Blaise Pascal và việc bênh vực Kitô giáo: Nguyên văn Phần II trong Pensées , cần nghiên cứu tôn giáo
Vũ Văn An
MỤC THỨ II: Cần nghiên cứu tôn giáo.
Ước chi những người chống lại tôn giáo ít nhất chịu học hỏi xem nó là gì, trước khi chống đối nó. Nếu tôn giáo nào tự hào cho là mình có một cái nhìn rõ ràng về Thiên Chúa, và sở hữu được Người một cách công khai không che đậy, thì người ta sẽ chống lại nó bằng cách nói rằng mình không thấy bất cứ điều gì trên thế giới có thể chứng minh được Người qua bằng chứng này. Nhưng ngược lại, khi tôn giáo này nói rằng con người sống trong tối tăm và xa cách Thiên Chúa, đến nỗi Người giấu mình khỏi sự hiểu biết của họ, và thậm chí tên Người tự đặt cho Người trong Kinh thánh là, Deus absconditus (Thiên Chúa ẩn mình); và cuối cùng khi tôn giáo này cố gắng không kém để thiết định hai điều này: Thiên Chúa đã đặt các dấu ấn hữu hình trong Giáo hội để làm Người được nhận biết đối với những ai thành tâm tìm kiếm Người; tuy nhiên, Người che đậy các dấu ấn này theo cách mà chỉ những ai hết lòng tìm kiếm Người mới thấy được: nếu thế, tôi yêu cầu những người không mấy cho là mình nghiêm túc cần cù, để có thể xác quyết được chân lý liên quan đến tôn giáo, làm sao họ có thể nghĩ là họ đem được một lập luận chống tôn giáo, bằng cách phản đối cho rằng mình không thấy nó chân thật, khi chính sự kiện họ không tri nhận được bằng chứng nào đã thiết lập một trong hai điểm vừa bàn mà không đụng tới điểm kia; và do đó đã xác nhận tín lý của Giáo Hội thay vì hủy diệt nó.
Để chống lại nó, có lẽ họ phải tuyên bố rằng họ đã nỗ lực hết sức để tìm kiếm nó ở khắp mọi nơi, ngay cả lắng nghe mọi điều Giáo hội đề xuất để được giáo huấn về nó, nhưng vẫn không được thỏa mãn. Nếu họ nói như vậy, họ có thể đã thực sự chiến đấu chống lại một trong những chủ trương của tôn giáo này. Nhưng tôi hy vọng chứng minh ở đây rằng không có người hữu lý nào lại có thể nói cách đó; và tôi dám nói rằng chưa có ai làm thế. Người ta đủ biết những người có tinh thần này hành động như thế nào. Họ tin họ đã nỗ lực rất nhiều để tự giáo dục bản thân, nhưng thực ra, họ chỉ dành vài giờ để đọc Kinh thánh, và chỉ chất vấn một giáo sĩ nào đó về các chân lý đức tin. Sau đó, họ huênh hoang đã tìm kiếm nhưng không thành công trong sách vở và với nhiều người. Nhưng, nói thật, tôi không thể ngăn mình nói với họ điều tôi thường nói, rằng không thể hỗ trợ sự lơ là này. Ở đây không phải là việc tầm phào của một người xa lạ; mà là việc của chính chúng ta, của tất cả chúng ta.
Sự bất tử của linh hồn là một điều rất quan hệ đối với chúng ta, và nó đụng đến chúng ta một cách sâu sắc đến nỗi phải mất hết tình cảm mới có thể thờ ơ đối với việc biết những gì có trong đó. Mọi hành động và mọi suy nghĩ của chúng ta hẳn phải theo những lộ trình khác nhau, tùy thuộc vào việc liệu có các sự thiện vĩnh cửu để hy vọng hay không, đến mức không thể hành động một cách có cảm thức và phán đoán, mà không luôn được điều hướng bởi niềm tin của ta vào điểm này, và biến nó thành quan tâm chính của chúng ta. Vì vậy, mối quan tâm đầu tiên và nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là làm chúng ta hiểu rõ chủ đề này, chủ đề mà trọn tác phong của chúng ta phụ thuộc vào. Và đó là lý do tại sao, trong số những người không bị thuyết phục về nó, tôi đưa ra sự khác biệt tột cùng giữa những người cố gắng hết sức mình để tìm hiểu về nó, và những người sống mà không lo lắng về nó và không suy nghĩ về nó. Tôi chỉ có thể có lòng cảm thương đối với những người chân thành buồn bã trong việc nghi ngờ này, những người coi nó như nỗi bất hạnh cuối cùng, và là những người, vì không tiếc điều gì để thoát ra khỏi nó, đã biến cuộc tìm kiếm này thành công việc chính và nghiêm túc nhất của họ. Còn đối với những người sống cả cuộc đời họ mà không nghĩ đến cùng đích đời mình, và những người, vì lý do duy nhất họ không tìm thấy trong mình các ánh sáng có thể thuyết phục họ, họ bỏ qua việc tìm kiếm nơi khác và khảo sát ngọn nguồn xem ý kiến này là thuộc những nguồn mà mọi người đón nhận một cách đơn sơ dễ tin, hay thuộc các nguồn, dù tự nó không rõ ràng, tuy nhiên có một nền tảng rất vững chắc; tôi coi họ hoàn toàn khác nhau. Sự lơ là này trong một vấn đề đụng đến bản thân họ, đến sự sống vĩnh cửu của họ, đế toàn bộ con người họ, làm tôi khó chịu hơn là dễ chịu; nó làm tôi kinh ngạc và khiếp sợ; đó là một con quái vật đối với tôi. Tôi không nói điều này vì sự nhiệt thành của lòng sùng mộ thiêng liêng. Ngược lại, tôi cho rằng lòng tự trọng, sự quan tâm của con người, ánh sáng đơn giản nhất của lý trí hẳn phải đem đến cho chúng ta những tình cảm này. Vì vậy, trong vấn đề này, không nên chỉ nhìn những điều những người kém thông sáng nhìn thấy.
Không nhất thiết phải có một tâm hồn rất cao siêu mới hiểu rằng ở đây không hề có sự thỏa mãn chân thực và vững chắc; mọi thú vui của chúng ta đều là phù phiếm; các sự xấu của chúng ta là vô hạn; và cuối cùng cái chết, điều đe dọa chúng ta mọi lúc, hẳn, trong vài năm, và có lẽ trong vài ngày, sẽ đặt chúng ta vào trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu, hoặc bất hạnh, hoặc hủy diệt. Giữa chúng ta và thiên đường, địa ngục hay hư vô, do đó chỉ có sự sống, là điều mong manh nhất trên đời; và thiên đàng chắc chắn không dành cho những ai nghi ngờ liệu linh hồn của họ có bất tử hay không, họ chỉ còn cách chờ đợi hỏa ngục hoặc cõi hư vô. Không có gì thực hơn thế, cũng không có gì khủng khiếp hơn thế. Chúng ta hãy nâng mình cao lên bao nhiêu có thể: đây là cùng đích đang chờ đợi cuộc sống tươi đẹp nhất trên thế giới. Điều vô dụng là con người từ khước, không nghĩ đến cõi vĩnh hằng đang chờ đợi họ, như thể họ có thể tiêu diệt nó bằng cách không nghĩ đến nó. Nó tồn tại bất chấp họ, nó diễn tiến; và cái chết, điều hẳn sẽ mở nó ra, trong một thời gian ngắn, sẽ nhất định đặt họ vào thế nhất thiết đáng sợ phải hiện hữu hoặc bị tiêu diệt, hoặc bất hạnh vĩnh viễn.
Đó là một nghi ngờ có hậu quả khủng khiếp; và chắc chắn đây là một điều xấu xa rất lớn khi sống trong sự nghi ngờ này; nhưng ít nhất đây là một nhiệm vụ nhất thiết phải tìm kiếm khi người ta ở trong đó. Vì vậy, kẻ nghi ngờ và không tìm kiếm vừa rất bất công vừa rất bất hạnh. Nếu họ thanh thản và hài lòng, tự tuyên bố như thế, và cuối cùng huênh hoang về nó, và biến tình trạng này thành chủ đề cho niềm vui và sự phù phiếm của họ, thì tôi không còn từ ngữ nào để mô tả một tạo vật ngông cuồng như vậy.
Người ta có được các tình cảm đó từ đâu? Người ta tìm thấy chủ đề vui tươi nào khi chỉ còn mong chờ những khốn cùng không phương sách? Chủ đề huênh hoang nào khi thấy mình trong cảnh tối tăm mịt mùng? Niềm an ủi nào khi không bao giờ mong đợi một đấng an ủi? Sự an lòng vì ngu dốt này, là một điều quái dị, và ta cần làm cho những người dành đời sống họ cho nó cảm nhận được tính ngông cuồng và ngu ngốc này, bằng cách trình bầy cho họ những gì diễn ra trong chính họ, để làm họ bối rối khi nhìn thấy sự điên rồ của họ: vì đó là cách con người lý luận, khi họ chọn sống trong cảnh ngu dốt, không biết mình là gì, và không tìm kiếm bất cứ sự soi sáng nào.
Tôi không biết ai đã sinh ra tôi, cũng không biết thế giới là gì, cũng như bản thân tôi là chi. Tôi ngụp lặn trong ngu dốt khủng khiếp đối với mọi sự vật. Tôi không biết cơ thể mình là gì, các giác quan của tôi là chi, linh hồn của tôi là gì: và chính cái phần trong tôi này, cái phần nghĩ ra những gì tôi nói, và khiến tôi suy tư về mọi sự và về chính nó, cũng không biết chính nó hơn những phần còn lại. Tôi thấy những khoảng không gian đáng sợ này của vũ trụ bao quanh tôi, và tôi thấy mình dính chặt vào một góc của không gian rộng lớn này, mà không biết tại sao tôi lại được đặt vào nơi này thay vì vào nơi khác, cũng như tại sao khoảng thời gian ít ỏi này được ban cho tôi để sống lại được chỉ định cho tôi ở thời điểm này hơn là ở thời điểm khác trong cõi vĩnh cửu vốn diễn ra trước tôi, và cõi vĩnh cửu sẽ theo sau tôi. Tôi chỉ nhìn thấy những vô hạn ở mọi thành phần, đang nuốt chửng tôi như một nguyên tử, và như một cái bóng chỉ tồn tại trong giây lát mà không quay trở lại. Tất cả những gì tôi biết chỉ là chẳng bao lâu nữa tôi sẽ chết; nhưng điều tôi làm ngơ hơn hết chính là cái chết này, cái chết mà tôi không biết tránh ra sao.
Như tôi không biết mình từ đâu đến thế nào, tôi cũng không biết mình sẽ đi đâu thế ấy; tôi chỉ biết rằng khi tôi ra khỏi thế giới này, tôi sẽ mãi mãi rơi vào hoặc cõi hư vô, hoặc vào bàn tay của một Thiên Chúa giận dữ, mà không biết mình phải chia sẻ đến vô tận thân phận nào trong hai thân phận này.
Đó là trạng thái của tôi, đầy khốn cùng, yếu đuối, tăm tối. Và từ tất cả những điều này, tôi kết luận tôi phải dành mọi ngày của đời tôi để không nghĩ chi tới những điều sẽ xảy ra với tôi; và tôi chỉ nên theo khuynh hướng của mình không cần suy tư và lo lắng, dù trong một diễn trình tôi biết rõ mình sẽ rơi vào nỗi bất hạnh vĩnh viễn, nếu quả có một trạng thái như thế. Có thể tôi sẽ tìm được một số soi sáng nào đó trong những nghi ngờ của tôi; nhưng tôi không muốn mất công về điều đó, cũng không muốn thực hiện bất cứ bước nào để tìm kiếm nó; và, đối xử một cách khinh thường với những ai cố gắng theo hướng này, tôi muốn tiếp tục tiến bước trong việc thử nghiệm một tương lai như thế, không cần dự kiến và sợ hãi, và để bản thân mình được vui vẻ trên đường dẫn đến cái chết, mà không biết chắc thân phận của mình sẽ ra sao trong cõi vĩnh viễn.
Quả thật, điều vinh dự cho tôn giáo là đã có những kẻ vô lý như thế làm kẻ thù; và việc chống đối của họ ít nguy hiểm đối với tôn giáo đến nỗi, ngược lại, tôn giáo đã dùng nó để thiết lập ra các chân lý chính của mình để dạy dỗ chúng ta. Vì đức tin Kitô giáo chủ yếu chỉ diễn tiến để thiết lập ra hai điều này, sự sa đọa của tự nhiên, và ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Nay, nếu chúng không phục vụ việc chứng minh sự thật của ơn cứu chuộc bằng tính thánh thiện trong phong hóa của họ, thì ít nhất chúng cũng phục vụ một cách đáng ngưỡng mộ việc chứng minh sự sa đoạ của tự nhiên bằng những tình cảm bất tự nhiên như thế.
Không có gì quan trọng đối với con người bằng tình trạng của họ; không có gì đáng sợ đối với họ bằng sự vĩnh cửu. Và do đó, nếu có những người thờ ơ với việc đánh mất chính con người của họ, và với nguy cơ vĩnh viễn khốn khổ, điều này mới không hề tự nhiên. Họ khác hẳn đối với mọi sự khác: họ sợ hãi đối với điều nhỏ nhặt nhất, họ dự kiến trước, cảm nhận chúng; và cũng chính con người này sống ngày sống đêm trong thịnh nộ và tuyệt vọng vì mất một chức vụ, hoặc vì một hành động tưởng tượng bị xúc phạm đến danh dự của mình, cũng là người dù biết mình sẽ mất tất cả khi chết, nhưng lại không lo lắng gì, không có xáo trộn và không có cảm xúc chi. Sự vô cảm kỳ lạ với những điều khủng khiếp nhất này, trong một trái tim quá nhạy cảm với những điều tầm phào nhất, là một điều quái dị; đó là một sự mê hoặc không thể hiểu nổi, và một thiếp ngủ siêu nhiên.
Một con người trong ngục giam, không biết liệu việc mình bị bắt có được thực hiện hay chưa, chỉ còn một giờ nữa để học biết điều này, và nếu họ biết việc họ bị bắt đã được thực hiện, một giờ này đủ để vận động cho nó bị hủy bỏ; thì điều trái tự nhiên là họ cứ sử dụng giờ này, không phải để tìm xem việc họ bị bắt đã được thực hiện hay chưa, nhưng để vui chơi và giải khuây. Đó là trạng thái của hạng người này; với sự khác biệt này là những việc xấu mà họ đang bị đe dọa khác với việc đơn giản mất mạng sống và nhục hình tạm thời mà người tù này có lẽ hiểu rõ. Tuy nhiên, họ lại vô tư lao xuống hố thẳm, sau khi đã đặt một vật gì đó trước mắt họ, để ngăn họ nhìn thấy nó, và họ cười nhạo những ai cảnh báo họ về nó.
Như thế, không những sự sốt sắng của những người tìm kiếm Thiên Chúa, mà cả sự mù quáng của những người không tìm kiếm Người, và những người sống trong sự sao lãng khủng khiếp này đều chứng minh tôn giáo chân chính. Hẳn phải có một sự đảo ngược kỳ lạ trong bản chất con người, người ta mới sống trong tình trạng này, và hơn nữa còn huênh hoang về nó. Vì, nếu họ hoàn toàn biết chắc rằng họ sẽ không có gì phải sợ khi chết ngoài việc rơi vào hư vô, thì đó chẳng phải là vấn đề tuyệt vọng hơn là vấn đề phù phiếm hay sao? Do đó, không phải là một sự điên rồ khó tưởng tượng hay sao, khi không chắc chắn, mà vẫn huênh hoang sống trong sự nghi ngờ này?
Và, tuy thế, điều chắc chắn là con người đánh mất tự nhiên (dénaturé) đến nỗi trong trái tim họ, có một mầm mống của niềm vui đối với điều đó. Sự thư thái tàn bạo giữa nỗi sợ hãi địa ngục và hư vô này dường như đẹp đến nỗi không chỉ những người thực sự sống trong sự nghi ngờ bất hạnh ấy tự hào về nó, mà cả những người không sống trong đó cũng tin rằng giả vờ sống trong đó cũng đủ vẻ vang rồi. Vì kinh nghiệm cho chúng ta thấy: hầu hết những người muốn pha mình vào đó đều thuộc loại vừa kể; đó là những người tự giả mạo chính mình, và là những người không giống như họ muốn tỏ ra: Đó là những người đã nghe đồn thổi rằng cách cư xử tốt nhất ở trên đời hệ ở việc làm cho mình thành người thành đạt. Đó là điều họ gọi là thoát ách; và hầu hết làm điều đó chỉ để bắt chước người khác.
Nhưng, nếu họ còn một chút lương tri, thì việc làm cho họ hiểu rằng họ đã tự lừa dối bản thân khi tìm cách làm mình nổi tiếng cách đó sẽ không khó. Đó không phải là cách để đạt được lòng qúy mến, ngay cả nơi những người có tinh thần thế gian nhưng biết đánh giá mọi điều một cách lành mạnh; những người này sẽ nói cho họ hay cách duy nhất để có được tiếng tốt là tỏ ra trung thực, trung thành, sáng suốt và có thể phục vụ bạn bè của mình một cách hữu ích; bởi vì theo lẽ tự nhiên, người ta chỉ yêu những gì có thể hữu ích đối với họ. Bây giờ, có lợi gì cho chúng ta khi nghe đồn thổi rằng một ai đó đã thoát ách; rằng họ không tin có một Thiên Chúa hằng trông chừng các hành động của họ; rằng họ tự coi họ là chủ nhân duy nhất của tác phong họ; rằng họ chỉ nghĩ đến việc giải trình về nó cho chính họ? Họ có nghĩ họ đã dẫn chúng ta cách đó để từ nay ta tin tưởng vào họ nhiều hơn, và mong đợi ở họ các an ủi, các lời khuyên và giúp đỡ trong mọi nhu cầu của cuộc sống không? Họ có nghĩ họ đã làm cho chúng ta hân hoan, khi nói với chúng ta rằng họ nghi ngờ không biết linh hồn chúng ta có gì khác ngoài một chút gió và khói, và có lẽ còn nói với chúng ta bằng một giọng điệu tự hào và tự mãn? Đó có phải là điều để nói một cách vui vẻ không? Và, ngược lại, há đó không phải là điều phải nói một cách buồn bã, giống như điều buồn bã nhất ở trên đời hay sao?
Nếu những người trên suy nghĩ về nó cách nghiêm túc, họ sẽ thấy tác phong của họ bị phán đoán quá sai lầm, trái với lương tri, ngược với sự trung thực, và xét theo bất cứ cách nào, cũng xa lìa lề thói tốt lành mà họ tìm kiếm, không có gì có thể thu hút hơn sự khinh miệt và ác cảm của người ta đối với họ, và làm họ bị coi như những người không có tinh thần và không biết phán đoán. Và, quả thực, nếu người ta bắt họ giải thích các tình cảm của họ, và các lý do khiến họ nghi ngờ tôn giáo, họ sẽ nói những điều quá yếu ớt và quá tầm thường đến mức họ sẽ thuyết phục đúng hơn điều ngược lại. Đó là điều một ngày nào đó ai đó có thể sẽ nói với họ cách hợp thời. Họ nói: Nếu bạn tiếp tục nói chuyện như thế này, quả thật bạn đang làm tôi hoán cải. Và người này có lý; vì ai lại không khiếp đảm khi thấy mình có những người đáng khinh như vậy làm bạn đồng hành?
Vì vậy, những người chỉ biết giả hình trong những tình cảm như vậy, họ rất bất hạnh khi cưỡng chế bản tính tự nhiên của mình để trở thành những người ngu dại nhất loài người. Nếu tận đáy lòng họ, họ tức giận vì không có tia sáng nào, thì ước chi họ đừng che giấu điều đó: một thú nhận như thế không có gì đáng xấu hổ cả. Chỉ đáng xấu hổ khi không tuyên bố như thế. Không có gì cho thấy mình thiếu lương tri cho bằng việc không biết rõ điều này: bất hạnh xiết bao cho ai không có Thiên Chúa; không có gì đánh dấu sự thấp hèn tột độ của trái tim hơn việc không ước muốn sự thật trong những lời hứa hẹn trường cửu; không gì hèn nhát hơn lòng dũng cảm chống lại Thiên Chúa. Vì vậy, ước chi họ từ bỏ các điều vô đạo ấy cho những người sinh ra đã khuyết tật, không thể trở thành những người có khả năng về phương diện này; ước chi ít nhất họ là những người trung thực, nếu họ chưa thể là các Kitô hữu; và cuối cùng ước chi họ nhận ra rằng chỉ có hai loại người mà người ta có thể gọi là hữu lý; hoặc những người hết lòng phụng sự Thiên Chúa, vì họ nhận biết Người; hoặc những kẻ hết lòng tìm kiếm Người, vì họ chưa nhận biết Người.
Do đó, đối với những người chân thành tìm kiếm Thiên Chúa, và những người, nhờ nhận ra sự khốn cùng của họ, thực sự mong muốn thoát khỏi nó, điều chính đáng là cố gắng, nhằm giúp họ tìm thấy ánh sáng mà họ vốn không có.
Nhưng đối với những người sống mà không biết Người và không tìm kiếm Người, họ tự cho mình là không đáng được quan tâm, không đáng quan tâm đến người khác; và cần phải có đức bác ái của tôn giáo mà họ coi thường để đừng khinh miệt họ đến mức bỏ rơi họ trong sự điên rồ của họ. Nhưng vì tôn giáo này bắt buộc chúng ta phải luôn coi họ, bao lâu họ còn ở sống ở đời này, như những người có khả năng lãnh nhận ơn thánh có thể soi sáng họ; và tin rằng trong một thời gian ngắn nữa, họ có thể tràn đầy đức tin hơn chúng ta; và ngược lại, chúng ta có thể sa vào tình trạng mù quáng hiện nay của họ; chúng ta phải làm cho họ những gì chúng ta muốn người khác làm cho chúng ta nếu chúng ta rơi vào tình trạng của họ, và kêu gọi họ thương hại chính họ, và ít nhất, thực hiện một vài bước để thử xem họ có tìm thấy chút ánh sáng nào không. Ước chi họ dành một số thì giờ họ vốn dành vô ích cho những nơi khác để đọc tác phẩm này: có lẽ họ sẽ gặp được điều gì đó ở đó, hoặc ít nhất họ sẽ không mất mát bao nhiêu trong đó. Nhưng đối với những người mang vào đó lòng thành thực hoàn toàn và mong ước thực sự muốn biết sự thật, tôi hy vọng rằng họ sẽ tìm được sự hài lòng trong đó và họ sẽ được thuyết phục bởi các chứng cớ của một tôn giáo hết sức thần thánh mà người ta đã thu thập ở đó.
Kỳ tới: Mục III. Khó có thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng ánh sáng tự nhiên; nhưng điều an toàn nhất là tin sự hiện hữu đó.
Ước chi những người chống lại tôn giáo ít nhất chịu học hỏi xem nó là gì, trước khi chống đối nó. Nếu tôn giáo nào tự hào cho là mình có một cái nhìn rõ ràng về Thiên Chúa, và sở hữu được Người một cách công khai không che đậy, thì người ta sẽ chống lại nó bằng cách nói rằng mình không thấy bất cứ điều gì trên thế giới có thể chứng minh được Người qua bằng chứng này. Nhưng ngược lại, khi tôn giáo này nói rằng con người sống trong tối tăm và xa cách Thiên Chúa, đến nỗi Người giấu mình khỏi sự hiểu biết của họ, và thậm chí tên Người tự đặt cho Người trong Kinh thánh là, Deus absconditus (Thiên Chúa ẩn mình); và cuối cùng khi tôn giáo này cố gắng không kém để thiết định hai điều này: Thiên Chúa đã đặt các dấu ấn hữu hình trong Giáo hội để làm Người được nhận biết đối với những ai thành tâm tìm kiếm Người; tuy nhiên, Người che đậy các dấu ấn này theo cách mà chỉ những ai hết lòng tìm kiếm Người mới thấy được: nếu thế, tôi yêu cầu những người không mấy cho là mình nghiêm túc cần cù, để có thể xác quyết được chân lý liên quan đến tôn giáo, làm sao họ có thể nghĩ là họ đem được một lập luận chống tôn giáo, bằng cách phản đối cho rằng mình không thấy nó chân thật, khi chính sự kiện họ không tri nhận được bằng chứng nào đã thiết lập một trong hai điểm vừa bàn mà không đụng tới điểm kia; và do đó đã xác nhận tín lý của Giáo Hội thay vì hủy diệt nó.
Để chống lại nó, có lẽ họ phải tuyên bố rằng họ đã nỗ lực hết sức để tìm kiếm nó ở khắp mọi nơi, ngay cả lắng nghe mọi điều Giáo hội đề xuất để được giáo huấn về nó, nhưng vẫn không được thỏa mãn. Nếu họ nói như vậy, họ có thể đã thực sự chiến đấu chống lại một trong những chủ trương của tôn giáo này. Nhưng tôi hy vọng chứng minh ở đây rằng không có người hữu lý nào lại có thể nói cách đó; và tôi dám nói rằng chưa có ai làm thế. Người ta đủ biết những người có tinh thần này hành động như thế nào. Họ tin họ đã nỗ lực rất nhiều để tự giáo dục bản thân, nhưng thực ra, họ chỉ dành vài giờ để đọc Kinh thánh, và chỉ chất vấn một giáo sĩ nào đó về các chân lý đức tin. Sau đó, họ huênh hoang đã tìm kiếm nhưng không thành công trong sách vở và với nhiều người. Nhưng, nói thật, tôi không thể ngăn mình nói với họ điều tôi thường nói, rằng không thể hỗ trợ sự lơ là này. Ở đây không phải là việc tầm phào của một người xa lạ; mà là việc của chính chúng ta, của tất cả chúng ta.
Sự bất tử của linh hồn là một điều rất quan hệ đối với chúng ta, và nó đụng đến chúng ta một cách sâu sắc đến nỗi phải mất hết tình cảm mới có thể thờ ơ đối với việc biết những gì có trong đó. Mọi hành động và mọi suy nghĩ của chúng ta hẳn phải theo những lộ trình khác nhau, tùy thuộc vào việc liệu có các sự thiện vĩnh cửu để hy vọng hay không, đến mức không thể hành động một cách có cảm thức và phán đoán, mà không luôn được điều hướng bởi niềm tin của ta vào điểm này, và biến nó thành quan tâm chính của chúng ta. Vì vậy, mối quan tâm đầu tiên và nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là làm chúng ta hiểu rõ chủ đề này, chủ đề mà trọn tác phong của chúng ta phụ thuộc vào. Và đó là lý do tại sao, trong số những người không bị thuyết phục về nó, tôi đưa ra sự khác biệt tột cùng giữa những người cố gắng hết sức mình để tìm hiểu về nó, và những người sống mà không lo lắng về nó và không suy nghĩ về nó. Tôi chỉ có thể có lòng cảm thương đối với những người chân thành buồn bã trong việc nghi ngờ này, những người coi nó như nỗi bất hạnh cuối cùng, và là những người, vì không tiếc điều gì để thoát ra khỏi nó, đã biến cuộc tìm kiếm này thành công việc chính và nghiêm túc nhất của họ. Còn đối với những người sống cả cuộc đời họ mà không nghĩ đến cùng đích đời mình, và những người, vì lý do duy nhất họ không tìm thấy trong mình các ánh sáng có thể thuyết phục họ, họ bỏ qua việc tìm kiếm nơi khác và khảo sát ngọn nguồn xem ý kiến này là thuộc những nguồn mà mọi người đón nhận một cách đơn sơ dễ tin, hay thuộc các nguồn, dù tự nó không rõ ràng, tuy nhiên có một nền tảng rất vững chắc; tôi coi họ hoàn toàn khác nhau. Sự lơ là này trong một vấn đề đụng đến bản thân họ, đến sự sống vĩnh cửu của họ, đế toàn bộ con người họ, làm tôi khó chịu hơn là dễ chịu; nó làm tôi kinh ngạc và khiếp sợ; đó là một con quái vật đối với tôi. Tôi không nói điều này vì sự nhiệt thành của lòng sùng mộ thiêng liêng. Ngược lại, tôi cho rằng lòng tự trọng, sự quan tâm của con người, ánh sáng đơn giản nhất của lý trí hẳn phải đem đến cho chúng ta những tình cảm này. Vì vậy, trong vấn đề này, không nên chỉ nhìn những điều những người kém thông sáng nhìn thấy.
Không nhất thiết phải có một tâm hồn rất cao siêu mới hiểu rằng ở đây không hề có sự thỏa mãn chân thực và vững chắc; mọi thú vui của chúng ta đều là phù phiếm; các sự xấu của chúng ta là vô hạn; và cuối cùng cái chết, điều đe dọa chúng ta mọi lúc, hẳn, trong vài năm, và có lẽ trong vài ngày, sẽ đặt chúng ta vào trạng thái hạnh phúc vĩnh cửu, hoặc bất hạnh, hoặc hủy diệt. Giữa chúng ta và thiên đường, địa ngục hay hư vô, do đó chỉ có sự sống, là điều mong manh nhất trên đời; và thiên đàng chắc chắn không dành cho những ai nghi ngờ liệu linh hồn của họ có bất tử hay không, họ chỉ còn cách chờ đợi hỏa ngục hoặc cõi hư vô. Không có gì thực hơn thế, cũng không có gì khủng khiếp hơn thế. Chúng ta hãy nâng mình cao lên bao nhiêu có thể: đây là cùng đích đang chờ đợi cuộc sống tươi đẹp nhất trên thế giới. Điều vô dụng là con người từ khước, không nghĩ đến cõi vĩnh hằng đang chờ đợi họ, như thể họ có thể tiêu diệt nó bằng cách không nghĩ đến nó. Nó tồn tại bất chấp họ, nó diễn tiến; và cái chết, điều hẳn sẽ mở nó ra, trong một thời gian ngắn, sẽ nhất định đặt họ vào thế nhất thiết đáng sợ phải hiện hữu hoặc bị tiêu diệt, hoặc bất hạnh vĩnh viễn.
Đó là một nghi ngờ có hậu quả khủng khiếp; và chắc chắn đây là một điều xấu xa rất lớn khi sống trong sự nghi ngờ này; nhưng ít nhất đây là một nhiệm vụ nhất thiết phải tìm kiếm khi người ta ở trong đó. Vì vậy, kẻ nghi ngờ và không tìm kiếm vừa rất bất công vừa rất bất hạnh. Nếu họ thanh thản và hài lòng, tự tuyên bố như thế, và cuối cùng huênh hoang về nó, và biến tình trạng này thành chủ đề cho niềm vui và sự phù phiếm của họ, thì tôi không còn từ ngữ nào để mô tả một tạo vật ngông cuồng như vậy.
Người ta có được các tình cảm đó từ đâu? Người ta tìm thấy chủ đề vui tươi nào khi chỉ còn mong chờ những khốn cùng không phương sách? Chủ đề huênh hoang nào khi thấy mình trong cảnh tối tăm mịt mùng? Niềm an ủi nào khi không bao giờ mong đợi một đấng an ủi? Sự an lòng vì ngu dốt này, là một điều quái dị, và ta cần làm cho những người dành đời sống họ cho nó cảm nhận được tính ngông cuồng và ngu ngốc này, bằng cách trình bầy cho họ những gì diễn ra trong chính họ, để làm họ bối rối khi nhìn thấy sự điên rồ của họ: vì đó là cách con người lý luận, khi họ chọn sống trong cảnh ngu dốt, không biết mình là gì, và không tìm kiếm bất cứ sự soi sáng nào.
Tôi không biết ai đã sinh ra tôi, cũng không biết thế giới là gì, cũng như bản thân tôi là chi. Tôi ngụp lặn trong ngu dốt khủng khiếp đối với mọi sự vật. Tôi không biết cơ thể mình là gì, các giác quan của tôi là chi, linh hồn của tôi là gì: và chính cái phần trong tôi này, cái phần nghĩ ra những gì tôi nói, và khiến tôi suy tư về mọi sự và về chính nó, cũng không biết chính nó hơn những phần còn lại. Tôi thấy những khoảng không gian đáng sợ này của vũ trụ bao quanh tôi, và tôi thấy mình dính chặt vào một góc của không gian rộng lớn này, mà không biết tại sao tôi lại được đặt vào nơi này thay vì vào nơi khác, cũng như tại sao khoảng thời gian ít ỏi này được ban cho tôi để sống lại được chỉ định cho tôi ở thời điểm này hơn là ở thời điểm khác trong cõi vĩnh cửu vốn diễn ra trước tôi, và cõi vĩnh cửu sẽ theo sau tôi. Tôi chỉ nhìn thấy những vô hạn ở mọi thành phần, đang nuốt chửng tôi như một nguyên tử, và như một cái bóng chỉ tồn tại trong giây lát mà không quay trở lại. Tất cả những gì tôi biết chỉ là chẳng bao lâu nữa tôi sẽ chết; nhưng điều tôi làm ngơ hơn hết chính là cái chết này, cái chết mà tôi không biết tránh ra sao.
Như tôi không biết mình từ đâu đến thế nào, tôi cũng không biết mình sẽ đi đâu thế ấy; tôi chỉ biết rằng khi tôi ra khỏi thế giới này, tôi sẽ mãi mãi rơi vào hoặc cõi hư vô, hoặc vào bàn tay của một Thiên Chúa giận dữ, mà không biết mình phải chia sẻ đến vô tận thân phận nào trong hai thân phận này.
Đó là trạng thái của tôi, đầy khốn cùng, yếu đuối, tăm tối. Và từ tất cả những điều này, tôi kết luận tôi phải dành mọi ngày của đời tôi để không nghĩ chi tới những điều sẽ xảy ra với tôi; và tôi chỉ nên theo khuynh hướng của mình không cần suy tư và lo lắng, dù trong một diễn trình tôi biết rõ mình sẽ rơi vào nỗi bất hạnh vĩnh viễn, nếu quả có một trạng thái như thế. Có thể tôi sẽ tìm được một số soi sáng nào đó trong những nghi ngờ của tôi; nhưng tôi không muốn mất công về điều đó, cũng không muốn thực hiện bất cứ bước nào để tìm kiếm nó; và, đối xử một cách khinh thường với những ai cố gắng theo hướng này, tôi muốn tiếp tục tiến bước trong việc thử nghiệm một tương lai như thế, không cần dự kiến và sợ hãi, và để bản thân mình được vui vẻ trên đường dẫn đến cái chết, mà không biết chắc thân phận của mình sẽ ra sao trong cõi vĩnh viễn.
Quả thật, điều vinh dự cho tôn giáo là đã có những kẻ vô lý như thế làm kẻ thù; và việc chống đối của họ ít nguy hiểm đối với tôn giáo đến nỗi, ngược lại, tôn giáo đã dùng nó để thiết lập ra các chân lý chính của mình để dạy dỗ chúng ta. Vì đức tin Kitô giáo chủ yếu chỉ diễn tiến để thiết lập ra hai điều này, sự sa đọa của tự nhiên, và ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Nay, nếu chúng không phục vụ việc chứng minh sự thật của ơn cứu chuộc bằng tính thánh thiện trong phong hóa của họ, thì ít nhất chúng cũng phục vụ một cách đáng ngưỡng mộ việc chứng minh sự sa đoạ của tự nhiên bằng những tình cảm bất tự nhiên như thế.
Không có gì quan trọng đối với con người bằng tình trạng của họ; không có gì đáng sợ đối với họ bằng sự vĩnh cửu. Và do đó, nếu có những người thờ ơ với việc đánh mất chính con người của họ, và với nguy cơ vĩnh viễn khốn khổ, điều này mới không hề tự nhiên. Họ khác hẳn đối với mọi sự khác: họ sợ hãi đối với điều nhỏ nhặt nhất, họ dự kiến trước, cảm nhận chúng; và cũng chính con người này sống ngày sống đêm trong thịnh nộ và tuyệt vọng vì mất một chức vụ, hoặc vì một hành động tưởng tượng bị xúc phạm đến danh dự của mình, cũng là người dù biết mình sẽ mất tất cả khi chết, nhưng lại không lo lắng gì, không có xáo trộn và không có cảm xúc chi. Sự vô cảm kỳ lạ với những điều khủng khiếp nhất này, trong một trái tim quá nhạy cảm với những điều tầm phào nhất, là một điều quái dị; đó là một sự mê hoặc không thể hiểu nổi, và một thiếp ngủ siêu nhiên.
Một con người trong ngục giam, không biết liệu việc mình bị bắt có được thực hiện hay chưa, chỉ còn một giờ nữa để học biết điều này, và nếu họ biết việc họ bị bắt đã được thực hiện, một giờ này đủ để vận động cho nó bị hủy bỏ; thì điều trái tự nhiên là họ cứ sử dụng giờ này, không phải để tìm xem việc họ bị bắt đã được thực hiện hay chưa, nhưng để vui chơi và giải khuây. Đó là trạng thái của hạng người này; với sự khác biệt này là những việc xấu mà họ đang bị đe dọa khác với việc đơn giản mất mạng sống và nhục hình tạm thời mà người tù này có lẽ hiểu rõ. Tuy nhiên, họ lại vô tư lao xuống hố thẳm, sau khi đã đặt một vật gì đó trước mắt họ, để ngăn họ nhìn thấy nó, và họ cười nhạo những ai cảnh báo họ về nó.
Như thế, không những sự sốt sắng của những người tìm kiếm Thiên Chúa, mà cả sự mù quáng của những người không tìm kiếm Người, và những người sống trong sự sao lãng khủng khiếp này đều chứng minh tôn giáo chân chính. Hẳn phải có một sự đảo ngược kỳ lạ trong bản chất con người, người ta mới sống trong tình trạng này, và hơn nữa còn huênh hoang về nó. Vì, nếu họ hoàn toàn biết chắc rằng họ sẽ không có gì phải sợ khi chết ngoài việc rơi vào hư vô, thì đó chẳng phải là vấn đề tuyệt vọng hơn là vấn đề phù phiếm hay sao? Do đó, không phải là một sự điên rồ khó tưởng tượng hay sao, khi không chắc chắn, mà vẫn huênh hoang sống trong sự nghi ngờ này?
Và, tuy thế, điều chắc chắn là con người đánh mất tự nhiên (dénaturé) đến nỗi trong trái tim họ, có một mầm mống của niềm vui đối với điều đó. Sự thư thái tàn bạo giữa nỗi sợ hãi địa ngục và hư vô này dường như đẹp đến nỗi không chỉ những người thực sự sống trong sự nghi ngờ bất hạnh ấy tự hào về nó, mà cả những người không sống trong đó cũng tin rằng giả vờ sống trong đó cũng đủ vẻ vang rồi. Vì kinh nghiệm cho chúng ta thấy: hầu hết những người muốn pha mình vào đó đều thuộc loại vừa kể; đó là những người tự giả mạo chính mình, và là những người không giống như họ muốn tỏ ra: Đó là những người đã nghe đồn thổi rằng cách cư xử tốt nhất ở trên đời hệ ở việc làm cho mình thành người thành đạt. Đó là điều họ gọi là thoát ách; và hầu hết làm điều đó chỉ để bắt chước người khác.
Nhưng, nếu họ còn một chút lương tri, thì việc làm cho họ hiểu rằng họ đã tự lừa dối bản thân khi tìm cách làm mình nổi tiếng cách đó sẽ không khó. Đó không phải là cách để đạt được lòng qúy mến, ngay cả nơi những người có tinh thần thế gian nhưng biết đánh giá mọi điều một cách lành mạnh; những người này sẽ nói cho họ hay cách duy nhất để có được tiếng tốt là tỏ ra trung thực, trung thành, sáng suốt và có thể phục vụ bạn bè của mình một cách hữu ích; bởi vì theo lẽ tự nhiên, người ta chỉ yêu những gì có thể hữu ích đối với họ. Bây giờ, có lợi gì cho chúng ta khi nghe đồn thổi rằng một ai đó đã thoát ách; rằng họ không tin có một Thiên Chúa hằng trông chừng các hành động của họ; rằng họ tự coi họ là chủ nhân duy nhất của tác phong họ; rằng họ chỉ nghĩ đến việc giải trình về nó cho chính họ? Họ có nghĩ họ đã dẫn chúng ta cách đó để từ nay ta tin tưởng vào họ nhiều hơn, và mong đợi ở họ các an ủi, các lời khuyên và giúp đỡ trong mọi nhu cầu của cuộc sống không? Họ có nghĩ họ đã làm cho chúng ta hân hoan, khi nói với chúng ta rằng họ nghi ngờ không biết linh hồn chúng ta có gì khác ngoài một chút gió và khói, và có lẽ còn nói với chúng ta bằng một giọng điệu tự hào và tự mãn? Đó có phải là điều để nói một cách vui vẻ không? Và, ngược lại, há đó không phải là điều phải nói một cách buồn bã, giống như điều buồn bã nhất ở trên đời hay sao?
Nếu những người trên suy nghĩ về nó cách nghiêm túc, họ sẽ thấy tác phong của họ bị phán đoán quá sai lầm, trái với lương tri, ngược với sự trung thực, và xét theo bất cứ cách nào, cũng xa lìa lề thói tốt lành mà họ tìm kiếm, không có gì có thể thu hút hơn sự khinh miệt và ác cảm của người ta đối với họ, và làm họ bị coi như những người không có tinh thần và không biết phán đoán. Và, quả thực, nếu người ta bắt họ giải thích các tình cảm của họ, và các lý do khiến họ nghi ngờ tôn giáo, họ sẽ nói những điều quá yếu ớt và quá tầm thường đến mức họ sẽ thuyết phục đúng hơn điều ngược lại. Đó là điều một ngày nào đó ai đó có thể sẽ nói với họ cách hợp thời. Họ nói: Nếu bạn tiếp tục nói chuyện như thế này, quả thật bạn đang làm tôi hoán cải. Và người này có lý; vì ai lại không khiếp đảm khi thấy mình có những người đáng khinh như vậy làm bạn đồng hành?
Vì vậy, những người chỉ biết giả hình trong những tình cảm như vậy, họ rất bất hạnh khi cưỡng chế bản tính tự nhiên của mình để trở thành những người ngu dại nhất loài người. Nếu tận đáy lòng họ, họ tức giận vì không có tia sáng nào, thì ước chi họ đừng che giấu điều đó: một thú nhận như thế không có gì đáng xấu hổ cả. Chỉ đáng xấu hổ khi không tuyên bố như thế. Không có gì cho thấy mình thiếu lương tri cho bằng việc không biết rõ điều này: bất hạnh xiết bao cho ai không có Thiên Chúa; không có gì đánh dấu sự thấp hèn tột độ của trái tim hơn việc không ước muốn sự thật trong những lời hứa hẹn trường cửu; không gì hèn nhát hơn lòng dũng cảm chống lại Thiên Chúa. Vì vậy, ước chi họ từ bỏ các điều vô đạo ấy cho những người sinh ra đã khuyết tật, không thể trở thành những người có khả năng về phương diện này; ước chi ít nhất họ là những người trung thực, nếu họ chưa thể là các Kitô hữu; và cuối cùng ước chi họ nhận ra rằng chỉ có hai loại người mà người ta có thể gọi là hữu lý; hoặc những người hết lòng phụng sự Thiên Chúa, vì họ nhận biết Người; hoặc những kẻ hết lòng tìm kiếm Người, vì họ chưa nhận biết Người.
Do đó, đối với những người chân thành tìm kiếm Thiên Chúa, và những người, nhờ nhận ra sự khốn cùng của họ, thực sự mong muốn thoát khỏi nó, điều chính đáng là cố gắng, nhằm giúp họ tìm thấy ánh sáng mà họ vốn không có.
Nhưng đối với những người sống mà không biết Người và không tìm kiếm Người, họ tự cho mình là không đáng được quan tâm, không đáng quan tâm đến người khác; và cần phải có đức bác ái của tôn giáo mà họ coi thường để đừng khinh miệt họ đến mức bỏ rơi họ trong sự điên rồ của họ. Nhưng vì tôn giáo này bắt buộc chúng ta phải luôn coi họ, bao lâu họ còn ở sống ở đời này, như những người có khả năng lãnh nhận ơn thánh có thể soi sáng họ; và tin rằng trong một thời gian ngắn nữa, họ có thể tràn đầy đức tin hơn chúng ta; và ngược lại, chúng ta có thể sa vào tình trạng mù quáng hiện nay của họ; chúng ta phải làm cho họ những gì chúng ta muốn người khác làm cho chúng ta nếu chúng ta rơi vào tình trạng của họ, và kêu gọi họ thương hại chính họ, và ít nhất, thực hiện một vài bước để thử xem họ có tìm thấy chút ánh sáng nào không. Ước chi họ dành một số thì giờ họ vốn dành vô ích cho những nơi khác để đọc tác phẩm này: có lẽ họ sẽ gặp được điều gì đó ở đó, hoặc ít nhất họ sẽ không mất mát bao nhiêu trong đó. Nhưng đối với những người mang vào đó lòng thành thực hoàn toàn và mong ước thực sự muốn biết sự thật, tôi hy vọng rằng họ sẽ tìm được sự hài lòng trong đó và họ sẽ được thuyết phục bởi các chứng cớ của một tôn giáo hết sức thần thánh mà người ta đã thu thập ở đó.
Kỳ tới: Mục III. Khó có thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng ánh sáng tự nhiên; nhưng điều an toàn nhất là tin sự hiện hữu đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét