kitô” (1, 19). Không ai khác mà chính giá máu của Đức Kitô đổ ra trên thập giá đã tẩy rửa tội lỗi và mang lại cho con người ơn cứu độ. Thiên Chúa không cứu độ con người bằng những phép lạ cả thể, nhưng đã đồng hành, nâng đỡ, chung chia kiếp sống và hiến mạng làm giá chuộc muôn người. Thánh nhân nói tiếp: “Chính Đức Kitô chịu chết một lần vì tội lỗi, Đấng công chính đã chết cho kẻ bất lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa” (3, 18). Như vậy, Đức Kitô là cửa ngõ ơn cứu độ, luôn rộng mở và dành cho hết mọi người. Chúng ta cùng nghe đức thánh cha Phanxicô diễn giải thêm ý hướng này: “Chúa Giêsu là cửa ngõ của ơn cứu độ. Cửa ngõ của Chúa Giêsu không bao giờ đóng kín, mà luôn luôn rộng mở cho tất cả mọi người, không phân biệt một ai, không loại trừ một ai[8].

Thánh Phêrô cho biết người tín hữu được tái sinh không phải do hạt giống mục nát của thế gian mà do hạt giống bất diệt, “nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi” (1, 23). Bởi đó, thánh nhân mời gọi: “Anh em hãy chuẩn bị lòng trí, hãy tỉnh thức, hãy hoàn toàn đặt niềm trong cậy vào ân sủng sẽ được mang đến cho anh em trong ngày Đức Kitô tỏ hiện” (1, 13). Với thánh nhân, ơn cứu độ không làm cho người tín hữu trở nên thụ động, cho bằng khích lệ họ đáp trả với tất cả tâm tình và ý chí tự do ngang qua tỉnh thức và đặt niềm trông cậy vào Thiên Chúa. Nói cách khác, ơn cứu độ là lực đẩy giúp người tín hữu luôn sống trong hy vọng hầu có thể đối diện với những cam go của thực tại trong an bình và tín thác. Đức thánh cha Bênêđictô XVI củng cố cho ta quan điểm này: “Sự cứu chuộc được trao ban qua việc ban tặng niềm hy vọng cho chúng ta, một niềm hy vọng kiên vững nhờ đó chúng ta có thể đối mặt với thực tại: chúng ta có thể sống và đón nhận thực tại đầy cam go, nếu chúng ta hướng đến một mục đích, và nếu chúng ta có thể ý thức về mục đích này[9].

Chủ hướng của thánh Phêrô là muốn người tín hữu xác tín rằng những thực tại trần gian không đủ để khoả lấp nỗi trống vắng hay mang lại cho cuộc sống ý nghĩa đích thực, mà chỉ nơi Chúa mới đổ đầy nỗi khát khao và ban tặng hạnh phúc vĩnh hằng. Như vậy, ơn cứu độ khởi đi từ Thiên Chúa luôn mang lại cho con người niềm vui, hy vọng vì biết rằng mình có một mục đích để hướng tới và một vòng tay rộng mở luôn đón chờ.  

Kết Luận

Với những gì trình bày ở trên, chúng ta thấy chỉ duy tình yêu Thiên Chúa mới đem lại cho con người khả năng và kiên vững trong một thế giới tự bản chất là bất toàn mà không đánh mất niềm hy vọng[10]. Niềm hy vọng đích thực không đến từ con người, mà bắt nguồn từ Thiên Chúa. Bởi chưng, khi con người tự đặt cho mình một điểm tựa, tự hoạch định cho mình một cứu cánh thì luôn có nguy cơ bảo thủ, ích kỷ và bất an. Hệ luỵ của nó là thiếu tinh thần phó thác, đánh mất niềm vui và làm xói mòn niềm hăng say trong đời chứng nhân.

Thánh Phêrô hướng người tín hữu đến một niềm hy vọng mang tính giải thoát. Nói cách khác, niềm hy vọng được diễn tả nơi thư thứ nhất Phêrô được khởi đi từ Thiên Chúa và cho mục đích của Ngài. Đó là một năng lực siêu việt khả dĩ giúp con người vượt qua những rào cản tội lỗi, chiến thắng những giới hạn bản thân, thanh luyện đức tin hầu mang lại cho cuộc sống niềm tin yêu phó thác, sự quảng đại phục vụ tha nhân và lòng nhiệt tành làm chứng cho những giá trị Tin Mừng.

                                                                           Montfort Nguyễn Xuân Pháp
                                                                                                   Nguồn: simonhoadalat.com


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét